Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Tư duy đổi mới của Đảng về quốc phòng an ninh giai đoạn mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.09 KB, 14 trang )

Sự nghiệp đổi mới ở nước ta dưới sự lãnh đạo của đảng, trong đó đổi mới
tư duy trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân bảo vệ Tổ quốc XHCN
làm cơ sở đề ra quan điểm mục tiêu, tư tưởng chỉ đạo, nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc.
Chăm lo củng cố quốc phòng và an ninh là yêu cầu khách quan trong sự nghiệp
đổi mới ở Việt Nam, đó là sự vận dụng trung thành và sâu sắc lý luận Chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa xây dựng Chủ nghĩa
xó hội (CNXH) và bảo vệ thành quả cách mạng. Qua đó, khẳng định vai trò to
lớn của nền quốc phòng – an ninh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc
Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa (XHCN). Lịch sử ra đời, tồn tại và phát triển của
dân tộc ta luôn gắn liền và tuân theo quy luật: Dùng nước đi đôi với giữ nước,
Xây dựng đất nước đi đôi với bảo vệ Tổ quốc. Trong công cuộc đổi mới cùng
với nhiệm vụ xây dựng đất nước theo con đường XHCN phải luôn luôn coi
trọng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Tư duy mới về nhiệm vụ bảo
vệ Tổ quốc, về xây dựng nền quốc phòng toàn dân luôn được Đảng ta quan tâm
coi trọng. Qua 20 năm đổi mới, tư duy bảo vệ Tổ quốc của chúng ta đã có sự
phát triển và đổi mới mạnh mẽ. Chúng ta ngày càng nhận thức sâu sắc, đẩy đủ
và toàn diện hơn về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong thời bình; về những yếu tố
cấu thành và những chủ trương, biện pháp tạo nên sức mạnh quốc phòng của đất
nước trong điều kiện mới. Chúng ta cũng ngày càng thấy rõ hơn vai trò quan
trọng của an ninh và đối ngoại, sự cần thiết kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng
với an ninh và đối ngoại, giữa quốc phòng, an ninh, đối ngoại với xây dựng kinh
tế. Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa không chỉ là đối phó với hành động vũ
trang xâm lược của kẻ địch từ bên ngoài, mà còn phải đặc biệt chăm lo xây
dựng và giữ vững bên trong, đối phó với những thủ đoạn phi vũ trang của địch.
Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc không chỉ là sức mạnh của lực lượng vũ trang mà là
sức mạnh tổng hợp của quốc gia và chế độ, lấy sức mạnh kinh tế, chính trị làm
cơ sở.
Sự nghiệp đổi mới ở nước ta dưới sự lãnh đạo của đảng, trong đó đổi mới tư
duy trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân bảo vệ Tổ quốc XHCN làm cơ sở
đề ra quan điểm mục tiêu, tư tưởng chỉ đạo, nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc. Do đó, sự


nghiệp bảo vệ Tổ quốc XHCN ở nước ta sau hơn 20 năm đã thu được những
thành tựu to lớn: giữ vững ổn định về chính trị, ngăn chặn và đẩy lùi nguy cơ
chiến tranh, từng bước làm thất bại âm mưu "diễn biến hoà bình", bạo loạn lật
đổ của chủ nghĩa đế quốc (CNĐQ) và các thế lực thù địch, nền quốc phòng toàn
dân, thế trận quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh


nhân dân ngày càng được củng cố vững chắc. Những thành tựu đó dã tạo ra môi
trường thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng CNXH trong công cuộc đổi mới.
Tiếp tục đổi mới tư duy về xây dựng nền quốc phòng toàn dân bảo vệ Tổ quốc
XHCN đáp ứng yêu cầu sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới là một tất yếu
khách quan. Quá trình đổi mới tư duy về xây dựng nền quốc phòng toàn dân
bảo vệ Tổ quốc của Đảng xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn cách mạng.
Nhận thức và kế thừa truyền thống dựng nước đi đôi với giữ nước của dân tộc,
vận dụng sáng tạo học thuyết bảo vệ Tổ quốc XHCN của Lênin vào thực tiễn
Việt Nam, Hồ Chí Minh đã khẳng định tính tất yếu và tầm quan trọng của
nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ Tổ quốc. Ngay trong bản
Tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945, Người trịnh trọng tuyên bố với thế giới về
quyền tự do, độc lập của nước Việt Nam và khẳng định quyết tâm sắt đá của
nhân dân ta: "Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực
lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Cơ sở của việc tăng cường quốc phòng và an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc,
xuất phát từ đòi hỏi của sự phát triển phức tạp của tình hình thế giới và diễn
biến mới của tình hình trong nước có liên quan đến quốc phòng và an ninh quốc
gia.
Sau khi CNXH ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ làm cho CNXH hiện thực tạm
thời lâm vào thoái trào, so sánh tương quan lực lượng hiện nay có lợi cho
CNĐQ. Nhân cơ hội này, CNĐQ càng điên cuồng chống phá cách mạng thế
giới. Đế quốc Mỹ âm mưu thiết lập một trật tự "thế giới một cực” do Mỹ đứng
đầu, khẳng định ưu thế tuyệt đối của Mỹ về quân sự, chính trị và kinh tế, đe doạ

độc lập chủ quyền các quốc gia. Mỹ ngang nhiên can thiệp thô bạo vào công
việc nội bộ các nước, kích động chủ nghĩa ly khai. Lợi dụng tình hình xung đột
tôn giáo, sắc tộc, dân tộc, chống khủng bố để can thiệp và tiến hành chiến tranh
ở nhiều nơi, tạo ra tiền lệ nguy hiểm đe doạ an ninh, hoà bình thế giới.
Nằm trong khu vực Đông Nam Châu á, Việt Nam với một vị trí địa - chính trị,
quân sự, kinh tế quan trọng là điều kiện thuận lợi để chúng ta mở rộng quan hệ
với các nước; tuy nhiên, các thế lực thù địch vẫn tìm mọi thủ đoạn chống phá
nước ta. Với mục tiêu "chiến thắng không cần chiến tranh”, thực hiện "triệt để
kẻ thù cũ”, Mỹ và các thế lực thù địch đang thực hiện chiến lược "Diễn biến hoà
bình”, bạo loạn lật đổ chống cách mạng nước ta bằng thủ đoạn thâm hiểm. Vì
vậy, Đảng ta xác định: "Diễn biến hoà bình” là một trong bốn nguy cơ lớn đối
với cách mạng nuớc ta.
Ở Việt Nam, qua hơn 20 năm đổi mới, Đảng và nhân dân ta đã đạt được nhiều


thành tựu quan trọng cụ thể là: Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ đất nước được giữ vững, vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ XHCN; Bên
cạnh đó vẫn còn có những biểu hiện, thách thức mà chúng ta phải giải quyết. Cụ
thể như: Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng, đạo
đức, lối sống, giảm sút ý chí chiến đấu, tham nhũng, quan liêu, mơ hồ, mất cảnh
giác.
. Mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân xảy ra ở nhiều địa phương làm ảnh hưởng
xấu đến an ninh trật tự và ổn định xã hội, việc tranh chấp khiếu kiện, mất đoàn
kết nội bộ ở một số địa phương dễ bị kẻ thù lợi dụng; Bọn phản động gây rối,
chống Đảng và Nhà nước … đú là những nhân tố có thể gây khó khăn không
nhỏ cho sự nghiệp ổn định và phát triển đất nước.
Mặt khác, sự phát triển tư duy trong xác định đường lối xây dựng nền quốc
phòng toàn dân còn do đòi hỏi của chính thực trạng nền quốc phòng toàn dân và
thế trận quốc phòng toàn dân của ta những năm qua đặt ra.
Theo đánh giá của Đảng ta tại Đại hội IX, nhiệm vụ quốc phòng an ninh những

năm qua đã đạt những ưu điểm, kết quả là: Tình hình chính trị - xã hội cơ bản
ổn định, quốc phòng và an ninh được tăng cường. Các lực lượng vũ trang nhân
dân làm tốt nhiệm vụ bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm an
ninh quốc gia. Sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh
nhân dân, nhất là trên các địa bàn chiến lợi, biên giới, biển đảo được phát huy.
Tổ chức Quân đội và Công an được điều chỉnh theo yêu cầu mới. Việc kết hợp
quốc phòng và an ninh với phát triển kinh tế và công tác đối ngoại có sự phát
triển tốt.
Tuy nhiên, theo Báo cáo Chính trị tại Đại hội Đảng bộ toàn quân lần thứ VII
nhận định: Đứng trước yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong
tình hình mới.Đứng trước yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong
tình hình mới. Sự nghiệp củng cố quốc phòng, xây dựng quân đội còn bộc lộ
những yếu kém và khuyết điểm cần khắc phục là: Nền quốc phòng toàn dân, thế
trận quốc phòng toàn dân, tuy được củng cố nhưng chưa toàn diện và chưa thật
vững chắc. Chậm hình thành thống nhất chiến lược gắn quốc phòng - an ninh
với phát triển kinh tế - xã hội...Khả năng, sức mạnh, trình độ sẵn sàng chiến
đấu, sức cơ động chưa cao.
Qua phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn ta thấy: Tăng cường quốc phòng và an
ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN là đòi hỏi khách quan trong
công cuộc đổi mới.
Tư duy mới của Đảng về xác định đối tượng, nhiệm vụ, lực lượng, phương thức
xây dựng nền quốc phòng toàn dân


Quán triệt đường lối của Đảng ta qua các thời kỳ lịch sử và xuất phát từ cuộc
đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp ở nước ta từ sau năm 1975 đến nay đặc
biệt từ Đại hội Đảng VI (12.1986), tư duy mới của Đảng về xây dựng nền quốc
phòng toàn dân bảo vệ tổ quốc có sự phát triển từng mạnh mẽ cùng quá trình
đổi mới của đất nước, đã góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng CNXH và
bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam XHCN.

Đại hội VI của Đảng chỉ rõ nội dung xẫy dựng nền quốc phòng toàn dân theo
hướng: "tăng cường khả năng quốc phòng và an ninh của đất nước; phát huy
sức mạnh của cả hệ thống chuyên chính vô sản, kết hợp chặt chẽ kinh tế với
quốc phòng, quốc phòng với kinh tế; đẩy mạnh công cuộc xây dựng nền quốc
phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và hậu phương ngày
càng vững mạnh...”[1]. Để thực hiện mục tiêu: "tăng cường tổ chức bảo vệ chủ
quyền và giữ vững các tuyến, biên giới, vùng trời, vùng biển và hải đảo”[2].
Đảng ta đã xác định lực lượng tiến hành cụ thể là: "công cuộc bảo vệ an ninh
chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội cần đươc tiến hành bằng sức mạnh của
mọi lực lượng, bằng mọi phương tiện cần thiết, trong từng địa bàn, ở tất cả mọi
đơn vị”[3]. Bên cạnh đó, Đảng cũng chỉ rõ: Cần chú trọng tổ chức phong trào
quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, phát huy vai trò hiệu lực lãnh đạo của
Đảng, thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng đối với sự nghiệp quốc
phòng, an ninh.
Các cấp các ngành phải quán triệt và chỉ đạo thực hiện nghiêm túc nhiệm vụ
quốc phòng và an ninh, coi đó là nhiệm vụ quan trọng thường xuyên của mình.
Quan điểm về quốc phòng, an ninh của Đảng ở Đại hội VII có bước phát triển
mới đáp ứng tình hình thế giới và trong nước. Đại hội VII chỉ rõ: nhiệm vụ của
quốc phòng - an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ
của Tổ quốc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, sự ổn định chính trị, trật tự và an
toàn xã hội, quyền làm chủ của nhân dân, làm thất bại mọi âm mưu và hành
động của các thế lực đế quốc, phản động phá hoại sự nghiệp cách mạng của
nhân dân ta.
Trên cơ sở xác định nhiện vụ bảo vệ tổ quốc, Đại hội VII chỉ rõ phương hướng
xây dựng nền quốc phòng toàn dân là: không ngừng nâng cao giác ngộ và cảnh
giác chính trị của nhân dân, xây dựng vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân,
kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân trong điều kiện mới. Khẳng định
sự ổn định và phát triển mọi mặt đời sống xó hội là nền tảng của quốc phòng an ninh, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng - an ninh, quốc phòng - an
ninh với kinh tế trong các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội.
Quan điểm xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân theo Nghị quyết Đại hội VII



là: Quân số thích hợp theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước
hiện đại, với lực lượng dự bị động viên, đầu quân tự vệ hùng hậu, có sức chiến
đấu cao; phát triển đường lối, nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân trong
hoàn cảnh mới.
Chăm lo nâng cao phẩm chất cách mạng, trình độ chính trị, quân sự, văn hoá,
khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ cho các lực lượng vũ trang; bảo đảm đời sống vật
chất, tinh thần cho cán bộ chiến sỹ trong Quân đội nhân dân và Công an nhân
dân. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (6/1996), tiếp tục khẳng định
nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ Tổ quốc là: "phát huy sức
mạnh tổng hợp của toàn dân, của cả hệ thống chính trị, từng bước tăng cường
tiềm lực quốc phòng và an ninh của đất nước, xây dựng vững chắc nền quốc
phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân và
thế trận an ninh nhân dân...
Bảo vệ vững chắc độc lập, an ninh, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất
nước, bảo vệ nhân dân, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ XHCN...”[1] Nhằm ngăn
ngừa và làm thất bại mọi âm mưu thủ đoạn của kẻ thù hòng gây mất ổn định
chính trị xã hội, xâm phạm chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, gây tổn hại cho công
cuộc đổi mới xây dựng đất nước.
Tư tưởng chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ quốc phòng và an ninh trong tình hình
mới được Đại hội VIII chỉ rõ: Kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược của
cách mạng Việt Nam là xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN, kết hợp
quốc phòng và an ninh với kinh tế, gắn nhiệm vụ quốc phòng với nhiệm vụ an
ninh trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và bảo vệ chế độ XHCN; phối hợp chặt
chẽ hoạt động quốc phòng và an ninh với hoạt động đối ngoại. Hoàn thiện hệ
thống pháp luật về bảo vệ Tổ quốc; thể chế hoá các chủ trương chính sách của
Đảng về xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân. Thường
xuyên chăm lo xây dựng Đảng, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân

đội và công an và sự nghiệp củng cố quốc phòng và an ninh. Củng cố quốc
phòng, giữ vững an ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của
Đảng, Nhà nước và của toàn quân, toàn dân. Phát huy sức mạnh tổng hợp của
hệ thống chính trị để tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng
quân dội và công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện
đại; xây dựng vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân kết hợp chặt chẽ với thế
trận an ninh nhân dân...
Tiếp tục khẳng định vai trò vị trí quan trọng của nhiệm vụ quốc phòng, an ninh.
Chủ trương tăng cường quốc phòng, an ninh, khẳng định tăng cường quốc


phòng, an ninh là đòi hỏi khách quan trong tình hình mới. Đại hội IX đã nêu
thành các quan điểm cơ bản chỉ đạo quốc phòng an ninh sau:
Về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa: Đại hội IX của Đảng và Hội nghị Trung
ương 8 khoá IX, đã chỉ rõ: "bảo vệ Tổ quốc là bảo vệ vững chắc độc lập chủ
quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế
độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội và nền văn hóa; giữ vững ổn định chính trị và môi trường hoà bình,
phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa” [5].
Nhận thức mới này mở rộng nội dung bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong
điều kiện toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế, đã khắc phục sự
phiến diện trong tư duy chỉ nhấn mạnh đến bảo vệ độc lập chủ quyền, thống
nhất toàn vẹn lãnh thổ; làm rõ hơn mối quan hệ thống nhất, chặt chẽ, biện chứng
giữa các nội dung trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa,
khắc phục những quan niệm một chiều, giản đơn về bảo vệ Tổ quốc, chỉ nhấn
mạnh đến mặt tự nhiên - lịch sử; hoặc chỉ nhấn mạnh bảo vệ chính trị - xã hội.
Quan điểm chỉ đạo về bảo vệ Tổ quốc là kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn
với chủ nghĩa xã hội, lấy việc giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát
triển kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất của Tổ quốc; sức mạnh bên trong là

nhân tố quyết định; kết hợp chặt chẽ các nhiệm vụ kinh tế, quốc phòng, an ninh,
đối ngoại; chủ động phòng ngừa, sớm phát hiện và triệt tiêu những nhân tố bên
trong có thể dẫn đến những đột biến bất lợi.
Phương châm chỉ đạo về bảo vệ Tổ quốc là kiên định các nguyên tắc chiến lược,
đi đôi với vận dụng linh hoạt sách lược, tranh thủ sự ủng hộ rộng rãi của nhân
dân trong nước, dư luận quốc tế; phân hoá, cô lập các phần tử chống đối ngoan
cố nhất, các thế lực chống phá Việt Nam hung hăng nhất; lấy việc phát huy dân
chủ, giáo dục, thuyết phục, phòng ngừa là chính, đi đôi với giữ gìn kỷ cương, kỷ
luật, xử lý nghiêm minh các sai phạm... Giáo dục, lôi kéo những người lầm
đường, không để hình thành tổ chức đối lập dưới bất cứ hình thức nào... Xử lý
kịp thời mọi mầm mống gây mất an ninh, không để bị động, bất ngờ.
Bảo vệ Tổ quốc là sự nghiệp trọng yếu của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta.
Quan điểm về sức mạnh bảo vệ Tổ quốc được Đại hội Đảng lần thứ IX chỉ rõ
"Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn
dân, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh của lực lượng và thế trận quốc phòng toàn
dân với sức mạnh của lực lượng và thế trận an ninh nhân dân”[6].
Sức mạnh tổng hợp được tạo thành bởi nhiều yếu tố: chính trị, kinh tế, quân sự,


văn hoá... trong đó động lực chính, sức mạnh giữ vai trò quyết định và được
biểu hiện tập trung nhất là sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh
đạo của Đảng
Phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, trong đó sức mạnh dân
tộc bao giờ cũng giữ vai trò quyết định nhất trong xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Đồng thời, phải hết sức coi trọng khai thác phát huy sức mạnh thời đại.
Về kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng và an ninh, Đại hội XI khẳng định
phải: "kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng và an ninh, quốc phòng và an
ninh với kinh tế trong các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội”[7].
Phối hợp hoạt động quốc phòng và an ninh với hoạt động đối ngoại, Đại hội IX

khẳng định: "phối hợp hoạt động quốc phòng và an ninh với hoạt động đối
ngoại”[8]. Việc phối hợp hoạt động đối ngoại và quốc phòng an ninh phải thực
hiện trong mối liên hệ giữa hội nhập quốc tế và giữ vững độc lập tự chủ. Đảng
cũng chỉ rừ nhiệm vụ đối ngoại là: tiếp tục giữ vững môi trường hoà bình và tạo
các điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm độc lập, chủ quyền quốc gia...
Trước đây, tư duy về bảo vệ Tổ quốc của chúng ta chủ yếu tập trung vào các
giải pháp quân sự, chuẩn bị để đánh thắng chiến tranh xâm lược quy mô lớn.
Ngày nay, chúng ta ngày càng nhận thức sâu hơn, đầy đủ hơn về những yếu tố
cấu thành và những chủ trương, biện pháp tạo nên sức mạnh quốc phòng của đất
nước trong điều kiện mới bằng biện pháp phi vũ trang là chính, kết hợp với vũ
trang theo mức độ, quy mô khác nhau, khi cần và tình hình cho phép. Chúng ta
thấy rõ hơn vai trò ngày càng quan trọng của an ninh và đối ngoại đối với quốc
phòng; sự cần thiết phải gắn chặt quốc phòng với an ninh; kết hợp giữa quốc
phòng, an ninh với kinh tế, phối hợp chặt chẽ hoạt động quốc phòng, an ninh
với hoạt động đối ngoại. Nhiệm vụ quốc phòng ngày nay không chỉ nhằm chống
lại chiến tranh xâm lược, bảo vệ độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền quốc gia
mà còn phải gắn chặt với yêu cầu bảo vệ an ninh trên tất cả các lĩnh vực chính
trị, kinh tế, đối ngoại, khoa học, công nghệ, văn hoá, xã hội nhằm bảo đảm ổn
định lâu dài của đất nước.
Đáp ứng yêu cầu cách mạng trong tình hình mới, tháng 7 - 2003, Ban Chấp
hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 8 (khóa IX) ban hành Nghị quyết
về "Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”. Đây là Nghị quyết chuyên
đề về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, thể hiện rõ nét sự phát triển tư duy mới của
Đảng về quốc phòng và an ninh, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong tình
hình mới. Trên cơ sở đánh giá và dự báo tình hình trong nước và thế giới, Nghị


quyết TW8 khóa IX tiếp tục khẳng định những quan điểm nhất quán, tư duy
mới của Đảng ta về mục tiêu, nhiệm vụ, sức mạnh và lực lượng của sự nghiệp

bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Trên cơ sở kiểm điểm đánh giá báo tình hình quốc tế và khu vực. Cùng những
thuận lợi và những thách thức về nhiệm vụ quốc phòng an ninh...Nghị quyết
TW8 khúa IX đã nêu lên mục tiêu, quan điểm, phương châm chỉ đạo về quốc
phòng an ninh từ 2003 đến 2010.
Bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ;
Bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa;
Bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước;
Bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc;
Bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hoá;
Giữ vững ổn định chính trị và môi trường hoà bình, phát triển đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Quan điểm và phương châm chỉ đạo cụ thể như sau:
Các quan điểm chỉ đạo:
- Giữ vững vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
- Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội; lấy việc giữ
vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội là lợi ích cao
nhất của Tổ quốc.
- Kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Xây dựng sức mạnh tổng hợp về chính trị, tư tưởng, kinh tế, xã hội, văn hoá,
quốc phòng, an ninh, đối ngoại; phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều
hành thống nhất của Nhà nước, lực lượng vũ trang làm nòng cốt; tăng cường
tiềm lực quốc phòng, an ninh, không ngừng xây dựng thế trận quốc phòng toàn
dân gắn với thế trận an ninh nhân dân phù hợp với hoàn cảnh mới.
- Ra sức phát huy nội lực, đồng thời tranh thủ tối đa và khai thác mọi thuận lợi ở
bên ngoài. - Chủ động phòng ngừa, sớm phát hiện và triệt tiêu những nhân tố
bên trong có thể dẫn đến những đột biến bất lợi.

Phương châm chỉ đạo:
Một là, kiên định các nguyên tắc chiến lược, đi đôi với sự vận dụng linh hoạt
sách lược, tranh thủ sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân trong nước, dư luận quốc
tế; phân hoá, cô lập các phần tử chống đối, ngoan cố nhất, các thế lực chống phá
Việt Nam hung hăng nhất.


Hai là, lấy việc phát huy dân chủ, giáo dục, thuyết phục, phòng ngừa là chính, đi
đối với giữ gìn kỷ cương, kỷ luật, xử lý nghiêm minh các sai phạm. Đối với cỏc
thế lực chống đối ở trong nước, cần phân hoá, cô lập bọn đầu sỏ, ngoan cố; xử
lý nghiêm minh, kiên quyết với những người cố tình chống đối, đi ngược lại với
lợi ích dân tộc. Giáo dục, lụi kéo những người lầm đường, không để hình thành
tổ chức đối lập dưới bất cứ hình thức nào.
Ba là, thường xuyên đi sát cơ sở, nắm chắc tình hình, xử lý kịp thời mọi mầm
mống gây mất an ninh, không để bị động, bất ngờ.
Về các nhiệm vụ cơ bản:
Nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, trên
cơ sở các quan điểm, phương châm chỉ đạo, Nghị quyết TW 8 (khoá IX) đã
nhấn mạnh cần thực hiện tốt sáu nhiệm vụ cơ bản sau:
- Giữ vững hoà bình, ổn định để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, kết hợp chặt chẽ với bảo vệ Đảng, bảo
vệ vững chắc an ninh chính trị nội bộ. Cụ thể là: Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất
là cán bộ lãnh đạo vững vàng về chính trị, có đủ phẩm chất, năng lực, đáp ứng
yêu cầu của tình hình.
- Thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế gắn với giải quyết
tốt các vấn đề xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; không ngừng
nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội, xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ, đồng thời chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
- Phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mở rộng dân chủ xã hội chủ

nghĩa đi đôi với việc tăng cường trật tự kỷ cương, chú trọng giải quyết các vấn
đề dân tộc, tôn giáo, nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
- Tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ là
nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của Đảng, Nhà nước và của toàn dân, trong
đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt.
- Về hoạt động đối ngoại; Đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, mở rộng hợp tác quốc
tế theo tinh thần: Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong
cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển.
Thống nhất đánh giá đối tượng, đối tác trong xây dựng nền quốc phòng toàn
dân.
Nghị quyết Trung ương 8 khoá IX Về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình
mới và Nghị quyết Đại hội Đảng X đã xác định: Những ai chủ trương tôn trọng
độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị hợp tác, bình đẳng


cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta. Bất kể thế lực nào có âm
mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh.
Đó là nguyên tắc, là tiêu chí để xác định đối tượng, đối tác của ta trong xây
dựng và đấu tranh quốc phòng. Tuy nhiên giữa đối tượng và đối tác ngày nay
luôn có sự đan xen. Trong khi là đối tượng đấu tranh, nhưng vẫn có những mặt
cần tranh thủ, hợp tác; ngược lại là đối tác trong quan hệ làm ăn, nhưng vẫn có
những mặt đối lập phải cảnh giác và đấu tranh. Do vậy, đối tượng và đối tác có
thể chuyển hoá cho nhau, nên cần đánh giá một cách khách quan, toàn diện để
có đối sách đúng đắn, khắc phục tình trạng mơ hồ, mất cảnh giác hoặc lại quá
máy móc, cứng rắn trong quan hệ. Thực hiện phương châm "thêm bạn, bớt thù”,
tranh thủ mọi khả năng, điều kiện để xây dựng và bảo vệ đất nước.
Nghị quyết TW 8 (khoá IX), về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới
thực sự là bước ngoặt quan trọng đánh dấu bước phát triển bổ sung hoàn thiện

về tư duy bảo vệ Tổ quốc của Đảng trong giai đoạn phát triển mới.
Đại hội lần thứ X của Đảng (4/2006) xác định những nội hàm mới về mục tiêu
bảo vệ Tổ quốc: "Xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững
mạnh toàn diện; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hoá và an
ninh xã hội; duy trì trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội; giữ vững ổn định chính trị
của đất nước, ngăn ngừa, đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống
phá, thù địch, không để bị động, bất ngờ”[9].
Cùng với việc nhấn mạnh các nội dung mục tiêu bảo vệ đã được Đại hội IX đã
khẳng định; Đại hội X bổ sung nội dung mục tiêu bảo vệ an ninh chính trị, an
ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hoá; nhấn mạnh tư tưởng yêu cầu phải chủ
động ngăn ngừa đẩy lùi và làm thất bại âm mưu, hoạt động chống phá của các
thế lực thù địch không để bị động, bất ngờ.
Đại hội X đã chỉ rõ mục tiêu xây dựng nền quốc phòng toàn dân của ta là: Xây
dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững mạnh toàn diện; bảo
vệ vững chắc Tổ quốc, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ
Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; ngăn ngừa, đẩy lùi và
làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá, thù địch, không để bị động, bất
ngờ. Để thực hiện mục tiêu trên, cần thực hành đồng bộ nhiều giải pháp chiến
lược, trong đó có những giải pháp chủ yếu sau đây:
Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý, điều hành của Nhà
nước trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân.


Đảng cần nghiên cứu bổ sung, điều chỉnh hệ thống cơ cấu tổ chức Đảng lãnh
đạo sự nghiệp quốc phòng cho thống nhất, đồng bộ từ Trung ương đến các địa
phương, nhất là đối với cấp quân khu và cơ sở.
Nhà nước cần điều chỉnh cơ cấu tổ chức quản lý Nhà nước về quốc phòng của
bộ máy các cấp từ Trung ương đến cơ sở. Xác định cụ thể cơ chế hoạt động,

chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, cán bộ chuyên trách về công tác quốc
phòng ở các bộ, ngành.
Các cơ quan chức năng, cần tổ chức phân công cán bộ chuyên trách, tăng cường
bồi dưỡng, hướng dẫn để phát huy vai trò làm tham mưu trong tổ chức thực hiện
xây dựng và quản lý công tác quốc phòng. Chấp hành nghiêm Quy định
107/TTG của Thủ tướng Chính phủ về phối hợp Quân đội với Công an và Quy
định 71/QĐTW về tổ chức Đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
Phát huy sức mạnh tổng hợp xây dựng tiềm lực quốc phòng
Tiềm lực quốc phòng của nền quốc phòng toàn dân là kết quả của quá trình xây
dựng lực lượng quốc phòng kết hợp chặt chẽ với bố trí xây dựng thế trận quốc
phòng toàn dân. Phát huy được sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân, của
cả hệ thống chính trị tham gia xây dựng tiềm lực quốc phòng. Phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước mà xây dựng, tích luỹ tiềm lực quốc phòng. Sức mạnh
tổng hợp được phát huy từ nội lực bằng nguồn sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc, kết hợp với tranh thủ khai thác mọi nguồn lực từ bên ngoài cả trong xây
dựng và bảo vệ đất nước.
Đẩy mạnh xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc
Cần tiếp tục xây dựng bổ sung, điều chỉnh quy họach, kế hoạch kết hợp kinh tế xã hội với quốc phòng - an ninh cho phù hợp với yêu cầu mới. Tổ chức xây
dựng thế trận quốc phòng toàn dân phải bảo đảm thế liên hoàn, vững chắc, kết
hợp thế trận tại chỗ với cơ động, rộng khắp, thời bình với thời chiến, tập trung
các hướng, khu vực, mục tiêu trọng điểm chiến lược. Cụ thể hoá sự kết hợp
trong xây dựng quy hoạch, kế hoạch để hình thành thế trận quốc phòng toàn dân
gắn kết chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân.
Xây dựng Khu vực phòng thủ tỉnh (thành), cần chỉ đạo đẩy mạnh hơn việc xây
dựng có chiều sâu, ngày càng vững chắc.
Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân phải tiến hành đồng bộ, trên các mặt,
nhưng quan trọng và quyết định nhất là cần tập trung xây dựng cơ sở vững
mạnh toàn diện, có hệ thống chính trị mạnh với cơ sở chính trị vững chắc tạo
cho được "thế trận lòng dân”. Giữ vững uy tín và niềm tin với quần chúng.
Tiếp tục đầu tư ngân sách và lực lượng thực hiện các dự án xây dựng các khu

kinh tế - quốc phòng đã được duyệt.


Đẩy mạnh xây dựng lực lượng quốc phòng, tập trung xây dựng lực lượng vũ
trang nhân dân theo yêu cầu mới
Lực lượng quốc phòng là tổng hợp lực lượng vật chất và tinh thần của các
nguồn lực có thể huy động để tạo thành sức mạnh phòng thủ quốc gia, bảo vệ
Tổ quốc. Để xây dựng lực lượng quốc phòng cần phát huy sức mạnh của cả hệ
thống chính trị và động viên toàn dân tham gia. Lực lượng vũ trang nhân dân
cần tập trung xây dựng để thực sự là nòng cốt cho toàn dân tham gia xây dựng
thế trận quốc phòng toàn dân.
Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng Quân đội nhân dân (gồm bộ đội chủ lực, địa
phương và biên phòng) cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại để
thực sự là lực lượng nòng cốt.
Trước tình hình mới, cần đầu tư nghiên cứu phát triển nghệ thuật quân sự, nghệ
thuật chiến tranh nhân dân nhằm đáp ứng yêu cầu chống chiến tranh kiểu mới
của địch. Hoàn chỉnh quy hoạch tổng thể về xây dựng tiềm lực khoa học và
công nghệ, có cơ chế, chính sách thu hút, quản lý, sử dụng nhân tài, phát huy
mọi tiềm lực khoa học cả trong và ngoài nước cho xây dựng nền quốc phòng
toàn dân.
Triển khai thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW của Bộ Chính trị để công nghiệp
quốc phòng thực sự là một bộ phận của nền công nghiệp quốc gia do Nhà nước
quản lý, điều hành xây dựng theo hướng "lưỡng dụng”, kết hợp kinh tế với quốc
phòng, bảo đảm phục vụ "dân sinh”.
Phối hợp các lực lượng, cảnh giác sẵn sàng chiến đấu cao, chủ động ngăn ngừa
và đối phó hiệu quả mọi tình huống
Quá trình xây dựng nền quốc phòng toàn dân, phải thường xuyên duy trì đấu
tranh quốc phòng, đồng thời ngăn ngừa và sẵn sàng đối phó các tình huống có
thể xảy ra. Dù trong tình huống nào đều có sự tham gia giải quyết của nhiều lực
lượng, cả lực lượng vũ trang và không vũ trang. Để chủ động đối phó có hiệu

quả, cần có sự phối hợp chặt chẽ các lực lượng, thống nhất hình thức, phương
pháp, biện pháp hoạt động, chiến đấu.
Trong đối ngoại quốc phòng, quân sự cần nắm vững quan điểm: nước ta không
tham gia bất cứ liên minh quân sự nào, nhưng sẵn sàng quan hệ hợp tác với các
nước vì lợi ích chung của cộng đồng. Mục đích quan hệ là nhằm tăng cường
hiểu biết, tin cậy và đoàn kết, cùng nhau giải quyết các vấn đề liên quan, giữ
vững môi trường hoà bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước.
Để tăng cường tính pháp lý trong quan hệ và xử trí các tình huống, cần bổ sung,
điều chỉnh hệ thống các văn bản pháp lụât và chính sách cho phù hợp với đặc
điểm, yêu cầu mới như: Luật Sĩ quan; Luật Nghĩa vụ quân sự; các pháp lệnh về


Dự bị động viên, Dân quân tự vệ, Biên phòng; các chính sách với người có
công, hậu phương quân đội, thu hút nhân tài, đối với dân tộc, tôn giáo
Quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm chỉnh những quan điểm, tư duy mới của
Đảng về quốc phòng và an ninh trong sự nghiệp đổi mới; trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém
phát triển là nghĩa vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Xây dựng sức
mạnh quốc phòng là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục. Sức mạnh quốc phòng
trong thời kỳ mới, được thể hiện trên nhiều lĩnh vực, nhất là sức mạnh về chính
trị, kinh tế, văn hóa, khoa học, đối ngoại, an ninh, quân sự...; được xây dựng
bằng sự nỗ lực của toàn quân, toàn dân kết hợp sự ủng hộ, hợp tác quốc tế. Sức
mạnh quốc phòng phải bảo đảm ngăn ngừa, đẩy lùi, đối phó thắng lợi với các
nguy cơ và tình huống chiến lược, cả trong thời bình và khi có chiến tranh. Đây
là cơ sở giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, xây dựng phát triển tiềm lực
mọi mặt của đất nước.
Quân đội nhân dân Việt Nam, với tư cách một lực lượng tin cậy của Đảng và
của dân tộc, một lực lượng nòng cốt thực hiện mục tiêu tăng cường quốc phòng
và an ninh bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, càng phải quán triệt sâu sắc thực
hiện nghiêm chỉnh những quan điểm, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh của Đảng.

Xây dựng quân đội ngày càng vững mạnh theo hướng xây dựng quân đội cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại. Bảo đảm cho quân đội luôn
luôn sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng, góp phần quan trọng cùng với toàn
Đảng, toàn dân thực hiện tốt mục tiêu tăng cường quốc phòng - an ninh, bảo vệ
vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Kiên quyết đấu tranh với những quan
điểm tư tưởng sai trái mơ hồ, ảo tưởng, mất cảnh giác; chống lại chủ nghĩa kinh
tế đơn thuần coi nhẹ nhiệm vụ quốc phòng - an ninh của đất nước. Đấu tranh
làm thất bại âm mưu thủ đoạn "Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, chống lại quan điểm "phi chính trị hoá
quân đội”. Làm cho quân đội xa rời sự lãnh đạo của Đảng, xa rời mục tiêu lý
tưởng cách mạng...
Những thành tựu đã đạt được trong hơn 20 năm đổi mới, đặc biệt là những
thành tựu trong xây dựng nền Quốc phòng toàn dân đó trở thành cơ sở khoa học
để chúng ta tiếp tục kiên định con đường đi lên CNXH, thực hiện thắng lợi hai
nhiệm vụ chiến lược xây dựng CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
XHCN, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
(1)ĐCSVN, Văn kiện Đại hội VIII, Nxb CTQG, H. 1996, tr. 118.
[1] ĐCSVN, Văn kiện Đại hội Đảng lần VI, Nxb Sự thật, H. 1987, tr. 221
[2] ĐCSVN, Văn kiện Đại hội Đảng lần VI, Nxb Sự thật, H. 1987, tr. 223


[3] ĐCSVN, Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI, Nxb Sự thật, H. 1991, tr. 224.
[4] ĐCSVN, Văn kiện Đại hội VIII, Nxb CTQG, H. 1996, tr. 118.
[5] ĐCSVN, Văn kiện Đại hội IX, Nxb CTQG, H.2001, tr. 39
[6] ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H.2001, tr.
117.
[7] ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H. 2001, tr.
117
[8] ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H. 2001, tr.
117

[9] ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, tr. 108
- 109.



×