Tải bản đầy đủ (.pdf) (158 trang)

Tiểu luận quan hệ thương mại asean trung quốc giai đoạn 2001 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 158 trang )

1

MỞ ĐẦU
Trung Quốc và các nước ASEAN là láng giềng của nhau, hai bên có lịch sử
giao lưu lâu đời. Từ khi ASEAN thành lập năm 1967 đến năm 1991 Trung Quốc và
ASEAN đã chính thức thiết lập quan hệ, mối quan hệ song phương này trải qua
chặng đường phát triển từ đối lập, hoài nghi đến quan hệ đối tác chiến lược đối
thoại và hợp tác lấy bình đẳng, láng giềng hữu nghị, tin cậy lẫn nhau làm nền tảng.
Trước khi trở thành đối tác đầy đủ, Trung Quốc và ASEAN đã thành lập Uỷ
ban Liên hiệp về kinh tế thương mại và khoa học kỹ thuật năm 1994. Năm 1997 đổi
thành Uỷ ban hợp tác liên hợp. Năm 2001 lập lên Hội đồng buôn bán ASEAN Trung Quốc với chức năng thúc đẩy thương mại, đầu tư giữa hai bên. Trung Quốc
đề xuất ý tưởng xây dựng khu vực mậu dịch tự do Trung Quốc - ASEAN trong
vòng 10 năm. Cùng năm, lãnh đạo hai bên xác định nông nghiệp, viễn thông - thông
tin, phát triển nguồn nhân lực, đầu tư và khai thác lưu vực sông Mê - Công là 5 lĩnh
vực hợp tác trọng điểm trong đầu thế kỷ mới. Năm 2002 hai bên ký Hiệp nghị
khung về hợp tác kinh tế toàn diện Trung Quốc-ASEAN , xác định đến năm 2010
hoàn thành Khu vực mậu dịch tự do Trung Quốc-ASEAN.
Tháng 10 năm 2004, Uỷ ban đàm phán mậu dịch ASEAN - Trung Quốc họp
nhóm tại Bắc Kinh đã nhất trí thông qua Hiệp định hàng hóa của CAFTA (TIG).
Theo Hiệp định này, 6 thành viên ban đầu và Trung Quốc sẽ có Hiệp định tự do
thương mại vào năm 2010.
Với lộ trình khá rõ ràng và hàng loạt những thỏa thuận đạt được nhằm thực
hiện tự do hóa thương mại hàng hóa, dịch vụ và đầu tư đã tạo ra môi trường thuận
lợi để thúc đẩy hợp tác, liên kết một cách năng động giữa các nước ASEAN và
Trung Quốc. Việc dỡ bỏ các rào cản thương mại theo các thỏa thuận đạt được giữa
các bên sẽ góp phần làm giảm chi phí và tăng hiệu quả kinh tế, đồng thời tạo ra cơ
chế hỗ trợ sự ổn định về kinh tế. Điều đó không chỉ thúc đẩy kinh tế xã hội của mỗi
bên mà còn làm tăng tiếng nói của ASEAN - Trung Quốc trong các vấn đề thương
mại quốc tế cũng như trong các lĩnh vực khác nhau của quan hệ quốc tế.
Trung Quốc là một nước đang phát triển lớn, trong khi hầu hết các thành viên
ASEAN là những nước nhỏ. Quan hệ kinh tế Trung Quốc - ASEAN cũng như Trung


Quốc với các thành viên ASEAN có bình đẳng hay không, đặc biệt khi mà Trung Quốc
hiện đã trở thành một cường quốc. Điều này rất có ý nghĩa trong việc duy trì lâu dài,
bền vững mối quan hệ Trung Quốc - ASEAN, đặc biệt trên khía cạnh thương mại.


2
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh thế giới hiện nay khu vực hoá và toàn cầu hoá đã trở thành
xu hướng chủ đạo cho sự phát triển. Các quan hệ này diễn biến theo nhiều chiều
hướng khác nhau, nhiều khía cạnh khác nhau như kinh tế, chính trị, xã hội,... Do
vậy, để tự bảo vệ mình và tránh khỏi sự tụt hậu, các nền kinh tế ngày càng có xu
hướng liên kết khăng khít chặt chẽ với nhau, cùng nhau phát triển và mở rộng thị
trường kinh doanh. Điều này dẫn đến sự ra đời của hàng loạt các tổ chức kinh tế, các
khu vực mậu dịch tự do, thị trường chung,... Các tổ chức này xuất hiện ngày càng
nhiều và chi phối mạnh mẽ nền kinh tế các nước cũng như toàn cầu. Không nằm
ngoài sự vận động đó, ASEAN và Trung Quốc đã xây dựng và phát triển quan hệ
thương mại từ đầu những năm 1990 với mục đích hợp tác cùng phát triển, vươn tầm
ra thế giới. Đông Á nói chung, Trung Quốc và ASEAN nói riêng là khu vực đang
ngày càng khẳng định được vị thế trên thị trường châu Á, thu hút nhiều sự chú ý của
các nhà phân tích và kinh doanh trên toàn cầu.
Trong cơ chế hợp tác ASEAN+, quan hệ thương mại song phương ASEAN Trung Quốc có tốc độ phát triển nhanh nhất, ngày càng khẳng định vai trò đối với
thương mại giữa hai nền kinh tế. Có thể nói, đây là thị trường có mức phát triển
nóng nhất trên thế giới.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc là một vùng rộng lớn, một
khu vực mậu dịch lớn nhất thế giới với thị trường hơn 1,88 tỷ dân, chiếm hơn 40%
nguồn dự trữ toàn cầu với tổng GDP gần 10.000 tỷ USD (2011). Với tầm quan
trọng và ý nghĩa của vấn đề tham gia và phát triển thương mại giữa ASEAN và
Trung Quốc, việc nghiên cứu đánh giá tác động của việc phát triển mối quan hệ này
đối với Việt Nam, trên cơ sở đó đề ra những biện pháp chính sách kinh tế - thương
mại cũng như phương án đàm phán, cam kết phù hợp là một vấn đề bức thiết đặt ra

đối với cả các cơ quan nghiên cứu cũng như các cơ quan hoạch định chính sách.
Tuy nhiên, cho tới nay, mặc dù đã có nhiều đề tài nghiên cứu ở các cấp độ khác
nhau đánh giá và xem xét mối quan hệ kinh tế - thương mại giữa Việt Nam và
Trung Quốc, trong đó Văn phòng Uỷ ban Quốc gia phối hợp với các Bộ, Ngành
thành viên đã tiến hành trước đây đề tài về “Đánh giá tác động của việc Trung Quốc
gia nhập WTO đối với Việt Nam”, nhưng một nghiên cứu và đánh giá mang tính
tổng quát về những tác động đối với Việt Nam trong bối cảnh một khu vực thương
mại tự do giữa ASEAN và Trung Quốc là một vấn đề tương đối mới mẻ, chưa được
nghiên cứu và giải quyết rõ.


3
Trong giai đoạn 2000-2010 Trung Quốc trỗi dậy mạnh mẽ. Từ đây trong
quan hệ với bên ngoài, Trung Quốc luôn thể hiện họ là nước lớn. Trung Quốc đã
thay đổi cách ứng xử của họ với các nước ASEAN trong lĩnh vực thương mại như
thế nào. Đây là một khía cạnh mà đề tài muốn làm rõ.
Đối với các nước ASEAN, việc nghiên cứu về khu vực thương mại tự do này
hiện nay cũng còn nhiều hạn chế. Trong khuôn khổ hợp tác giữa các nước ASEAN,
một số nghiên cứu bước đầu về quan hệ kinh tế - thương mại ASEAN- Trung Quốc
cũng đã được bước đầu triển khai như nghiên cứu về “Hướng tới quan hệ kinh tế
gần gũi ASEAN - Trung Quốc trong thế kỷ 21” của Nhóm chuyên gia ASEANTrung Quốc về hợp tác kinh tế. Tuy nhiên, một phần do tính mới mẻ của vấn đề,
vẫn chưa có kết quả nghiên cứu nào tiến hành đánh giá khu vực thương mại tự do
này một cách tổng thể, toàn diện. Thêm vào đó năm 2015, Hiệp định về Khu vực
mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc chính thức có hiệu lực đối với Việt Nam.
Chính vì vậy, tác giả chọn đề tài “Quan hệ thương mại ASEAN - Trung Quốc giai
đoạn 2000 - 2010” làm luận án tiến sĩ.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Trong khuôn khổ một luận án, khi tiếp cận với đề tài nay tôi đặt ra các mục đích
và nhiệm vụ nghiên cứu như sau:
Thứ nhất là dựa trên một số vấn đề lý luận như đưa ra khái niệm về thương mại

quốc tế, chính sách thương mại quốc tế và giới thiệu một số lý thuyết về quan hệ
thương mại quốc tế nhằm luận giải các cơ sở thực tiễn cho sự phát triển quan hệ thương
mại ASEAN-Trung Quốc.
Thứ hai là phân tích thực trạng quan hệ thương mại ASEAN-Trung Quốc qua
các giai đoạn từ năm 1991 đến năm 2014, đặc biệt đi sâu vào phân tích giai đoạn 20012010 dựa trên 4 nội dung cơ bản là quan hệ thương mại hàng hóa, quan hệ thương mại
dịch vụ, quan hệ thương mại biên giới và quan hệ đầu tư, từ đó đưa ra các đánh giá về
mối quan hệ này. Đồng thời làm rõ Trung Quốc có thay đổi/ đã thay đổi cách ứng xử
của họ đối với ASEAN như thế nào khi trở thành một cường quốc.
Thứ ba là phân tích đưa ra các cơ hội, thách thức, triển vọng quan hệ thương
mại ASEAN-Trung Quốc đến năm 2020 nhằm khẳng định vị trí, vai trò, và lợi ích từ
mối quan hệ này để đưa ra một số giải pháp giúp Việt Nam phát triển.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quan hệ thương
mại ASEAN - Trung Quốc và một số vấn đề liên quan tới Việt Nam.


4
Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu về thời gian: Đề tài tập trung vào nghiên cứu quan hệ
thương mại ASEAN - Trung Quốc giai đoạn 2001 - 2010, đồng thời mở rộng nghiên
cứu đến năm 2014 nhằm đánh giá và đưa ra định hướng phát triển đến năm 2020.
Sở dĩ tác giả chọn giai đoạn 2001 - 2010 và năm 2001 làm mốc nghiên cứu
chính của luận án vì: Tháng 11 năm 2001, ASEAN - Trung Quốc đã đi đến thỏa
thuận về nguyên tắc đối với việc thành lập một khu vực mậu dịch tự do giữa các
nước ASEAN và Trung Quốc trong vòng 10 năm. Năm 2010 là mốc theo đó
ACFTA, một hiệp định quan trọng trong quan hệ thương mại ASEAN - Trung Quốc
có hiệu lực đối với các nước ASEAN 6. Hơn nữa, giai đoạn 2001 - 2010 cũng là
thập niên đánh dấu sự trỗi dậy của Trung Quốc. Từ khía cạnh thương mại, nghiên
cứu muốn tìm hiểu Trung Quốc đã thay đổi cách ứng xử với ASEAN ra sao.
Như vậy, có thể nói giai đoạn 2001 - 2010 là nền tảng cho quan hệ thương

mại ASEAN - Trung Quốc trong những giai đoạn tiếp theo và giai đoạn 2010 -2014
đã phản ánh một phần về sự phát triển trong mối quan hệ này.
Phạm vi nghiên cứu về không gian: Tổ chức ASEAN, Trung Quốc không
bao gồm Hồng Kông, Ma Cao, Đài Loan và một số vấn đề về Việt Nam.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
Trên quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đề tài vận dụng các
phương pháp nghiên cứu khoa học như:
- Phương pháp thu thập thông tin: Thông tin phục vụ nghiên cứu được thu
thập qua các sách giáo khoa, giáo trình, tạp chí chuyên ngành, sách báo, phương
tiện truyền thông đại chúng, Internet, các thư viện Quốc gia, thư viện một số trường
đại học…; từ kết quả nghiên cứu, công trình nghiên cứu của các tác giả đi trước, kết
hợp kết quả quan sát, tổng hợp và xử lý số liệu thứ cấp của tác giả.
- Phương pháp thống kê, so sánh: Từ thống kê số liệu, tác giả đưa ra sự so
sánh tương quan giữa hai thực thể ASEAN - Trung Quốc trong quan hệ thương mại.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp logic, lịch sử.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án liên kết các dữ liệu điều tra, các kết quả đánh giá của chuyên gia, nhà
khoa học liên quan tới quan hệ thương mại ASEAN-Trung Quốc để từ đó chỉ ra được
xu hướng vận động của mối quan hệ này. Đây là cơ sở thực tiễn phục vụ cho cơ quan
quản lý nhà nước ngành kinh tế đối Ngoại trong hoạch định các chính sách Ngoại


5
thương của Việt Nam khi tham gia vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc.
Bên cạnh đó luận án phân tích ảnh hưởng của các yếu tố đến quan hệ thương
mại ASEAN-Trung Quốc và chỉ ra được yếu tố tác động tích cực, yếu tố tác động
tiêu cực để cơ quan nhà nước, các nhà hoạch định kinh tế, doanh nghiệp nắm được
và có cách thức áp dụng phù hợp khi tham gia vào hoạt động thương mại trong
nước, khu vực có đối tác một bên là bạn hàng Trung Quốc hoặc các nước ASEAN.

Ngoài ra, những nội dung đưa ra trong luận án còn có tính ứng dụng và có
thể triển khai trong quản lý. Cơ quan ngành Ngoại giao, và tổ chức kinh tế, doanh
nghiệp có thể tham khảo và tìm giải pháp ứng dụng kết quả nghiên cứu luận án vào
thực tế quản lý ở cơ quan đơn vị mình với sự tôn trọng sở hữu trí tuệ hợp lý.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án là công trình nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện về quan hệ thương
mại ASEAN-Trung Quốc đồng thời đưa ra những kết luận khoa học về về mối quan hệ
này thông qua cách tiếp cận liên ngành giữa phương pháp luận nghiên cứu kinh tế vĩ mô
và phương pháp luận nghiên cứu phát triển kinh tế vùng. Luận án làm sáng tỏ một số nội
dung về tác động cả tích cực, tiêu cực giai đoạn 2001-2010 và triển vọng trong quan hệ
hợp tác thương mại ASEAN-Trung Quốc sau năm 2010.
- Công trình “Quan hệ thương mại ASEAN-Trung Quốc giai đoạn 2001 2010” là tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm tới hoạt động Ngoại thương
quốc gia, Ngoại thương ASEAN - Trung Quốc để người đọc có những trải nghiệm
và thành công nhờ những thông tin tư liệu hữu ích này.
- Những nội dung mà luận án đưa ra là một thông tin mang tính tham khảo cho
các nhà nghiên cứu về quan hệ thương mại ASEAN-Trung Quốc. Các chỉ số kinh tế vĩ
mô vi mô để thành công hay các biện pháp Ngoại thương từ công trình hi vọng sẽ đóng
góp vào kho trí thức lý luận kinh tế đối Ngoại của nước ta và kinh tế thế giới.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, cơ cấu của
Luận án được chia làm 4 chương với những nội dung như sau:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2. Cơ sở cho sự phát triển quan hệ thương mại ASEAN - Trung Quốc
Chương 3. Thực trạng quan hệ thương mại ASEAN - Trung Quốc giai đoạn
2001 - 2014
Chương 4. Triển vọng quan hệ thương mại ASEAN - Trung Quốc đến năm
2020 và giải pháp của Việt Nam trong mối quan hệ này


6


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nƣớc
Về mặt lý thuyết, chinh sách, có một số công trình tiêu biểu như sau.
Năm 2002, Uỷ ban quốc gia về hội nhập quốc tế, với sự tài trợ của EU đã tổ
chức nghiên cứu đề tài “Tác động của việc thành lập Khu vực Thương mại Tự do
ASEAN - Trung Quốc đối với kinh tế-thương mại Việt Nam”. Đề tài xem xét có sở
khoa học và thực tiễn của việc thành lập Khu vực Thương mại Tự do ASEAN Trung Quốc, dự báo và phân tích những nội dung hoạt động chính của ACFTA, dự
đoán và đánh giá tác động của việc thành lập ACFTA đối với Việt Nam và đề xuất
một số kiến nghị xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách kinh tế - thương mại
của Việt Nam nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ và đáp ứng
cam kết thực hiện ACFTA. Đề tài tập trung vào nghiên cứu quan hệ kinh tế thương mại dưới những lĩnh vực chủ yếu của thương mại quốc tế hiện đại như
thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ. Phần đầu của đề tài phân tích những tiền
đề cho việc hình thành ACFTA, ý tưởng và nội dung cơ bản của ACFTA và so
sánh ACFTA với một số khu vực thương mại tự do khác. Phần “Thực trạng quan
hệ kinh tế - thương mại Việt Nam, ASEAN và Trung Quốc” đề cập quan hệ kinh
tế-thương mại dưới các lĩnh vực thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, đầu
tư liên quan đến thương mại và việc thực hiện quyền bảo hộ sở hữu trí tuệ liên
quan đến thương mại. Đáng lưu ý phần thứ 3 của đề tài đưa ra một số dự báo tác
động của mối quan hệ thương mại ASEAN - Trung Quốc đối với kinh tế thương mại của Việt Nam về một số lĩnh vực như thương mại hàng hoá, thương
mại dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ.
ThS. Phan Ngọc Mai Phương, trong đề tài Cấp Bộ “Tác động t chiến lược
một tr c hai cánh” của Trung Quốc đối với phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam
thời kỳ đến năm 2020 thực hiện năm 2010. Phan Ngọc Mai Phương đã chỉ rõ bối
cảnh ra đời của chính sách hướng Nam. Đề tài bước đầu chỉ ra mục tiêu của chiến
lược, nội dung của chiến lược cũng như diễn biến - tình hình triển khai chuẩn bị
thực hiện ý tưởng chiến lược này trong mấy năm gần đây. Việc thực thi các chiến
lược, các chủ trương, chính sách, đặc biệt là các chiến lược, chính sách đối Ngoại
để phục vụ mở rộng phạm vi ảnh hưởng của Trung Quốc đã và đang mang lại tác

động không nhỏ đến các nước láng giềng của Trung Quốc trong đó có Việt Nam.


7
Chính vì vậy ở tầm vĩ mô, mỗi khi Trung Quốc ban hành và thực thi một chiến lược
mới, chúng ta cần nghiên cứu, chỉ ra những cơ hội, những thách thức, những tác
động có thể để có đối sách, giải pháp thích hợp.
TS. Lê Quốc Phương, Đề tài Cấp Bộ “Đánh giá mức độ bổ sung và cạnh
tranh giữa Việt Nam với các đối tác thương mại chính bằng phương pháp định
lượng” (2010). TS. Lê Quốc Phương cho rằng Thương mại và đầu tư hiện là
những hoạt động quan trọng, rất có ý nghĩa đối với quá trình phát triển kinh tế và
hội nhập quốc tế của nước ta. Để có chiến lược phát triển hoạt động thương mại
quốc tế đúng đắn, chúng ta không thể xem xét, đánh giá các đối tác một cách
khoa học, có cơ sở, có căn cứ, tìm ra các đối tác có tiềm năng, có thể hợp tác lâu
dài và đem lại lợi ích cho chúng ta.
ThS. Vũ Thị Thanh Xuân trong Đề tài “Chiến lược một tr c hai cánh trong
chính sách hướng nam của Trung Quốc, gợi ý một số đối sách với Việt Nam”
(2010). Tác giả cho rằng, Trung Quốc là một nước lớn, một cường quốc đang lên.
Việc thực thi các chiến lược, các chủ trương, chính sách, đặc biệt là các chiến lược,
chính sách đối ngoại để phục vụ mở rộng phạm vi ảnh hưởng của Trung Quốc đã và
đang mang lại tác động không nhỏ đến các nước láng giềng của Trung Quốc trong
đó có nhiều nước khu vực ASEAN và Việt Nam. Chính vì vậy ở tầm vĩ mô, mỗi khi
Trung Quốc ban hành và thực thi một chiến lược mới, chúng ta cần nghiên cứu, chỉ
ra những cơ hội cũng như thách thức để có đối sách thích hợp.
PGS. TS Nguyễn Văn Lịch, trong đề tài “Định hướng chiến lược phát triển
quan hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốc giai đoạn tới 2015” (2007). PGS. TS
Nguyễn Văn Lịch đã chia 5 nhóm hàng (A, B, C, D, E) để phân tích khả năng cạnh
tranh của hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt Nam cũng như của các nước lân cận
trong khuôn khổ giữa ASEAN và Trung Quốc. Đã chỉ ra lợi thế của mỗi nước, nhóm
nước và sự trùng lặp lợi thế của các nước ở những nhóm hàng nào. Nguyễn Văn Lịch

nêu quan điểm và khẳng định nhiều lần trong đề tài là nếu không có những nỗ lực cải
thiện cơ cấu xuất khẩu, Việt Nam có thể trở thành nước chuyên cung cấp tài nguyên
và những sản phẩm có hàm lượng tài nguyên cao cho Trung Quốc”. Hiện nay cơ cấu
kinh tế của nước ta, đặc biệt là ở khu vực đồng bằng Nam bộ đang thay đổi rất nhanh,
ngoài 14 mặt hàng Việt nam có tiềm năng (được đề cập trong đề án đẩy mạnh xuất
khẩu sang Trung Quốc giai đoạn 2006-2010), chúng ta còn có thêm những mặt hàng
(trái cây, động vật hoang dã có thể nuôi trồng quy mô lớn như cá sấu, trăn….) có khả
năng xuất khẩu sang Trung Quốc trong những năm 2010-2015.


8
Ngoài các công trình kể trên, còn có một số công trình khác cũng đề cập
quan hệ thương mại ASEAN - Trung Quốc trên phương diện lý thuyết như:
Đỗ Tiến Sâm (2002), “Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc t khi bình thường
hoá năm 1991 đến nay thành tựu và triển vọng”, Báo cáo tại Hội thảo Changing
Configuration in Asia - Pacific Region and China - Vietnam Relations, tổ chức tại
Thượng Hải 4-5/9/2002. Công trình điểm những nội dung chính, những thành tựu
trong quan hệ thương mại Việt Trung trong giai đoạn 10 năm sau 1991, Những vấn
đề đặt ra trong tương lai và hướng giải quyết.
Lê Tuấn Thanh (2004), “Buôn bán qua biên giới Việt Nam - Trung Quốc”,
bài báo cáo tại Hội thảo “Phát huy ưu thế cửa khẩu Trung - Việt, thúc đẩy sự hợp
tác Trung Quốc - ASEAN”, tổ chức tại Bằng Tường ngày 26 - 27/9/2004).
“Quan hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốc hiện tại và triển vọng” của
Viện kinh tế thành phố Hồ Chí Minh (2003). Nghiên cứu này đã đi sâu phân tích về
Quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc trong hiện tại, đánh giá ưu
nhược điểm và đưa ra dự báo cũng như kiến nghị để thúc đẩy hàng Việt Nam vào
Trung Quốc trong tương lai.
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ (2004): Nghiên cứu phát triển thương mại khu vực
hành lang kinh tế Hải Phòng - Hà Nội - Côn Minh trong bối cảnh hình thành khu
mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc do Viện nghiên cứu thương mại, Bộ thương

mại thực hiện 9/2004.
Báo cáo tại hội thảo: Phát huy ưu thế cửa khẩu, thúc đẩy hợp tác Trung Quốc
- ASEAN tại Bằng Tường, Trung Quốc 25-26/9/2004 của TS. Nguyễn Văn Lịch Viện trưởng Viện Kinh tế thương mại, Bộ Thương mại Việt Nam.
Khu mậu dịch tự do Trung Quốc - ASEAN và quốc tế hoá đồng NDT, tạp
chí Ngoại thương số 19, 1/10/2004.
Các nghiên cứu trên từ nhiều khía cạnh khác nhau đã cung cấp cơ sở lý luận
cho việc phân tích, đánh giá thực trạng cũng như triển vọng của mối quan hệ thương
mại ASEAN - Trung Quốc. Tuy nhiên, vẫn chưa thấy có công trình nào đánh giá
toàn diện về quan hệ thương mại ASEAN - Trung Quốc trong thập niên đầu thế kỷ
21, từ đó chỉ ra triển vọng của mối quan hệ trong 5 -10 năm tới.
Về mặt thực tiễn, có một số công trình tiêu biểu như sau.
PGS.TS. Phạm Thái Quốc, trong bài: “Khu vực mậu dịch tự do ASEAN Trung Quốc: Một số đánh giá bước đầu” (Tạp chí Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010),
theo tác giả quan hệ thương mại giữa Trung Quốc và ASEAN từ đầu những năm


9
1990 đã có nhiều khởi sắc và đang gia tăng rất nhanh trong 10 năm trở lại đây. Điều
này dường như phù hợp với mong muốn của cả hai bên trước những biến đổi nhanh
chóng cũng như diễn biến mới của kinh tế thế giới, đặc biệt là cuộc Khủng hoảng
toàn cầu vừa diễn ra, giúp Trung Quốc và ASEAN thực hiện mục tiêu đa dạng hóa
các đối tác, giảm bớt sự phụ thuộc của cả hai bên vào các quan hệ kinh tế truyền
thống với các trung tâm kinh tế thế giới là Tây Âu và Mỹ. Tác giả cho rằng, tương
ứng với những thay đổi trong quan hệ chính trị, Quan hệ thương mại Trung Quốc ASEAN trải qua ba giai đoạn trong phát triển.
Giai đoạn thứ nhất (t 1967-1991): Trong giai đoạn này, quan hệ hai bên
chưa phát triển do chưa tin tưởng vào nhau, còn nghi kỵ lẫn nhau.
Giai đoạn thứ 2 (t 1992-2002): Cho đến năm 1992, Trung Quốc đã thành
lập hoặc đã khôi phục quan hệ Ngoại giao với tất cả các nước ASEAN, đặt nền
móng cho một thời kỳ đối thoại và hợp tác giữa hai bên. Về chính trị, cả hai đều bắt
đầu có hàng loạt cuộc đối thoại của các quan chức cấp cao. Hoạt động thương mại
và đầu tư đều có động lực thúc đẩy rất mạnh, đặc biệt từ nửa cuối những năm 1980,

sau khi Trung Quốc thực hiện chiến lược mở cửa 3 ven là ven biển, ven sông và ven
biên giới. Mối quan hệ buôn bán giữa cư dân Trung Quốc và ASEAN ở các vùng
biên giới hai bên phát triển nhanh và sớm hơn, thậm chí còn đi trước cả những cải
thiện chính trị của hai bên. Năm 1997, cả hai bên Trung Quốc và ASEAN đều ra
thông cáo chung về xây dựng đối tác láng giềng thân thiện hướng tới thế kỷ XXI.
Cho đến năm 2001, Quan hệ Trung Quốc - ASEAN đã phát triển thành những đối
tác đối thoại đầy đủ của nhau.
Giai đoạn thứ 3 (t 2002 đến nay): Mở ra một giai đoạn mới trong quan hệ
đối tác chiến lược giữa Trung Quốc và ASEAN. Năm 2002, cả hai đã ký kết một
Hiệp định khung về Hợp tác toàn diện ASEAN - Trung Quốc, chuẩn bị cho việc
hình thành Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA) từ năm 2010.
Năm 2003, Trung Quốc gia nhập Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác ở Đông Nam Á và
trở thành nước ngoài ASEAN đầu tiên tham gia Hiệp ước.
Theo GS. TS. Đỗ Tiến Sâm trong đề tài cấp Bộ “Một số vấn đề về cơ chế
hợp tác phát triển giữa các tỉnh Tây Bắc (Việt Nam) và Vân Nam (Trung Quốc)”
năm 2011, đã chỉ ra kể từ đầu những năm 1990, khi quan hệ hai nước Việt Nam và
Trung Quốc bình thường hoá trở lại, nhiều địa phương các tỉnh phía Bắc Việt Nam
giáp Trung Quốc đã có sự phát triển đáng kể nhờ phát triển thương mại biên giới.
Đặc biệt thương mại biên giới giữa hai nước như được tiếp thêm sức sống khi hợp


10
tác “Hai hành lang, một vành đai” được khởi động. Với các tỉnh Tây Bắc của Việt
Nam, điều có ý nghĩa hơn vì đây sẽ là cửa ngõ để khu vực miền Tây Trung Quốc
rộng lớn mở rộng quan hệ với bên ngoài thông qua tuyến hành lang Côn Minh - Lào
Cai - Hà Nội - Hải Phòng. Đã làm khá rõ hợp tác giữa hai bên Vân Nam Trung
Quốc và các tỉnh Tây Bắc Việt Nam trên một số khía cạnh như du lịch, văn hóa,
giáo dục. Nhiều nội dung hợp tác về du lịch, hợp tác về nông lâm nghiệp, giao
thông. Đáng lưu ý là chủ trương “Hưng biên phú dân” của Trung Quốc đề ra từ năm
1999 và tiếp tục được coi trọng trong kế hoạch 2011-2015.

Tác giả Nguyễn Hoàng Diệu Linh, trong luận văn thạc sỹ (2010) có nhan đề:
“Thâm h t cán cân thương mại của Việt Nam - Trung Quốc, tình hình và giải
pháp”. Khi phân tích Quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc Nguyễn
Hoàng Diệu Linh đã chỉ ra rằng mặc dù kim ngạch xuất khẩu sang Trung Quốc và
kim ngạch nhập khẩu từ Trung Quốc đều tăng mạnh qua các năm, nhưng tốc độ
tăng trưởng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Trung Quốc lớn hơn rất nhiều so
với tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu từ Việt Nam sang Trung Quốc khiến
cho khoảng cách giữa hai đại lượng này càng lớn, gây nên tình trạng nhập siêu.
Những nhân tố ảnh hưởng tới cán cân thương mại Việt - Trung hay những nguyên
nhân chính làm kim ngạch nhập khẩu từ Trung Quốc tăng nhanh và bỏ xa kim
ngạch xuất khẩu sang Trung Quốc gồm tác động của tự do hóa thương mại, cơ cấu
hàng hóa xuất nhập khẩu giữa hai nước, luồng vốn đầu tư nước ngoài từ Trung
Quốc vào Việt Nam, tỷ giá giữa Việt Nam đồng và Nhân dân tệ, sức cạnh tranh cao
hơn của hàng hóa Trung Quốc, sự tham gia của các nhà thầu Trung Quốc trong các
công trình lớn ở Việt Nam và sự phát triển của các hoạt động biên giới. Với tình
trạng nhập siêu từ Trung Quốc rất lớn như vậy và các lý do nêu trên, sớm thu hẹp
nhập siêu là rất khó. Theo tác giả, các giải pháp nhằm cải thiện cán cân thương mại
giữa Việt Nam và Trung Quốc được đưa ra đặt trọng tâm vào việc nâng cao chất
lượng và khả năng thực thi của các chính sách kinh tế, kết hợp giữa giải pháp ngắn
hạn và giải pháp dài hạn trên cơ sở đảm bảo mối quan hệ bền vững giữa hai quốc
gia. Để cải thiện cán cân thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc, cần có các giải
pháp đồng bộ với sự tham gia của cả nhà nước và doanh nghiệp. Tuy nhiên, nhà
nước phải đóng vai trò trung tâm trong vấn đề này thông qua việc xây dựng các
chính sách kinh tế phù hợp và đảm bảo hiệu quả thực thi của các chính sách đó
PGS.TS. Nguyễn Văn Lịch trong nghiên cứu có nhan đề "Nghiên cứu phát triển
thương mại khu vực hành lang kinh tế Hải Phòng - Lào Cai - Côn Minh trong bối cảnh


11
hình thành khu mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc (Đề tài cấp Bộ 2004). Trong

nghiên cứu này, tác giả cho rằng, thực tế trong những năm qua việc quan hệ buôn
bán và hợp tác đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam với thị trường Trung Quốc
mới ở cấp độ các doanh nghiệp địa phương các tỉnh phía Nam Trung Quốc và phần
lớn là doanh nghiệp vừa và nhỏ và hộ tư nhân, chưa tiếp cận được nhiều các tập
đoàn kinh tế lớn của phía bạn để xây dựng được một chiến lược làm ăn lâu dài và
ổn định. Các hình thức buôn bán vẫn ở dạng buôn chuyến, mang tính tự phát, có
hàng gì bán hàng nấy và với mức giá không ổn định và thường bị thua thiệt nhiều
do bị ép cấp, ép giá, bị lừa lọc. Để khắc phục tình trạng đó, doanh nghiệp Việt Nam
cần phát triển mạnh loại hình buôn bán chính ngạch. Tích cực gặp gỡ tiếp xúc để
nghiên cứu đàm phán nhằm chuyển từ thương mại đơn thuần sang hợp tác sản xuất
những mặt hàng mà hai bên có tiềm năng và có nhu cầu bổ sung lẫn nhau. Theo
hướng đó, các doanh nghiệp Việt Nam đề nghị các doanh nghiệp Trung Quốc tập
trung đầu tư vào các lĩnh vực gia công chế biến cao su, rau quả nhiệt đới, thuỷ hải
sản, dược liệu, may mặc, Trung Quốc bao tiêu sản phẩm và xuất khẩu sang nước
thứ ba. Phấn đấu thu hẹp chênh lệch trong cán cân buôn bán để tạo thuận lợi phát
triển thương mại. Với mục đích đó doanh nghiệp hai bên cần đi đến thoả thuận một
danh mục trao đổi hàng hoá có tính chất định hướng làm cơ sở cho doanh nghiệp
hai nước xem xét trong việc ký kết các hợp đồng ngoại thương. Đề xuất kiến nghị
với các doanh nghiệp Trung Quốc đề nghị phía nhà nước Trung Quốc tăng nhập
khẩu từ Việt Nam một số mặt hàng đang duy trì hạn ngạch như cao su, than đá, dầu
thực vật, đường.... cũng như các mặt hàng không có hạn ngạch mà Trung Quốc có
nhu cầu nhập khẩu.
Bên cạnh những nghiên cứu trên, còn có một số công trình khác được xem
như là sự kết hợp giữa lý luận và thực tiễn trong phân tích thực trạng phát triển quan
hệ thương mại ASEAN - Trung Quốc trong nhiều năm qua, đó là:
“Nghiên cứu Tác động của khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc đối
với Việt Nam” của Ủy ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế (2006). Nghiên cứu
này được thực hiện qua 12 chuyên đề về cả 3 lĩnh vực thương mại hàng hóa, thương
mại dịch vụ và đầu tư. Đối với từng lĩnh vực, các chuyên đề đã tổng quan tình hình
thực tế và các chính sách được áp dụng để từ đó đánh giá tác động của Khu vực

mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc tới nền kinh tế Việt Nam.
“Thâm h t cán cân thương mại: Kinh nghiệm quốc tế và vấn đề của Việt
Nam” của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (2008). Nghiên cứu này
đã đưa ra nhiều bài học kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới để làm tham


12
khảo cho việc xây dựng các giải pháp đối với tình trạng thâm hụt thương mại của
Việt Nam hiện nay.
1.2. Tình hình nghiên cứu ở nƣớc ngoài
Vấn đề quan hệ thương mại ASEAN - Trung Quốc từ lâu đã thu hút được sự
quan tâm của các nhà nghiên cứu ở nhiều quốc gia trên thế giới.
Nghiên cứu về lợi thế so sánh trong quan hệ thương mại Trung Quốc ASEAN: Ai có lợi hơn trong ACFTA? Trước đây có nhiều đánh giá cho rằng
ASEAN sẽ được lợi từ ACFTA. Chẳng hạn Yu-shek Cheng (2004), cho rằng ACFTA
sẽ giúp tăng xuất khẩu của Trung Quốc sang ASEAN 10,6 tỷ USD/năm, trong khi
mức nhập khẩu của Trung Quốc từ ASEAN tương ứng sẽ là 13 tỷ USD/năm. Hay
Glosserman và Brailey Fritschi (2002) cho rằng ACFTA sẽ giúp ASEAN và Trung
Quốc thêm vào mức tăng GDP hàng năm tương ứng là 1% và 0,3%. Còn theo Cai
(2003), về ngắn hạn, ACFTA có thể làm tăng cạnh tranh giữa Trung Quốc và
ASEAN trong điều kiện cả hai cùng có lợi thế về những sản phẩm sử dụng lao động
tập trung và cùng có nhiều ngành có giá trị gia tăng thấp. Nhưng về dài hạn, cạnh
tranh sẽ giúp cả hai bên trong tái cơ cấu kinh tế nhằm đạt được hiệu quả cao hơn.
Trong một bài viết đăng trên Asia Times ngày 12/04/2010, tác giả Walden
Bello cho rằng nhìn thoáng qua thì dường như mối quan hệ Trung Quốc-ASEAN
đem lại lợi ích cho cả đôi bên. Nhu cầu bên trong của kinh tế Trung Quốc đang đi
lên ở một mức độ nhanh chóng được xem là một yếu tố quan trọng trong sự tăng
trưởng ở Đông Nam Á, bắt đầu vào năm 2003 - khi ASEAN lần đầu tiên xuất khẩu
gần 30 tỷ USD sang Trung Quốc, sau một gian đoạn tăng trưởng chậm vì ảnh
hưởng của Khủng hoảng tài chính châu Á. Trong bản phúc trình của Liên Hiệp
Quốc khái quát về châu Á trong các năm 2003, 2004, viết: “Trung Quốc là một

động cơ tăng trưởng quan trọng cho hầu hết các nền kinh tế trong vùng. Trung
Quốc nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu với phần lớn các nước châu Á còn lại”.
Dường như các nước ASEAN ra khỏi cơn cùng cực trong cuộc Khủng hoảng châu
Á một phần là nhờ vào Trung Quốc.
Walden Bello cũng phân tích Chương trình thu hoạch sớm (EHP) tác động
tiêu cực nhiều đến Thái Lan. Có ý kiến cho rằng do các nhà trồng rau và trái cây
oán hận, trách cứ thỏa thuận Thu hoạch sớm giữa Thái Lan và Trung Quốc, họ đã
thất vọng và dồn nỗi tức giận vào Chương trình tự do thương mại rộng lớn của
Chính phủ Thaksin, điều này là một trong số nhiều căn nguyên đưa đến kết cục của
cuộc đảo chính lật đổ chính phủ của ông Thaksin vào tháng 9 năm 2006 [94, tr. 4].
Theo Walden Bello, Trung Quốc có rất nhiều sản phẩm công nghiệp, nông


13
nghiệp siêu rẻ, từ sản phẩm của các vụ mùa miền ôn đới cho đến rau quả của miền bán
nhiệt đới, cũng như nhiều nông sản phẩm đã qua chế biến. Trong khi ASEAN chỉ có một
số nước như Việt Nam (gạo, cà phê), Thái Lan (gạo), Philippines (dừa và sản phẩm của
dừa), Malaysia (dầu cọ, cao su, thiếc) có một số ít sản phẩm có ưu thế. Quốc có phần
chậm lại, trong khi nhu cầu xuất khẩu tăng mạnh vì thế, từ năm 2005, xuất khẩu của
Trung Quốc sang ASEAN tăng 50%, cao hơn mức tăng nhập khẩu từ ASEAN.
Zhao Jianglin trong cuốn “Toàn cảnh quan hệ thương mại Asean-Trung
Quốc 15 năm phát triển”, Nhà xuất bản thế giới (2008) bản gốc “Asean-China
Trade Relations: 15 Years of Development and Prospects”, The Gioi Publishers,
2008, By Zhao Jianglin, Institute of Asia-Pacific Studies, CASS, Hanoi, Dec. 6-8,
2007. Tác giả Zhao Jianglin đã chỉ ra những thành tựu và hạn chế trong 15 năm phát
triển quan hệ thương mại giữa hai bên kể từ sau khủng hoảng tài chính Châu Á,
Zhao Jianglin lý giải một số nguyên nhân khiến quan hệ thương mại giữa hai thực
thể chưa phát triển đúng với tiềm năng và thế mạnh của mình trong đó có nguyên
nhân quan trọng là niềm tin chiến lược và xung đột lợi ích nhất là lợi ích trên khu
vực Biển Đông. Tuy nhiên Zhao Jianglin cũng tin tưởng đến những năm 2020 quan

mối hệ này sẽ vượt qua được những rào cản về chính trị và trở thành mối quan hệ
thương mại chiến lược của cả hai bên.
Li Wei (Học viện thương mại quốc tế và hợp tác kinh tế Trung Quốc), “Triển
vọng của Khu vực thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc”, tham luận trình bày tại
Hội thảo khu vực về cơ hội và thách thức của Khu vực thương mại Tự do ASEAN Trung Quốc, TP. Hồ Chí Minh ngày 20-21/6/2002, tác giả đã chỉ ra những triển
vọng thương mại mà hai bên đã và đang xây dựng, trong đó tác giả đặc biệt nhấn
mạnh tới triển vọng trong lĩnh vực trao đổi hàng hóa, dịch vụ thương mại. Đồng
thời trước xu thế toàn cầu hóa, xung đột lợi ích, bất đồng chính trị tác giả cũng đã
chỉ ra một số thách thức có khả năng làm giảm tốc độ luân chuyển hàng hóa và quy
mô trao đổi thương mại giữa các bên.
Mun-Heng Toh (Đại học Quốc gia Singapore): “Đối phó với những thách
thức và cơ hội của việc thành lập Khu vực thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc”,
tham luận trình bày tại Hội thảo khu vực về cơ hội và thách thức của Khu vực tự do
ASEAN - Trung Quốc, TP. Hồ Chí Minh ngày 20-21/6/2002. Trong tham luận của
mình tác giả chủ yếu đưa ra những giải pháp ngắn hạn và trung hạn cho các bên để
tận dụng lợi thế của mình khi tham gia quan hệ thương mại song phương, trong đó
tác giả đặc biệt nhấn mạnh tới khả năng bứt phá của các quốc gia ASEAN mới như
Lào, Mianma, Việt Nam đồng thời tác giả cũng đưa ra một số kịch bản và giải pháp


14
để mỗi bên có sự lựa chọn tốt nhất tận dụng được khả năng, cơ hội từ quan hệ này.
Bên cạnh đó, trong bài viết: “The Impact of Trade Liberalization on the
Trade Balance in Developing Countries” Yi Wu và Li Zeng (Quỹ tiền tệ quốc tế,
2008) đã nghiên cứu về ảnh hưởng của tự do hóa thương mại đối với nhập khẩu,
xuất khẩu và cán cân thương mại tổng thể của các quốc gia đang phát triển.
Nghiên cứu đã tìm ra chứng cứ thuyết phục và mạnh mẽ để chứng minh tự do
hóa thương mại sẽ làm tăng xuất nhập khẩu và không gây nhiều tiêu cực cho cán
cân thương mại của các nước này.
1.3. Khoảng trống nghiên cứu

Như vậy, từ các công trình nghiên cứu trong nước và quốc tế có thể nói Quan
hệ thương mại ASEAN - Trung Quốc là đề tài thú vị, được đông đảo giới khoa học
cũng như những người làm chính sách và giới doanh nhân quan tâm. Tuy nhiên các
nghiên cứu đề cập ở trên chỉ phân tích mối quan hệ này ở các góc độ khác nhau.
Nhiều nghiên cứu phân tích sâu về các thời cơ và thách thức cho mỗi bên cũng như
cho Việt Nam khi ACFTA hình thành. Cũng có khá nhiều nghiên cứu đề cập quan
hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốc. Tuy nhiên, việc tổng kết, đánh giá về quan
hệ thương mại ASEAN - Trung Quốc trong thập niên đầu thế kỷ 21, đặc biệt khi
Trung Quốc trở thành nước lớn thì họ có thay đổi cách ứng xử với các nước láng
giềng ASEAN không, thay đổi như thế nào thông qua các quan hệ thương mại thì
chưa có nghiên cứu nào đề cập.
Tiểu kết chƣơng 1
Chương một tác giả tập trung vào phân tích, đánh giá các công trình nghiên
cứu đã có của các tác giả trong và ngoài nước. Những công trình đó có liên quan
mật thiết tới đề tài luận án, một mặt cung cấp cơ sở dữ liệu cần thiết phục vụ cho đề
tài còn mặt khác giúp tác giả tìm ra điểm mới để đi sâu vào tìm hiểu đánh giá, làm
cho luận án đảm bảo đầy đủ tính mới, tính khoa học.
Dựa trên những lý thuyết về thương mại, tác giả xây dựng nội dung cho đề tài
luận án, tránh đi lạc vấn đề nghiên cứu, đảm bảo tính khách quan, chính xác khoa học,
đồng thời cũng làm rõ khoảng trống nghiên cứu cũng như sự cần thiết phải nghiên cứu
đè tài này.
Như vậy, phần tổng quan sẽ là tiền để tác giả phát triển ý tưởng, xây dựng
nội dung, đi sâu vào phân tích, đánh giá sự kiện, vấn đề nghiên cứu.


15

Chương 2
CƠ SỞ CHO SỰ PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƢƠNG MẠI ASEAN TRUNG QUỐC
2.1. Cơ sở lý luận cho sự phát triển quan hệ thƣơng mại ASEAN - Trung Quốc

2.1.1. Khái quát về quan hệ thương mại Quốc tế
2.1.1.1. Khái niệm về thương mại quốc tế
Khái niệm thương mại quốc tế Thời nguyên thủy, thương mại quốc tế được
hiểu là quá trình trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia theo nguyên tắc kinh doanh thị
trường nhằm mang lại lợi ích cho các chủ thể tham gia. Theo UNCITRAN (United
Nations Commission of International Trade Law) [86] thì thương mại quốc tế theo
nghĩa rất rộng, bao gồm mọi hoạt động kinh doanh trên thị trường quốc tế, tức là
bao gồm mọi hoạt động thương mại quốc tế, đầu tư quốc tế, trừ mua bán hàng hóa
hữu hình đến các dịch vụ như bảo hiểm, tài chính, tín dụng, chuyển giao công nghệ,
thông tin, vận tải, du lịch. Thương mại quốc tế theo nghĩa truyền thống thì có hoạt
động xuất khẩu và nhập khẩu. Xuất khẩu được hiểu là đưa hàng hóa, dịch vụ được
sản xuất ở trong nước ra nước ngoài. Trong khi đó hoạt động nhập khẩu được hiểu
ngược lại là đưa hàng hóa, dịch vụ được sản xuất ở nước ngoài vào trong nước.
Ngày nay thương mại quốc tế có các loại hình thương mại hàng hóa hữu hình,
thương mại hàng hóa vô hình và thương mại dịch vụ. Thương mại hữu hình gồm tất cả
các hoạt động buôn bán quốc tế có liên quan đến các hàng hóa truyền thống (chia thành
hàng sơ chế và hàng tinh chế). Thương mại hàng hóa vô hình gồm các hàng hóa không
nhìn thấy được (các phát minh sáng chế, các giải pháp kiểu dáng công nghiệp,…).
Thương mại dịch vụ gồm các hoạt động thương mại quốc tế còn lại không thuộc
thương mại hàng hóa (dịch vụ tài chính, bảo hiểm, ngân hàng, thông tin,…)
2.1.1.2. Chính sách thương mại Quốc tế
Khái niệm và nội dung của chính sách thương mại quốc tế
Khái niệm: Chính sách thương mại quốc tế là hệ thống các công cụ và biện
pháp mà nhà nước sử dụng để điều tiết các hoạt động thương mại quốc tế của các
quốc gia, nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra trong chiến lược phát triển kinh tế xã
hội của quốc gia đó.
Nội dung
- Chính sách mặt hàng là một bộ phận quan trọng trong chính sách thương mại



16
quốc tế, bao gồm danh mục các hàng hoá khuyến khích xuất nhập khẩu, danh mục
các hàng hoá hạn chế xuất nhập khẩu, danh mục các hàng hoá cấm xuất nhập khẩu.
- Chính sách thị trường là một bộ phận cơ bản không thể thiếu trong chính
sách thương mại quốc tế, bao gồm định hướng và các biện pháp mở rộng, thâm
nhập thị trường nước ngoài với sự chú ‎ý đến các thị trường trọng điểm và các thị
trường có quan hệ hữu hảo.
- Chính sách hỗ trợ bao gồm các chính sách và biện pháp kinh tế nhằm tác
động gián tiếp đến các hoạt động thương mại quốc tế của quốc gia đó như chính
sách đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu, chính sách tín dụng ưu đãi xuất nhập khẩu,
chính sách tỷ giá hối đoái...
Các công c và biện pháp thực hiện chủ yếu của chính sách thương mại quốc tế
Thuế quan là một loại thuế đánh vào hàng hoá xuất khẩu và nhập khẩu qua
biên giới của một quốc gia trong đó đơn vị thực hiện xuất nhập khẩu hàng hoá phải
nộp một khoản tiền cho cơ quan quản lý đại diện của nhà nước, bao gồm: Thuế
quan xuất khẩu (là loại thuế đánh vào hàng hoá xuất khẩu), Thuế quan nhập khẩu
(là loại thuế được áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu).
Các công c và biện pháp phi thuế quan
- Hạn ngạch là quy định của nhà nước về lượng hàng hoá tối đa được phép xuất
khẩu hay nhập khẩu đối với một thị trường cụ thể trong một thời gian nhất định.
- Hạn ngạch xuất khẩu: Các quốc gia phải quy định hạn ngạch xuất khẩu để
đáp ứng đủ và đảm bảo uy tín, đảm bảo nhu cầu tiêu dùng trong nước, tránh tình
trạng khai thác cạn kiệt tài nguyên.
- Hạn ngạch nhập khẩu: Công cụ này áp dụng đối với những mặt hàng cần
bảo hộ một cách chặt chẽ nhằm kiểm soát một cách tương đối chính xác lượng hàng
hoá nhập khẩu từ nước ngoài, qua đó tạo điều kiện cho ngành sản xuất trong nước
phát triển đặc biệt là những ngành sản xuất còn non trẻ hay những ngành mới trong
giai đoạn đầu phát triển.
Quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật đối với hàng hoá: Công cụ này áp dụng cụ
thể đối với hai nhóm hàng hoá sau nhằm đảm bảo lợi ích cho người tiêu dùng và

mức độ gây ô nhiễm môi trường.
- Nhóm hàng hoá lương thực thực phẩm: Nhà nước đưa ra những quy định
về thành phần, nguyên vật liệu sử dụng để sản xuất, cách thức vận chuyển, bảo quản
thời hạn sử dụng,v.v...
- Nhóm hàng hoá là dây chuyền sản xuất, phương tiện giao thông vận tải.


17
Nhà nước đưa ra những quy định về hàm lượng các chất thải độc hại mức độ gây
tiếng ồn và thời hạn sử dụng.
Hạn chế xuất khẩu tự nguyện: Đây là việc công cụ của nước nhập khẩu, nước
nhập khẩu đưa ra yêu cầu đối với nước xuất khẩu phải tự nguyện để cắt giảm lượng
hàng hóa xuất khẩu thông qua sự thoả thuận giữa chính phủ của hai quốc gia. Nếu
nước xuất khẩu không thực hiện theo yêu cầu đó thì nước nhập khẩu sẽ áp dụng các
biện pháp trả đũa chẳng hạn như giảm giá đồng nội tệ, tăng thuế nhập khẩu đối với
mặt hàng đó hay mặt hàng khác...
Các công c và biện pháp hỗ trợ xuất khẩu
- Biện pháp hỗ trợ về vốn: Nhà nước cung cấp, hỗ trợ một phần hoặc hầu
như toàn bộ chi phí, vốn để khuyến khích các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất
khẩu, hoặc nhà nước miễn, giảm thuế thu nhập, thuế doanh thu cho các doanh
nghiệp có tham gia hoạt động xuất khẩu.
- Biện pháp hỗ trợ về tín dụng ưu đãi: Nhà nước cho vay với lãi suất đặc biệt
hoặc không có lãi suất cho các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu.
- Trợ giá: Chính phủ hỗ trợ chi phí sản xuất sản phẩm, hỗ trợ giá sản phẩm
làm cho sản phẩm có giá thành thấp hơn chi phí sản xuất thực của nó, vì vậy mà làm
tăng tính cạnh tranh về giá của sản phẩm đó khi xuất khẩu.
Các công c và biện pháp khác
- Hoàn thuế xuất khẩu: Các doanh nghiệp được phép tham gia hoạt động xuất
khẩu hàng hoá có thể nộp báo cáo hàng tháng lên cục thuế sau khi tiến hành xuất khẩu
theo đúng thủ tục tài chính và khai báo hải quan để xin hoàn thuế hoặc miễn thuế được

cho phép (Thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu dùng, thuế doanh thu, thuế sản phẩm).
- Khen thưởng đối với hoạt động xuất khẩu: Nhà nước đưa ra những biện
pháp khuyến khích các doanh nghiệp tham gia hoạt động Ngoại thương đẩy mạnh
hơn nữa hoạt động xuất nhập khẩu, tăng chất lượng hàng hoá xuất khẩu.... như khen
thưởng đối với những doanh nghiệp tham gia hoạt động ngoại thương có sản phẩm
xuất khẩu đạt chất lượng cao nhất.
Hỗ trợ cho việc đào tạo nguồn nhân lực và phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ
cho việc sản xuất và kinh doanh hàng xuất khẩu. Nhà nước đưa ra những chính sách
để thu hút vốn từ các nguồn khác nhau như từ nguồn vốn viện trợ phát triển (ODA),
nguồn vốn từ nhân dân, nguồn vốn từ người dân ở nước ngoài để xây dựng và nâng
cấp cơ sở hạ tầng cho sản xuất và kinh doanh, để hỗ trợ thêm cho việc đào tạo nâng
cao trình độ chuyên môn nguồn nhân lực. Chính phủ các quốc gia đưa ra những


18
định hướng và những quy định về mặt hàng được phép khuyến khích, bị hạn chế
hay cấm mua bán, trao đổi với nước ngoài.
- Bán phá giá hàng hoá: Là việc bán hàng hoá thấp hơn giá trị sản xuất nhằm
mục tiêu xâm nhập mạnh mẽ vào một thị trường nào đó và đánh bại các đối thủ
cạnh tranh. Tuy nhiên, biện pháp này hiện nay không được sử dụng nhiều vì các
nước đều xây dựng rất chặt chẽ luật chống bán phá giá, do vậy nếu sử dụng nhiều sẽ
chịu nhiều khoản phạt, chịu thuế cao và vi phạm thông lệ của WTO.
Ngoài ra, bán phá giá hối đoái thể hiện ở việc xuất khẩu hàng hoá với giá
thấp hơn của đối thủ cạnh tranh do sử dụng lợi nhuận phụ thêm thu được từ sự mất
giá của đồng tiền.
Vai trò của chính sách thương mại quốc tế
Chính sách thương mại quốc tế có tác động toàn diện và sâu sắc tới nền kinh tế
mỗi quốc gia, đặc biệt với quốc gia xây dựng kinh tế mở, thể hiện ở các khía cạnh sau.
- Chính sách thương mại quốc tế tạo điều kiện cho sự phát triển của các
ngành công nghiệp mới với trình độ công nghệ hiện đại và phù hợp với lợi thế của

mỗi quốc gia. Chính sách thương mại quốc tế sẽ tập trung phát triển hoạt động xuất
khẩu ở những ngành mà quốc gia có lợi thế, tiềm lực do vậy mà sẽ khuyến khích
thu hút để đầu tư phát triển nâng cao cải thiện công nghệ để có thể tận dụng tối đa
lợi thế của quốc gia. Chính sách thương mại quốc tế sẽ tác động vào đầu vào để
nhập nguyên liệu, thu hút vốn, cải thiện công nghệ.
- Chính sách thương mại quốc tế tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong
nước nâng cao khả năng cạnh tranh, tiếp cận thị trường đầu vào và thị trường tiêu
thụ và các sản phẩm đầu ra một cách nhanh chóng và cụ thể đồng thời tạo điều kiện
cho các doanh nghiệp trong nước vươn ra thị trường thế giới. Chính sách thương
mại quốc tế luôn có những biện pháp, chính sách để khuyến khích các doanh nghiệp
trong nước nâng cao chất lượng sản phẩm, khả năng cạnh tranh, xây dựng các cơ
quan xúc tiến thương mại để nhờ đó doanh nghiệp sẽ có được những thông tin về thị
trường đầu vào, thị trường tiêu thụ một cách chính xác và nhanh nhất.
- Chính sách thương mại quốc tế thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu phát
triển mạnh mẽ theo đúng xu hướng của thời đại. Xu hướng tự do hoá thương mại và
quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới là hai xu hướng cơ bản của nền kinh tế thế
giới, chính sách thương mại quốc tế thì luôn phải đi theo những xu hướng của thời
đại do vậy mà góp phần thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá của quốc gia.
- Chính sách thương mại quốc tế phát triển các quan hệ kinh tế giữa các quốc


19
gia trên thế giới. Xu hướng thế giới chuyển từ đối đầu sang đối thoại, từ biệt lập
sang hợp tác trong đó nhiều vấn đề có xu hướng trở thành vấn đề mang tính chất
toàn cầu cần có sự phối hợp giải quyết bởi nhiều quốc gia và xu thế khu vực hoá đòi
hỏi các quốc gia trong một khu vực liên kết với nhau trong đó sự hợp tác giữa các
quốc gia ngày càng chặt chẽ. Chính sách thương mại quốc tế cũng phải đi theo
những xu thế này do vậy mà quan hệ kinh tế giữa các quốc gia ngày càng có những
mối quan hệ chặt chẽ ảnh hưởng lẫn nhau.
- Chính sách thương mại quốc tế tăng cường sức mạnh về tiềm lực kinh tế,

quốc phòng, an ninh. Chính sách thương mại quốc tế hỗ trợ phát triển kinh tế, nâng
cao vị thế của quốc gia trên thế giới do vậy mà cũng gián tiếp nâng cao sức manh về
tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh cho mỗi quốc gia tham gia.
2.1.2. Các lý thuyết về quan hệ thương mại Quốc tế
Có rất nhiều lý thuyết thương mại quốc tế luận giải cho việc hình thành quan
hệ thương mại song phương và đa phương giữa các nước, các khu vực trên thế giới,
trong đó phải kể đến ba học thuyết kinh tế tiêu biểu.
Lý thuyết thương mại quốc tế của Chủ nghĩa trọng thương. Lý thuyết về
thương mại quốc tế được coi là bắt đầu bằng các tác phẩm của trường phái trọng
thương từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18. Các tác giả trọng thương lập luận rằng xuất
khẩu đối với một quốc gia là rất có ích vì nó kích thích sản xuất trong nước, đồng
thời làm gia tăng lượng của cải của quốc gia. Ngược lại, nhập khẩu là gánh nặng
vì nó làm giảm nhu cầu đối với hàng hóa sản xuất trong nước, và hơn nữa dẫn tới
sự thất thoát của của cải của quốc gia. Như vậy, sức mạnh và sự giàu có của một
quốc gia sẽ tăng lên nếu quốc giá đó xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu. Lập luận của
các tác giả thuộc trường phái trọng thương chứa đựng nhiều quan điểm mà cho
đến nay vẫn còn giá trị. Chẳng hạn, khi năng lực sản xuất trong nước vượt quá
mức cầu thì lúc đó việc khuyến khích xuất khẩu và hạn chế bớt nhập khẩu là điều
mà một quốc gia cần theo đuổi.
Adam Smith và lợi thế tuyệt đối. Adam Smith là người đầu tiên đưa ra sự
phân tích có tính hệ thống về nguồn gốc thương mại quốc tế. Trong tác phẩm “Của
cải của các dân tộc” xuất bản lần đầu tiên vào năm 1776, A.Smith đã đưa ra ý tưởng
về lợi thế tuyệt đối để giải thích nguồn gốc và lợi ích của thương mại quốc tế. Nước
A, xét trong tương quan với nước B, có thể tỏ ra hiệu quả hơn (có lợi thế tuyệt đối)
trong việc sản xuất mặt hàng X, và kém hiệu quả hơn (có mức bất lợi tuyệt đối)
trong việc sản xuất mặt hàng Y. Khi đó B là nước có lợi thế tuyệt đối về mặt hàng


20
Y, và bất lợi tuyệt đối trong sản xuất mặt hàng X. Theo A.Smith, nếu mỗi nước tập

trung vào sản xuất mặt hàng mà mình có lợi thế tuyệt đối, và xuất khẩu mặt hàng
này sang nước kia để đổi lấy mặt hàng mà mình có mức bất lợi tuyệt đối, thì sản
lượng của cả hai mặt hàng sẽ tăng lên, và cả hai quốc gia đều trở nên sung túc hơn.
Mặc dù tư tưởng của A.Smith là rất quan trọng cho sự phát triển ban đầu của lý
thuyết Ngoại thương và thay đổi quan niệm về các lợi ích tiềm năng từ thương mại,
tuy nhiên lý thuyết của ông bị giới hạn ở các khái niệm về “lợi thế tuyệt đối”. Nó
làm tăng các câu hỏi về lợi ích từ thương mại nước ngoài của đất nước không có bất
kỳ lợi thế tuyệt đối nào.
Lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo. Nếu như khái niệm “lợi thế
tuyệt đối” được xây dựng trên cơ sở sự khác biệt về số lượng lao động thực tế được
sử dụng ở các quốc gia khác nhau (hay nói cách khác, sự khác biệt về hiệu quả sản
xuất tuyệt đối), thì lợi thế so sánh lại xuất phát từ hiệu quả sản xuất tương đối.
Ricardo giả định rằng lao động là yếu tố duy nhất của sản xuất, mỗi nước có
nguồn tài nguyên và trình độ công nghệ không đổi. Trái với lợi thế tuyệt đối, lợi thế
so sánh là một khái niệm có tính tương đối, trong một thế giới bao gồm 2 quốc gia,
2 mặt hàng, khi đã xác định được một quốc gia có lợi thế so sánh về một mặt hàng
nào đó thì có thể rút ra kết luận là quốc gia thứ hai sẽ có lợi thế so sánh về mặt hàng
kia. Câu hỏi đặt ra ở đây là liệu thương mại tự do có đem lại lợi ích cho tất cả các
bên hay không khi một quốc gia có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất tất cả các mặt
hàng. Câu trả lời do Ricardo đưa ra là “có”, thể hiện ở quy luật lợi thế so sánh sau đây
“Khi mỗi quốc gia thực hiện chuyên môn hóa sản xuất mặt hàng mà quốc gia đó có
lợi thế so sánh thì tổng sản lượng tất cả các mặt hàng của toàn thế giới sẽ tăng lên và
tất cả các quốc gia sẽ trở nên sung túc hơn”, và điều này hoàn toàn có thể chứng minh
được thông qua những phân tích rất đơn giản một ví dụ cụ thể về lợi thế so sánh. Có
thể thấy, mô hình của Ricardo là một công cụ cực kỳ hữu ích cho việc giải thích lý do
tại sao trao đổi thương mại quốc tế xảy ra và phân tích ảnh hưởng của thương mại
trên phúc lợi của quốc gia. Nó là nền tảng lý thuyết đầu tiên để tăng cường thương
mại tự do cũng như điểm khởi đầu cho bất kỳ phân tích nào về cơ sở thương mại
quốc tế trong đó có quan hệ thương mại ASEAN - Trung Quốc.
Mô hình Heckscher - Ohlin (mô hình H-O). Mô hình này do hai nhà kinh tế

là Eli Heckscher (1919) và Bertil Ohlin của thụy điển đồng nghĩ ra vì vậy tên gọi
mô hình là nối của hai cái tên. Mô hình này đưa ra hai yếu tố ảnh hưởng tới thương
mại giữa các quốc gia:


21
- Mức độ dồi dào và rẻ của các yếu tố sản xuất
- Mỗi một mặt hàng lại cần tỷ lệ các yếu tố đầu vào khác nhau.
Một quốc gia nên xuất khẩu các hàng hóa mà mình dồi dào yếu tố SX cho
hàng hóa đó và nhập về những hàng hóa ngược lại. Trường hợp cụ thể vì Việt Nam
dồi dào lao động nhưng vốn ít vì vậy nên sản xuất giầy dép, vài,… Còn Nhật bản
nhiều vốn nhưng ít lao động thì nên sản xuất thép và nhập về vải.
Trong thực tế thì ngày nay các nước đều theo chủ nghĩa Tân trọng thương có
nghĩa là khuyến khích xuất khẩu và bảo hộ mậu dịch trong nước thông qua các hàng
rào thuế quan, kỹ thuật. Vì vậy, ta sẽ thấy là thuế xuất khẩu thì luôn thấp thậm chí
bằng 0 nhưng thuế nhập khẩu thì lại cao có thể lên tới 100%. Tại Việt Nam chính
phủ sẽ phải xác định mặt hàng xuất khẩu/nhập khẩu tập trung trong từng thời kỳ. Cụ
thể từ 2011 tới 2020 Việt Nam tập trung nhập khẩu các mặt hàng phục vụ sản xuất,
nguyên liệu vì vậy con số này thực tế chiếm 90%; còn lại tiêu dùng là 10%. Đối với
xuất khẩu thì chúng ta tập trung vào xuất khẩu các hàng hóa cần lượng lớn lao động
(dầy da, may mặc,..) và tài nguyên theo hướng tăng hàm lượng chế biến.
Như vậy, những luận cứ và các lý thuyết phân tích ở trên là nền tảng lý luận
giải thích tính tất yếu của việc phát triển quan hệ thương mại ASEAN - Trung
Quốc. Các lý thuyết thương mại quốc tế ra đời từ hơn 300 năm nay và ngày càng
phong phú theo sự phát triển của các quan hệ kinh tế quốc tế. Các lý thuyết kinh tế
hiện đại gần đây thường tiếp cận dưới góc độ tổng hợp về các nguyên nhân của các
hoạt động thương mại quốc tế, chúng lý giải đầy đủ hơn và phù hợp hơn với thực
tiễn về quá trình hình thành và phát triển của các quan hệ kinh tế quốc tế nói chung
quan hệ thương mại ASEAN - Trung Quốc nói riêng. Chính các lý thuyết này là cơ
sở không thể thiếu được cho việc xây dựng chính sách thương mại quốc tế của mỗi

quốc gia. Có thể nói, về mặt lý luận quan hệ thương mại ASEAN - Trung Quốc như
một chiếc bè đang trôi chung trong dòng chảy kinh tế của thế giới.
2.2. Cơ sở thực tiễn
2.2.1. Sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa ASEAN và Trung Quốc
Trước hết xu hướng tăng cường hợp tác kinh tế giữa hai nền kinh tế xuất
phát từ thực tế phát triển và những nhu cầu mới của mỗi bên. Về phía ASEAN, tuy
đây là thị trường tiêu thụ lớn với hơn 500 triệu dân song sức mua lại thấp do cơ cấu
hàng xuất khẩu giữa các nước thành viên tương đối giống nhau và nhiều nước trong
khối là những nước đang phát triển. Bối cảnh đó buộc các nước ASEAN không thể


22
chỉ dừng lại ở liên kết nội khối mà cần phải mở rộng ra bên ngoài nhằm thu hút đầu
tư và khai thác triệt để các thế mạnh của mình. Thêm vào đó cuộc khủng hoảng tài
chính - tiền tệ năm 1997-1998 đã làm cho các nước thành viên bị ảnh hưởng nặng
nề, nền kinh tế rơi vào tình trạng kiệt quệ. Lúc này nhu cầu liên kết với các đối tác
bên ngoài là cần thiết hơn bao giờ hết. Mặt khác Trung Quốc là một quốc gia đông
dân với thì trường rộng lớn và tốc độ phát triển nhanh, là đối tác thích hợp để các
nước ASEAN tiến hành mở rộng thị trường, đầu tư để tìm kiếm lợi nhuận. Đồng
thời hợp tác với Trung Quốc cũng tạo nên sự cân bằng trong quan hệ giữa các nước
lớn có lợi ích chiến lược trong khu vực, là bước nối quan trọng để ASEAN xâm
nhập vào thị trường lớn nhất thế giới cũng như hội nhập với kinh tế toàn cầu.
Về phía Trung Quốc, ASEAN là đối tác rất thích hợp cho các ngành công
nghiệp đang trỗi dậy của họ. Một vấn đề mà nước này mắc phải trên con đường
phát triển là sự thiếu hụt về nguồn nguyên, nhiên liệu như xăng, dầu, gỗ, nhựa, dầu
thực vật,… ASEAN lại là khu vực có nguồn tài nguyên khá dồi dào, đáp ứng và
khắc phục tốt những khó khăn trên. Thêm vào đó tốc độ tăng trưởng nhanh của kinh
tế Trung Quốc đặt ra một đòi hỏi bức bách, đòi hỏi cần mở rộng hơn nữa thị trường
tiêu thụ sản phẩm, thị trường cung cấp nguyên nhiên liệu. Xét trên phương diện này
các nước ASEAN có khả năng đáp ứng một cách hiệu quả nhu cầu đó. Hơn nữa,

trước sự phát triển không ngừng của ASEAN, nếu chậm chân các nước Hàn Quốc,
Nhật Bản sẽ thiết lập khu vực mậu dịch tự do với khối này. Đây sẽ là bất lợi lớn cho
Trung Quốc bởi như vậy nước này sẽ phải cạnh tranh lớn hơn với hàng hoá Nhật
Bản và Hàn Quốc tại thị trường ASEAN, đồng thời gặp khó khăn trong đàm phán
vơi các nước ASEAN khi muốn hình thành khu vực mậu dịch tự do.
Thực tế tiến trình phát triển quan hệ giữa hai nền kinh tế cũng đã chứng
minh cho xu hướng hợp tác của hai bên. Từ năm 1991, Trung Quốc đã thiết lập
quan hệ ngoại giao hoặc khôi phục quan hệ ngoại giao với tất cả các nước ASEAN.
Năm năm sau đó, Trung Quốc lại trở thành nước đối thoại toàn diện với các nước
ASEAN. Tình hình tốt đẹp của quan hệ chính trị giữa Trung Quốc và ASEAN đã
đem lại sự tất yếu cho việc phát triển quan hệ hợp tác kinh tế thương mại hai bên.
ASEAN và Trung Quốc hiện nay đều là bạn hàng mậu dịch quan trọng của nhau.
Trong mậu dịch đối ngoại của Trung Quốc vai trò của ASEAN không ngừng tăng
lên, trở thành bạn hàng lớn thứ 5 sau Nhật Bản, Mỹ, EU và Hồng Kông. Đồng thời,
Trung Quốc cũng trở thành bạn hàng lớn thứ 6 của ASEAN sau Mỹ, Nhật Bản, EU,


23
Hồng Kông và Đài Loan. Trung Quốc cũng tích cực tham gia giúp đỡ và thúc đẩy
hợp tác kinh tế khu vực Đông Nam Á và hợp tác tiểu vùng. Hợp tác tiểu vùng Sông
Mê Kông đã thu được bước tiến khởi đầu rất khả quan, mở ra những phương thức
mới cho hợp tác kinh tế giữa Trung Quốc và ASEAN.
2.2.2. Sự phát triển nhiều loại hình hợp tác trong thương mại quốc tế thúc đẩy
phát triển thương mại ASEAN - Trung Quốc
Việc hình thành các khu vực mậu dịch tự do hoặc các thỏa thuận mậu dịch tự
do khá phổ biến trong những năm gần đây. Theo thống kê của Tổ chức thương mại
thế giới (WTO) tính đến 2010, đã có khoảng 400 Hiệp định thương mại tự do được
thực hiện hoặc đang trong quá trình ký kết trong đó có hơn 200 Hiệp định thương
mại tự do có hiệu lực. Các Hiệp định thương mại tự do có thể được thực hiện giữa
hai nước riêng lẻ hoặc có thể đạt được giữa một khối thương mại và một quốc gia

như Hiệp định thương mại tự do Liên minh châu Âu-Chi Lê, hoặc Hiệp định thương
mại tự do ASEAN-Trung Quốc.
Hiện nay trên thế giới tồn tại hai loại hình
- Hiệp định thương mại tự do song phương (BFTA): Được ký kết giữa hai nền
kinh tế, không nhất thiết phải có sự gần gũi về địa lý. Ví dụ như Hiệp định thương mại
song phương Việt Nam - Mỹ, Hiệp định thương mại song phương Hàn Quốc - Mỹ.
- Hiệp định thương mại tự do khu vực (RFTA): Được ký kết giữa nhiều nền
kinh tế (từ 3 trở lên), thường các thành viên có sự tương đồng, gần gũi về vị trí địa
lý. Ví dụ như Hiệp định thương mại tự do châu Âu, Hiệp định thương mại tự do Bắc
Mỹ, Hiệp định thương mại tự do ASEAN.
Đặc điểm của Hiệp định thương mại tự do
Hiệp định thương mại tự do là cơ sở pháp lý cho sự hình thành khu vực mậu
dịch tự do. Thông qua việc thực hiện hiệp định, các bên tham gia sẽ từng bước tự do
hoá hoàn toàn thương mại song phương hay đa phương, tiến tới thành lập khu vực
mậu dịch tự do. Song có nhiều nước tham gia ký kết hiệp định thương mại nhưng
không hình thành khu vực mậu dịch tự do, các bên tham gia chỉ cam kết và hợp tác
trong lĩnh vực thương mại, không mở rộng hợp tác trên những mặt khác như chính
trị, xã hội,… đây là đặc điểm chính để phân biệt và hiểu đúng hai khái niệm này.
Về tổng thể, các hiệp định thương mại tự do cần đảm bảo những nội
dung chính sau.
- Đưa ra quy định chi tiết về một số nghĩa vụ phải thực hiện của các bên tham


24
gia, xác định các mục tiêu, nguyên tắc triển khai đàm phán tiếp theo trên các lĩnh vực
thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, đầu tư và các hợp tác kinh tế khác.
- Đưa ra cam kết cắt giảm đi đến xoá bỏ thuế quan và hàng rào phi thuế
quan. Nêu rõ định nghĩa và phương thức áp dụng đối với danh mục thông thường,
danh mục nhạy cảm, danh mục loại trừ, quy tắc xuất sứ. Xây dựng lộ trình thực hiện
của mỗi mặt hàng cụ thể cho mỗi bên tham gia, thời hạn kết thúc thực hiện, thời hạn

Hiệp định chính thức có hiệu lực.
- Xây dựng cơ chế giải quyết tranh chấp rõ ràng phạm vi áp dụng, hội đồng
trọng tài, quy trình giải quyết, quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia, vai trò của
các thành viên còn lại,…
- Các hiệp định thương mại tự do cần tuân theo nguyên tắc cơ bản của hệ
thống thương mại đa phương. Uỷ ban về FTA của WTO đã đưa ra những quy định
cụ thể cho những hiệp định thương mại song phương và khu vực như:
Không phân biệt đối xử thương mại giữa các nước thành viên cần được thực
hiện không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào, tất cả các thành viên phải đối xử theo
tối huệ quốc (MFN).
Mở cửa thị trường, ngăn cấm tất cả các hình thức bảo vệ ngoại trừ thuế quan
và một số ngoại lệ đặc biệt.
Thương mại bình đẳng có những biện pháp cụ thể chống bán phá giá, các
biện pháp đối kháng, xây dựng chi tiết quy định trong vấn đề thương mại nông
nghiệp, dịch vụ, sở hữu trí tuệ.
Hỗ trợ phát triển cải cách kinh tế, dành ưu đãi phát triển và cải cách kinh tế
đối với các nước đang phát triển, cho phép những nước này có thời kỳ quá độ để
điều chỉnh theo các quy định khó khăn của hiệp định.
Mức thuế và các quy định mới ở những nước tham gia không được cao hơn
hoặc hạn chế hơn so với các biện pháp hiện tại.
Tác động của Hiệp định thương mại tự do tới nền kinh tế các quốc gia
thành viên
Việc ký kết và thực hiện Hiệp định thương mại tự do có ảnh hưởng lớn đến
sự phát triển kinh tế mỗi quốc gia thành viên, đồng thời cũng tác động mạnh mẽ đến
hệ thống thương mại đa phương trên thế giới. Những người ủng hộ việc phát triển
“kinh tế mở” cho rằng đây là những bước đi quan trọng nhằm tiến tới tự do hóa


25
thương mại toàn cầu. Tuy nhiên, cũng có không ít ý kiến phản đối cho rằng các

nước nghèo sẽ bị tụt lùi sâu hơn khi quá trình hội nhập trở nên mạnh mẽ.
- Tác động tích cực
Hiệp định thương mại tự do tạo cơ hội phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia, điều
này thể hiện ở những điểm như sau:
Một, làm tăng khả năng tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ ở mỗi quốc gia nhờ mở
rộng các thị trường ngoài nước, tạo điều kiện cho mỗi nước tăng khả năng tiếp cận
các nguồn hàng hoá, dịch vụ đa dạng.
Hai, tăng khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài về cả vốn vay ODA hay
FDI do ổn định được thể chế, chính sách của chính phủ.
Ba, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đầu tư của mỗi nước theo hướng
chuyên môn hoá sản xuất, giúp khai thác tối đa lợi thế so sánh của mỗi nước, thúc
đẩy giao lưu và trao đổi khoa học, kinh nghiệm quản lý.
Bốn, thúc đẩy quá trình đổi mới và hoàn thiện thể chế kinh tế, chính trị, xã
hội ở mỗi quốc gia, tạo sức ép cải cách bên trong, từ đó tạo khả năng thuận lợi cho
việc xích lại gần nhau về trình độ phát triển, cơ cấu tổ chức, hệ thống luật pháp,
năng lực quản lý…, góp phần thu hẹp khoảng cách phát triển kinh tế giữa các nước.
- Tác động tiêu cực
Bên cạnh đó Hiệp định thương mại tự do cũng mang lại những tác động tiêu
cực và đặt các quốc gia thành viên đối mặt với những thách thức.
Một, mở cửa đồng nghĩa với sự cạnh tranh gay gắt giữa hàng hoá và doanh
nghiệp mỗi nước. Điều đó dẫn đến nguy cơ phá sản trong những ngành kinh tế và
doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, khả năng cạnh tranh thấp. Từ đó có thể gây xáo
trộn về công ăn việc làm của nhiều người lao động, dẫn đến bất ổn về chính trị - xã hội.
Hai, xoá bỏ hàng rào thuế quan nghĩa là các quốc gia sẽ mất đi một nguồn
thu ngân sách, nhất là đối với các nước đang phát triển - nơi mà thuế quan là bộ
phận quan trọng trong ngân sách nhà nước.
Ba, việc tiến hành cải cách và điều chỉnh cơ cấu kinh tế trước áp lực hội nhập
đòi hỏi phải có một nguồn tài lực và vật lực rất lớn mà không dễ gì một nước - nhất
là những nước đang phát triển hay kém phát triển - có thể đáp ứng được.
Bốn, trong quá trình thực hiện hiệp định, có sự khác biệt về trình độ giữa các

thành viên, nên dễ tạo ra nguy cơ là các nền kinh tế đang phát triển phụ thuộc nhiều
vào nền kinh tế mạnh hơn về công nghệ, nguồn hàng, vốn.


×