Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Ôn Tập An Ninh Quốc Phòng 2016

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.99 KB, 34 trang )

Chuyên đề 4: BIÊN GIỚI QUỐC GIA VÀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIÊN GIỚI QUỐC GIA;
QUẢN LÝ VÀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO VIỆT NAM TRONG TÌNH HÌNH MỚI
Câu 1: Đặc điểm, tình hình và nguyên tắc quản lý, bảo vệ chủ quyền biên giới quốc
gia của Việt Nam trong tình hình mới. Bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia gắn liền với
bảo vệ chủ quyền quốc gia, bảo vệ Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Đây là nhiệm vụ quan
trọng của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, nhất là trong bối cảnh giao
lưu quốc tế ngày càng mở rộng, các thế lực thù địch tăng cường xâm nhập qua biên giới để
hoạt động tình báo, gián điệp, thực hiện "diễn biến hoà bình", bạo loạn lật đổ phá hoại trên
tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội, ngoại giao, quốc phòng, an ninh. Hoạt
động của các thế lực thù địch kích động, móc nối với các phần tử cực đoan đòi ly khai, tự trị;
lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để tập hợp quần chúng gây mất an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội, chống phá Đảng, Nhà nước ta đều bắt đầu từ khu vực biên giới. Vì vậy, bảo
vệ chủ quyền biên giới quốc gia gắn liền với bảo vệ chủ quyền quốc gia, bảo vệ Đảng và chế
độ xã hội chủ nghĩa.
Bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia là cuộc đấu tranh toàn diện trên tất cả các lĩnh vực.
Trong đó, bao gồm, bảo vệ chủ quyền biên giới trên đất liền, trên biển, trên không và trong
lòng đất; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên khu vực biên giới; bảo vệ tài
nguyên, môi trường, lợi ích quốc gia trên khu vực biên giới và vùng biển quốc gia; bảo vệ
công trình quốc phòng và các công trình bảo vệ biên giới; bảo vệ việc chấp hành pháp luật,
quy chế biên giới và các điều ước quốc tế về biên giới mà Cộng hòa xã hội Việt Nam đã ký
hoặc tham gia; quản lý xuất nhập biên, xuất nhập cảnh, quá cảnh tại các cửa khẩu biên giới
và các cửa khẩu cảng biển.
Bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của
cả hệ thống chính trị, dựa trên nền tảng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy vai trò
tham mưu của lực lượng chuyên trách nòng cốt. Do đó, đòi hỏi có sự chỉ đạo tập trung thống
nhất của Bộ Chính trị, Nhà nước, sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ của các ngành, các cấp ở
trung ương và địa phương, phát huy sức mạnh của toàn dân và cả hệ thống chính trị. Quan
tâm xây dựng Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển, Kiểm ngư và lực lượng chuyên trách, nòng
cốt trong bảo vệ biên giới quốc gia vững mạnh là điều kiện không thể thiếu được trong sự
nghiệp bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia.
Trên thế giới, hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển là xu thế lớn; nhưng


đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp, chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột sắc
tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố, tranh chấp lãnh thổ,
1


biển, đảo, tài nguyên và cạnh tranh quyết liệt về lợi ích kinh tế tiếp tục diễn ra phức tạp. Khu
vực châu Á - Thái Bình Dương và Đông Nam Á phát triển năng động, nhưng cũng tiềm ẩn
những nhân tố mất ổn định, nhất là từ khi Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải
Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, việc bảo vệ vững
chắc chủ quyền biển, đảo đối với nước ta càng đặt ra yêu cầu cao hơn trong mục tiêu, nhiệm
vụ bảo vệ Tổ quốc. Quan điểm xuyên suốt của Đảng ta trong xử lý các mối quan hệ quốc tế
và khu vực hiện nay đặt ra phải luôn tỉnh táo, bình tĩnh, khôn khéo, không bị kích động, xúi
giục gây xung đột vũ trang, chiến tranh; giải quyết mọi vấn đề bằng biện pháp hòa bình,
trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và nguyên tắc ứng xử của khu vực.
Trước sự biến đổi khôn lường của tình hình thế giới, khu vực và trên Biển Đông thời gian
qua, nhiệm vụ bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới quốc gia, biển, đảo của đất nước trở
thành nhiệm vụ nặng nề, đặt trước nhiều khó khăn, thách thức.
2. Nội dung, quan điểm và giải pháp quản lý, bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia
của nước ta trong tình hình mới. Trên cơ sở vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác Lênin về biên giới và lãnh thổ quốc gia; kế thừa kinh nghiệm bảo vệ độc lập, chủ quyền lãnh
thổ quốc gia của ông, cha ta; căn cứ tình hình thực tiễn của đất nước trong tình hình mới,
vấn đề bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia đã được Đảng ta cụ thể hoá bằng các tư tưởng,
quan điểm sau:

a) Biên giới quốc gia nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm
phạm phải được quản lý, bảo vệ vững chắc trong mọi tình huống. Đảng ta luôn xác định biên
giới là địa bàn chiến lược, có địa vị cực kỳ quan trọng về kinh tế, chính trị và quốc phòng, an
ninh của đất nước. Tuy nhiên, địa bàn biên giới phần lớn là miền núi, vì vậy, bảo vệ biên giới
quốc gia là một công tác khó khăn, phải giải quyết nhiều vấn đề liên quan đến đường lối
ngoại giao, chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo, xây dựng phát triển kinh tế miền núi,
khu vực biên giới, tăng cường khả năng quốc phòng, an ninh của đất nước trong chiến lược

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và khu
vực, nhất là những diễn biến phức tạp ở biển Đông gần đây. Bảo vệ chủ quyền biên giới
quốc gia, bao gồm bảo vệ biên giới trên bộ, trên biển, bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ
của đất nước; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, chống xâm nhập trái phép và
chống buôn lậu qua biên giới, bảo vệ tài nguyên của đất nước; xây dựng biên giới hoà bình
hữu nghị, hợp tác, phát triển với các nước láng giềng.

b) Xây dựng và bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia là nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước; của
toàn dân, toàn quân, các ngành, các cấp, các đoàn thể mà trực tiếp là quần chúng nhân dân
2


ở khu vực biên giới. Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 08 tháng 8 năm 1995 về xây dựng Bộ đội
Biên phòng trong tình hình mới xác định, phải phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội
đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với biên giới quốc gia. Bộ Quốc
phòng có trách nhiệm chỉ huy, quản lý toàn diện Bộ đội Biên phòng. Bộ Nội vụ (nay là Bộ
Công an) có trách nhiệm phối hợp với Bộ Quốc phòng về mặt công tác an ninh. Bộ ngoại
giao có trách nhiệm phối hợp với Bộ Quốc phòng hướng dẫn nghiệp vụ đối ngoại và pháp
luật về biên giới. Như vậy, Bộ đội Biên phòng không chỉ thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, mà
còn thực hiện nhiệm vụ an ninh và đối ngoại để bảo vệ toàn vẹn chủ quyền biên giới quốc
gia.

c) Coi trọng xây dựng Bộ đội Biên phòng vững mạnh làm lực lượng chuyên trách, nòng cốt;
tổ chức chỉ huy thống nhất từ trung ương đến cơ sở để quản lý, bảo vệ chủ quyền biên giới
quốc gia. Nắm vững quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của quần chúng và
truyền thống kinh nghiệm đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của
ông, cha ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Chúng ta phải dựa vào dân, nhất là Công an biên
phòng, ở những nơi đồng bào thiểu số, phải chú ý đến phong tục tập quán của đồng bào,
luôn giáo dục đồng bào, làm cho đồng bào tin yêu, phục vụ đồng bào thì đồng bào sẽ hết
sức giúp đỡ, có khi hy sinh cả cho ta. Đối với những đơn vị ở biên thùy hay các hải đảo việc

ấy phải hết sức chú ý; phải giúp đỡ dân, ngày thường tìm mọi cách giáo dục họ, giúp đỡ, tổ
chức họ. Muốn làm như thế, phải nắm vững chính sách đối với đồng bào thiểu số, điều đó
rất cần thiết.

Giải pháp quản lý, bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia trong tình hình mới:
a) Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, huy động toàn dân tham gia
bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia: Tăng cường sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của
Trung ương Đảng, các cấp uỷ đảng địa phương có biên giới; sự quản lý của Nhà nước, của
chính quyền địa phương đối với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ chủ quyền biên giới là nhân tố
quyết định bảo đảm sự ổn định lâu dài của biên giới quốc gia. Lịch sử dựng nước và giữ
nước của dân tộc ta đã chứng minh, muốn giữ yên bờ cõi phải dựa vào dân, huy động sức
mạnh của nhân dân. Để bảo vệ vùng biên giới (vùng biên cương, biên ải), các triều đại
phong kiến đều dựa vào sức dân tại chỗ là chủ yếu, bằng các biện pháp như: lập các đồn
điền, đưa nhân dân ra lập các làng bản ở vùng biên cương, hình thành từng cụm, từng khu
dân cư và được giao quản lý, bảo vệ từng đoạn, từng vùng biên giới của đất nước với hệ
thống, tổ chức, hình thức, phương pháp theo quy định của từng triều đại phù hợp với từng
thời kỳ lịch sử.
3


Sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Đảng và Nhà nước ta trong suốt cả quá
trình lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc luôn vận dụng
quan điểm lấy dân làm gốc trong mọi hoạt động của mình. Thực tiễn, sự thành công của
nhiệm vụ quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, vùng biên giới dưới sự lãnh đạo của Đảng trong
những năm qua đều khẳng định sức mạnh của nhân dân trong bảo vệ biên giới. Trên mặt
trận quản lý, bảo vệ cũng như trong xây dựng vùng biên giới ổn định đều có sự đóng góp
tích cực của nhân dân khu vực biên giới.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, huy động toàn dân tham gia bảo
vệ chủ quyền biên giới quốc gia, cần tập trung vào những nội dung sau:
Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo các

vấn đề đối nội, đối ngoại, quan hệ biên giới, đàm phán giải quyết các vấn đề biên giới, lãnh
thổ, xây dựng khu vực biên giới vững mạnh toàn diện. Các cấp ủy đảng địa phương có biên
giới lãnh đạo, chỉ đạo các vấn đề cụ thể thuộc thẩm quyền địa phương như: xây dựng, phát
triển kinh, văn hóa - xã hội, quản lý bảo vệ an ninh, trật tự, chống tội phạm, chống buôn lậu
qua biên giới. Tăng cường và nâng cao chất lượng lãnh đạo của tổ chức đảng với nhiệm vụ
quản lý, bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia, kết hợp chặt chẽ thế và lực giữa an
ninh biên giới với an ninh quốc gia; giữa an ninh biên giới với quốc phòng; giữa an ninh biên
giới với xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội.
Tăng cường quản lý nhà nước về biên giới, lãnh thổ, bảo vệ vững chắc chủ quyền an ninh
biên giới trong mọi điều kiện, hoàn cảnh. Củng cố và phát huy vai trò quản lý thống nhất của
Nhà nước đối với biên giới quốc gia. Đồng thời phân cấp trách nhiệm cho địa phương có biên
giới trong nhiệm vụ quản lý, bảo vệ biên giới, an ninh, trật tự trên lãnh thổ của địa phương,
phù hợp với các hiệp định, quy chế biên giới. Mọi chủ trương giải quyết về chủ quyền lãnh
thổ biên giới, ký kết các hiệp định với nước ngoài liên quan đến biên giới quốc gia đều do
Nhà nước thống nhất quản lý, khắc phục tình trạng tùy tiện, lạm quyền làm tổn hại đến lợi
ích quốc gia, dân tộc.

b) Xây dựng chiến lược quốc gia về biên giới: Xây dựng chiến lược quốc gia về biên giới là
giải pháp chủ yếu để bảo vệ và giữ vững ổn định lâu dài biên giới quốc gia. Điều 25, Luật
Biên giới quốc gia năm 2003 quy định: Nhà nước có chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đầu tư
xây dựng khu vực biên giới vững mạnh toàn diện về chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng,
an ninh; có chính sách ưu tiên, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân định cư ở khu vực biên
giới.
4


Xây dựng chiến lược quốc gia về biên giới có nội dung toàn diện bao gồm, xây dựng các
chương trình quốc gia về phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng cơ sở hạ tầng khu vực biên
giới; xây dựng, củng cố cơ sở chính trị, xã hội các huyện, xã biên giới vững mạnh; xây dựng
lực lượng vũ trang nòng cốt, chuyên trách bảo vệ biên giới về mọi mặt; xây dựng thế trận

biên phòng toàn dân, gắn với thế trận quốc phòng, an ninh bảo vệ biên giới; xây dựng công
trình bảo vệ biên giới, công trình phòng thủ, chiến đấu; phát huy sức mạnh tổng hợp của đất
nước, trực tiếp là sức mạnh của lực lượng tại chỗ ở biên giới đấu tranh chống tội phạm, nhất
là hoạt động tình báo, gián điệp, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi khi chiến tranh
xảy ra.
Chiến lược quốc gia về biên giới phải kết hợp chặt chẽ được kinh tế - xã hội với quốc phòng,
an ninh, hoạt động đối ngoại, phát huy sức mạnh tổng hợp, giữ vững ổn định an ninh trong
mở cửa quan hệ với bên ngoài. Xây dựng chiến lược và chương trình quốc gia đẩy nhanh
nhiệm vụ xây dựng khu vực biên giới, vùng biển, đảo vững mạnh toàn diện, làm cho nhân
dân ở biên giới gắn bó với Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa, bản làng, gắn xây dựng củng cố
toàn diện biên giới với nâng cao đời sống (kinh tế, chính trị, văn hóa...) cho nhân dân biên
giới. Trong chiến lược, chương trình quốc gia phải kết hợp chặt chẽ kinh tế xã hội với an
ninh, quốc phòng, hoạt động đối ngoại, phát huy sức mạnh tổng hợp, giữ vững an ninh bên
trong, mở cửa quan hệ với bên ngoài. Ngăn chặn, đẩy lùi các hoạt động thù địch, tạo thế,
tạo lực giữ vững ổn định lâu dài biên giới quốc gia.

c) Tăng cường hợp tác quốc tế và hoạt động đối ngoại để củng cố, phát triển quan hệ láng
giềng hữu nghị với Trung Quốc và các nước ASEAN: Tăng cường hợp tác quốc tế và hoạt
động đối ngoại với các nước có chung biên giới và các nước ASEAN để củng cố, phát triển
quan hệ láng giềng hữu nghị, thực hiện chính sách mở cửa, hợp tác hữu nghị, mở rộng hợp
tác đa phương, giao lưu, hợp tác kinh tế biên giới, hợp tác liên doanh, phát triển kinh tế
biển, kinh tế biên giới trên các lĩnh vực dầu khí, hải sản, khoáng sản, lâm nghiệp, du lịch,
bảo vệ môi trường, kết hợp với hoạt động ngoại giao, quốc phòng. Trên từng tuyến biên giới
cần chú trọng vận dụng các hình thức, nội dung phù hợp. Đối với tuyến biên giới phía Bắc,
cần giữ vững ổn định, thực hiện phương châm “vừa hợp tác vừa đấu tranh” để giữ vững chủ
quyền biên giới, bảo vệ chủ quyền đi đôi với tăng cường quan hệ hữu nghị, thực hiện
phương châm “mềm mà chặt”. Trong phát triển kinh tế cần chú ý khai thác lợi thế của ta đối
với thị trường Trung Quốc. Đối với các tuyến biên giới phía Tây, Tây Nam, cần giữ vững ổn
định, đẩy mạnh hợp tác với Lào. Tập trung phát triển kinh tế, quan hệ buôn bán bảo đảm
cho hàng hóa Việt Nam chiếm ưu thế trên thị trường Lào và Campuchia. Đối với vùng biển,

5


đảo, quần đảo tăng cường đầu tư, xây dựng cơ sở đánh bắt, chế biến, hoạt động xa bờ, kết
hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh. Đầu tư xây dựng các đảo, quần đảo có dân sinh sống
ổn định lâu dài và các lực lượng phòng thủ thành cơ sở kinh tế quốc phòng vững mạnh, tăng
cường sức mạnh kinh tế và phòng thủ từ xa.
Đối với các nước ASEAN, Nhà nước cần có chính sách ưu đãi để thu hút các công ty đa quốc
gia vào làm ăn với Việt Nam, nhất là các dự án trên Biển Đông, thông qua lợi ích kinh tế để
ràng buộc họ với ta, tạo đối trọng trong quan hệ đối tác, quan hệ khu vực và quốc tế.
d) Chủ động đàm phán giải quyết các vấn đề tồn tại về biên giới với các nước có liên quan:
Đàm phán để giải quyết các vấn đề về biên giới, lãnh thổ là giải pháp chủ yếu, phổ biến hiện
nay của cộng đồng quốc tế. Điều 33, Hiến chương Liên hợp quốc quy định: Các bên trong
một vụ tranh chấp mà việc kéo dài có thể đe dọa việc duy trì hòa bình và an ninh quốc tế
phải cố gắng giải quyết trước hết bằng con đường đàm phán, điều tra, trung gian, hòa giải,
trọng tài, tòa án, cầu viện những cơ quan hoặc hiệp định khu vực hoặc bằng các phương
thức hòa bình khác tùy theo sự lựa chọn của họ. Trong bối cảnh tình hình quốc tế và quan
hệ biên giới nước ta với các nước hiện nay, tiến hành đàm phán giải quyết với các nước về
biên giới lãnh thổ, tạo môi trường ổn định, quan hệ láng giềng, hữu nghị là giải pháp cơ bản,
chủ yếu, cấp thiết để bảo vệ và ổn định lâu dài biên giới quốc gia.

đ) Đầu tư nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ, xây dựng các dự án phục vụ xây
dựng khu biên giới, hải đảo vững mạnh toàn diện: Xây dựng chương trình, dự án nghiên
cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ, khai thác tiềm năng biển phục vụ phát triển kinh tế,
bảo vệ môi trường sinh thái, tạo tiềm lực mạnh để bảo vệ biên giới. Nhà nước cần thống
nhất chỉ đạo, tập trung đầu tư, đẩy mạnh công tác khảo sát, nghiên cứu khoa học, công
nghệ của các ngành khoa học, như lịch sử biên giới biển - đảo để góp phần bảo vệ biên giới.

e) Xây dựng thế trận biên phòng toàn dân gắn với thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận
an ninh nhân dân trên địa bàn biên giới: Thế trận biên phòng là hình thái tổ chức và bố trí

lực lượng, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, xã hội, các lực lượng
vũ trang và nhân dân mà trực tiếp là quân và dân tại chỗ ở khu vực biên giới, ven biển, hải
đảo để quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia.
Thế trận biên phòng phải phục vụ có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ biên phòng và
được xây dựng trên cơ sở các quan điểm, chủ trương chiến lược của Đảng, Nhà nước về bảo
vệ chủ quyền biên giới quốc gia, gắn với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong nhiệm vụ xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
6


g) Tăng cường xây dựng, củng cố lực lượng chuyên trách, nòng cốt vững mạnh và phối hợp,
hiệp đồng chặt chẽ với các lực lượng tham gia bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia
- Tăng cường xây dựng, củng cố lực lượng chuyên trách, nòng cốt quản lý, bảo vệ chủ quyền
biên giới quốc gia.
Bộ đội biên phòng là lực lượng nòng cốt, chuyên trách, phối hợp với lực lượng Công an nhân
dân, các ngành hữu quan và chính quyền địa phương trong hoạt động quản lý, bảo vệ biên
giới quốc gia, giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở khu vực biên giới theo quy định của
pháp luật. Vì vậy, Nhà nước cần quan tâm xây dựng, củng cố lực lượng chuyên trách là Bộ
đội Biên phòng vững mạnh toàn diện, chính quy, tinh nhuệ và ngày càng hiện đại cả về tổ
chức, trang bị đồng bộ và huấn luyện toàn diện; bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ huy thống nhất từ
trung ương đến cơ sở, đủ khả năng làm tham mưu cho Nhà nước, chính quyền các cấp; làm
nòng cốt, hướng dẫn các lực lượng tham gia quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, bảo vệ độc
lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và trực tiếp, chủ động, kịp thời phát hiện, ngăn chặn đấu
tranh làm thất bại các ý đồ, các hoạt động xâm phạm chủ quyền lãnh thổ của các đối tượng,
các thế lực thù. Xây dựng Bộ đội Biên phòng trong tình hình mới, cần tập trung vào một số
nội dung sau:
- Quán triệt Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 08/8/1995 của Bộ Chính trị về xây dựng Bộ đội
Biên phòng trong tình hình mới và Pháp lệnh Bộ đội Biên phòng năm 1997
- Tập trung trang bị, kỹ thuật hiện đại phục vụ công tác biên phòng. Đầu tư xây dựng cơ bản
cho các đồn, trạm biên phòng, nhất là các đồn cửa khẩu. Xây dựng đồn biên phòng vững

mạnh trong khu vực phòng thủ, là điểm sáng văn hoá trong khu vực biên giới; nghiên cứu
trang bị phương tiện kỹ thuật để đổi mới công tác quản lý, kiểm soát cửa khẩu, bảo đảm
đúng nguyên tắc, chặt chẽ về nghiệp vụ, thông thoáng về thủ tục, nhanh chóng về thời gian,
phục vụ tốt chủ trương mở rộng hợp tác với các nước, mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế;
bảo đảm các phương tiện hiện đại, đồng bộ, nhất là hệ thống thông tin liên lạc từ đồn biên
phòng đến các đội công tác. Bảo đảm ổn định về tổ chức và cơ chế chỉ huy, chỉ đạo, hiệp
đồng để Bộ đội Biên phòng hoàn thành tốt nhiệm vụ.
- Bộ đội Biên phòng chủ động phối hợp các lực lượng tham gia quản lý, bảo vệ chủ quyền
biên giới quốc gia. Quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia cần sự phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ
của nhiều lực lượng để nắm tình hình và có biện pháp xử trí chính xác, phù hợp, không để bị
động, bất ngờ. Trong các lực lượng đó, có sự tham gia của tình báo quân đội, cơ quan an
ninh, tình báo công an..., trong đó Bộ đội Biên phòng là lực lượng chuyên trách, nòng cốt
phối hợp các lực lượng để quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia. Bộ đội Biên phòng cần chủ
7


động phối hợp với các lực lượng thực hiện các biện pháp trinh sát, vận động quần chúng,
biện pháp vũ trang và kiểm soát hành chính.
3. Nội dung, mục tiêu và phương thức quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo của
nước ta. a) Bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia, dân tộc trên

biển, đảo: Bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia, dân tộc trên
biển, đảo cần thực hiện tốt việc quản lý, bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài
phán quốc gia trên các vùng biển. Bảo vệ chủ quyền quốc gia ở vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa là bảo vệ đặc quyền của quốc gia về bảo tồn, quản lý, thăm dò, khai thác tài
nguyên thiên nhiên của biển ở những nơi đó; thực chất là bảo vệ lợi ích kinh tế ở vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa của quốc gia.

b) Bảo vệ an ninh, trật tự an toàn xã hội và văn hoá trên biển, đảo và vùng ven biển
An ninh, trật tự an toàn xã hội là nhu cầu và điều kiện cần thiết để con người tồn tại và hoạt

động ở mọi môi trường địa lý. Biển là môi trường có điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt và
nhiều biến động, lại là môi trường mở, thường xuyên có sự giao lưu quốc tế, nên đòi hỏi về
bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội lại càng cao hơn.
Nội dung chủ yếu của bảo vệ an ninh chính trị, kinh tế, trật tự an toàn xã hội và văn hóa trên
biển và vùng ven biển của nước ta là:
- Bảo vệ an ninh quốc gia trên mọi lĩnh vực: chính trị, tư tưởng, văn hoá, khoa học công
nghệ, quốc phòng, an ninh...;
- Ngăn chặn kịp thời người và phương tiện xâm nhập đất liền để tiến hành các hoạt động
phá hoại, gây rối, làm gián điệp, truyền bá văn hoá đồi truỵ và thực hiện các hành vi tội
phạm khác;
- Bảo vệ lao động sản xuất, tính mạng và tài sản của Nhà nước và nhân dân trên biển và ven
biển;
- Bảo đảm trật tự an toàn giao thông trên biển và ven biển;
- Bảo vệ môi trường, xử lý các vụ ô nhiễm môi trường trên biển và

ven biển;

- Phòng, chống và khắc phục hậu quả thiên tai;
- Thực hiện tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn;
- Phòng ngừa, chế ngự, xử lý các xung đột do tranh chấp lợi ích giữa các tổ chức và cá nhân
trong sử dụng và khai thác biển.
Mục tiêu, phương thức quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo

a) Mục tiêu quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo: Nghị quyết Đại hội XI của Đảng xác định:
"Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền
8


biển đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa;
giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm

mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa
an ninh phi truyền thống mang tính toàn cầu, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình
huống". Quán triệt quan điểm của Đảng về bảo vệ Tổ quốc, mục tiêu quản lý, bảo vệ chủ
quyền biển, đảo của nước ta là:
- Giữ vững độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia trên biển đảo gắn liền với
bảo vệ chủ nghĩa xã hội.
Trong bối cảnh phức tạp của tình hình thế giới và khu vực, việc giải quyết đúng đắn mối
quan hệ song phương và đa phương giữa nước ta với các nước về chủ quyền biển, đảo là
vấn đề có ý nghĩa cực kỳ to lớn, quyết định đến vận mệnh của quốc gia, dân tộc: hoà bình,
ổn định, hợp tác, phát triển hay chiến tranh, đói nghèo, tụt hậu.
Giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia, dân tộc trên biển, đảo gắn
liền với chủ nghĩa xã hội là một nguyên tắc hiến định. Điều 1, Hiến pháp năm 2013 quy định:
Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời. Thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm lãnh thổ đất liền, vùng biển,
lòng đất, vùng trời, các đảo, quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa và quần đảo khác
thuộc chủ quyền, quyền tài phán, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam.
- Giữ vững môi trường hòa bình, ổn định lâu dài là lợi ích cao nhất.
Cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước của dân tộc ta đã trải qua các
cuộc kháng chiến và đấu tranh chống xâm lược với những chặng đường đầy khó khăn, gian
khổ, sự hy sinh xương máu của biết bao thế hệ người Việt Nam. Do đó, hơn ai hết, dân tộc
Việt Nam thiết tha yêu chuộc hoà bình, độc lập, tự do, mong muốn giữ vững môi trường hòa
bình, ổn định lâu dài, bền vững để xây dựng và phát triển đất nước.
Ngày nay, chúng ta kiên trì phấn đấu theo quan điểm của Đảng là thực hiện nhất quán
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ
quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế,
phấn đấu vì hoà bình, độc lập dân tộc và phát triển, tạo môi trường hoà bình, ổn định, tranh
thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tiếp nối
quan điểm đó, Đại hội XI của Đảng đã đề ra đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình,
hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ, chủ động và hội nhập quốc

9


tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích
quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam giàu mạnh.
Như vậy, mục tiêu bảo vệ chủ quyền biển, đảo thể hiện cụ thể đường lối nhất quán của
Đảng, Nhà nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phù hợp với mục tiêu
chung của Đảng và nhân dân ta là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Chỉ có giữ
vững hoà bình, ổn định lâu dài mới có thể xây dựng và phát triển đất nước. Hoà bình, ổn
định là điều kiện tiên quyết để xây dựng đất nước giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh, nhân dân ấm no, hạnh phúc. Vì vậy, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định lâu dài trở
thành lợi ích cao nhất hiện nay.

b) Phương thức quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo
Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân, của cả hệ
thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,
sức mạnh của lực lượng và thế trận quốc phòng toàn dân với sức mạnh của lực lượng và thế
trận an ninh nhân dân. Đại hội Đảng XI xác định: "Tăng cường quốc phòng, giữ vững an
ninh và toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của Đảng, Nhà nước và toàn
dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân là lực lượng nòng cốt. Xây dựng thế trận
quốc phòng toàn dân, kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Phát triển
đường lối, nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân và lý luận, khoa học an ninh nhân dân.
Chủ động, tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh".
Khi xử lý các vấn đề, các tình huống xảy ra trên biển, đảo cần hết sức khẩn trương, thận
trọng. Trong bối cảnh hiện nay và trong những năm tới, tình hình trên Biển Đông vẫn là
điểm nóng thu hút dư luận của cộng đồng quốc tế và còn diễn biến hết sức phức tạp. Vì vậy,
cần nêu cao tinh thần cảnh giác, không mơ hồ, chủ quan khi phân tích, đánh giá tình hình
trên biển, dự báo đúng âm mưu, ý đồ, khả năng, thủ đoạn của các đối tượng để có biện
pháp đối phó kịp thời, phù hợp.
Tăng cường tiềm lực quốc phòng, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân trên hướng biển,

đẩy mạnh thực hiện các giải pháp xây dựng nền quốc phòng toàn dân, lấy xây dựng khu vực
phòng thủ tỉnh, thành phố vững mạnh; kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh ở
các tỉnh, thành phố ven biển, hải đảo làm trọng tâm để làm chỗ dựa cho các lực lượng làm
kinh tế biển và quản lý, bảo vệ biển đảo.
Quá trình thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biển đảo cần thấm nhuần quan điểm quản lý, bảo vệ
biển đảo là sự nghiệp của toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo
của Đảng, sự quản lý của Nhà nước; phát huy sức mạnh tổng hợp của mọi lực lượng dân sự
10


và quân sự trên hướng biển, trong đó lực lượng Hải quân nhân dân Việt Nam là nòng cốt;
vận dụng linh hoạt các hình thức đấu tranh, đặc biệt là kết hợp giữa đấu tranh chính trị trên
mặt trận đối ngoại với đấu tranh quân sự là cơ sở tạo nên sức mạnh quyết định, đồng thời
phải lấy yếu tố nội lực, dựa vào sức mình là chính để ngăn chặn, đẩy lùi xung đột vũ trang,
giành thắng lợi trong mọi tình huống để bảo vệ vững chắc vùng biển, đảo của Tổ quốc.
4. Những giải pháp quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo của nước ta trong tình
hình mới.

a) Tăng cường tiềm lực quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo trên các lĩnh vực chính trị, kinh
tế - xã hội, tư tưởng - văn hóa, khoa học giáo dục
- Tăng cường tiềm lực quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo cần phải hoàn thiện hệ thống các
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách về biển đảo.
Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng chỉ rõ: Kết hợp chặt chẽ
quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế - xã hội trên từng địa bàn lãnh thổ, trong công tác
quy hoạch, kế hoạch và các chương trình, dự án. Phát triển kinh tế ven biển và hải đảo theo
định hướng Chiến lược biển đến năm 2020. Xây dựng hợp lý hệ thống cảng biển, các khu
công nghiệp, khu kinh tế, đô thị ven biển gắn với phát triển công nghiệp đóng và sửa chữa
tàu, khai thác, chế biến dầu khí, du lịch biển; phát triển kinh tế đảo, khai thác hải sản xa bờ
gắn với tìm kiểm cứu hộ, cứu nạn và giữ vững chủ quyền vùng biển quốc gia; đẩy mạnh việc
điều tra cơ bản đối với một số loại tài nguyên biển quan trọng; khuyến khích cán bộ, viên

chức nhà nước làm việc trên các đảo xa, khuyến khích di dân từ đất liền ra đảo để phát triển
kinh tế - xã hội và tăng cường quốc phòng, an ninh trên các đảo.
- Tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức cho nhân dân về chủ quyền biển, đảo.
Tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức cho nhân dân về chủ quyền biển, đảo là biện
pháp quan trọng làm cho quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước đến với mọi người dân, biến những quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách và
pháp luật của Nhà nước thành sức mạnh hành động của cả dân tộc để xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Khi nhân dân được giác ngộ, nhất là thế hệ trẻ thấu suốt mục tiêu, nội dung, nhiệm
vụ và trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ biển, đảo; ý thức về biển, đảo của cả dân tộc
được thức tỉnh sẽ tạo thành sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong bảo vệ Tổ quốc.
- Thực hiện thắng lợi chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở vùng ven biển, đảo làm nền
tảng giữ vững ổn định, bảo vệ biển, đảo.
Thực hiện thắng lợi Chiến lược biển đến năm 2020 sẽ tạo ra nền tảng vật chất không ngừng
cải thiện đời sống nhân dân, chăm lo phát triển vùng ven biển, hải đảo, bảo đảm công bằng
11


xã hội nhằm giữ yên lòng dân, củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân vào Đảng và chế
độ xã hội chủ nghĩa.
- Bồi dưỡng nguồn nhân lực, xây dựng tiềm lực khoa học - công nghệ biển.
Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Vì
vậy, bồi dưỡng nguồn nhân lực, xây dựng tiềm lực khoa học - công nghệ biển là việc làm cần
thiết hiện nay để phát triển kinh tế biển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá; đồng
thời đáp ứng yêu cầu xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong tình hình mới.

b) Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh trên biển, đảo
- Tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước trên biển, vùng ven biển.
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Vì vậy, để tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước
trên biển, cần hoàn thiện hệ thống pháp luật về khai thác, quản lý biển với nền kinh tế nhiều
thành phần, nhiều ngành nghề, nhiều vùng, nhiều quy mô, nhiều trình độ; phù hợp với thể

chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đặc điểm của biển, vùng ven biển
nước ta là "mở cửa lớn" để giao lưu với thế giới, đồng thời kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc
phòng, an ninh.
- Xây dựng thế trận kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh trên biển.
Thế trận kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh trên biển là sự bố trí các lượng lượng, các
cơ sở vật chất - kỹ thuật của các ngành kinh tế biển, của quốc phòng, an ninh trên biển và
ven biển theo ý định, quy hoạch và kế hoạch thống nhất, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung
thống nhất của Đảng và Nhà nước trong phạm vi cả nước và trong từng vùng, từng địa
phương, nhằm tạo được sự thuận lợi cho nhau, hỗ trợ lẫn nhau giữa kinh tế với quốc phòng,
an ninh trên biển, bảo đảm sự phát triển nhanh và bền vững của kinh tế biển, đồng thời tăng
cường được sức mạnh bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia trên biển và
vùng ven biển.
- Xây dựng Quân đội nhân dân đáp ứng yêu cầu bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong tình hình
mới. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng xác định: "Xây dựng Quân đội
nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có số
lượng hợp lý, với chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu cao, đồng thời quan tâm xây dựng
lực lượng dự bị động viên hùng hậu, dân quân tự vệ rộng khắp, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ
Tổ quốc trong mọi tình huống".

c) Đẩy mạnh hoạt động đối ngoại và hợp tác quốc tế, tạo lập môi trường thuận lợi để phát
triển: Trước những diễn biến phức tạp trên Biển Đông trong thời gian vừa qua, hoạt động
12


đối ngoại đã và đang đóng vai trò hết sức quan trọng, góp phần to lớn bảo vệ chủ quyền và
lợi ích quốc gia, giữ vững hoà bình và ổn định trên biển.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng khẳng định: Thúc đẩy giải quyết các
vấn đề còn tồn tại về biên giới, lãnh thổ, ranh giới biển và thềm lục địa với các nước liên
quan trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và nguyên tắc ứng xử của
khu vực; làm tốt công tác quản lý biên giới, xây dựng đường biên giới hoà bình, hữu nghị,

hợp tác cùng phát triển. Quán triệt quan điểm của Đảng về đối ngoại trong bảo vệ chủ
quyền biển đảo, cần kiên trì chủ trương nhất quán là mở rộng quan hệ nhiều mặt, song
phương và đa phương với các nước và vùng lãnh thổ, các trung tâm chính trị, kinh tế quốc tế
lớn, các tổ chức quốc tế và khu vực theo các nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, không dùng vũ lực hoặc
đe dọa dùng vũ lực; bình đẳng, cùng có lợi, giải quyết các bất đồng và tranh chấp bằng
thương lượng hoà bình; làm thất bại mọi âm mưu và hành động gây sức ép, áp đặt, bành
trướng.

d) Tăng cường hoạt động pháp lý trên trường quốc tế, tạo cơ sở bảo vệ chủ quyền biển, đảo
bền vững: Hoạt động pháp lý là một lĩnh vực quan trọng trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền
biển, đảo của nước ta hiện nay. Hoạt động pháp lý về biển nhằm thiết lập các điều khoản
cần tuân theo giữa hai hoặc nhiều nước dưới các hình thức luật, hiệp định, công ước, tuyên
bố, thoả thuận... Trong những năm tới, Việt Nam cần tăng cường các hoạt động pháp lý để
đi đến ký kết các hiệp định nhằm giải quyết những vấn đề trên biển với các nước có liên
quan, tạo môi trường thuận lợi, cơ sở pháp lý vững chắc bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ
quốc.

13


Chuyên đề 5: KẾT HỢP PHÁT TRIỂN KINH TẾ – XÃ HỘI VỚI TĂNG CƯỜNG CỦNG
CỐ QUỐC PHÒNG - AN NINH
1. Phân tích tính tất yếu phải kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường
củng cố quốc phòng - an ninh ở nước ta hiện nay?
Kết hợp phát triển kinh tế – xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh ở nước ta
là: hoạt động tích cực, chủ động của Nhà nước và nhân dân trong việc gắn kết chặt chẽ hoạt
động kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh trong một chỉnh thể thống nhất trên phạm vi cả
nước cũng như ở từng địa phương, thúc đẩy nhau cùng phát triển, góp phần tăng cường sức
mạnh tổng hợp của quốc gia, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ

nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta xác định, để thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược
của cách mạng Việt Nam, chúng ta phải kết hợp phát triển kinh tế – xã hội với tăng cường
củng cố quốc phòng - an ninh trong một chính thể thống nhất. Quan điểm trên là hoàn toàn
đúng đắn, sáng tạo, có cơ sở lí luận và thực tiễn.

Cơ sở lí luận của sự kết hợp
Kinh tế, quốc phòng, an ninh là những mặt hoạt động cơ bản của mỗi quốc gia, dân tộc độc
lập có chủ quyền. Mỗi lĩnh vực có mục đích, cách thức hoạt động riêng và chịu sự chi phối
của hệ thống quy luật riêng, song giữa chúng lại có mối quan hệ, tác động qua lại lẫn nhau.
Trong đó, kinh tế là yếu tố suy cho đến cùng quyết định đến quốc phòng - an ninh ; ngược
lại, quốc phòng - an ninh cũng có tác động tích cực trở lại với kinh tế, bảo vệ và tạo điều
kiện thúc đẩy kinh tế phát triển.
Quốc phòng - an ninh không chỉ phụ thuộc vào kinh tế mà còn tác động trở lại với kinh tế –
xã hội trên cả góc độ tích cực và tiêu cực. Quốc phòng - an ninh vững mạnh sẽ tạo môi
trường hoà bình, ổn định lâu dài, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế – xã hội. Quá
trình thực hiện nhiệm vụ quốc phòng - an ninh trong thời bình, ở mức độ nhất định cũng có
tác dụng kích thích kinh tế phát triển. Tiêu dùng cho hoạt động quốc phòng, an ninh, một
mặt, đặt ra cho nền kinh tế phải sản xuất ra sản phẩm, hoặc thông qua mở rộng quan hệ
kinh tế đối ngoại để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nó; mặt khác, sẽ tạo ra thị trường tiêu
thụ sản phẩm của nền kinh tế.
Hoạt động quốc phòng, an ninh tiêu tốn đáng kể một phần nguồn nhân lực, vật lực, tài chính
của xã hội. Những tiêu dùng này, như V.I. Lênin đánh giá, là tiêu dùng "mất đi", không quay
vào tái sản xuất xã hội. Do đó, sẽ ảnh hưởng đến tiêu dùng của xã hội, ảnh hưởng đến sự
phát triển của nền kinh tế. Hoạt động quốc phòng - an ninh còn ảnh hưởng đến đường lối
14


phát triển kinh tế, cơ cấu kinh tế. Hoạt động quốc phòng - an ninh còn có thể dẫn đến huỷ
hoại môi trường sinh thái, để lại hậu quả nặng nề cho kinh tế, nhất là khi chiến tranh xảy ra.

Để hạn chế những tác động tiêu cực này, phải kết hợp tốt tăng cường củng cố quốc phòng an ninh với phát triển kinh tế – xã hội vào một chỉnh thể thống nhất.
Từ sự phân tích trên đây cho thấy, kết hợp phát triển kinh tế – xã hội với tăng cường củng
cố quốc phòng - an ninh là một tất yếu khách quan. Mỗi lĩnh vực hoạt động đều có nội dung,
phương thức riêng nhưng lại có sự thống nhất ở mục đích chung, cái này là điều kiện tồn tại
của cái kia và ngược lại. Tuy nhiên, cần phải nhận thức rõ mỗi lĩnh vực có quy luật phát triển
đặc thù, do đó, việc kết hợp phải được thực hiện một cách khoa học, hợp lí, cân đối và hài
hoà.

Cơ sở thực tiễn của sự kết hợp
Nhìn vào tiến trình phát triển của các quốc gia trên thế giới chúng ta thấy, dù là nước lớn
hay nước nhỏ; kinh tế phát triển hay chưa phát triển; dù chế độ chính trị như thế nào thì mỗi
quốc gia cũng đều chăm lo thực hiện kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc
phòng, an ninh, kể cả những nước mà hàng trăm năm nay chưa hề xẩy ra chiến tranh.
Tuy nhiên, các nước khác nhau, với chế độ chính trị - xã hội khác nhau, điều kiện hoàn cảnh
khác nhau thì sự kết hợp đó cũng có sự khác nhau về mục đích, nội dung, phương thức và
kết quả. Ngay trong một nước, trong mỗi giai đoạn phát triển thì sự kết hợp cũng khác nhau.
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo cách mạng, do nắm vững quy luật và biết
kế thừa kinh nghiệm của lịch sử nên đã thực hiện sự kết hợp phát triển kinh tế xã hội với
tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh một cách nhất quán bằng những chủ trương sáng
tạo, phù hợp với từng thời kì của cách mạng.
Nhờ chính sách nhất quán về thực hiện kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng
cố quốc phòng, an ninh chúng ta đã phát huy được mọi tiềm năng cho xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Trong thời bình, cùng với phát triển kinh tế là chăm lo củng cố tiềm lực quốc
phòng, thế trận quốc phòng. Nhờ vậy, khi đất nước bị xâm lược chúng ta đã động viên được
"cả nước đồng lòng, toàn dân đánh giặc"; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,
tạo thành sức mạnh tổng hợp để chiến thắng kẻ thù. Do vậy đã góp phần giữ gìn và phát
triển đất nước cho đến ngày nay.
2. Phương hướng, nội dung kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng
cố quốc phòng - an ninh ở nước ta hiện nay?
Kết hợp trong xác định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội

15


Kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh phải được thể
hiện ngay trong việc xây dựng chiến lược phát triển kinh tế của quốc gia. Mục tiêu và
phương hướng tổng quát phát triển kinh tế - xã hội nước ta từ năm 2006 - 2010 là "... Phát
huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng
tốt mọi nguồn lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; phát triển văn hoá; thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội; tăng cường quốc phòng và an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại;
chủ động và tích cực hội nhập kinh tế thế giới; giữ vững ổn định chính trị - xã hội, sớm đưa
nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại".
Như vậy, trong mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đã bao quát toàn diện các vấn
đề của đời sống xã hội, trong đó nổi lên ba vấn đề lớn là: tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ
xã hội, tăng cường quốc phòng - an ninh và mở rộng quan hệ đối ngoại nhằm giải quyết hài
hoà hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Sự kết hợp phát triển kinh tế – xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh trong
chiến lược phát triển kinh tế được thể hiện ngay trong việc hoạch định mục tiêu phát triển
quốc gia, trong huy động nguồn lực, trong lựa chọn và thực hiện các giải pháp chiến lược.
Sự kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh sẽ phát huy sức
mạnh của từng lĩnh vực, kết hợp với nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp, quy tụ mọi nguồn
lực, lực lượng trong nước và quốc tế nhằm hoàn thành thắng lợi mục tiêu của chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020.

Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh trong phát
triển các vùng lãnh thổ
Kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh theo vùng
lãnh thổ là sự gắn kết chặt chẽ phát triển vùng kinh tế chiến lược, với xây dựng vùng chiến
lược quốc phòng, an ninh, nhằm tạo ra thế bố trí chiến lược mới cả về kinh tế lẫn quốc
phòng, an ninh trên từng vùng lãnh thổ, trên địa bàn tỉnh, thành phố, theo ý đồ phòng thủ

chiến lược bảo vệ Tổ quốc Việt Nam vững trên toàn cục và mạnh ở từng trọng điểm.
Hiện nay, nước ta đã phân chia thành các vùng kinh tế lớn và các vùng chiến lược, các quân
khu (sự phân vùng chiến lược quốc phòng, an ninh là sự phân vùng theo ý đồ phòng thủ và
tác chiến bảo vệ Tổ quốc trên từng chiến trường, từng hướng chiến lược của đất nước). Mỗi
vùng đều có vị trí chiến lược về phát triển kinh tế và chiến lược phòng thủ bảo vệ Tổ quốc. Vì
vậy, về lâu dài đều phải quan tâm chỉ đạo kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế xã hội với
16


xây dựng lực lượng, thế trận quốc phòng - an ninh trên từng vùng lãnh thổ và giữa các vùng
với nhau, trong thế trận phòng thủ chung.
Các vùng chiến lược khác nhau có sự khác nhau về đặc điểm và yêu cầu nhiệm vụ phát triển
kinh tế, quốc phòng, an ninh, nên nội dung kết hợp cụ thể trong mỗi vùng có thể có sự khác
nhau. Song việc kết hợp phát triển kinh tế – xã hội với quốc phòng, an ninh ở các vùng lãnh
thổ, cũng như ở địa bàn mỗi tỉnh, thành phố phải được thể hiện những nội dung chủ yếu
sau:
Một là, kết hợp trong xây dựng chiến lược, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội với
quốc phòng, an ninh của vùng, cũng như trên địa bàn từng tỉnh, thành phố.
Hai là, kết hợp trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng, cơ cấu kinh tế địa phương
với xây dựng các khu vực phòng thủ then chốt, các cụm chiến đấu liên hoàn, các xã phường
chiến đấu trên địa bàn của các tỉnh, thành phố, huyện, quận.
Ba là, kết hợp trong quá trình phân công lại lao động của vùng, phân bố lại dân cư với tổ
chức xây dựng và điều chỉnh, sắp xếp bố trí lại lực lượng quốc phòng, an ninh trên từng địa
bàn, lãnh thổ cho phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội và kế hoạch phòng thủ
bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm ở đâu có đất, có biển, đảo là ở đó có dân và có lực lượng quốc
phòng, an ninh để bảo vệ cơ sở, bảo vệ Tổ quốc.
Bốn là, kết hợp đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế với xây dựng các công trình quốc
phòng, quân sự, phòng thủ dân sự, thiết bị chiến trường... Bảo đảm tính "lưỡng dụng" trong
mỗi công trình được xây dựng.
Năm là, kết hợp xây dựng các cơ sở, kinh tế vững mạnh toàn diện, rộng khắp với xây dựng

các căn cứ chiến đấu, căn cứ hậu cần, kĩ thuật và hậu phương vững chắc cho mỗi vùng và ở
các địa phương để sẵn sàng đối phó khi có chiến tranh xâm lược.
Trên cơ sở kết hợp quan điểm toàn cục nói trên, xuất phát từ sự phân tích đặc điểm tiềm
năng phát triển kinh tế cũng như vị trí địa lí, chính trị, quân sự, quốc phòng, an ninh của các
vùng lãnh thổ trong cả nước, hiện nay Đảng ta xác định phải chú trọng nhiều hơn cho các
vùng kinh tế trọng điểm, vùng biển đảo và vùng biên giới.

Đối với các vùng kinh tế trọng điểm
Nội dung kết hợp cần tập trung vào các vấn đề sau:
- Trong quy hoạch, kế hoạch xây dựng các thành phố, các khu công nghiệp cần lựa chọn
quy mô trung bình, bố trí phân tán, trải đều trên diện rộng, không nên xây dựng tập trung
thành những siêu đô thị lớn, để thuận lợi cho quản lí, giữ gìn an ninh chính trị trong thời bình
và hạn chế hậu quả tiến công hoả lực của địch khi có chiến tranh.
17


- Phải kết hợp chặt chẽ trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế với kết cấu hạ tầng của nền
quốc phòng toàn dân. Gắn xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế với xây dựng các công trình
phòng thủ, các thiết bị chiến trường, các công trình phòng thủ dân sự...Về lâu dài, ở các
thành phố, đô thị, các khu kinh tế tập trung, cần có quy hoạch từng bước xây dựng hệ thống
"công trình ngầm lưỡng dụng". Phải bảo vệ, bảo tồn các địa hình, địa vật, các khu vực có giá
trị về phòng thủ, khi bố trí các cơ sở sản xuất, các công trình kinh tế, phê duyệt dự án đầu
tư nước ngoài. Khắc phục tình trạng chỉ chú ý quan tâm đến lợi thế, hiệu quả kinh tế trước
mắt mà quên đi nhiệm vụ quốc phòng - an ninh và ngược lại khi bố trí các khu vực phòng
thủ, các công trình quốc phòng, chỉ chú ý đến các yếu tố bảo đảm quốc phòng, an ninh mà
không tính đến đến lợi ích kinh tế.
- Trong quá trình xây dựng các khu công nghiệp tập trung, đặc khu kinh tế phải có sự gắn
kết với quy hoạch xây dựng lực lượng quốc phòng- an ninh, các tổ chức chính trị, đoàn thể
ngay trong các tổ chức kinh tế đó. Lựa chọn đối tác đầu tư, bố trí xen kẽ, tạo thế đan cài lợi
ích giữa các nhà đầu tư nước ngoài trong các khu công nghiệp, đặc khu kinh tế, khu chế

xuất.
- Việc xây dựng, phát triển kinh tế ở các vùng kinh tế trọng điểm phải nhằm đáp ứng phục
vụ nhu cầu dân sinh thời bình và cả cho việc chuẩn bị đáp ứng nhu cầu chi viện cho các
chiến trường khi chiến tranh xảy ra. Kết hợp phát triển kinh tế tại chỗ với xây dựng căn cứ
hậu phương của từng vùng kinh tế trọng điểm để sẵn sàng chủ động di dời, sơ tán đến nơi
an toàn khi có tình huống chiến tranh xâm lược.
Đối với vùng núi biên giới
Việc kết hợp cần tập trung vào các nội dung sau:
- Phải quan tâm đầu tư phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, an ninh ở các vùng cửa
khẩu, các vùng giáp biên giới với các nước.
- Phải tổ chức tốt việc định canh, định cư tại chỗ và có chính sách phù hợp để động viên,
điều chỉnh dân số từ các nơi khác đến vùng núi biên giới
- Tập trung xây dựng các xã trọng điểm về kinh tế và quốc phòng, an ninh. Trước hết, cần
tập trung xây dựng phát triển hệ thống hạ tầng cơ sở, mở mới và nâng cấp các tuyến đường
dọc, ngang, các tuyến đường vành đai kinh tế.
- Thực hiện tốt chương trình xoá đói, giảm nghèo, chương trình 135 về phát triển kinh tế - xã
hội đối với các xã nghèo
- Đối với những nơi có địa thế quan trọng, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn, cần kết
hợp mọi nguồn lực, mọi lực lượng của cả Trung ương và địa phương để cùng lo, cùng làm.
18


- Đặc biệt với các địa bàn chiến lược trọng yếu dọc sát biên giới, cần có chính sách động viên
và sử dụng lực lượng vũ trang, lực lượng quân đội làm nòng cốt xây dựng các khu kinh tế
quốc phòng, hoặc các khu quốc phòng - kinh tế, nhằm tạo thế và lực mới cho phát triển kinh
tế xã hội và tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh.

Đối với vùng biển đảo.
Nội dung kết hợp cần tập trung vào các vấn đề sau:
- Tập trung trước hết vào xây dựng, hoàn thiện chiến lược phát triển kinh tế và xây dựng thế

trận quốc phòng, an ninh bảo vệ biển, đảo trong tình hình mới, làm cơ sở cho việc thực hiện
kết hợp kinh tế xã hội với quốc phòng, an ninh một cách cơ bản, toàn diện, lâu dài.
- Xây dựng quy hoạch, kế hoạch từng bước đưa dân ra vùng ven biển và các tuyến đảo gần
trước để có lực lượng xây dựng căn cứ hậu phương, trụ bám phát triển kinh tế và bảo vệ
biển, đảo một cách vững chắc, lâu dài.
- Nhà nước phải có cơ chế chính sách thoả đáng động viên, khích lệ dân ra đảo trụ bám làm
ăn lâu dài.
- Phát triển các loại hình dịch vụ trên biển, đảo, tạo điều kiện cho dân bám trụ, sinh sống,
làm ăn.
- Xây dựng cơ chế, chính sách tạo điều kiện mở rộng liên kết làm ăn kinh tế ở vùng biển, đảo
thuộc chủ quyền nước ta với các nước phát triển, nhằm tạo ra các đối tác đan xen lợi ích và
đối tượng chống lại sự lấn lướt của các nước lớn. Thông qua đó, vừa thể hiện chủ quyền của
nước ta, vừa hạn chế âm mưu bành trướng lấn chiếm biển đảo của các thế lực thù địch, tạo
thế và lực để giải quyết hoà bình các tranh chấp trên biển, đảo.
- Chú trọng đầu tư phát triển chương trình đánh bắt xa bờ, thông qua đó xây dựng lực lượng
dân quân biển, các hải đoàn tự vệ của ngành Hàng hải, Cảnh sát biển, kiểm tra, kiểm soát,
ngăn chặn kịp thời những hoạt động vi phạm chủ quyền biển, đảo của nước ta,... Xây dựng
một số đơn vị kinh tế - quốc phòng mạnh trên biển, đảo để làm nòng cốt cho phát triển kinh
tế biển và tạo thế bảo vệ biển, đảo vững chắc.
- Xây dựng phương án đối phó với các tình huống có thể xảy ra ở vùng biển, đảo nước ta.
Mạnh dạn đầu tư xây dựng lực lượng nòng cốt và thế trận phòng thủ trên biển, đảo, trước
hết là phát triển và hiện đại hoá lực lượng Hải Quân nhân dân Việt Nam để đủ sức mạnh
canh giữ, bảo vệ vùng biển, đảo.
3. Phân tích các giải pháp chủ yếu thực hiện kết hợp phát triển kinh tế xã hội với
tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh ở Việt Nam hiện nay?
19


Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lí nhà nước của chính quyền các cấp
trong thực hiện kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an

ninh:
Vai trò lãnh đạo của các cấp uỷ đảng trong việc kết hợp được thể hiện ở chỗ:
- Thường xuyên nắm vững chủ trương đường lối của Đảng, kịp thời đề ra những quyết định
lãnh đạo ngành, địa phương mình, thực hiện kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường
củng cố quốc phòng - an ninh một cách đúng đắn.
- Gắn chủ trương lãnh đạo với tăng cường kiểm tra việc thực hiện của chính quyền, đoàn
thể, các tổ chức kinh tế thực hiện chủ trương đường lối về kết hợp phát triển kinh tế xã hội
với tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh.
- Tổ chức tốt việc sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm kịp thời để bổ sung chủ trương và chỉ đạo
thực thực hiện kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng - an
ninh ở ngành, địa phương thuộc phạm vi lãnh đạo của các cấp uỷ đảng.
Để nâng cao hiệu lực quản lí nhà nước của chính quyền các cấp trong kết hợp phát triển kinh
tế xã hội với tăng cường, củng cố quốc phòng - an ninh phải:
- Từng cấp phải làm đúng chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật và Nghị định
119/2004/NĐ-CP của Chính phủ đã ban hành ngày 11/5/2004.
- Xây dựng và chỉ đạo thực hiện các quy hoạch, kế hoạch kết hợp phát triển kinh tế xã hôi
với tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh ở ngành, bộ, địa phương cơ sở của mình dài
hạn và hàng năm.
- Đổi mới nâng cao quy trình, phương pháp quản lí, điều hành của chính quyền các cấp từ
khâu lập quy hoạch, kế hoạch, nắm tình hình, thu thập xử lí thông tin, định hướng hoạt
động, tổ chức hướng dẫn chỉ đạo cấp dưới và kiểm tra ở mọi khâu, mọi bước của quá trình
thực hiện kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh ở
ngành, địa phương mình.

Bồi dưỡng nâng cao kiến thức, kinh nghiệm kết hợp phát triển kinh tế – xã hội với tăng
cường củng cố QP - AN cho các đối tượng:
Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu và đang là đòi hỏi cấp thiết đối với cán bộ và nhân
dân cả nước ta hiện nay.
- Đối tượng bồi dưỡng: phải phổ cập kiến thức quốc phòng – an ninh cho toàn dân nhưng
trước hết phải tập trung vào đội ngũ cán bộ chủ trì các cấp, các bộ, ngành, đoàn thể từ

Trung ương đến địa phương, cơ sở.
20


- Nội dung bồi dưỡng: phải căn cứ vào đối tượng, yêu cầu nhiệm vụ đặt ra để chọn lựa nội
dung, chương trình bồi dưỡng cho phù hợp và thiết thực nhằm nâng cao cả kiến thức, kinh
nghiệm và năng lực thực tiễn sát với cương vị đảm nhiệm với từng loại đối tượng và quần
chúng nhân dân.
- Hình thức bồi dưỡng: phải kết hợp bồi dưỡng tại trường với tại chức, kết hợp lí thuyết với
thực hành. Thông qua sinh hoạt chính trị, qua các cuộc diễn tập thực nghiệm, thực tế ở các
bộ, ngành, địa phương cơ sở để nâng cao hoàn thiện sự hiểu biết và năng lực tổ chức thực
hiện của đội ngũ cán bộ và của toàn dân, toàn quân về kết hợp phát triển kinh tế xã hội với
tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh trong tình hình mới.

Xây dựng chiến lược tổng thể kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố
quốc phòng, an ninh trong thời kì mới
Hiện nay, nước ta đã và đang xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội gắn với tăng
cường củng cố quốc phòng - an ninh đến năm 2020. Thực tiễn cho thấy, sự vận dụng tính
quy luật kinh tế, quốc phòng, an ninh và quán triệt quan điểm kết hợp của Đảng đã đề ra
còn nhiều mâu thuẫn và bất cập do thiếu định hướng chiến lược cơ bản cả ở tầm vĩ mô và vi
mô. Vì vậy, muốn kết hợp ngay từ đầu và trong suốt quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước một cách cơ bản và thống nhất trên phạm vi cả nước và từng địa
phương, phải tiếp tục xây dựng và hoàn chỉnh các quy hoạch và kế hoạch chiến lược tổng
thể quốc gia về kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh. Coi
đó là một trong những khâu quan trọng hàng đầu để chỉ đạo, quản lí nhà nước, về kết hợp
phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh một cách có hiệu lực, hiệu
quả.

Hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách có liên quan đến thực hiện kết hợp phát
triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh trong tình hình mới

Mọi chủ trương đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta có liên quan đến kết hợp xây
dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc, kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố
quốc phòng, an ninh đều phải được thể chế hoá thành luật pháp, pháp lệnh, nghị định, văn
bản dưới luật một cách đồng bộ, thống nhất để quản lí và tổ chức thực hiện nghiêm túc có
hiệu lực và hiệu quả trong cả nước.
Đảng và Nhà nước phải có chính sách khai thác các nguồn lực và vốn đầu tư cả trong và
ngoài nước để thực hiện kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc
phòng, an ninh; nhất là đối với các công trình trọng điểm, ở những địa bàn chiến lược trọng
yếu như miền núi biên giới và hải đảo.
21


Phải có chính sách khuyến khích lợi ích vật chất và tinh thần đối với các tổ chức, cá nhân,
các nhà đầu tư (cả trong và ngoài nước) có các đề tài khoa học, các dự án công nghệ sản
xuất, xây dựng có ý nghĩa lưỡng dụng hoá cao phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa trong thời kì mới.

Củng cố kiện toàn và phát huy vai trò tham mưu của cơ quan chuyên trách quốc phòng, an
ninh các cấp
Căn cứ vào Nghị định 119/2004/NĐ-CP ngày 11/5/2004 của Chính phủ về Công tác quốc
phòng ở các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan trực thuộc chính phủ và các địa phương. Cần
nghiên cứu bổ sung mở rộng thêm chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan chuyên trách quản
lí nhà nước về quốc phòng, an ninh nói chung và về kết hợp phát triển kinh tế - xã hội gắn
với tăng cường, củng cố quốc phòng, an ninh nói riêng trong thời kì mới.
Kết hợp chặt chẽ giữa chấn chỉnh, kiện toàn tổ chức với chăm lo bồi dưỡng nâng cao năng
lực và trách nhiệm của các cơ quan và cán bộ chuyên trách làm tham mưu cho Đảng, Nhà
nước về thực hiện kết hợp phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường củng cố quốc
phòng, an ninh ngang tầm với nhiệm vụ trong thời kì mới.
Để thực hiện tốt việc kết hợp, cần quán triệt và thực hiện đồng bộ các giải pháp, trong đó
phải quán triệt sâu sắc hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam cho toàn dân, nhất

là cho học sinh, sinh viên - những người quyết định tương lai của đất nước. Quá trình kết
hợp phải được triển khai có kế hoạch, có cơ chế chính sách cụ thể, chặt chẽ, đồng bộ.

22


Chuyên đề 6: ĐƯỜNG LỐI, QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN, CHÍNH SÁCH, PHÁP
LUẬT CỦA NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỀ DÂN TỘC, TÔN GIÁO GẮN VỚI QUỐC PHÒNG,
AN NINH TRONG TÌNH HÌNH MỚI
1. Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về dân tộc, giải quyết vấn đề dân tộc.

Vấn đề dân tộc là những nội dung nảy sinh mâu thuẫn trong quan hệ giữa các tộc người
trong nội bộ quốc gia dân tộc và giữa các quốc gia dân tộc với nhau trong quan hệ quốc tế,
diễn ra trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội tác động, ảnh hưởng xấu đến mỗi tộc người và mối
quan hệ tộc người, quốc gia dân tộc đòi hỏi các nhà nước phải quan tâm giải quyết.

Thực chất của vấn đề dân tộc là mâu thuẫn, xung đột lợi ích giữa các dân tộc, các quốc gia
dân tộc, nhất là về các quyền cơ bản của các dân tộc: quyền được tồn tại với tính cách là
một tộc người, dân tộc; quyền độc lập của tộc người, dân tộc; quyền dân tộc tự quyết,
quyền dân tộc bình đẳng; quyền độc lập về kinh tế và những điều kiện để phát triển kinh tế
lâu dài, bền vững; quyền giữ gìn và phát triển ngôn ngữ, văn hóa tộc người, dân tộc...

Vấn đề dân tộc có vị trí chiến lược trong cách mạng xã hội chủ nghĩa , gắn liền với việc thực
hiện sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân. Giải quyết vấn đề dân tộc quan hệ mật
thiết với vấn đề giai cấp của giai cấp công nhân, phù hợp với lợi ích cơ bản của nhân dân lao
động và của dân tộc; vừa là mục đích tr¬ước mắt vừa là nhiệm vụ lâu dài; vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Thực chất giải quyết vấn đề dân tộc trong chủ nghĩa xã hội là xác lập quyền dân tộc cơ bản
tạo nên những quan hệ công bằng, bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng nhau giữa các dân tộc

trong quốc gia đa dân tộc và giữa các quốc gia dân tộc với nhau trong quan hệ quốc tế trên
mọi lĩnh vực đời sống xã hội, nhằm thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân.

- Các nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề dân tộc trong chủ nghĩa xã hội
V.I.Lênin đã xác định các nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề dân tộc trong chủ nghĩa xã hội
là: các dân tộc hoàn toàn bình đẳng, các dân tộc được quyền tự quyết, liên hiệp công nhân
các dân tộc.

Nguyên tắc các dân tộc hoàn toàn bình đẳng. Bình đẳng là quyền thiêng liêng của các
dân tộc. Các dân tộc dù đa số hay thiểu số, trình độ phát triển kinh tế - xã hội cao hay thấp
đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau, không một dân tộc nào được giữ đặc quyền đặc
lợi và áp bức bóc lột dân tộc khác. Quyền bình đẳng giữa các dân tộc phải được pháp luật
bảo vệ và được thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
23


Nguyên tắc các dân tộc được quyền tự quyết. Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm
chủ của mỗi dân tộc đối với vận mệnh của dân tộc mình, quyền tự quyết định, lựa chọn chế
độ chính trị - xã hội và con đường phát triển của dân tộc mình mà không một dân tộc nào
khác có quyền can thiệp. Quyền dân tộc tự quyết bao gồm quyền tự quyết định tách ra
thành lập một quốc gia dân tộc độc lập và quyền tự nguyện liên hiệp với các dân tộc khác
trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi. Khi xem xét và giải quyết quyền tự quyết của các dân tộc,
phải đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, đảm bảo lợi ích dân tộc và lợi ích
của giai cấp công nhân, tránh bị kẻ thù lợi dụng chia rẽ đoàn kết dân tộc.

Nguyên tắc liên hiệp, đoàn kết công nhân các dân tộc. Liên hiệp công nhân tất cả các
dân tộc là điều kiện tiên quyết thực hiện quyền bình đẳng và quyền tự quyết của các dân
tộc. Đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc là đoàn kết lực lượng nòng cốt của phong trào
đấu tranh cho tiến bộ, hòa bình và phát triển. Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc là cơ sở

vững chắc để đoàn kết các tầng lớp nhân dân lao động thuộc các dân tộc trong cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa đế quốc vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội và vì lợi ích của chính giai
cấp công nhân.
2. Đặc điểm dân tộc Việt Nam; chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta.
Trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước vĩ đại, do điều kiện tự nhiên, xã hội, lịch sử chi phối,
các dân tộc ở Việt Nam đã đoàn kết trong sản xuất và chiến đấu, tạo nên những đặc điểm
dân tộc quý báu.

Việt Nam là quốc gia có nhiều dân tộc cùng sinh sống; các dân tộc đoàn kết, tôn trọng, giúp
đỡ nhau trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước.
Các dân tộc ở nước ta, không phân biệt đa số hay thiểu số đã gắn bó lâu đời, đồng cam
cộng khổ trong lao động sản xuất, chiến đấu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần bồi đắp
nên truyền thống yêu nước, anh hùng, đoàn kết, cần cù, sáng tạo, giàu lòng nhân ái, tôn
trọng giúp đỡ lẫn nhau. Trong lịch sử dân tộc ta không có các cuộc chiến tranh dân tộc,
chiến tranh tôn giáo. Trái lại, trước họa ngoại xâm, các tộc người không phân biệt miền xuôi,
miền ngược, đa số và thiểu số đều đoàn kết chiến đấu để giành và giữ độc lập dân tộc.

Các dân tộc ở Việt Nam cư trú xen ghép; các dân tộc thiểu số chủ yếu cư trú trên các vùng
rừng núi, biên giới, có vị trí quan trọng trên mọi lĩnh vực.
Do điều kiện tự nhiên, lịch sử chi phối, nhiều dân tộc di cư vào Việt Nam ở các thời điểm
khác nhau, tạo nên hình thái cư trú xen ghép nhau trong phạm vi của tỉnh, huyện, xã và cả
các ấp, bản, mường. Tình trạng cư trú xen ghép giữa các dân tộc là điều kiện thuận lợi cơ
bản để tăng cường quan hệ mọi mặt giữa các dân tộc, xây dựng các cộng đồng dân tộc ngày
24


càng gắn bó bền vững, cùng nhau tiến bộ và phát triển, sự hoà hợp dân tộc tăng lên, sự
cách biệt về trình độ phát triển từng bước thu hẹp lại.

Các dân tộc có trình độ phát triển kinh tế - xã hội không đều nhau.

Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trong khi một số dân tộc sống chủ yếu dựa vào
săn bắt, lượm hái, như dân tộc La Hủ, dân tộc Chứt, thì nhiều dân tộc đã tiến sang hoạt
động kinh tế sản xuất, với nghề chính là trồng trọt, nương rẫy, lúa nước. Về chế độ xã hội,
cho đến giữa thế kỷ XX, còn nhiều dân tộc thiểu số đang trong giai đoạn cuối của xã hội
nguyên thủy; một số dân tộc đã có sự phân hóa giai cấp như: chế độ lang đạo ở dân tộc
Mường, chế độ phìa tạo ở dân tộc Thái, chế độ thổ ty của dân tộc Tày; một số dân tộc đã có
nhà nước hàng ngàn năm như: dân tộc Kinh, dân tộc Chăm, dân tộc Hoa...

Mỗi dân tộc đều có ngôn ngữ và sắc thái văn hoá riêng, góp phần tạo nên nền văn hoá Việt
Nam đậm đà bản sắc dân tộc.
Các tộc người ở Việt Nam thường sử dụng song ngữ hay đa ngữ. Tiếng Việt là quốc ngữ,
được dùng làm phương tiện giao tiếp của tất cả các dân tộc, tiếng mẹ đẻ của từng dân tộc
vẫn được tôn trọng.
Do chung sống trong cùng một điều kiện tự nhiên xã hội, cùng chung vận mệnh dân tộc, nên
các dân tộc ở Việt Nam đều có những giá trị văn hoá tinh thần chung, thống nhất như: tình
đoàn kết, cố kết cộng đồng, lối sống thương người như thể thương thân, phẩm chất cần cù
chịu khó, gan dạ, dũng cảm, giỏi chịu đựng, nhân nghĩa khoan dung, yêu chuộng hoà bình, ý
thức tự hào dân tộc.
3. Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo, giải quyết vấn đề tôn giáo.

Trong chủ nghĩa xã hội, tôn giáo còn tồn tại, nhưng đã có những biến đổi tích cực: Trong
chủ nghĩa xã hội tôn giáo còn tồn tại bởi các nguyên nhân sau: Chủ nghĩa xã hội, nhất là ở
thời kỳ quá độ, tuy đã có những biến đổi căn bản về kinh tế - xã hội, nhưng vẫn chưa thể
nào giải quyết triệt để các nguồn gốc phát sinh, tồn tại của tôn giáo; sự tồn tại nhiều thành
phần kinh tế với những lợi ích khác nhau, bất bình đẳng về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội
vẫn còn. Một bộ phận nhân dân vẫn còn bất lực trước những khó khăn, bất hạnh; nhiều hiện
tượng tự nhiên, xã hội chưa lý giải được. Tín ngưỡng, tôn giáo vẫn còn có khả năng đáp ứng
nhu cầu văn hóa, tinh thần và có ý nghĩa nhất định về giáo dục ý thức cộng đồng, đạo đức,
phong cách, lối sống. Ngoài ra, do những yếu kém trong thực hiện chính sách kinh tế - xã
hội của các đảng cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa; sự nuôi dưỡng lợi dụng tôn giáo

của các thế lực thù địch... Đó là những nguyên nhân chủ yếu cho tôn giáo tồn tại trong chủ
nghĩa xã hội.
25


×