Tóm tắt luận văn
* Khung phân tích
Xác định
nhu cầu
tham gia
- Cơ sở lý luận
và thực tiễn về
BHYT và
BHYT TN.
- Cơ sở lý luận
về nhu cầu
- Các trang
web
- sách báo, tạp
chí
- ấn phẩm định
kỳ
- Quá trình
xây dựng và
phát triển
BHYT TN của
Việt nam và
thế giới.
- Đặc điểm địa
bàn nghiên cứu.
- Tình hình tham
gia BHYT TN
của người nông
dân trong vùng.
- UBND
huyện, xin số
liệu tại phòng
thống kê,
phòng địa
chính, tài
chính, phòng
BHYT.
- Diện tích,
năng suất, sản
lượng.
- Tuổi, giới
tính, sức khỏe,
thu nhập, thu
chi BHYT.
BHYT TN
của các hộ
nông dân
trên địa
bàn thị
trấn Văn
giang, từ
đó đưa ra
một số giải
pháp.
Mục tiêu
nghiên cứu
- Thái độ, mong
muốn của các hộ
nông dân khi
tham gia BHYT
TN.
- Xem xét mức
bằng lòng trả
của người nông
dân.
Nội dung tiếp
cận
- Hộ nông dân
trên địa bàn,
lập phiếu điều
tra bảng hỏi,
phỏng vấn trực
tiếp.
Đối tượng tiếp
cận
- Tuổi, giới
tính, nghề
nghiệp, trình
độ, thu nhập.
- Mức WTP, ý
kiến của người
nd về mức phí.
Chỉ tiêu nghiên
cứu
1. Đặt vấn đề
Theo như qui luật hình thành và phát triển của con người đó là “sinh lão
bệnh tử”. Một con người từ khi sinh ra, lớn lên và mất đi thì ốm đau bệnh tật là
vấn đề không thể tránh khỏi, từ đó phát sinh các khoản chi phí khám chữa bệnh.
Do đó việc đảm bảo khả năng tài chính cho việc chi trả các khoản chi phí khám
chữa bệnh là rất quan trọng đối với tất cả mọi người trong xã hội.
Thực hiện chính sách Bảo hiểm y tế (BHYT) cho nông dân là một nội
dung quan trọng thuộc chính sách xã hội, nằm trong chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước ta về phát triển BHYT tiến tới BHYT toàn
1
dân, thực hiện công bằng xã hội trong công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe
nhân dân. Đối với đối tượng là nông dân, thu nhập thấp, đời sống kinh tế còn
nhiều khó khăn, thiếu thốn, thật khó có cơ hội được chăm sóc sức khỏe một cách
chu đáo, chưa nói gì đến quyền được hưởng những thành tựu của nền y học hiện
đại. Một thực tế đang diễn ra là người nông dân không có chế độ BHYT nếu
không tham gia loại hình BHYT tự nguyện. Khi chưa có BHYT, tự bản thân
người nông dân hoặc gia đình mình phải lo trang trải chi phí khi đi khám chữa
bệnh, việc trợ giúp của cộng đồng là không có hoặc không đáng kể. Với những
lý do trên, chúng tôi xin nghiên cứu đề tài: “Xác định nhu cầu tham gia Bảo
hiểm y tế tự nguyện (BHYT TN) của các hộ nông dân trên địa bàn thị trấn
Văn Giang huyện Văn Giang tỉnh Hưng Yên”.
Mục tiêu nghiên cứu nhằm: 1, Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn
về BHYT và BHYT tự nguyện; 2, Tìm hiểu thực trạng tham gia BHYT TN của
người nông dân trên địa bàn thị trấn Văn Giang; 3, Nghiên cứu nhu cầu tham gia
BHYT tự nguyện của hộ nông dân trên địa bàn thị trấn Văn Giang; 4, Phân tích
các yếu tố ảnh hưởng đến mức sẵn lòng chi trả của các hộ nông dân khi tham gia
BHYT; 5, Đề xuất một số giải pháp chủ yếu để thực hiện BHYT tự nguyện của
các hộ nông dân.
2. Giải quyết vấn đề
Số liệu về nhu cầu tham gia BHYT TN của người nông dân trên địa bàn thị
trấn Văn giang được thu thập bằng phiếu điều tra xác định từ trước với 90 hộ nông
dân và 2 cán bộ (1 người ở BHXH huyện và 1 người thu BHYT TN ở UBND thị
trấn Văn giang) được phỏng vấn trực tiếp.
Sử dụng phương pháp đánh giá ngẫu nhiên - Contingent Valuation Method
(CVM) là tìm hiểu khả năng bằng lòng chi trả của khách hàng (WTP) về sự thay
đổi của chất lượng hàng hóa dịch vụ nào đó. Các hộ nông dân trên địa bàn thị
2
trấn được coi là đối tượng nghiên cứu của đề tài. Đường cầu về việc tham gia
BHYT TN của các hộ nông dân được mô tả là đường “sẵn lòng chi trả”.
*Thực trạng tham gia BHYT TN trên địa bàn thị trấn
Người nông dân ở thị trấn ngày càng quan tâm đến sức khỏe của bản thân
hơn. Điều đó được thể hiện qua việc số lượng người nông dân tham gia BHYT
TN tăng dần lên qua 3 năm gần đây. Thôn Công luận 1 có số lượng người tham
gia BHYT TN nhiều nhất trong 3 thôn. Theo giới tính thì trên địa bàn thị trấn có
số lượng nữ giới tham gia BHYT TN nhiều hơn nam giới, chứng tỏ nữ giới quan
tâm đến bảo vệ sức khỏe nhiều hơn nam giới. Trên địa bàn thị trấn thì người
nông dân ở độ tuổi từ 46 – 60 tham gia BHYT TN nhiều nhất.
*Nhu cầu tham gia BHYT TN của các hộ nông dân
Nhu cầu tham gia BHYT TN của các hộ nông dân trên địa bàn thị trấn
Văn giang là rất cao, có 90 hộ nông dân được hỏi đều có nhu cầu và có 100
người tham gia. Mức sẵn lòng trả khi tham gia BHYT TN của mỗi lứa tuổi là
khác nhau. Mức sẵn lòng chi trả bình quân của 100 người nông dân được điều
tra là 315.480 đồng/năm/người. Sử dụng công thức nhân rộng cho tổng thể thì
tổng số tiền thu được mỗi năm từ phía người nông dân chi trả ước tính sẽ là
724.202.000 đồng/năm.
*Các yếu tố ảnh hưởng đến mức sẵn lòng chi trả khi tham gia BHYT TN của
các hộ nông dân
Qua kết quả điều tra cho thấy các yếu tố được xác định là có ảnh hưởng
tới mức WTP của các hộ nông dân gồm: Thu nhập (Inc), độ tuổi (Age), sự
không hiểu biết về chính sách BHYT (D 2). Trong đó, yếu tố thu nhập có ảnh
hưởng lớn nhất đến mức WTP. Người có thu nhập càng cao thì mức sẵn lòng chi
trả càng lớn.
*Một số giải pháp để các hộ nông dân tham gia BHYT nhiều hơn
Bên cạnh việc nâng cao mức sống của người nông dân cơ sở khám chữa
bệnh cần thay đổi thái độ làm việc của cán bộ y tế đối với người có thẻ BHYT
3
khi đi KCB và đầu tư phát triển hợp lý một số dịch vụ y tế kỹ thuật cao. Cần
triển khai tuyên truyền phổ biến chính sách BHYT dưới nhiều hình thức phù
hợp như loa phát thanh xóm, báo đài, ti vi…Nhà nước cần giảm bớt các thủ tục
đi khám chữa bệnh và chuyển tuyến điều trị đối với những người có thẻ BHYT.
3. Kết luận
Thứ nhất, BHYT TN là để toàn dân được chăm sóc sức khoẻ một cách tốt
nhất. BHYT TN cũng có nhiều người tham gia hơn trước, nhưng cho đến nay so
với yêu cầu thì BHYT TN cũng chưa thu hút được nhiều người tham gia như
những người làm chính sách mong đợi.
Thứ hai, Người dân trên địa bàn đã và đang tích cực tham gia BHYT TN.
Số lượng người tham gia BHYT TN qua các năm 2007, 2008, 2009 cho thấy
nhận thức về vai trò, lợi ích từ việc tham gia BHYT của người nông dân đang
được nâng lên.
Thứ ba, Mức đóng 351.000 đồng/năm/người như hiện nay đối với người
nông dân ở thị trấn Văn giang là vẫn còn cao. Bằng phương pháp bình quân số
học gia quyền tính được mức sẵn lòng chi trả bình quân là 315.480
đồng/năm/người.
Thứ tư, Yếu tố độ tuổi, thu nhập và sự không hiểu biết về chính sách
BHYT của người nông dân có ảnh hưởng lớn đến mức sẵn lòng chi trả của
người nông dân trong khu vực. Nhưng yếu tố ảnh hưởng lớn nhất là yếu tố thu
nhập.
Thứ năm, Một số giải pháp đề tài đưa ra về cơ sở khám chữa bệnh, triển
khai tuyên truyền, thủ tục đi khám chữa bệnh và chuyển tuyến điều trị đối với
những người có thẻ BHYT.
4
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Theo như qui luật hình thành và phát triển của con người đó là “sinh lão
bệnh tử”. Một con người từ khi sinh ra, lớn lên và mất đi thì ốm đau bệnh tật là
vấn đề không thể tránh khỏi, từ đó phát sinh các khoản chi phí khám chữa bệnh.
Do đó việc đảm bảo khả năng tài chính cho việc chi trả các khoản chi phí khám
chữa bệnh là rất quan trọng đối với tất cả mọi người trong xã hội.
Trong sự nghiệp đổi mới, đất nước ta ngày một đi lên, đời sống của người
dân ngày càng được nâng cao. Vấn đề sức khỏe được quan tâm nhiều hơn. Trong
đó quan tâm đến sức khỏe của nông dân, lực lượng chiếm trên 70% dân số là mục
tiêu trong chiến lược con người của Đảng và Nhà nước ta [1].
Chính sách xã hội là một vấn đề quan trọng, luôn được sự quan tâm của
Đảng và Nhà nước ta. Trong hệ thống chính sách xã hội, chính sách xã hội đối
với nông dân và nông thôn có vị trí đặc biệt quan trọng vì nó tác động trực tiếp
đến phần đông dân cư nước ta hiện đang sinh sống ở nông thôn. Việc đề ra
chính sách xã hội nông thôn phù hợp với từng thời kỳ và tổ chức thực hiện tốt
các chính sách sẽ góp phần đảm bảo sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tác
động mạnh mẽ đến bước tiến của nông thôn, nông nghiệp nước ta trên con
đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thực hiện chính sách Bảo hiểm y tế (BHYT) cho nông dân là một nội
dung quan trọng thuộc chính sách xã hội, nằm trong chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước ta về phát triển BHYT tiến tới BHYT toàn
dân, thực hiện công bằng xã hội trong công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe
nhân dân. Quan điểm xuyên suốt của Đảng ta trong xây dựng thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; phát triển kinh tế đi đôi
5
với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp
phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng - an ninh..., giải quyết tốt
các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người.
Trong tiến trình phát triển của đất nước, chúng ta đã buộc phải chống bao
cấp trên nhiều lĩnh vực, trong đó có y tế. Nhưng lĩnh vực y tế lại nảy sinh nhiều
vấn đề phức tạp. Riêng đối với đối tượng là nông dân, thu nhập thấp, đời sống
kinh tế còn nhiều khó khăn, thiếu thốn, thật khó có cơ hội được chăm sóc sức
khỏe một cách chu đáo, chưa nói gì đến quyền được hưởng những thành tựu của
nền y học hiện đại. Một thực tế đang diễn ra là người nông dân không có chế độ
BHYT nếu không tham gia loại hình BHYT tự nguyện. Khi chưa có BHYT, tự
bản thân người nông dân hoặc gia đình mình phải lo trang trải chi phí khi đi
khám chữa bệnh, việc trợ giúp của cộng đồng là không có hoặc không đáng kể.
Người nông dân rơi vào tình trạng bị động, bán nhà bán cửa và các tài sản khác
để đối phó với đau ốm, bệnh tật. Không ít trường hợp người nông dân đã phải
trốn viện, bỏ mặc tính mạng do không có tiền chữa trị bệnh tật. Việc thực hiện
BHYT cho người nông dân trong thời gian qua là một giải pháp đúng đắn trong
công tác khám chữa bệnh, giúp cho người nông dân chủ động nguồn tài chính
khi đi khám chữa bệnh, từng bước nâng cao nhận thức của họ về văn hóa bảo
hiểm trong xã hội.
Với những lý do trên, chúng tôi xin nghiên cứu đề tài: “Xác định nhu
cầu tham gia Bảo hiểm y tế tự nguyện (BHYT TN) của các hộ nông dân trên
địa bàn thị trấn Văn Giang huyện Văn Giang tỉnh Hưng Yên”.
Câu hỏi nghiên cứu cần giải quyết:
- BHYT tự nguyện là gì? Xác định nhu cầu tham gia BHYT tự nguyện
gồm những nội dung gì?
- Thực trạng tham gia BHYT TN của các hộ nông dân trên địa bàn như
thế nào?
6
- Hiện nay nhu cầu tham gia BHYT tự nguyện của các hộ nông dân ở thị
trấn Văn Giang như thế nào?
- Những giải pháp gì để thúc đẩy các hộ nông dân tham gia BHYT TN?
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Xác định nhu cầu tham gia Bảo hiểm y tế tự nguyện của các hộ nông dân ở
Thị trấn Văn Giang Huyện Văn Giang Tỉnh Hưng Yên. Trên cơ sở đó đề xuất một
số giải pháp nhằm mở rộng thực hiện BHYT đối với các hộ nông dân.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về BHYT và BHYT tự nguyện.
- Tìm hiểu thực trạng tham gia BHYT TN của người nông dân trên địa
bàn thị trấn Văn Giang.
- Nghiên cứu nhu cầu tham gia BHYT tự nguyện của các hộ nông dân
trên địa bàn thị trấn Văn Giang.
- Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến mức sẵn lòng chi trả của các hộ
nông dân khi tham gia BHYT.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu để thực hiện BHYT tự nguyện của các
hộ nông dân.
1.3 Đối tượng & phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề kinh tế - xã hội liên quan đến việc thực hiện
BHYT tự nguyện của các hộ nông dân.
- Đối tượng nghiên cứu trực tiếp là người nông dân trên địa bàn thị trấn
Văn Giang.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
1.3.2.1 Nội dung
Nghiên cứu nhu cầu và khả năng tham gia BHYT tự nguyện của các hộ
nông dân.
7
1.3.2.2 Địa điểm
Nghiên cứu được tiến hành tại địa bàn thị trấn Văn Giang huyện Văn
Giang tỉnh Hưng Yên.
1.3.2.3 Tthời gian
- Đề tài thu thập các số liệu trong 3 năm từ 2007- 2009.
- Đề tài được triển khai nghiên cứu từ 23/01/2010 đến 23/05/ 2010.
8
PHẦN II: TÔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1 Tổng quan về nhu cầu
2.1.1.1 Khái niệm về nhu cầu
Theo Kinh tế học: Nhu cầu được hiểu là nhu cầu về tiêu dùng, là sự cần
thiết của một cá thể về một hàng hóa hay dịch vụ nào đó. Khi nhu cầu của toàn
thể các cá thể đối với một mặt hàng trong một nền kinh tế gộp lại, ta có nhu cầu
thị trường. Khi nhu cầu của tất cả các cá thể đối với tất cả các mặt hàng gộp lại
ta có tổng cầu.
Theo Philip Kotler chuyên gia marketing hàng đầu thế giới: “ Nhu cầu là
cảm giác thiếu hụt một cái gì đó mà con người cảm nhận được. Nhu cầu của con
người là một tập hợp đa dạng và phức tạp, từ những nhu cầu có tính chất bản
năng sinh tồn như ăn, uống, mặc, ở, an toàn… đến những nhu cầu về tình cảm
tri thức, tôn trọng, tự thể hiện mình. Những nhu cầu đó gắn liền với tình cảm
con người, gắn liền với sự phát triển của xã hội mà mỗi con người sống trong
đó” ( Nguyễn Nguyên Cự, 2005).
Về bản chất, nhu cầu là một khái niệm tâm – sinh lý. Tìm cách thỏa mãn
nhu cầu luôn là ý chí của con người thuộc các thời đại khác nhau, đặc biệt trong
nền sản xuất hàng hóa.
D.N. Uznetze người đầu tiên trong tâm lý học Xô viết nghiên cứu về nhu
cầu. Ông khám phá ra mối quan hệ giữa nhu cầu và hành vi. Tương ứng theo
mỗi kiểu hành vi là một nhu cầu. Ông cho rằng: không có gì đặc trưng cho một
cơ thể sống hơn sự có mặt của nó ở nhu cầu. Nhu cầu, đó là cội nguồn của tính
tích cực, với ý nghĩa này thì khái niệm nhu cầu rất rộng.. . Nhu cầu là một thuộc
tính tâm lý đặc trưng giữ vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hành vi, ông
quan niệm rằng: nhu cầu là yếu tố quyết định tạo ra tính tích cực, nó xác định xu
9
hướng, tính chất hành vi. Và ông cũng cho rằng: dựa vào nhu cầu của con người
để phân loại hành vi của con người.[2]
A.N.Leonchiep cho rằng: cũng như những đặc điểm tâm lý khác của con
người, nhu cầu cũng có nguồn gốc trong hoạt động thực tiễn. Theo ông, nhu cầu
thực sự bao giờ cũng có tính đối tượng: nhu cầu bao giờ cũng là nhu cầu về một
cái gì đó. Trong mối quan hệ giữa đối tượng thoả mãn nhu cầu và nhu cầu, ông
cho rằng: đối tượng tồn tại một khách quan và không xuất hiện khi chủ thể mới
chỉ có cảm giác thiếu hụt hay đòi hỏi. Chỉ khi chủ thể thực sự hoạt động thì đối
tượng thoả mãn nhu cầu mới xuất hiện và lộ diện ra. Nhờ có sự lộ diện ấy mà
nhu cầu mới có tính đối tượng của nó. Nhu cầu, với tính chất là sức mạnh nội tại
thì chỉ có thể được thực thi trong hoạt động. Lúc đầu nhu cầu chỉ xuất hiện như
là một điều kiện, một tiền đề cho hoạt động, chỉ đến khi chủ thể thực sự bắt đầu
hành động với đối tượng thì lập tức xảy ra sự biến hoá của nhu cầu, nó không
còn tồn tại một cách tiềm tàng. Sự phát triển của hoạt động càng đi bao xa bao
nhiêu thì nhu cầu càng chuyển hoá bấy nhiêu thành kết quả của hoạt động. Khi
xem xét mối quan hệ giữa nhu cầu với động cơ, ông cho rằng: khi mà đối tượng
của nhu cầu xuất hiện, cái mà được nhận biết (được cảm nhân, được hình dung,
hoặc được tư duy) thì có được chức năng thúc đẩy, hướng dẫn hoạt động, tức là
trở thành động cơ. Hay, nội dung đối tượng của nhu cầu chính là động cơ của
hoạt động. Một hoạt động diễn ra bao giờ cũng hướng vào việc đạt mục đích đạt
kết quả nhất định nào đó. Động cơ của hoạt động chính là cái nhu cầu đã được
đối tượng hoá và được hình dung trước dưới dạng các biểu tượng của kết quả
hoạt động.[2]
Tiêu biểu cho lý thuyết về nhu cầu của trường phái tâm lý học nhân văn là
“Thuyết thứ bậc nhu cầu” của A.Maslow (1908-1970). Theo lý thuyết của ông
thì nhu cầu của con người hình thành tạo nên một hệ thống và có thứ bậc từ cấp
thiết đến ít cấp thiết hơn. Hệ thống đó được trình bày như sau:
10
1. Physiological: các nhu cầu cơ thể như đói, khát, mệt,……
2. Safety/security: nhu cầu được an toàn, không bị nguy hiểm
3. Belonginess and love: nhu cầu sở hữu và yêu thương, liên hệ với người
khác và được chấp nhận.
4. Esteem: nhu cầu được tôn trọng, được tán thành, được biết đến.
5. Cognitive: nhu cầu nhạn thức, khám phá.
6. Asethetic: nhu cầu thẩm mỹ, vươn tới cái đẹp.
7. Self-actualization: nhu cầu tự hoàn thiện, tự khẳng định mình.
8. Self-transcendence: nhu cầu tham gia vào những mối liên hệ liên cá
nhân, vượt ra khỏi cái tôi của mình, giúp người khác tự khẳng định họ và tự
nhận ra những giá trị của họ.
Theo ông, tầm quan trọng của các nhu cầu được sắp xếp theo thứ tự từ
dưới lên trên theo thang nhu cầu: từ mức thứ nhất đến mức thứ năm. Bốn mức
nhu cầu đầu tiên ông gọi đó là nhóm nhu cầu thiếu hụt. Còn ở mức thứ năm, ông
chia nhỏ hơn: nhu cầu thẩm mỹ, nhu cầu sáng tạo, nhu cầu hiểu biết…ông gọi là
nhóm các nhu cầu phát triển. Sự phân chia này tuy theo thang bậc nhưng nó
không phải là cố định mà chúng linh hoạt, thay đổi tuỳ theo điều kiện cụ thể.[2]
2.1.1.2 Khái niệm cầu
Có nhiều quan điểm khác nhau khi định nghĩa cầu, ở đây, tôi xin đưa ra
quan điểm của các chuyên gia trường đại học Nông nghiệp Hà Nội: “Cầu là số
lượng hàng hóa và dịch vụ mà người tiêu dùng (với tư cách là người mua) có
khả năng và sẵn sàng mua ở các mức giá khác nhau (mức giá chấp nhận được)
trong phạm vi không gian và thời gian nhất định khi các yếu tố khác không thay
đổi.” (TS.Trần Văn Đức và ThS. Lương Xuân Chính, 2006).
Vậy khi nói đến cầu ta cần chú ý 2 điểm sau, thứ nhất là người mua có
khả năng mua và thứ hai là họ sẵn sàng mua.
Luật cầu là luật của người tiêu dùng (người mua), bởi vì họ bao giờ cũng
thích mua rẻ. Luật cầu chỉ ra rằng: có một mối quan hệ nghịch biến giữa giá cả
11
và lượng cầu hàng hóa dịch vụ. Điều đó có nghĩa là: khi giá cả hàng hóa dịch vụ
giảm xuống thì lượng cầu thị trường sẽ tăng lên và ngược lại (với điều kiện các
yếu tố khác không thay đổi).
Nghiên cứu luật cầu rất có ý nghĩa trong thực tiễn: muốn bán được nhiều
hàng hóa thì người sản xuất phải giảm giá bán.
P
D
0
Q
Hình 2.1 Đường cầu thị trường hàng hóa dịch vụ
Hàm cầu
Cầu thị trường một loại hàng hóa dịch vụ phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố,
cho nên sự thay đổi của những yếu tố này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến cầu hàng
hóa đó. Để nghiên cứu mối quan hệ giữa cầu hàng hóa và các yếu tố ảnh hưởng
đến nó, người ta sử dụng một hàm số gọi là hàm số của cầu (hàm cầu).
Hàm cầu có dạng tổng quát:
QD (x,t) = f (Px ; I; Py; T; N; E…)
Trong đó:
- QD (x,t) là cầu hàng hóa X xác định trong khoảng thời gian t (ngày,
tháng, quý, năm...) và đóng vai trò hàm số cầu.
- PX ; I ; PY ; T ; N ; E.....là các yếu tố ảnh hưởng đến cầu hàng hóa X và
đóng vai trò như những biến của hàm cầu. Cụ thể, PX là giá cả hàng hóa X ; là
thu nhập của người tiêu dùng ; Py là giá cả hàng hóa liên quan ; T là chuẩn mực
về thị hiếu sở thích của người tiêu dùng ; N là quy mô dân số ; E là kỳ vọng của
người tiêu dùng về sự thay đổi các yếu tố trên.
12
* Các yếu tố ảnh hưởng đến Cầu
a, Giá cả hàng hóa dịch vụ đang xét (P X): Nếu các yếu tố khác không đổi,
khi giá hàng hóa X tăng thì lượng cầu của nó giảm và ngược lại. Nói cách khác
giữa PX và QD tồn tại mối quan hệ nghịch biến như trong luật cầu đã chỉ ra.
b, Thu nhập của người tiêu dùng (I): Thu nhập thể hiện khả năng thanh
toán của người tiêu dùng khi mua hàng hóa dịch vụ. Do đó, sự thay đổi thu nhập
sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến cầu hàng hóa trên thị trường. Khi thu nhập tăng cầu
hàng hóa thông thường tăng còn cầu hàng hóa thứ cấp giảm và ngược lại.
c, Giá cả hàng hóa liên quan (PY): Cầu của hàng hóa không những chỉ
phụ thuộc vào giá của hàng hóa đó mà còn phụ thuộc vào giá của các hàng hóa
có liên quan. Các hàng hóa liên quan được chia làm hai loại: hàng hóa thay thế
và hàng hóa bổ sung.
+ Hàng hóa thay thế: Hai hàng hóa được gọi là thay thế khi người ta có
thể sử dụng hàng hóa này thay thế cho hàng hóa kia và ngược lại mà không làm
thay đổi giá trị sử dụng của chúng. Ví dụ: cơm và phở, thịt lợn và thịt gà, bia và
rượu….Khi đó, nếu giá thịt gà tăng thì người tiêu dùng chuyển sang mua thịt lợn
thay thế. Như vậy, khi X và Y là hai hàng hóa thay thế thì quan hệ giữa giá hàng
hóa Y (PY) và cầu hàng hóa X (QDX) là quan hệ đồng biến.
+ Hàng hóa bổ sung: Hai hàng hóa được gọi là bổ sung khi sử dụng hàng
hóa này thì phải kèm theo hàng hóa kia. Ví dụ: xe máy, ô tô và xăng, dầu, nhớt;
bếp ga và ga… Khi đó, nếu giá xăng tăng lên thì cầu xe máy, ô tô sẽ giảm xuống
và ngược lại (với điều kiện các yếu tố khác không thay đổi). Như vậy, khi X và
Y là hai hàng hóa bổ sung thì quan hệ giữa giá hàng hóa Y(P Y) và cầu hàng hóa
X(QDX) là quan hệ nghịch biến.
d, Thị hiếu, sở thích người tiêu dùng (T): Nó là ý thích, ý muốn chủ quan
của người tiêu dùng khi sử dụng hàng hóa dịch vụ. Vì vậy, thị hiếu phụ thuộc
vào rất nhiều yếu tố như giới tính, dân tộc, tuổi tác, môi trường sống, “mốt” tiêu
dùng….Nhìn chung, yếu tố này ít thay đổi vì thị hiếu người tiêu dùng rất đa
13
dạng và phức tạp, nó thuộc yếu tố tâm lý, xã hội nên khi nghiên cứu phải chọn
mẫu đại diện, từ đó có thể lượng hóa và suy rộng cho tổng thể.
e, Quy mô dân sô hay số lượng người tiêu dùng (N): Cầu thị trường được
tập hợp từ cầu của các cá nhân có tham gia thị trường. Do đó, khi số lượng
người tiêu dùng tăng thì cầu hàng hóa sẽ tăng và ngược lại.
f, Kỳ vọng của người tiêu dùng (E): Cầu hàng hóa sẽ thay đổi vì nó phụ
thuộc các kỳ vọng của người tiêu dùng. Kỳ vọng được xem là sự mong đợi, dự
đoán của người tiêu dùng về sự thay đổi các yếu tố xác định cầu trong tương lai
nhưng lại ảnh hưởng tới cầu hàng hóa hiện tại sẽ giảm và ngược lại. Các kỳ
vọng về thu nhập, thị hiếu hoặc số lượng người tiêu dùng, đều tác động đến cầu
hàng hóa đang xét.
Ngoài ra, điều kiện tự nhiên, chính sách kinh tế vĩ mô (như chính sách trợ
cấp, thuế thu nhập) của Nhà nước …cũng ảnh hưởng đến cầu hàng hóa dịch vụ.
Chẳng hạn về mùa hè cầu về nước giải khát, quạt điện, máy điều hòa sẽ tăng;
còn về mùa đông cầu về quần áo ấm, chè, thức ăn nóng sẽ tăng…
2.1.1.3 Thặng dư của người tiêu dùng và mức sẵn lòng chi trả (willingness to pay)
a, Thặng dư của người tiêu dùng
Đối với các loại hàng hóa thặng dư của người tiêu dùng là sự chênh lệch
giữa lợi ích của người tiêu dùng khi tiêu dùng một loại hàng hóa, dịch vụ và
những chi phí thực tế để trả cho đơn vị hàng hóa đó.
P
A
P*
B
0
Q*
D
Q
Hình 2.2 Mức sẵn lòng chi trả và thặng dư người tiêu dùng
14
Trong đó : P là giá hàng hóa.
Q là khối lượng hàng hóa.
P*, Q* là giá và khối lượng hàng hóa cân bằng trên thị trường.
PA là mức giá mà cá nhân sẵn lòng chi trả.
Diện tích dưới đường cầu là mức WTP.
Diện tích hình OABQ* biểu hiện tổng giá trị lợi ích.
Diện tích hình AP*B biểu hiện thặng dư tiêu dùng (CS).
Diện tích hình OP*BQ* là tổng chi phí thực tế theo giá thị trường.
Trên hình 2.1.1.3, thặng dư người tiêu dùng đối với hàng hóa X ở mức giá
P*, sản lượng cân bằng Q*. Đây chính là thặng dư phát sinh khi người tiêu dùng
nhận được nhiều hơn cái mà họ trả theo quy luật độ thỏa dụng cận biên giảm dần.
b, Mức sẵn lòng chi trả (WTP) – Thước đo giá trị kinh tế
Thực chất WTP chính là biểu hiện sở thích tiêu dùng của khách hàng.
Thông thường, khách hàng thông qua giá thị trường để thanh toán các hàng hóa,
dịch vụ mà họ tiêu dùng. Nhưng có nhiều trường hợp tự nguyện chấp nhận chi
cao hơn giá thị trường để được tiêu dùng và mức này cũng khác nhau.
Mức WTP chính là thước đo của sự thỏa mãn và mức WTP cho mỗi đơn
vị hàng hóa, dịch vụ tăng thêm sẽ giảm xuống khi khối lượng tiêu dùng hàng
hóa, dịch vụ đó tăng thêm. Nó tuân theo quy luật độ thỏa dụng cận biên giảm
dần. Do vậy, đường sẵn lòng chi trả được mô tả giống như đường cầu. Đường
cầu là cơ sở xác định lợi ích cho xã hội từ việc tiêu dùng một loại hàng hóa nhất
định. Miền nằm dưới đường cầu đo lường tổng giá trị của mức WTP.
WTP = MP + CS
Trong đó:
WTP là mức sẵn lòng chi trả
MP là chi phí theo giá thị trường
CS là thặng dư người tiêu dùng
BHYT là hàng hóa nửa công cộng nên khi xác định mức giá liên quan đến
mức WTP cao nhất sẽ khó xác định vì vậy để đánh giá mức WTP của các cá
15
nhân cần sử dụng các phương pháp khác như phương pháp đánh giá ngẫu nhiên
(CVM), phương pháp du lịch chi phí (TCM)….
2.1.2 Một số khái niệm cơ bản
2.1.2.1 Bảo hiểm xã hội (BHXH)
Bảo hiểm xã hội theo tổ chức lao động thế giới ILO: là sự bảo vệ của cộng
đồng xã hội đối với các thành viên của mình thông qua sự huy động các nguồn
đóng góp vào quỹ BHXH để trợ cấp trong các trường hợp ốm đau, tai nạn, thương
tật, già yếu, thất nghiệp. Đồng thời chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông
con để ổn định đời sống của thành viên và đảm bảo an toàn xã hội”.
Theo luật BHXH ở Việt Nam: “ BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc bù
đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do
ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao
động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào bảo hiểm xã hội.”
Bảo hiểm xã hội tự nguyện (BHXHTN): “là loại hình BHXH mà người
lao động tự nguyện tham gia, được lựa chọn mức đóng góp và phương thức
đóng góp phù hợp với thu nhập của mình để hưởng BHXH”.
Bảo hiểm xã hội bắt buộc: “là loại hình BHXH mà người lao động và
người sử dụng lao động phải tham gia”.
2.1.2.2 Bảo hiểm y tế (BHYT)
Theo luật BHYT số 25/2008/QH12 tại Việt Nam: “BHYT là hình thức
bảo hiểm được áp dụng trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, không vì mục đích
lợi nhuận, do Nhà nước tổ chức thực hiện và các đối tượng có trách nhiệm tham
gia theo quy định của Luật này”.
Theo quy định tại Điều 1 Điều lệ BHYT ban hành kèm theo Nghị định
63/2005/NĐ-CP thì: "Bảo hiểm y tế là một chính sách xã hội do Nhà nước tổ
chức thực hiện, nhằm huy động sự đóng góp của người sử dụng lao động, người
lao động, các tổ chức và cá nhân để thanh toán chi phí KCB theo quy định của
Điều lệ này cho người có thẻ BHYT khi ốm đau".[3]
16
Tổ chức, quản lý BHYT [3]
Hệ thống tổ chức:
1. Thủ tướng Chính phủ quy định hệ thống tổ chức thực hiện chính sách
bảo hiểm y tế theo Điều lệ BHYT thống nhất, đồng bộ từ trung ương đến địa
phương.
2. Bảo hiểm Xã hội Việt Nam là cơ quan tổ chức thực hiện chính sách bảo
hiểm y tế theo quy định tại Điều lệ này.
Quản lý nhà nước về bảo hiểm y tế:
1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về bảo hiểm y tế trên phạm vi
cả nước.
2. Chính phủ giao Bộ Y tế thực hiện chức năng quản lý nhà nước về bảo
hiểm y tế với những nội dung sau:
a) Chủ trì, phối hợp xây dựng chính sách, pháp luật về bảo hiểm y tế trình
cấp trên ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền.
b) Xây dựng và ban hành theo thẩm quyền các quy định, tiêu chuẩn về
chuyên môn kỹ thuật đối với các cơ sở y tế đủ điều kiện khám, chữa bệnh cho
người tham gia bảo hiểm y tế.
c) Hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra, giải quyết các vướng mắc trong việc
thực hiện các quy định của pháp luật về bảo hiểm y tế nhằm bảo đảm quyền và
trách nhiệm của người tham gia bảo hiểm y tế, của các cơ sở khám, chữa bệnh
bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật.
3. Bộ Tài chính, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Nội vụ trong
phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về bảo hiểm y tế.
4. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có
trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo hiểm y tế trên địa bàn tỉnh, thành phố với
các nội dung:
17
a) Chỉ đạo, tổ chức triển khai chính sách về bảo hiểm y tế, bao gồm cả
bảo hiểm y tế bắt buộc và bảo hiểm y tế tự nguyện trên địa bàn tỉnh, thành phố.
b) Kiểm tra, thanh tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về bảo
hiểm y tế và giải quyết các vướng mắc liên quan đến việc khám, chữa bệnh cho
người có thẻ bảo hiểm y tế trên địa bàn tỉnh, thành phố.
Đặc điểm của bảo hiểm y tế
Trên cơ sở khái niệm BHYT nói trên, có thể thấy bên cạnh những tính
chất chung của một chế độ an sinh xã hội, BHYT còn có một số đặc điểm sau:
- BHYT có đối tượng tham gia rộng rãi, bao gồm mọi thành viên trong
xã hội không phân biệt giới tính, tuổi tác, khu vực làm việc, hình thức quan
hệ lao động…
- BHYT không nhằm bù đắp cho thu nhập cho người hưởng bảo hiểm
(như chế độ BHXH ốm đau, tai nạn lao động…) mà nhằm chăm sóc sức khỏe
cho họ khi bị bệnh tật, ốm đau… trên cơ sở quan hệ BHYT mà họ tham gia.
BHYT được nhiều nước trên thế giới triển khai độc lập. Loại hình này có
đối tượng tham gia rất rộng, đó là mọi người dân có nhu cầu bảo hiểm cho sức
khỏe của mình. Trong thời kỳ đầu triển khai, các nước thường chia ra 2 nhóm
đối tượng tham gia là: đối tượng tham gia bảo hiểm bắt buộc và đối tượng tham
gia bảo hiểm tự nguyện. Căn cứ vào mức độ thanh toán chi phí khám chữa bệnh
cho người có thẻ BHYT người ta phân ra: BHYT trọn gói và BHYT thông
thường. (PGS.TS Nguyễn Viết Vương, 2006).
Ở nước ta, BHYT được triển khai độc lập từ năm 1992 theo Nghị định
299/HĐBT ngày 15/8/1992 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính Phủ). Bộ Y
tế chịu trách nhiệm quản lý nhà nước, còn cơ quan BHYT phối hợp với các cơ
sở khám chữa bệnh quản lý nghiệp vụ. Đối tượng tham gia BHYT cũng được
phân làm 2 loại: bắt buộc và tự nguyện. Trong những năm đầu thực hiện, BHYT
đã bộc lộ rõ khá nhiều bất cập cần bổ sung hoàn thiện, vì thế ngày 13/8/1998
Chính Phủ ban hành Nghị định 58/1998/NĐ-CP về việc bổ sung sửa đổi một số
18
điều trong điều lệ BHYT ban hành năm 1992. Năm 2002 Thủ tướng Chính Phủ
ra quyết định số 20/TTg/2002 về việc sát nhập BHYT vào BHXH Việt Nam.
Việc sát nhập này là phù hợp vì đã tránh được những hiện tượng chồng chéo
trong khâu tổ chức thực hiện, giảm được chi phí quản lý. Khi triển khai kết hợp
BHYT chỉ là một chế độ trong hệ thống các chế độ BHXH. Do vai trò và lợi ích
của BHYT đem lại cho nên Nghị quyết Đại hội Đảng IX đã đặt ra mục tiêu phấn
đấu đến năm 2010 nước ta sẽ thực hiện BHYT toàn dân. (PGS.TS Nguyễn Viết
Vương, 2006).
2.1.2.3 Bảo hiểm y tế tự nguyện (BHYT TN)
Theo Nghị định số 63/2005/NĐ-CP: “ BHYT TN là hình thức BHYT
được thực hiện trên cở sở tự nguyện của người tham gia”.
Cần phân biệt với BHYT bắt buộc: “là hình thức BHYT được thực hiện
trên cơ sở bắt buộc của người tham gia”.
2.1.3 Nội dung của Bảo hiểm y tế tự nguyện
2.1.3.1 Đối tượng của BHYT TN
1. Đối tượng tự nguyện tham gia BHYT theo quy định tại Điều 51 Luật
BHYT và khoản 2 Điều 2 Nghị định số 62/2009/NĐ-CP bao gồm: [4]
a) Người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn theo quy
định của pháp luật về cán bộ, công chức;
b) Người lao động nghỉ việc đang hưởng chế độ ốm đau theo quy định
của pháp luật về bảo hiểm xã hội do mắc bệnh thuộc danh mục bệnh cần chữa trị
dài ngày do Bộ Y tế ban hành;
c) Học sinh, sinh viên đang theo học tại các nhà trường trừ những người
tham gia BHYT theo đối tượng khác;
d) Người thuộc hộ gia đình làm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và
diêm nghiệp;
đ) Thân nhân người lao động làm công hưởng lương theo quy định của
pháp luật về tiền lương, tiền công; xã viên hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể.
19
2. Đối tượng quy định tại các điểm a, d và đ khoản 1 Điều này thực hiện
theo địa giới hành chính; các đối tượng quy định tại các điểm b và c khoản 1
Điều này thực hiện theo đơn vị cơ quan, trường học.
3. Bảo hiểm xã hội Việt Nam hướng dẫn cụ thể việc cấp thẻ BHYT cho
các đối tượng, bảo đảm tính liên tục khi chuyển từ hình thức tự nguyện sang
thực hiện theo quy định của Luật BHYT.[4]
2.1.3.2 Đặc điểm của BHYT TN
Mục tiêu của BHYT TN là nhằm thực hiện chính sách xã hội trong khám,
chữa bệnh, không vì mục đích kinh doanh, không áp dụng các quy định của
pháp luật về kinh doanh bảo hiểm.
Từ ngày 01 tháng 01 năm 2010, mức đóng hàng tháng đối với đối
tượng tự nguyện tham gia BHYT bằng 4,5% mức lương tối thiểu và do đối
tượng đóng.
Căn cứ mức đóng BHYT, người tự nguyện tham gia BHYT đóng 6 tháng
một lần hoặc đóng một lần cho cả năm vào quỹ BHYT.
Khi đi khám bệnh, ngoài thẻ BHYT tự nguyện, người dân phải mang theo
chứng minh thư hoặc giấy tờ tùy thân có ảnh hoặc sổ hổ khẩu. Người dân xã nào
thì đăng ký mua thẻ BHYT ở tại xã đó hoặc các đại lý do xã chứng nhận. Chỉ
trong trường hợp cấp cứu thẻ BHYT mới có giá trị ở bất kỳ cơ sở y tế nào, hoặc
bệnh viện đó tự chuyển lên bệnh viện tuyến trên (phải có chứng minh thư và
giấy chuyển viện) và trước khi ra viện phải xuất trình thẻ BHYT cùng với giấy
tờ có ảnh. Trường hợp người dân mua thẻ BHYT rồi mới thay đổi địa điểm làm
việc thì có thế làm thủ tục chuyển đổi thẻ tại BHXH tỉnh nơi đã cấp thẻ và vào
đầu mỗi quý.
Khi tham gia BHYT tự nguyện tại các cơ sở khám chữa bệnh công lập và
ngoài công lập có hợp đồng khám chữa bệnh với BHYT, người có thẻ khi khám
chữa bệnh ngoại trú được thanh toán 100% chi phí với mức dưới 100.000
đồng/lần khám, được thanh toán 80% chi phí khám chữa bệnh trên 100.000
20
đồng nhưng không vượt quá 40 tháng lương tối thiểu cho một lần sử dụng dịch
vụ kỹ thuật đó.
Chính phủ khuyến khích việc mở rộng và đa dạng hóa các loại hình
BHYT tự nguyện, đồng thời khuyến khích Hội chữ thập đỏ, các Hội từ thiện, tổ
chức quần chúng, tổ chức kinh tế của Nhà nước và tư nhân đóng góp để mua thẻ
BHYT cho người nghèo. Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm quan tâm, tạo
điều kiện thuận lợi để nhân dân địa phương được tham gia BHYT tự nguyện.
Bộ Y tế và Bộ Tài chính quy định phạm vi quyền lợi được hưởng và
khung đóng phí BHYT TN trên cơ sở giá dịch vụ y tế, quyền lợi được hưởng,
điều kiện kinh tế - xã hội và số người tham gia của các nhóm đối tượng. Trên cơ
sở quy định của Bộ Y tế và Bộ Tài chính, BHXH Việt Nam xác định mức đóng
cụ thể cho phù hợp với mỗi nhóm đối tượng và điều kiện kinh tế - xã hội của
từng địa phương.
2.1.3.2 Quản lý Quỹ Bảo hiểm y tế tự nguyện[3]
1. Số thu bảo hiểm y tế tự nguyện được hạch toán, phân bổ và sử dụng
phù hợp với yêu cầu bảo đảm chi phí khám, chữa bệnh cho người tham gia và
phục vụ sự nghiệp phát triển bảo hiểm y tế tự nguyện.
2. Tổ chức thực hiện bảo hiểm y tế tự nguyện được trích một phần
kinh phí trên tổng thu bảo hiểm y tế tự nguyện để chi cho công tác thu phí,
phát hành thẻ bảo hiểm y tế tự nguyện và chi bổ sung cho công tác tuyên
truyền, vận động, khen thưởng. Tỷ lệ kinh phí được trích do liên Bộ Y tế Tài chính quy định cụ thể.
3. Sau mỗi năm hoạt động, nếu Quỹ Bảo hiểm y tế tự nguyện có kết dư thì
chuyển toàn bộ số kết dư sang năm sau để sử dụng cho công tác khám, chữa bệnh
của đối tượng tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện. Nếu tổng số thu của Quỹ Bảo
hiểm y tế tự nguyện nhỏ hơn tổng số chi thì được phép dùng nguồn kết dư của
21
Quỹ Bảo hiểm y tế bắt buộc hoặc nguồn hỗ trợ khác theo quy định để bảo đảm
chi trả đầy đủ, kịp thời các chế độ cho đối tượng được hưởng theo quy định.
4. Liên Bộ Tài chính - Y tế hướng dẫn chi tiết việc thực hiện, quản lý và
sử dụng Quỹ Bảo hiểm y tế tự nguyện theo quy định trên và phù hợp với Quy
chế quản lý tài chính của Bảo hiểm Xã hội Việt Nam.
2.1.4 Quyền và trách nhiệm của các bên tham gia BHYT TN[3]
2.1.4.1 Quyền và trách nhiệm của tổ chức bảo hiểm y tế
1. Tổ chức bảo hiểm y tế có quyền:
a) Yêu cầu người sử dụng lao động đóng và thực hiện chế độ bảo hiểm
y tế; cung cấp các tài liệu liên quan đến việc đóng và thực hiện chế độ bảo
hiểm y tế.
b) Tổ chức các đại lý phát hành thẻ bảo hiểm y tế.
c) Ký hợp đồng với các cơ sở khám, chữa bệnh đủ tiêu chuẩn theo quy
định để khám, chữa bệnh cho người có thẻ bảo hiểm y tế.
d) Yêu cầu cơ sở khám, chữa bệnh cung cấp hồ sơ, bệnh án, tài liệu liên
quan đến thanh toán chi phí khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế.
đ) Từ chối thanh toán chi phí khám, chữa bệnh không đúng quy định của
Điều lệ bảo hiểm y tế hoặc không đúng với các điều khoản ghi trong hợp đồng
đã được ký giữa tổ chức bảo hiểm xã hội với cơ sở khám, chữa bệnh.
e) Thu giữ các chứng từ và thẻ bảo hiểm y tế giả mạo để chuyển cho các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật.
g) Kiến nghị với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý người sử
dụng lao động, người lao động vi phạm Điều lệ Bảo hiểm y tế.
2. Tổ chức bảo hiểm y tế có trách nhiệm:
a) Tổ chức triển khai, thực hiện các chương trình bảo hiểm y tế, mở rộng
đối tượng tham gia bảo hiểm y tế bắt buộc và tự nguyện theo quy định tại Điều
lệ này.
22
b) Thu tiền đóng phí bảo hiểm y tế, cấp thẻ và hướng dẫn việc quản lý, sử
dụng thẻ bảo hiểm y tế.
c) Cung cấp thông tin về các cơ sở khám, chữa bệnh và hướng dẫn người
tham gia bảo hiểm y tế lựa chọn để đăng ký.
d) Quản lý quỹ, thanh toán chi phí bảo hiểm y tế đúng quy định và kịp
thời.
đ) Kiểm tra, giám định việc thực hiện chế độ khám, chữa bệnh, thanh toán
chi phí khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế.
e) Tổ chức thông tin, tuyên truyền về bảo hiểm y tế.
g) Giải quyết các khiếu nại về thực hiện chế độ bảo hiểm y tế thuộc thẩm
quyền.
h) Thực hiện các quy định của pháp luật và yêu cầu của cơ quan có thẩm
quyền về chế độ thống kê, báo cáo hoạt động chuyên môn, báo cáo tài chính,
thanh tra và kiểm tra.
i) Nghiên cứu, xây dựng kế hoạch và trình cơ quan có thẩm quyền ban
hành các giải pháp mở rộng, phát triển bảo hiểm y tế nhằm thực hiện mục tiêu
bảo hiểm y tế toàn dân.
k) Nghiên cứu, đề xuất và trình cơ quan có thẩm quyền các biện pháp
nhằm nâng cao quyền lợi của người tham gia bảo hiểm y tế, cải tiến hình thức
thanh toán, bảo đảm cân đối quỹ khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế và các vấn đề
có liên quan đến bảo hiểm y tế.
2.1.4.2 Quyền và trách nhiệm của cơ sở khám, chữa bệnh
1. Cơ sở khám, chữa bệnh có quyền:
23
a) Yêu cầu tổ chức bảo hiểm xã hội tạm ứng kinh phí và thanh toán chi
phí khám, chữa bệnh theo quy định của Điều lệ Bảo hiểm y tế và theo hợp đồng
khám, chữa bệnh đã ký.
b) Khám, chữa bệnh và cung cấp các dịch vụ y tế cho người bệnh bảo
hiểm y tế theo đúng quy định chuyên môn.
c) Yêu cầu tổ chức bảo hiểm xã hội cung cấp số liệu về số người đăng ký
tại cơ sở khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế.
d) Từ chối thực hiện các yêu cầu ngoài quy định của Điều lệ Bảo hiểm y
tế và hợp đồng đã ký với tổ chức bảo hiểm xã hội hoặc những yêu cầu không
phù hợp với quy chế chuyên môn bệnh viện do Bộ Y tế ban hành.
đ) Sử dụng nguồn kinh phí do tổ chức bảo hiểm xã hội thanh toán theo
quy định.
e) Khiếu nại với các cơ quan có thẩm quyền khi phát hiện hành vi vi
phạm Điều lệ Bảo hiểm y tế hoặc khởi kiện ra toà khi phát hiện tổ chức bảo
hiểm xã hội vi phạm hợp đồng khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế.
2. Cơ sở khám, chữa bệnh có trách nhiệm:
a) Thực hiện đúng hợp đồng khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế.
b) Thực hiện việc ghi chép, lập chứng từ và cung cấp các tài liệu liên quan
đến khám, chữa bệnh của người bệnh bảo hiểm y tế, làm cơ sở thanh toán và
giải quyết các tranh chấp về bảo hiểm y tế.
c) Chỉ định sử dụng thuốc, vật phẩm sinh học, thủ thuật, phẫu thuật, xét
nghiệm, chuyển viện và các dịch vụ y tế khác một cách an toàn, hợp lý cho
người bệnh bảo hiểm y tế theo quy định về chuyên môn kỹ thuật của Bộ Y tế.
d) Tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ tổ chức bảo hiểm xã hội thường trực
tại cơ sở thực hiện công tác tuyên truyền, giải thích về bảo hiểm y tế, hướng dẫn
người tham gia bảo hiểm y tế về quyền lợi, trách nhiệm và giải quyết những
khiếu nại liên quan đến việc khám, chữa bệnh của người có thẻ bảo hiểm y tế.
24
đ) Kiểm tra thẻ bảo hiểm y tế, phát hiện và thông báo cho tổ chức bảo
hiểm xã hội những trường hợp vi phạm quy định về sử dụng thẻ bảo hiểm y tế
và lạm dụng chế độ bảo hiểm y tế.
e) Quản lý và sử dụng nguồn kinh phí do tổ chức bảo hiểm xã hội thanh
toán theo đúng quy định.
g) Thực hiện các quy định của pháp luật về chế độ thống kê, báo cáo hoạt
động chuyên môn, báo cáo tài chính và thanh tra, kiểm tra liên quan đến bảo
hiểm y tế.
2.1.4.3 Quyền và trách nhiệm của người tham gia bảo hiểm y tế
1. Người có thẻ bảo hiểm y tế có quyền:
a) Được khám, chữa bệnh theo chế độ bảo hiểm y tế.
b) Chọn một trong các cơ sở khám, chữa bệnh ban đầu thuận lợi tại nơi cư
trú hoặc nơi công tác theo hướng dẫn của tổ chức bảo hiểm xã hội để được quản
lý, chăm sóc sức khỏe và khám, chữa bệnh.
c) Được thay đổi nơi đăng ký khám, chữa bệnh ban đầu vào cuối mỗi quý.
d) Yêu cầu cơ quan bảo hiểm xã hội và cơ sở khám, chữa bệnh bảo đảm
quyền lợi theo quy định của Điều lệ BHYT.
đ) Khiếu nại, tố cáo khi phát hiện hành vi vi phạm Điều lệ Bảo hiểm y tế.
2. Người có thẻ bảo hiểm y tế có trách nhiệm:
a) Đóng phí bảo hiểm y tế đầy đủ, đúng thời hạn.
b) Xuất trình thẻ bảo hiểm y tế khi đến khám, chữa bệnh.
c) Bảo quản và không cho người khác mượn thẻ bảo hiểm y tế.
d) Chấp hành các quy định và hướng dẫn của tổ chức bảo hiểm xã hội,
của cơ sở y tế khi đi khám, chữa bệnh.
2.2 Cơ sở thực tiễn
2.2.1 BHYT của các nước trên thế giới
25