Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

Quan hệ thương mại và đầu tư của Việt Nam với các quốc gia thuộc thị trường Bắc Mỹ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (488.01 KB, 93 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế thế giới trong hơn thập kỷ qua đang bước vào giai đoạn toàn cầu hóa
mạnh mẽ, mỗi quốc gia muốn củng cố và khẳng định vị thế của mình trên trường quốc
tế không thể tách rời hệ thống kinh tế toàn cầu. Nhận thức được tầm quan trọng đó,
trong thời gian qua, Việt Nam đã không ngừng mở rộng quan hệ về kinh tế với các quốc
gia, các khu vực kinh tế trên thế giới. Trong số những thị trường có tầm ảnh hưởng ngày
càng mạnh mẽ tới nền kinh tế Việt Nam, thị trường Bắc Mỹ nổi lên là một thị trường
đầy hấp dẫn nhưng cũng chứa đựng không ít thách thức.
Thị trường Bắc Mỹ là một điểm đến đầy lôi cuốn của tất cả các quốc gia, các
vùng lãnh thổ, bởi trong thị trường ấy đã có hai nền kinh tế lớn của thế giới là Hoa Kỳ
và Canada bên cạnh Mê-hi-cô- quốc gia nằm giữa eo biển Trung Mỹ và Caribe với
những triển vọng kinh tế đầy hứa hẹn. Thị trường Bắc Mỹ là một thị trường đặc biệt với
Việt Nam, trước tiên bởi mối quan hệ với Hoa Kỳ- đối tác chiến lược và cũng đã có
những liên hệ đặc biệt với Việt Nam trong quá khứ. Tuy vây, mối quan hệ về thương
mại và đầu tư của Việt Nam với thị trường này mới chỉ khởi sắc trong thời gian gần đây.
Đây cũng là điều dễ hiểu một phần do những trở ngại về vị trí địa lý, một phần do nền
kinh tế của chúng ta mới thực sự phát triển mạnh và tạo được dấu ấn trên trường quốc tế
trong giai đoạn gần đây, đặc biệt sau khi Việt Nam chính thức trở thành thành viền của
tổ chức thương mại thế giới WTO. Có được thành công rực rỡ đó, chúng ta không thể
không ghi nhận những ủng hộ từ phía các quốc gia Bắc Mỹ, nhất là Hoa Kỳ và Canada –
những quốc gia với sự ảnh hưởng lớn với nền kinh tế toàn cầu.
Quan hệ của Việt Nam và các quốc gia Bắc Mỹ xét trên khía cạnh kinh tế vẫn còn
chưa cân đối. Có thể ví quan hệ kinh tế của Việt Nam với ba quốc gia này là một đồ thị
đi lên, trong đó Hoa Kỳ ở vị trí đỉnh cao, Canada là điểm ở giữa và Mê-hi-cô mới chỉ là
điểm khởi đầu của đồ thị ấy. Và mặc dù bức tranh về quan hệ kinh tế với từng quốc gia
Bắc Mỹ còn chưa cân đối với nhau, song, có thể thấy tương lai và triển vọng của một
bức tranh chung toàn cảnh vô cùng sáng lạn và đầy hứa hẹn.
Chính những lí do đặc biệt trên đã khiến em lựa chọn đề tài “Quan hệ thương
mại và đầu tư của Việt Nam với các quốc gia thuộc thị trường Bắc Mỹ” làm đề tài
luận văn tốt nghiệp của mình. Trong phạm vi bài luận văn của mình, em xin được đề cập
đến hai lĩnh vực chính: đó là lĩnh vực quan hệ kinh tế về thương mại và quan hệ kinh tế


về đầu tư của Việt Nam với từng thành viên Bắc Mỹ trong vài năm trở lại đây. Bằng
phương pháp nghiên cứu chủ yếu sử dụng trong bài viết là phương pháp phân tích tổng
hợp, so sánh, phương pháp đối chiếu và phương pháp thống kê toán, nội dung của bài
luận văn được chia thành ba phần chính:
Chương I: Khái quát về nền kinh tế của ba quốc gia thuộc thị trường Bắc Mỹ
Chương II: Thực trạng quan hệ thương mại và đầu tư của Việt Nam với các nước
thuộc thị trường Bắc Mỹ
Chương III: Một số giải pháp để tăng cường quan hệ thương mại và đầu tư của
Việt Nam với các quốc gia Bắc Mỹ.
Trong quá trình thực hiện bài viết, em xin được chân thành cảm ơn sự hướng dẫn
và chỉ bảo của cô giáo, sự giúp đỡ từ Cục xúc tiến thương mại- Bộ công thương đã giúp
em thu thập số liệu để hoàn thành khóa luận của mình. Tuy nhiên, trong thời gian thực
hiện, em cũng không thể tránh khỏi những thiếu xót, em rất mong sẽ nhận được sự góp ý
của các thầy cô để bài luận văn này được hoàn chỉnh và sâu sắc hơn.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô!
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT VỀ NỀN KINH TẾ CỦA BA QUỐC GIA THUỘC
THỊ TRƯỜNG BẮC MỸ
I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ BA NƯỚC BẮC MỸ
1. Đôi nét về đất nước Canada
1.1. Đặc điểm tự nhiên
Nằm trên lục địa Bắc Mỹ, đất nước Canada bao gồm 10 tỉnh và 3 vùng lãnh thổ
với tổng diện tích là 9.984..670 km2, trong đó diện tích đất là 9.093.507 km
2
và diện
tích mặt nước là 891.163 km2. Canada có diện tích lớn thứ hai trên thế giới (sau Liên
bang Nga), trải dài qua sáu múi giờ. Lãnh thổ Canada kéo dài từ đỉnh Cape Columbia
trên đảo Ellesmere (phía Bắc) đến Middle Land ở hồ Erie (phía Nam). Khoảng cách
Đông-Tây chỗ lớn nhất là 5.514 km từ Cape Spear Newfoundland đến biên giới Yukon-
Alaska. Địa phận Canada phía Nam giáp Hoa Kỳ, phía Bắc giáp Alaska (Hoa Kỳ) và

Bắc Cực, phía Đông giáp Đại tây Dương, phía Tây giáp Thái Bình Dương. Thủ đô
Canada là trung tâm thương mại Ottawa.
Do diện tích lãnh thổ rộng lớn và trải dài nên ở Canada có các yếu tố địa lý rất
khác biệt như có nhiều vùng núi đá cao hiểm trở và các vùng thảo nguyên rộng lớn. Địa
hình Canada tương đối phẳng, có núi ở phía Tây và các vùng đất thấp ở phía Đông Nam.
Canada được đặc trưng bởi bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông. Nhiệt độ thay đổi theo mùa,
có lúc lên tới 30
o
C vào mùa hè hoặc xuống tới -33
o
C vào mùa đông. Nhiệt độ giữa các
vùng trên toàn lãnh thổ cũng có sự khác biệt lớn: khu vực bờ biển phía Tây có khí hậu
ôn đới, phía Bắc Atlantic lạnh hơn và thường có bão lớn vào mùa đông, vùng núi phía
Tây, miền Trung và Praises lạnh hơn nhiều so với các vùng khác.
Canada là một quốc gia rất giàu tài nguyên, khoáng sản, ví dụ như: quặng sắt,
niken, kẽm, đồng, vàng, chì, potat, bạc, dầu mỏ, than, thuỷ lực, động vật hoang dã, thuỷ
sản...Yếu tố tự nhiên thuận lợi là một trong những động lực biến Canada thành một
trong những nền kinh tế lớn trên thế giới. Các ngành công nghiệp chính của quốc gia
này bao gồm: khai mỏ, chế biến gỗ, giấy, thực phẩm, thiết bị vận tải, hoá chất, dầu khí,
điện năng, công nghệ viễn thông, sinh học và dược phẩm... Trong khi đó, sản phẩm
nông nghiệp gồm: lúa mỳ, hạt có dầu, hoa quả, thịt gia súc, đồ uống và chế biến rượu.
1.2. Đặc điểm xã hội
 Theo ước tính vào năm 2005, dân số Canada vào khoảng 32.805.000 người,
và con số này đã tăng lên gần 33 triệu vào tháng 7 năm 2006. Mật độ dân số bình quân
3,6 người/km
2
( đứng thứ 179 trên thế giới và được xếp vào loại thấp nhất trong số các
nước công nghiệp phát triển). Mật độ dân số của 3 khu vực lãnh thổ là Yukon,
Northwest Territories và Nuvavut chưa đến 1 người/km2, 90% dân số Canada sống dọc
theo 160 km biên giới với Hoa Kỳ. Dân số tại 25 thành phố lớn của Canada chiếm gần

64% tổng dân số toàn Canada, trong đó 5 thành phố lớn nhất tập trung khá đông dân cư:
Toronto với 5,2 triệu dân, Montreal với 3,6 triệu; Vancouver với 2,2 triệu; Ottawa- 1,1
triệu và Calgary với 1 triệu dân.
1
 Về dân tộc, Canada là quốc gia đa sắc tộc, trong đó người gốc Anh chiếm
28%, 23% người gốc Pháp, 15% người gốc các nước châu Âu khác, 26% người lai, 2%
người bản xứ, 6% người gốc các nước khác trong đó chủ yếu là châu Á. Tôn giáo tại
quốc gia này cũng tương đối phong phú với tín đồ Cơ đốc giáo là 46%, Tin lành 36%,
các tôn giáo khác 18%. Chính vì lí do đa sắc tộc nên Canada là một trường hợp điển
hình của đa ngôn ngữ, trong đó ngôn ngữ chính thức là tiếng Anh (chiếm 60%) và tiếng
Pháp (chiếm 23%, được sử dụng chủ yếu ở Quebéc), 17% là ngôn ngữ khác (bao gồm
tiếng Đức, Italy và Trung Quốc).
 Về văn hóa & giáo dục, Canada là đất nước đa văn hóa, đa sắc tộc và chịu ảnh
hưởng sâu sắc của nguồn gốc bản địa. Tính phức tạp, đa dạng về thành phần vùng miền
và văn hóa cho thấy không có một cách sống đơn nhất nào đối với người Canada. Hệ
thống giáo dục của Canada bắt nguồn từ hệ thống Anh- Mỹ và Pháp. Mỗi bang đều chịu
trách nhiệm phát triển và duy trì hệ thống trường học riêng. Canada có khoảng trên 16
000 trường học cơ sở và phổ thông với trên 5,3 triệu học sinh. Ngoài ra còn có 19
trường đại học và cao đẳng được quyền cấp văn bằng chứng chỉ trong cả nước.
 Về đặc điểm chính trị, Canada giành độc lập ngày 1/7/1867 từ đế quốc Anh và
ngày 1 tháng 7 hàng năm là ngày Quốc khánh. Đất nước này theo chế độ quân chủ lập
1
Nguồn: dữ liệu điện tử trực tuyến, website: .
hiến, một nhà nước liên bang theo chính thể dân chủ nghị viện. Bộ máy nhà nước
Canada được chia thành 3 cấp:
Cơ quan hành pháp với người đứng đầu Nhà nước là Nữ hoàng Anh được đại
diện bởi một vị Toàn quyền người Canada (do Thủ tướng đề nghị và được Nữ hoàng
chấp thuận); Thủ tướng và nội các do đảng nắm đa số hoặc liên minh đa số ghế tại Hạ
viện cử ra.
Cơ quan lập pháp là Quốc hội gồm Thượng viện và Hạ viện. Thượng viện có

nhiệm vụ kiểm tra giám sát việc thực hiện pháp luật, điều tra các vấn đề thuộc quốc gia,
đại diện quyền lợi cho các bang và các khu vực lãnh thổ. Hạ viện là cơ quan lập pháp
chính trong quốc hội chịu trách nhiệm ban hành giám sát thực thi các đạo luật, trong đó
có luật thương mại và đầu tư. Thượng nghị sĩ do Toàn quyền cử theo khuyến nghị của
Thủ tướng, làm việc đến 75 tuổi. Hạ nghị sĩ được dân bầu trực tiếp với nhiệm kỳ 5 năm.
Cuối cùng là cơ quan Tư pháp đứng đầu là Tòa án tối cao, các thẩm phán được
Thủ tướng bổ nhiệm và được Toàn quyền thông qua.
 Về cơ cấu hành chính, hiện nay thủ đô của Canada là Ottawa, thuộc địa phận
bang Ontario. Lãnh thổ Canada gồm 10 bang và 3 khu vực lãnh thổ. Ở cấp liên bang có
các bộ, ngành chịu trách nhiệm đưa ra các chính sách ngoại thương ở phạm vi quốc gia.
Ở cấp bang nói chung tồn tại một cơ cấu chính quyền tương tự như cấp liên bang, tức là
cũng có người đứng đầu cơ quan hành pháp bang thường là đại diện của đảng phái
chính trị nào chiếm đa số trong cuộc bầu cử chính quyền địa phương, theo nhiệm kỳ 4
hoặc 5 năm.
 Về hệ thống pháp luật, Canada dựa theo hệ thống luật Anh (English Common
Law), trừ bang Quebec theo hệ thống luật Pháp (French law prevails). Hệ thống luật của
Canada khá đồ sộ, chi tiết và chặt chẽ. Vì vậy, ngoài hệ thống pháp luật ở cấp liên bang,
mỗi bang hoặc khu vực lãnh thổ đều có hệ thống pháp luật riêng. Thông thường luật liên
bang chỉ đề cập đến những vấn đề liên quan đến nhiều bang, nếu có xung đột giữa liên
bang và bang thì luật liên bang sẽ được áp dụng. Bên cạnh đó, Canada còn có rất nhiều
bộ luật cấp liên bang và bang về những khía cạnh khác nhau và lĩnh vực ngành nghề
khác nhau; do vậy, bất kỳ nhà đầu tư hay kinh doanh nước ngoài nào muốn đầu tư hay
kinh doanh xuất nhập khẩu tại thì trường Canada cần tham khảo cả hệ thống pháp luật
liên bang và nội bang.
 Về tiền tệ, hiện nay đơn vị tiền tệ của Canada là đô la Canada (CAD) với các
mệnh giá 5 $, 10$, 20$, 50$, 100$, 500$ và 1000$.
Hiện nay, Canada là thành viên của rất nhiều các tổ chức quốc tế và khu vực,
trong đó có Liên Hợp quốc, Khối Liên hiệp Anh, Francophonie, WTO, IMF, WB,
OECD, NATO, NAFTA, APEC, …
2. Đôi nét về đất nước Hoa Kỳ

2.1. Đặc điểm tự nhiên
Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ (United States of America), thường gọi là nước Mỹ,
gồm 50 bang và đặc khu Columbia (tức thủ đô Washington) hợp thành.
Hoa Kỳ nằm ở Tây bán cầu, phía bắc giáp Canada, phía nam giáp Mê-hi-cô và vịnh Mê-
hi-cô, phía đông giáp Đại Tây Dương, phía tây giáp Thái Bình Dương. Lãnh thổ Hoa Kỳ
bao gồm cả bang Alaska nằm phía Tây bắc Canada và quần đảo Hawaii nằm ở Thái
Bình Dương. Với đặc điểm ba mặt giáp biển như vậy, hoạt động giao thương, hàng hải
và buôn bán trao đổi của Hoa Kỳ với phần còn lại của thế giới có điều kiện vô cùng
thuận lợi để phát triển.
Với tổng diện tích 9.631.418 km2, từ Đông sang Tây rộng 4.500 km, từ Bắc
xuống Nam rộng 2.500 km, Hoa Kỳ đã trở thành một trong những quốc gia có diện tích
lớn nhất trên thế giới, đứng thứ 4 sau Nga, Canada, Trung Quốc; chiếm 6,2% diện tích
toàn cầu.
Nằm tại vị trí chiến lược thuận lợi, hơn nữa lại được ưu ái khá nhiều về điều kiện
tự nhiên, Hoa Kỳ rất giàu về tài nguyên thiên nhiên, như: than đá, đồng, chì,
molyblenum, phốt phát, uranium, bô xít, vàng, quặng sắt, nicken, muối kali, bạc, dầu
lửa… Đây chính là một trong những nhân tố quan trọng giúp Hoa Kỳ trở thành một siêu
cường trên thị trường thế giới trong suốt thế kỷ qua.
2.2. Đặc điểm xã hội
 Dân số của Hoa Kỳ là 300.000.000 người (tháng 10/2006), trong đó người da
trắng chiếm 77.1%; người da đen chiếm 12.9%, người gốc châu Á chiếm 4.2%, còn lại
là Thổ dân Mỹ chiếm 1.5%, Thổ dân Alaska và Hawai và các quần đảo Thái Bình
Dương thuộc Mỹ chiếm 0.3%, các nhóm người khác 4%. Khoảng 30% dân số Hoa Kỳ
là người nhập cư với lượng nhập cư trung bình là 1 triệu người/năm. Tăng trưởng dân số
hàng năm khoảng 0.92%. 56% dân số Hoa Kỳ theo đạo Tin Lành, trong khi đó số dân
theo đạo Cơ đốc giáo La Mã là 28%, đạo Do thái chỉ chiếm 2%, số còn lại theo thuộc về
các tôn giáo khác và có cả một bộ phận tương đối lơn (10%) không theo bất cứ một tôn
giáo nào.
2
 Đơn vị tiền tệ của Hoa Kỳ là đồng Đô-la Mỹ- đây là đồng tiền quốc tế được

công nhận và lưu hành rộng rãi nhất hiện nay.
 Ngôn ngữ phổ biến tại Hoa Kỳ là tiếng Anh. Ngoài ra tại Hoa Kỳ còn có các
cộng đồng lớn nói tiếng Tây Ban Nha, Pháp và nhiều ngôn ngữ khác tùy theo xuất xứ
nhập cư.
 Về chính trị, Hoa Kỳ là một nước Cộng hoà Liên bang, theo chế độ tam quyền
phân lập (ngày quốc khánh 4/7). Theo Hiếp pháp Hoa Kỳ, quyền lập pháp thuộc về
Quốc hội, quyền hành pháp thuộc về Tổng thống và quyền tư pháp thuộc về Toà án tối
cao. Các cơ quan nhà nước liên bang Mỹ hoạt động trên nguyên tắc ‘kiểm soát và cân
bằng’, trong đó hiến pháp Hoa Kỳ quy định quyền cụ thể của một cơ quan để kiểm soát
chéo hai cơ quan còn lại. Hiến pháp Hoa Kỳ quy định rõ các quyền thuộc về nhà nước
liên bang và các chính quyền tiểu bang, trong đó các chính quyền tiểu bang có nhiều
quyền hạn lớn.
Hoa Kỳ theo chế độ đa đảng. Đảng Dân chủ (thành lập năm 1828) và Cộng hòa
(thành lập năm 1854) thay nhau nắm chính quyền. Từ sau chiến tranh thế giới II, đã có 7
nhiệm kỳ tổng thống Hoa Kỳ thuộc đảng Dân chủ và 7 nhiệm kỳ tổng thống Hoa Kỳ
thuộc đảng Cộng hòa.
Chính phủ Liên bang mà đứng đầu là Tổng thống nắm quyền hành pháp, có
quyền hạn của nguyên thủ quốc gia, tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang. Tổng thống có
quyền phủ quyết các điều luật do quốc hội thông qua và để đảo ngược quyền phủ quyết
của tổng thống cần 2/3 số phiếu của cả 2 viện của quốc hội. Nhiệm kỳ tổng thống dài 4
năm. Kể từ 1951, mỗi tổng thống chỉ được cầm quyền tối đa 2 nhiệm kỳ. Chính phủ liên
bang nắm quyền điều hành toàn bộ đất nước, quy định các chính sách thuế chung, chính
sách đối ngoại, thương mại quốc tế và giữa các bang, chịu trách nhiệm về quốc phòng,
an ninh, phát hành tiền, hệ thống đo lường, bản quyền...Các bang của Hoa Kỳ có hiến
2
Nguồn: dữ liệu điện tử trực tuyến, website: a,gov.vn.
pháp và pháp luật riêng, nhưng không trái với Hiến pháp Liên bang. Quốc hội Hoa Kỳ
gồm hai viện, cụ thể là:
Thượng viện gồm 100 thượng nghị sĩ và 24 Uỷ Ban, trong đó có 4 Uỷ Ban hỗn
hợp lưỡng viện. Mỗi bang có 2 thượng nghị sĩ với nhiệm kỳ 6 năm. Phó Tổng thống giữ

chức danh Chủ tịch Thượng viện, có quyền bỏ phiếu quyết định trong tình huống bất
phân thắng bại (50/50).
Hạ viện gồm 435 hạ nghị sĩ, 22 Uỷ Ban và 7 Uỷ Ban đặc biệt. Mỗi bang có ít
nhất 1 hạ nghị sĩ, còn lại căn cứ theo số dân của bang đó. Các hạ nghị sĩ có nhiệm kỳ 2
năm. Vào các năm chẵn, ngày Thứ Ba đầu tiên của tháng 11 sẽ tiến hành bầu cử quốc
hội, bầu lại toàn bộ hạ viện và 1/3 thượng viện.
Toà án tối cao gồm 1 chánh án và 8 thẩm phán và đều do tổng thống chỉ định với
sự chấp thuận của thượng viện, nhiệm kỳ suốt đời.
 Hiện tại, Hoa Kỳ là thành viên và giữ vị trí chi phối gần như tuyệt đối trong
rất nhiều các tổ chức khu vực và thế giới, trong đó có các tổ chức lớn như ngân hàng thế
giới WB, quỹ tiền tệ thế giới IMF, tổ chức thương mại thế giới WTO….
3. Đôi nét về đất nước Mê-hi-cô
3.1. Đặc điểm tự nhiên
Liên bang Mê-hi-cô nằm ở phía Bắc châu Mỹ, phía Bắc giáp Hoa Kỳ, phía Đông
giáp vịnh Mê-hi-cô, phía Nam giáp biển Caribe, Belize và Guatemala, phía Tây giáp
Thái Bình Dương. Mê-hi-cô có đường biên giới chung với 3 quốc gia là Hoa Kỳ,
Guatemala và Belize với tổng chiều dài là 4353 km, trong đó với Hoa Kỳ là 3141 km,
với Guatemala là 962 km và Belize là 250 km. Có thể nói Mê-hi-cô nằm trong khu vực
chiến lược về kinh tế- chính trị- xã hội của khu vực Bắc Mỹ, Trung Mỹ và Mỹ Latinh.
Đất nước này có diện tích 1.972.550 km
2
(đứng thứ 3 Mỹ Latinh, sau Brazil và
Argentina), trong đó diện tích mặt đất chiếm 97,5%, còn lại là 2,8% diện tích mặt nước.
Về địa hình, Mê-hi-cô có địa hình đa dạng gồm những vùng núi cao hiểm trở,
những cao nguyên rộng lớn đến những vùng đồng bằng duyên hải và những hoang mạc.
Đó là lí do khí hậu Mê-hi-cô mang tính chất nhiệt đới và sa mạc.
Mê-hi-cô là xứ sở với nguồn tài nguyên vô cùng phong phú và đa dạng, bao gồm:
dầu lửa, bạc, đồng, vàng, chì, kẽm, khí đốt thiên nhiên, gỗ…Chính yếu tố tự nhiên thuận
lợi đó đã giúp Mê-hi-cô đứng đầu thế giới về khai thác bạc, thứ 5 thế giới về khai thác
dầu lửa và khí đốt (2,5 triệu thùng/ngày), hàng năm sản xuất 7 triệu tấn thép; 20 triệu

tấn ximăng; 13,5 triệu tấn ngô (lương thực chính); 4,3 triệu tấn lúa mì; 306.000 tấn cà
phê; 298.000 tấn bông; 79 tỉ kw/giờ điện; 1,5 triệu tấn chuối; có 36 triệu con bò; 13 triệu
con lợn...
3.2. Đặc điểm xã hội
 Dân số: Dân số Mê-hi-cô tính tại thời điểm 7/2006 là 107.449.525 người với
tốc độ tăng dân số hàng năm khoảng 1,16%. Mê-hi-cô được đánh giá là quốc gia có dân
số trẻ với cơ cấu dân số theo độ tuổi như sau: Từ 0-14 tuổi: 30,6%; Từ 15-64 tuổi:
63,6%; Trên 65 tuổi: 5,8%.
3
 Ngôn ngữ chính thức tại Mê-hi-cô là tiếng Tây Ban Nha, ngoài ra còn có ngôn
ngữ của người Maya và một số thổ ngữ khác.
 Về tôn giáo, 86% dân số Mê-hi-cô theo đạo Thiên chúa - đây là con số khá lớn
khi so sánh với tỷ lệ dân cư theo tôn giáo này với hai quốc gia thuộc thị trường Bắc Mỹ
khác là Hoa Kỳ và Canada; 6% dân số Mê-hi-cô theo đạo Tin lành, còn lại 5% theo các
tôn giáo khác.
 Về lịch sử, Mê-hi-cô có lịch sử và nền văn minh lâu đời, chủ yếu thuộc hai
nền văn minh chính là Azteca và Maya từ hơn 3.000 năm trước công nguyên. Lịch sử
Mê-hi-cô chia thành 4 giai đoạn: Giai đoạn đầu tiên là thời kỳ tiền thuộc Tây Ba Nha bắt
đầu từ 7000 năm trước công nguyên với sự phôi thai, phát triển, hưng thịnh và suy tàn
của vùng đo thị thời trung cổ Teotihuacan. Giai đoạn thứ hai bắt đầu từ thế kỷ 16 khi
Mê-hi-cô bị thực dân Tây Ban Nha đô hộ và kết thúc vào năm 1819 khi Mê-hi-cô giành
lại độc lập. Tiếp đó là cách mạng Mê-hi-cô, giai đoạn Mê-hi-cô vượt qua những khó
khăn do bị cô lập với thế giới và kết thúc bằng cuộc cánh mạng dân chủ tư sản đầu tiên
ở Mỹ Latinh từ năm 1910 đến 1970. Ngày nay, lịch sử Mê-hi-cô cũng đã trải qua rất
nhiều thăng trầm. Tuy nhiên với việc áp dụng các biện pháp điều chỉnh hiệu quả, Mê-hi-
cô đã từng bước phục hồi và vươn lên trở thành một trong mười quốc gia xuất khẩu lớn
nhất thế giới hiện nay.
 Về Chính trị, theo Hiến pháp năm 1917 (hiện hành cho tới nay tuy có một số
điều khoản đã được sửa đổi), Mê-hi-cô là một nhà nước liên bang theo thể chế Cộng
3

Nguồn: dữ liệu điện tử trực tuyến, website: .
hoà tổng thống, gồm 31 bang và một quận liên bang (Thủ đô). Tổng thống là Nguyên
thủ quốc gia đồng thời đứng đầu chính phủ, được bầu trực tiếp với nhiệm kỳ 6 năm và
không được bầu hai nhiệm kỳ liên tiếp. Vị trí thứ hai là Bộ trưởng Nội vụ, thay khi
Tổng thống vắng mặt, kế đó là Bộ trưởng Ngoại giao; không có các chức Phó tổng
thống, Thủ tướng và Phó thủ tướng.
Quốc hội gồm 2 viện: Thượng viện gồm 128 thượng nghị sĩ (mỗi bang 4 thượng
nghị sĩ), nhiệm kỳ 6 năm; Hạ viện có 500 hạ nghị sĩ, nhiệm kỳ 3 năm. Các nghị sĩ đều
được bầu trực tiếp và không được bầu 2 nhiệm kỳ liên tiếp. Chính phủ có 18 bộ. Toà án
tối cao có 21 thẩm phán, do Tổng thống chỉ định và Thượng viện thông qua.
Mê-hi-cô theo chế độ đa đảng gồm các đảng phái như: Đảng Cách mạng thể chế
(PRI), thành lập năm 1929, đại diện cho quyền lợi của giai cấp tư sản dân tộc; Đảng
Hành động Quốc gia (PAN), thành lập năm 1939, đại diện cho quyền lợi của giai cấp tư
sản tài chính, đại địa chủ; Đảng Cách mạng Dân chủ (PRD), thành lập năm 1988; Đảng
Xã hội nhân dân (PPS), thành lập năm 1948 và theo chủ nghĩa Mác-Lênin. Một điều
đặc biệt là mặc dù theo chế độ đa đảng nhưng trong nhiều thập kỷ của thế kỷ XX, chính
phủ Mê-hi-cô lại chỉ do đảng Cách mạng thể chế nắm quyền. Đảng phái ở Mê-hi-cô
được tổ chức một cách lỏng lẻo theo kiểu phi tập trung hóa. Cơ cấu tổ chức các Đảng
giống như một hệ thống gồm nhiều tầng tổ chức khác nhau theo mô hình kim tự tháp.
Tầng dưới cùng là tổ chức đảng địa phương, tiếp đến là tổ chức đảng bang, cả hai tổ
chức này có quyền thực sự. Tầng trên cùng là tổ chức đảng cấp quốc gia biểu hiện
quyền lực tối đa nhưng không có thực quyền.
 Hiện tại, đơn vị tiền tệ chính thức của Mê-hi-cô là đồng Peso Mê-hi-cô
(MXN). Mê-hi-cô là cũng tích cực tham gia vào các tổ chức và diễn đàn khu vực cũng
như thế giới với tư cách là thành viên của LHQ, NAFTA, APEC, OECD…và là quan sát
viên của Phong trào Không liên kết.
II. TỒNG QUAN NỀN KINH TẾ CỦA BA NƯỚC THUỘC THỊ TRƯỜNG
BẮC MỸ
Ba quốc gia Bắc Mỹ, trải dài từ cận cực Bắc Bán cầu tới eo biển Trung Mỹ-
Caribean, đều có một số nét tương đồng về lịch sử (đều bị các đế quốc đô hộ trong quá

khứ và đã đấu tranh giành độc lập), đều được thiên nhiên ưu ái cho những nguồn tài
nguyên phong phú…Tuy nhiên, mỗi quốc gia khi đặt trong một bức tranh toàn cảnh về
kinh tế lại có những trạng thái khác nhau. Hiệp định mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA)
nói riêng và rất nhiều các cam kết quốc tế khác nói chung đã gắn kết nền kinh tế của
Canada, Hoa Kỳ và Mê-hi-cô lại với nhau, đưa khu vực thị trường này thành một đối tác
chiến lược của rất nhiều quốc gia cũng như vùng lãnh thổ trên thế giới. Thời gian qua đã
chứng kiến rất nhiều biến động đối với ba nước thuộc thị trường này. Nếu như Canada
là quốc gia có nền kinh tế tương đối ổn định hơn cả trong hơn thập kỷ qua, thì tại Hoa
Kỳ, những biến động từ vụ khủng bố 11/9 đã gây nên một cú sốc không chỉ về chính trị
mà còn về kinh tế; và Mê-hi-cô- quốc gia với vị thế khiêm tốn hơn hai anh cả Bắc Mỹ
rất nhiều cũng đã có sự thay đổi cần thiết để vươn lên trên trường quốc tế hiện nay.
Trong nội dung của phần II này, những nét chính, những điểm nhấn khác nhau về
tình hình kinh tế của mỗi quốc gia được đề cập tới sẽ giúp đưa ra cái nhìn cụ thể hơn về
bức tranh kinh tế của toàn khu vực này.
1. Tình hình kinh tế và thị trường Canada
1.1. Tình hình kinh tế Canada
 Các chỉ tiêu kinh tế cơ bản
Bảng 1: Các chỉ tiêu kinh tế cơ bản của Canada (%)
Năm
Chỉ tiêu
2001 2002 2003 2004 2005 2006
Tốc độ tăng GDP 2,4 3,4 1,7 2,4 2,9 3,1
Lạm phát 3,0 2,2 2,8 1,9 2,2 2,8
Tỉ lệ thất nghiệp 7,9 7,7 7,6 7,0 6,8 6,5
Nguồn: Trade Data Online, web:
Trong những năm qua, tăng trưởng GDP của Canada ở mức khả quan, riêng năm
2003 con số này chỉ đạt 1,7% do ảnh hưởng của dịch Hội chứng viêm đường hô hấp cấp
và bệnh bò điên tại tỉnh Alberta tháng 5/2003. Đồng thời với việc duy trì mức tăng
trưởng GDP, lạm phát cũng được kiểm soát thành công và tỷ lệ thất nghiệp cũng không
quá cao đã trở thành một trong số những thành tựu lớn của Canada. Với GDP là 1.216,2

tỷ CAD (năm 2003), 1.290,2 tỷ CAD (năm 2004) và 1.369,1 tỷ CAD (năm 2005),
Canada đã được tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế OECD xếp hàng thứ 2 sau Hoa
Kỳ trong số 7 nước công nghiệp hàng đầu về GDP tính theo đầu người (Canada đạt
29.000 USD/người, nhỏ hơn Hoa Kỳ với 33.836 USD/người). Như vậy, Canada chia sẻ
với Hoa Kỳ và nhiều nước Châu Âu (Thụy Sỹ, Luc xăm bua, Đức) và Nhật Bản vị thế
quốc gia có mức sống tương đối cao so với phần còn lại của thế giới. [2]
Hiện tại, sau 7 năm liên tiếp đứng ở vị trí hàng đầu về chất lượng cuộc sống, từ
năm 2001, Canada đã tụt xuống vị trí thứ 2. Tuy vậy, vị thế này cũng chứng tỏ đầy đủ sự
quan tâm của chính phủ Canada trong việc chăm lo cho chất lượng cuộc sống của người
dân.
 GDP phân theo ngành
Nguồn: cục xúc tiến thương mại Việt Nam, web: www.vietrade.gov.vn
Vào thập niên 90 của thế kỷ trước, tỷ trọng của lĩnh vực sản xuất giảm sút chủ
yếu là do ngành may mặc, dệt, chăn nuôi, công nghiệp thực phẩm của Canada bị hàng
ngoại nhập cạnh tranh, nhiều doanh nghiệp bị giải thể hoặc thu hẹp sản xuất. Ngược lại,
những ngành sản xuất truyền thống như luyện kim, chế biến kim loại, công nghiệp giấy,
hóa chất, chế biến gỗ và những ngành khoa học công nghệ cao lại rất phát triển. Hiện
tại, Canada có một số ngành vị thế cạnh tranh khá mạnh trên thị trường quốc tế như viễn
thông, công nghệ sinh học, vật liệu mới, công nghệ hàng không, vũ trụ (công nghiệp
máy bay đứng thứ 5 và công nghiệp ô tô đứng thứ 7 thế giới). Năm 2003, kim ngạch
xuất khẩu ô tô đã chiếm 23,4% tổng kim ngạch xuất khẩu của Canada, trong đó xuất
khẩu sang Mỹ chiếm 85% [2]. Hiện nay, vấn đề đa dạng hóa sản xuất công nghiệp, sản
xuất các loại sản phẩm mới với hàm lượng khoa học kĩ thuật cao là vấn đề phát triển ổn
định kinh tế- xã hội của Canada.
Bảng 2: Tỷ trọng đóng góp cho GDP của một số lĩnh vực cụ thể (đơn vị: %)
Năm
Ngành
200
1
2002 2003 2004 2005

Khai khoáng, nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản 6,0 5,8 5,5 5,9 3,2
Chế tạo 19,0 18 17,9 17,5 14,4
Thương mại 11,0 11,2 11,6 11,8 15,7
Xây dựng 5,1 5,4 5,3 5,5 6,0
Tài chính, bảo hiểm và động sản 18,6 19,1 19,3 19,1 19,2
Giáo dục, sức khỏe 16,1 16,2 16,1 16,1 17,4
Văn hóa và thông tin 3,8 4,1 4,2 4,0 4,6
Dịch vụ khoa học và kĩ thuật 4,3 4,4 4,4 4,4 6,3
Nguồn: Trade Data Online, web:
Dựa vào bảng số liệu trên và biểu đồ 1, có thể nhận thấy Canada có cơ cấu kinh
tế của các nước công nghiệp. Cuối thập niên 80 của thế kỉ trước, Canada áp dụng quy
tắc phân ngành giống Hoa Kỳ. Theo số liệu thống kê trong “Exporting Guide” của cục
xúc tiến thương mại Canada năm 2005, ngành dịch vụ Canada đã tạo nên 69.3% GDP,
thu hút được 74,4% lao động, trong đó nhóm dịch vụ tài chính, bảo hiểm dẫn đầu nhóm
dịch vụ với con số đóng góp lên tới 19,2 %.
Lĩnh vực sản xuất vật chất làm ra 30,7% GDP, thu hút được 25,5% lao động,
trong đó công nghiệp chế tạo chiếm tỷ trọng cao nhất với con số 14,4%, tiếp theo đó là
lĩnh vực xây dựng 6%, điện tử và viễn thông 2,8%, và nông lâm ngư nghiệp với con số
khá khiêm tốn là 2,3%. [3]
Canada giàu tài nguyên thiên nhiên, do vậy đất nước này trở thành nước sản xuất
nguyên liệu khoáng sản hàng đầu thế giới với khoảng 80% bán thành phẩm và nguyên
liệu khoáng sản làm ra ở Canada được xuất khẩu. Canada đứng thứ 3 thế giới về khai
thác hơi đốt tự nhiên. Công nghệ khai thác, chế biến gỗ của Canada thuộc loại tiên tiến
trên thế giới. Hiện nay, các ngành nông, lâm, ngư nghiệp và khai thác mỏ làm ra gần 4%
GDP (không kể sơ chế), thu hút 1,8% lực lượng lao động.
Nông nghiệp Canada cũng mang lại hiệu quả kinh tế- xã hội cao, đạt 27% GDP
năm 2004. Tuy nhiên kim ngạch xuất khẩu nông sản của Canada vẫn đứng thứ ba thế
giới sau Hoa Kỳ và Pháp. Nông sản xuất khẩu chủ lực của Canada là lúa mỳ, dầu thảo
mộc, thịt và sản phẩm sữa.
Bên cạnh các thế mạnh trên, Canada còn nổi tiếng về công nghệ xây dựng nhà

cửa đạt trình độ cao và thích hợp với khí hậu khô hanh của Bắc bán cầu. Năm 2004,
ngành công nghiệp này đã đóng góp 5,2% vào tổng GDP của quốc gia.
 Cán cân xuất nhập khẩu
Cán cân xuất nhập khẩu của Canada trong những năm gần đây được phản ánh đầy đủ
qua bảng sau:
Bảng 3: Cán cân xuất nhập khẩu của Canada giai đoạn 2002-2006
(đơn vị: triệu CAD)
Năm Xuất khẩu Nhập khẩu Cán cân
Số lượng % biến động Số lượng % biến động Số lượng % biến động
2002 396.381 - 348.957 - 47.424 -
2003 381.071 -3,8 336.141 -3,7 44.930 -5,2
2004 412.294 8,2 355.799 5,8 56.495 25,7
2005 436.226 5,8 380.810 7,0 55.416 -1,9
2006 440.180 0,9 396.626 4,1 43.554 -21,4
Nguồn: , report date: 20 Sept 2007
Một điều cơ bản có thể nhận thấy rõ, xuất khẩu là động lực của nền kinh tế
Canada, chiếm 40% GDP và đạt mức tăng trưởng những năm gần đây tương đối cao
(8,2% năm 2004; 5,6% năm 2005).
Dựa vào bảng số liệu trên, chúng ta có thể thấy, kim ngạch xuất khẩu của Canada
trong 3 năm gần đây luôn đạt trên 400 tỷ CAD và liên tục tăng qua các năm, tăng gần 24
tỷ CAD trong năm 2005 (tương đương 5,8%) so với 2004 và tăng gần 4 tỷ CAD vào
năm 2006 (tương đương 0,9%). Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Canada là xe máy
và các thiết bị xe máy, máy công nghiệp, máy bay, thiết bị bưu chính viễn thông, hóa
chất và các sản phẩm nhựa. Thị trường chủ yếu là Hoa Kỳ (gần 85,5%), Nhật Bản
(2,1%), Anh (1,6%)…
Về kim ngạch nhập khẩu, lượng nhập khẩu của Canada trong những năm gần đây
cũng liên tục tăng, con số tuyệt đối là 25 tỷ từ năm 2004 đến 2005 và gần 16 tỷ CAD từ
năm 2005 đến năm 2006, tương đương với số tương đối lần lượt là 7% và 4,1%. Trong
đó nhóm mặt hàng máy móc thiết bị, ô tô, dầu thô, hóa chất, các sản phẩm công nghiệp
và nguyên vật liệu chiếm tỷ trọng lớn. Thị trường chính của Canada là Hoa Kỳ (58,9%),

Trung Quốc (6,8%), Mê-hi-cô (3,8%).
Trong những năm gần đây, cán cân thương mại của Canada có sự biến động khá
đồng đều. Cán cân thương mại luôn đạt trạng thái thặng dư do Canada liên tục xuất siêu
trong giai đoạn qua. Tuy nhiên tốc độ tăng trưởng của cán cân thương mại có phần
chững lại đôi chút trong hai năm qua (-1,9% và -21,4% trong hai năm 2005 và 2006).
Điều này cũng có thể lí giải bằng một số nguyên nhân khách quan mà chủ yếu là do nền
kinh tế thế giới giai đoạn này tăng trưởng không ổn định, với sự suy giảm của Hoa Kỳ-
đối tác chiến lược lớn nhất của Canada. Hơn nữa, giai đoạn này nền kinh tế thế giới còn
phải đối mặt với những cuộc khủng hoảng, đặc biệt là cuộc khủng hoảng do bệnh dịch
cúm gia cầm tạo nên.
 Đầu tư kinh doanh
Về tình hình đầu tư, Canada vừa đóng vai trò là nước tiến hành đầu tư vừa là
nước nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Tiếp tục thu hút đầu tư nước ngoài là một
trong những nội dung chủ yếu trong chính sách kinh tế của Canada. Năm 2002, lượng
vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Canada đạt tới 248.13 tỷ USD, tăng 78% so với
năm 1997. Vốn đầu tư vào trong nước đạt 204,48 tỷ, tăng 65% so với năm 1997. Năm
2004, đầu tư kinh doanh của Canada ra nước ngoài là 438,4 tỷ CAD trong đó 191 tỷ
CAD tập trung vào thị trường chủ lực Hoa Kỳ. Ngược lại, Canada cũng thu hút 368 tỷ
CAD đầu tư từ nước ngoài trong đó Hoa Kỳ đầu tư vào Canada khoảng 238,4 tỷ CAD.
Đặc biệt, năm 2005, nguồn vốn FDI của Hoa Kỳ vào Canada đã lên tới 64,1% (bảng
1.4), gần bằng mức đầu tư FDI kỷ lục của Hoa Kỳ vào Canada năm 1990 là 64,2%.
Ngoài Hoa Kỳ ra, các quốc gia như Anh, Pháp, Hà Lan…cũng là những nhà đầu tư quan
trọng vào thị trường Canada. Hiện tại, nợ nước ngoài của Canada lên tới 170,4 tỷ CAD
(9/ 2005). [1]
Bảng 4: Tỷ trọng FDI vào Canada theo thị trường năm 2005
STT Nước Tỷ trọng (%)
1 Hoa Kỳ 64,1
2 Anh 7,2
3 Pháp 6,8
4 Hà Lan 5,2

5 Thụy Sỹ 3,1
6 Nhật Bản 2,6
7 Các nước khác 11
Nguồn: Statistics Canada, web:
Nhìn chung, kể từ sau Thế chiến II, Canada có sự tăng trưởng ấn tượng trong các
lĩnh vực sản xuất, khai khoáng và dịch vụ, đưa Canada từ nền kinh tế nông nghiệp trở
thành nền kinh tế công nghiệp và đô thị. Hiệp định Thương mại Tự do Canada- Hoa Kỳ
(1989) và Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (1994, bao gồm thêm cả Mê-hi-cô) đã
đưa Canada đạt tới mức tăng ngoạn mục về hội nhập kinh tế và thương mại với Hoa Kỳ.
Nhờ có nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào, nguồn lao động lành nghề, Canada đã trở
thành cường quốc kinh tế đầy triển vọng, thuộc trong nhóm các nước công nghiệp phát
triển ở trình độ cao (G8). Xuất khẩu của Canada hầu như luôn ở thế xuất siêu, chiếm gần
1/3 GDP của quốc gia này.
1.2. Chính sách ngoại thương của Canada .
Canada luôn duy trì các ưu tiên nhằm cải thiện hơn nữa khả năng tiếp cận thị
trường nước ngoài. Các mục tiêu đa phương trong chính sách ngoại thương thể hiện qua
việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, khu vực hiệp định thương mại tự do
Bắc Mỹ NAFTA (North American Free Trade Agreement), khu vực mậu dịch tự do châu
Mỹ FTAA (Free Trade Area of Americas), diễn đàn hợp tác quốc tế Châu Á-Thái Bình
Dương APEC (Asia-Pacific Economic Coorperation)…Khi tham gia vào tất cả các tổ
chức quốc tế cũng như khu vực, các tranh chấp phát sinh là điều không thể tránh khỏi,
chính vì lí do đó, Canada luôn tôn trọng và tuân theo các thỏa thuận đa phương, trong đó
nổi bật là các thỏa thuận được quốc tế thừa nhận rộng rãi. Hệ thống các thỏa thuận của
WTO là nền tảng của hệ thống thương mại đa phương mà Canada theo đuổi. Đây cũng
là nền tảng cho chính sách thương mại của Canada. Nó điều tiết các mối quan hệ thương
mại của Canada với các đối tác chiến lược bao gồm EU, Nhật Bản và tác động trực tiếp
đến quan hệ Canada – Hoa Kỳ, đối trọng lớn nhất từ trước tới nay của Canada.
Trong chính sách ngoại thương của mình, Canada cũng vẫn tiếp tục cam kết theo
đuổi các mục tiêu đầy tham vọng của mình trong các vòng đàm phán hiện nay của
WTO, bao gồm cải tổ nền thương mại, tăng khả năng tiếp cận thị trường nước ngoài cho

hàng hóa và dịch vụ của mình. Canada cũng là quốc gia ủng hộ rất mạnh mẽ cho tổ chức
thương mại thế giới WTO và các khu vực thương mại tự do mở rộng. Một phần trong
chính sách đối ngoại của Canada là xúc tiến hòa bình và an ninh quốc tế thông qua các
cơ quan hợp tác đa biên và tôn trọng nhân quyền, an ninh nhân loại. Hiện tại, chính phủ
Canada cũng đang tiếp tục bận rộn với các mặt chính sách thương mại khác để hướng
tới việc tiếp cận các thị trường mới nổi đầy tiềm năng. Các hỗ trợ kĩ thuật liên quan đến
thương mại và đầu tư, tăng cường năng lực, hợp tác về chính sách giữa các tổ chức quốc
tế sẽ giúp Canada tham gia đầy đủ hơn vào thị trường các nước đang phát triển. Ngoài
ra, trong chính sách ngoại thương của mình, Canada cũng chủ trương xem xét nhu cầu
của các nước đang phát triển thông qua việc hỗ trợ các quốc gia đó hội nhập vào nền
kinh tế toàn cầu.
2. Tình hình kinh tế và thị trường Hoa Kỳ
2.1. Khái quát về nền kinh tế Hoa Kỳ
 Các chỉ tiêu kinh tế cơ bản
Hoa Kỳ là nước công nghiệp phát triển hàng đầu trên thế giới. Hoa Kỳ có nền
kinh tế hỗn hợp, các tập đoàn và công ty tư nhân có vai trò quan trọng trong khi chính
phủ có xu hướng hạn chế tác động vào nền kinh tế. Sau một thời gian rơi vào suy thoái
(3/2001-1/2002), kinh tế Hoa Kỳ nhanh chóng tăng trưởng trở lại. Chính quyền Bush đã
sử dụng các biện pháp chính để đối phó kinh tế suy thoái như: tăng chi chính phủ, cắt
giảm lãi suất cho vay và giảm thuế. Ngoài ra, do kinh tế Hoa Kỳ đang ở trong giai đoạn
chuyển đổi, năng suất lao động tăng mạnh do ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, nhất
là công nghệ thông tin, chu kỳ khủng hoảng kinh tế rút ngắn lại, giúp kinh tế Hoa Kỳ
sớm thoát ra khỏi khủng hoảng so với các chu kỳ kinh tế trước đây. Năm 2001, GDP
Hoa Kỳ tăng 0,8%, năm 2002 tăng 1,9%, năm 2003 tăng 3%, năm 2004 là 4,4%, năm
2005 là 3,5% và năm 2006 là 3,4% .Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) năm 2006 của Hoa
Kỳ là 13,24 nghìn tỷ đô la, chiếm hơn 30% GDP toàn thế giới. GDP theo đầu người là
44.153 đô la.
4
Bảng 5: Các chỉ tiêu cơ bản của Hoa Kỳ giai đoạn 2005-2008
Năm

Chỉ tiêu
2005 2006 2007
*
2008

*
Tốc độ tăng GDP (%) 3,5 3,4 2,4 2,7
Lạm phát (%) 2,5 2,9 2,6 2,6
Tỉ lệ thất nghiệp (%) 5,1 4,6 4,8 5,1
Nguồn: tạp chí châu Mỹ ngày nay, số 4/2007
4
Nguồn: dữ liệu trực tuyến, thông tin thị trường Hoa Kỳ, website: .
(Chú thích: * là con số dự tính).
Kể từ thập kỷ 90 trở lại đây, Hoa Kỳ đã duy trì được mức tăng trưởng GDP cao
hơn mức tăng trưởng chung của cả khối G7. Mức tăng trưởng của Hoa Kỳ trong thập kỷ
90 là 3,6% trong khi mức tăng chung của cả khối G7 trong giai đoạn này là 2,6%. Tuy
nhiên, tốc độ tăng GDP thực tế của Hoa Kỳ từ năm 2000 trở lại đây không ổn định và
thấp hơn so với mức bình quân của thập kỷ trước
Hiện nay và trong nhiều thập kỷ nữa, Hoa Kỳ sẽ vẫn là quốc gia có nền kinh tế
lớn nhất và có sức cạnh tranh nhất trên thế giới. Mặc dù tỷ trọng GDP của Hoa Kỳ trong
tổng GDP toàn cầu có xu hướng giảm trong những năm gần đây, song hiện nay, Hoa Kỳ
vẫn là nước có thu nhập quốc dân lớn nhất và có thu nhập bình quân đầu người đứng
đầu thế giới. Cụ thể vào năm 2004, tổng thu nhập quốc dân của Hoa Kỳ ước tính đạt
10.450 tỷ USD, chiếm hơn 21% tổng thu nhập quốc dân toàn cầu, trong khi thu nhập
bình quân đầu người của Hoa Kỳ trong cùng năm ước tính khoảng 36.300 USD.[9]
 Về cơ cấu GDP phân theo ngành:
Nguồn: website:
Có thể thấy rõ Hoa Kỳ có cơ cấu kinh tế của một quốc gia phát triển với tỷ trọng
ngành dịch vụ rất lớn so với các lĩnh vực sản xuất vật chất khác. Tỷ trọng của ngành
dịch vụ chiếm tới 80% trong tổng cơ cấu kinh tế cả nước. Lĩnh vực dịch vụ thu hút 83%

lực lượng lao động trong cả nước, còn lại 17% lao động tập trung vào lĩnh vực sản xuất
vật chất. Trong lĩnh vực dịch vụ, dịch vụ được sản xuất bởi khu vực tư nhân chiếm
67,8% GDP của Hoa Kỳ trong năm 2006, trong đó đứng đầu là bất động sản, dịch vụ tài
chính như ngân hàng, bảo hiểm và đầu tư. Một số loại dịch vụ khác bao gồm bán buôn
và bán lẻ, giao thông vận tải, chăm sóc y tế, pháp luật, khoa học, dịch vụ quản lý, giáo
dục, nghệ thuật, giải trí, tiêu khiển, khách sạn và dịch vụ chỗ ở, nhà hàng, quầy rượu …
Trong lĩnh vực sản xuất hàng hóa, các ngành chiếm ưu thế gồm có: ngành chế tạo
(máy tính, ôtô, máy bay, máy thiết bị) - chiếm 12%; xây dựng - chiếm 4,6%; khai thác
dầu mỏ, khí đốt và các hoạt động khai mỏ khác - chiếm 1,4%. Hoa Kỳ là quốc gia hàng
đầu thế giới trong công nghiệp chế tạo, các nhà máy của Hoa Kỳ sản xuất ra lượng hàng
hóa có giá trị tương đương với 1,49 nghìn tỷ đô-la trong năm 2005, nhiều gấp 1,5 lần so
với nước đứng thứ hai thế giới là Nhật Bản.
Mặc dù hiện nay, nông nghiệp chỉ chiếm một phần nhỏ trong GDP nhưng các
trang trại vẫn duy trì được sức mạnh kinh tế và chính trị của mình. Giá trị sản lượng
nông nghiệp của Hoa Kỳ cũng chỉ đứng sau Trung Quốc và Ấn Độ. Mặc dù Hoa Kỳ
luôn trong tình trạng thâm hụt thương mại nhưng lại thặng dư trong thương mại nông
sản. Dự báo vào năm 2007, các trang trại Hoa Kỳ xuất khẩu 78 tỷ đô-la, trong đó, phần
lớn nhất được xuất sang các nước Châu Á.
5
Tuy nhiên, một thực trạng đáng lo ngại hiện nay chính là việc Hoa Kỳ đang là
con nợ của cả thế giới. Hoa Kỳ là nước nợ nhiều nhất thế giới với tổng số nợ gần 9
nghìn tỷ đô la năm 2006, chiếm 64% GDP. Bài toán nan giải mà chính quyền Bush hiện
nay đang phải đau đầu chính là tìm ra lối thoát cho những khó khăn chồng chất mà Hoa
Kỳ đang phải đương đầu, bao gồm: thâm hụt ngân sách, thâm hụt thương mại và nạn
thất nghiệp. Năm 2004, thâm hụt ngân sách của Hoa Kỳ lên tới gần 500 tỷ USD. Tiết
kiệm ở Hoa Kỳ rất thấp, người dân chỉ tiết kiệm 1,3% thu nhập hàng năm. Hoa Kỳ là
nước vay nợ nhiều nhất thế giới với nợ quốc gia chiếm trên 5% GNP.
 Cán cân xuất nhập khẩu
Hoa Kỳ được coi là nước cung cấp vốn, kỹ thuật, công nghệ và là thị trường quan
trọng nhất để phát triển kinh tế của cả thế giới. Hoa Kỳ rất mạnh và đóng vai trò chi

phối trong các lĩnh vực tài chính tiền tệ, thương mại đầu tư, thông tin, tin học, bưu điện,
du lịch, vận tải hàng không, vận tải biển, y tế, giáo dục…Trong lĩnh vực tài chính tiền
tệ, hiện nay, Hoa Kỳ chiếm gần 50% lưu lượng thanh toán và đầu tư quốc tế thực hiện
bằng đồng đô la Mỹ. Mỗi năm Hoa Kỳ xuất khẩu trên 300 tỷ USD dịch vụ.
5
Nguồn:
Từ năm 2002 tới 2006, kim ngạch xuất khẩu của Hoa Kỳ đã tăng từ 693 tỷ USD
lên 1.037 tỷ, tương đương 49,6%. Các mặt hàng đóng góp chủ yếu cho xuất khẩu của
Hoa Kỳ là hàng nông sản (9,2%), nguyên liệu công nghiệp (26,8%), tư liệu sản xuất
(49%), hàng tiêu dùng (15%). Các quốc gia nhập khẩu lớn nhất của Hoa Kỳ năm 2006
bao gồm Canada (22%), Mê-hi-cô (13%), Nhật Bản và Trung Quốc. Trong khi đó, cũng
trong giai đoạn này, nhập khẩu của Hoa Kỳ cũng tăng rõ rệt, từ 1.163 tỷ USD năm 2002
lên tới 1.855 tỷ năm 2006, tương đương 59%. Giai đoạn này, Hoa Kỳ nhập khẩu chủ yếu
là nguyên liệu công nghiệp (32,9%), hàng tiêu dùng (31,8%), dầu thô (8,2%). Đối tác
chủ yếu là Canada (chiếm 17% tổng kim ngạch nhập khẩu của Hoa Kỳ), tiếp theo đó là
Trung Quốc (15,5%) và Mê-hi-cô (10,6%) (số liệu năm 2006).
6
Bảng 6: Cán cân xuất nhập khẩu của Hoa Kỳ giai đoạn 2002-2006
( đơn vị: triệu USD)
Năm Xuất khẩu Nhập khẩu Cán cân
Số lượng %biến động Số lượng % biến động Số lượng % biến động
2002 693.257 - 1.163.549 - -470.292 -
2003 723.743 4,4 1.259.396 8,2 -535.653 13,9
2004 817.936 13,0 1.469.671 16,7 -651.735 21,7
2005 904.380 10,5 1.670.940 13,7 -766.560 17,6
2006 1.037.143 14,7 1.855.119 11,0 -817.976 6,7
Nguồn: GTradeStats Express™ - National Trade Data, Web: www.usitc.gov
Mặc dù kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu của Hoa Kỳ trong giai đoạn 2002-
2006 đều tăng (bảng 6), song do kim ngạch nhập khẩu tăng nhanh hơn đã dẫn đến tổng
thâm hụt thương mại và dịch vụ của Hoa Kỳ tăng hơn 40 tỷ USD từ năm 2005 đến năm

2006. Hiện nay, Hoa Kỳ thâm hụt mậu dịch nhiều nhất là với Trung Quốc. Kể từ khi gia
nhập WTO vào năm 2000, thương mại của Trung Quốc đã phát triển rất nhanh. Thâm
hụt mậu dịch hàng hóa với Trung Quốc vào năm 2003 đã đạt mức kỷ lục gần 125 tỷ
USD. Bên cạnh đó, Hoa Kỳ còn thâm hụt thương mại với rất nhiều các đối tác quan
trọng khác, trong đó có Canada (75,2 tỷ USD), Nhật Bản (69,6 tỷ USD), Mê-hi-cô (54 tỷ
USD) và Đức (39,7 tỷ USD). Hơn nữa, tỷ lệ thất nghiệp tại Hoa Kỳ và lạm phát tại Hoa
Kỳ vẫn ở mức cao. Điều này đang gióng lên những hồi chuông cảnh báo đòi hỏi chính
6
Nguồn: dữ liệu điện tử trực tuyến, thông tin thị trường Hoa Kỳ, website: .
phủ Hoa Kỳ cần có những biện pháp cấp bách và thiết thực hơn nữa để đưa đất nước
thoát khỏi tình trạng đáng lo ngại này.
Có thể thấy rõ, trong những năm gần đây, mặc dù kim ngạch xuất khẩu của Hoa
Kỳ liên tục tăng với chiều hướng hết sức khả quan, liên tục trên 10% trong ba năm
2004, 2005, 2006; tuy nhiên song song với tỉ lệ tăng xuất khẩu, kim ngạch nhập khẩu
của Hoa Kỳ cũng tăng với tốc độ đáng kể, cụ thể là kim ngạch nhập khẩu của Hoa Kỳ đã
tăng gần 200 tỷ USD từ năm 2005 đến 2006. Kim ngạch xuất nhập khẩu của Hoa Kỳ
chiếm khoảng 25% GDP. Hoa Kỳ là nước xuất, nhập khẩu lớn nhất thế giới. Chính kim
ngạch nhập khẩu khổng lồ như vậy đã khiến Hoa Kỳ, mặc dù là cường quốc về cả xuất
và nhập khẩu, song luôn ở tình trạng nhập siêu, dẫn đến cán cân thương mại luôn luôn
thâm hụt với tốc độ ngày càng nghiêm trọng. Hoa Kỳ bị thâm hụt thương mại ở mức cao
liên tiếp trong gần 2 thập kỷ, đặc biệt tăng liên tục ở mức kỷ lục xấp xỉ 818 tỷ đô la năm
2006, vượt mức báo động (5,5% GDP). Có rất nhiều nguyên nhân lí giải cho tình trạng
thâm hụt triền miên này của Hoa Kỳ. Nguyên do đầu tiên chính là việc nền kinh tế Hoa
Kỳ trong mấy năm gần đây liên tục gặp phải các cuộc khủng hoảng. Cuộc khủng hoảng
đầu tiên khởi nguồn từ vụ khủng bố 11/9/2001, kéo theo đó là một loạt các hậu quả kinh
tế và xã hội nghiêm trọng. Việc chính phủ Bush ngày càng tăng cường các hoạt động vũ
trang, can thiệp quân sự vào các khu vực trên thế giới đã tiêu tốn một lượng tiền không
nhỏ cho các kế hoạch an ninh quốc phòng, dẫn tới ngân sách giành cho phát triển và
nâng cao đời sống kinh tế ngày càng thắt chặt. Ngoài ra, các cuộc khủng hoảng kinh tế
thế giới, bắt nguồn từ nạn dịch viêm đường hô hấp cấp SARS, hay dịch cúm gia cầm

cũng đã ảnh hưởng không nhỏ tới nền kinh tế Hoa Kỳ nói riêng cũng như nền kinh tế
thế giới nói chung. Nguyên do thứ hai không thể không kể tới sự lớn mạnh không ngừng
của các thị trường- các nền kinh tế đối thủ của Hoa Kỳ như EU, thị trường Trung Quốc,
hay thị trường Nhật Bản.
 Tình hình đầu tư
Hoa Kỳ là một trong những quốc gia đầu tư ra nước ngoài lớn nhất, đồng thời
cũng là quốc gia nhận được nguồn vốn đầu tư khổng lồ từ bên ngoài. Tính tới thời điểm
hiện nay thì Nhật Bản là quốc gia nhận được nguồn vốn đầu tư lớn nhất từ Hoa Kỳ đạt
tới gần 80 tỷ USD, tiếp đó là Singapore, Hồng Kông và Australia. Tổng vốn đầu tư trực
tiếp của Hoa Kỳ ra nước ngoài, theo báo cáo năm 2005 của Bộ Thương mại Hoa Kỳ đã
đạt 115.532 tỷ USD, song song với đó là nguồn viện trợ kinh tế đạt 6,9 tỷ USD.
7
2.2. Chính sách thương mại và đầu tư của Hoa Kỳ
Đối với các thỏa thuận quốc tế, Hoa Kỳ là nước ủng hộ và đi đầu trong việc xúc
tiến các thỏa thuận thương mại và đầu tư song phương cũng như đa phương. Đầu tiên là
việc xúc tiến xây dựng tổ chức thương mại thế giới do chính quyền Clinton khởi xướng,
tiếp theo là diễn đàn khu vực Châu Á- Thái Bình Dương (APEC), là thành viên của tổ
chức phát triển và hợp tác kinh tế OECD và thành viên của khu vực mậu dịch tự do Bắc
Mỹ (NAFTA). Gần đây, Hoa Kỳ lại xúc tiến một xu hướng mới- đó là kí kết các Hiệp
ước đầu tư song phương (Bilateral Investment Treaty- BIT) và các hiệp định thương mại
tự do (Free Trade Agreement- FTA). Các thỏa thuận này không chỉ góp phần tạo mối
quan hệ thương mại- đầu tư chặt chẽ hơn nữa với các nước kí kết mà còn là nhân tố then
chốt trong chính sách thương mại của Hoa Kỳ nhằm hỗ trợ các vòng đàm phán đa
phương và mục tiêu đảm bảo an ninh quốc gia sau sự kiện 11/9.
Một trong những chính sách ngoại thương có tính chiến lược của Hoa Kỳ chính
là chiến lược về Châu Á- Thái Bình Dương. Vai trò của Hoa Kỳ với Châu Á- Thái Bình
Dương ngày càng quan trọng không chỉ vì quy mô và trình độ phát triển cao của quốc
gia này mà còn vì quan hệ mật thiết của nước này với hầu hết các nền kinh tế trong khu
vực trong đó có những nước truyền thống như Nhật Bản, Hàn Quốc với các nước đang
phát triển khác như Trung Quốc, Ấn Độ và cả Việt Nam.

Chính sách của Hoa Kỳ với Châu Á- Thái Bình Dương được thể hiện rõ trong
báo cáo của Ủy ban chính sách đầu tư và thương mại Thái Bình Dương - Hoa Kỳ
(Report of Commission on US- Pacific trade and Investment policy) với mục đích tư vấn
cho chính phủ Hoa Kỳ về việc hoạch định các chính sách thích hợp đối với khu vực
chiến lược này: “ Sự phát triển của một nền kinh tế Hoa Kỳ với phần lớn sẽ phụ thuộc
vào sự phát triển ở các thị trường nước ngoài. Không có nơi nào trên thế giới lợi ích của
Hoa Kỳ lại lớn hơn ở các nền kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương với tốc độ phát triển
hết sức mạnh mẽ. Trong những năm gần đây, Châu Á- Thái Bình Dương đã trở thành thị
trường nước ngoài phát triển nhanh nhất đối với hàng hóa và dịch vụ của Hoa Kỳ, là nhà
xuất khẩu lớn nhất của Hoa Kỳ và là địa chỉ mới quen thuộc nhất đối với các dòng vốn
7
Nguồn: dữ liệu trực tuyến, thông tin về thị trường Hoa Kỳ, website: .
đầu tư trực tiếp nước ngoài từ Hoa Kỳ…Phần lớn thành công trong tương lai của nền
kinh tế Hoa Kỳ sẽ phụ thuộc vào việc Hoa Kỳ tận dụng sự tăng trưởng của khu vực
Châu Á- Thái Bình Dương như thế nào, mặc dù cơ hội là rất lớn nhưng cũng có không ít
khó khăn”.
8
Với Hoa Kỳ, Châu Á- Thái Bình Dương có tiềm năng rất lớn và đóng vai trò
quan trọng trong phát triển kinh tế tương lai, là đối trọng của Hoa Kỳ trong sự ganh đua
với Nhật Bản trong việc gây ảnh hưởng ở khu vực này, đặc biệt là ở Đông Nam Á- một
khu vực kinh tế năng động và hứa hẹn triển vọng đầy tươi sáng trong tương lai không
xa. Một nguyên do nữa khiến Hoa Kỳ đưa ra và kiên trì với quan điểm “tự do hóa
thương mại quốc tế” chính là ở chỗ các hiệp định thương mại và đầu tư sẽ giúp Hoa Kỳ
tăng thêm các nguồn lời từ các hoạt động thương mại hàng tỷ USD mỗi năm.
9
Do đó,
chính sách về kinh tế, chính trị, đầu tư với Châu Á- Thái Bình Dương với phương châm
thúc đẩy tự do hóa thương mại, hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng hơn được Hoa Kỳ
chú trọng. Thực tế đã chứng minh cho phương châm ấy của Hoa Kỳ thông qua việc Hoa
Kỳ đẩy mạnh kí kết các hiệp định trong các khối NAFTA, EU, APEC cũng như trong

việc tăng cường quan hệ với các quốc gia lớn trên phạm vi toàn thế giới.
3. Khái quát về tình hình kinh tế và thị trường Mê-hi-cô
3.1. Nền kinh tế Mê-hi-cô và cuộc khủng hoảng tài chính Tequila
Trước năm 1986- năm Mê-hi-cô gia nhập hiệp định chung về thuế quan và
thương mại GATT,` Mê-hi-cô thực hiện chính sách bế quan tỏa cảng, tức là đóng cửa
nền kinh tế, thực hiện chiến lược công nghiệp hóa thay thế hàng nhập và bảo hộ mậu
dịch trong nước. Tuy vậy, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ mà đặc biệt là
giao thông vận tải và viễn thông đã thúc đẩy tiến trình hội nhập của các quốc gia vào
nền kinh tế thế giới, và cá nhân Mê-hi-cô cũng nhận thấy tầm quan trọng của việc toàn
cầu hóa nên kinh tế của mình. Đây là cơ sở để chính phủ Mê-hi-cô quyết định mở cửa
thị trường.
8
Nguồn: Report of Commission on US- Pacific trade and investment policy, Introduction. trang 14
9
Nguồn: Bùi Thành Nam- Tự do hóa thương mại, các cách tiếp cận của Mỹ sau chiến tranh lạnh- Tạp chí Châu
Mỹ Ngày Nay- số 3/2006- trang 39
Sự kiện đánh dấu bước khởi đầu chính là việc Mê-hi-cô tham gia Hiệp định
chung về thuế quan và thương mại GATT năm 1986, tiếp đó ghi nhận bằng việc Mê-hi-
cô trở thành thành viên thứ 3 của Hiệp định mậu dịch tự do Bắc Mỹ NAFTA vào ngày
1/1/1994. Tuy nhiên, thật không may là ngay sau khi gia nhập NAFTA, Mê-hi-cô lại lâm
vào cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng (cuộc khủng hoảng này không liên quan
đến việc gia nhập NAFTA) – đó là cuộc khủng hoảng tài chính Tequila (1994-1995).
Vào thời điểm này, nguồn dự trữ ngoại tệ của Mê-hi-cô gần như cạn kiệt, nợ nước ngoài
tính bằng USD đã có thời điểm lên tới 8% GDP-con số cao kỷ lục- khiến dòng vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài cứ lần lượt tránh xa thị trường Mê-hi-cô do các nhà đầu tư lo sợ
đồng Peso mất giá. Thực tế khi đó đồng Peso đã rớt giá 50% so với đồng đô la Mỹ. Tình
hình tiếp diễn đã khiến nền kinh tế lâm vào suy thoái. Khiến chính phủ phải tiến tới thả
nổi đồng nội tệ của mình. Nguồn vốn đầu tư ít đi đã khiến nền sản xuất của Mê-hi-cô bị
thu hẹp, GDP năm 1995 của Mê-hi-cô giảm 6,2% so với mức tăng bình quân của năm
trước khủng hoảng là 2,7%. Tuy nhiên sau đó, nhờ thực hiện nhất quán chính sách tiền

tệ, tín dụng, kiềm chế được lạm phát, quản lý nợ nhà nước và giữ lãi suất ổn định ở mức
thấp, đồng thời với việc biết khai thác thế mạnh của mình là dầu mỏ, mía đường và du
lịch, nền kinh tế Mê-hi-cô đã dần hồi sinh. Mê-hi-cô không những huy động được
những nguồn tiết kiệm nội bộ nền kinh tế để đầu tư vào sản xuất mà còn thu hút được
nguồn FDI khả quan. Mức tăng trưởng cao nhất mà nền kinh tế Mê-hi-cô đạt được sau
khủng hoảng là 6,6% (năm 2000) và có giảm dần vào các năm sau đó. Tính đến
4/2/1995, để giúp Mê-hi-cô vượt qua cuộc khủng hoảng tài chính, Hoa Kỳ và cộng đồng
tài chính quốc tế đã cấp một khoản tín dụng tổng cộng là 51,759 tỷ USD.[15]
3.2. Những thành tựu kinh tế của Mê-hi-cô trong thời gian qua
 Các chỉ tiêu kinh tế cơ bản
Bảng 7: Các chỉ tiêu kinh tế cơ bản của Mê-hi-cô giai đoạn 2001-2006
Năm
Chỉ tiêu
200
1
2002 2003 2004 2005
GDP (% tăng so với năm trước) 0,2 0,8 1,6 4,4 2,9
GDP/người (nghìn USD) 6,2 6,4 9,1 6,4 10,0
Tỷ lệ thất nghiệp (%) 2,5 2,7 3,3 3,9 3,6
Tỷ lệ lạm phát (%) 6,4 5,0 4,6 4,7 4,0
Nguồn: Economic Indicator/Review of the economic situation of Mexico,
Juanuary 2006.
Giai đoạn 2001 đến nay, GDP của Mê-hi-cô tăng trưởng chậm do nền kinh tế
Mê-hi-cô phụ thuộc nhiều vào nền kinh tế Hoa Kỳ cả về FDI lẫn kim ngạch thương mại
hai chiều. Giai đoạn này, Hoa Kỳ gặp phải rất nhiều khó khăn do các biến động gây nên,
dẫn tới nền kinh tế tăng trưởng hết sức chậm chạp. Mặc dù vậy, nhờ kiềm chế được lạm
phát và ổn định giá thả nổi giữa đồng Peso và đồng đô la Mỹ nên GDP trên đầu người
của Mê-hi-cô vẫn tăng khá ổn định và bền vững, từ 5.900 USD/người (2000) lên 9.136
USD (2003) và 10.000 USD (2005). Mê-hi-cô đã gia nhập hàng ngũ các quốc gia có thu
nhập tính bằng USD/người vượt mức bình quân 8.238 USD/người của thế giới, trở

thành nền kinh tế lớn thứ 12 thế giới trong số 136 quốc gia được xếp hạng dựa vào chỉ
tiêu trên. Dựa vào bảng số liệu dưới đây, có thể nhận thấy tronng 5 năm đầu của thế kỷ
mới, tốc độ tăng trưởng của GDP của Mê-hi-cô chưa cao nếu so sánh với tốc độ tăng
GDP của Hoa Kỳ và Canada. Bên cạnh đó, Mê-hi-cô còn bị hạn chế do có tỷ lệ lạm phát
khá cao, mặc dù có xu hướng giảm trong thời gian qua nhưng vẫn là 4% vào cuối năm
2005. Tuy vậy, nếu xét về chỉ tiêu tỷ lệ thất nghiệp thì có thể thấy rằng con số tương ứng
của Mê-hi-cô khả quan hơn rất nhiều so với Hoa Kỳ hay Canada. Trong khi tỷ lệ thất
nghiệp của Mê-hi-cô trong năm năm qua tương đối thấp, dao động giữa 2,5% và 3.5%,
thì con số tại Canada luôn gần bằng hoặc trên 7%, và tại Hoa Kỳ con số ấy gần 5%.
 GDP phân theo ngành:

×