Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

LÝ THUYẾT PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TOÁN Ở TIỂU HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.72 KB, 12 trang )

Chương I : Mục tiêu, nội dung & PPDH môn toán ở Tiểu học
Bài 1 : VỊ TRÍ, MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ CỦA MÔN TOÁN Ở TIỂU HỌC
1. Vị trí :
Trong các môn học ở tiểu học, cùng với môn TV, môn Toán có vị trí hết sức quan trọng bởi vì :
- Các kiến thức, kĩ năng của môn Toán ở tiểu học có nhiều ứng dụng trong đời sống; chúng rất cần thiết cho người lao
động, rất cần thiết để học tốt các môn học khác ở Tiểu học và chuẩn bị cho việc học tốt môn Toán ở bậc trung học.
- Môn toán giúp HS nhận biết những mối quan hệ về số lượng và hình dạng không gian của thế giới hiện thực .Đối tượng
nghiên cứu của toán học với quan hệ về số lượng và hình dạng là thế giới của hiện thực vì thế ở tiểu học cho dù là những
kiến thức đơn giản nhất cũng là những thể hiện của các mối quan hệ về số lượng và hình dáng không gian. Chằng hạn, các
mối quan hệ về số lượng bao gồm các quan hệ cộng, trừ, nhân, chia, lớ hơn, nhơ hơn, bằng trên các tập hợp N, Q hoặc
những quan hệ giữa những đại lượng VD : quãng đường, t, v; diện tích với chiều dài, chiều rộng hoặc với cạnh đáy, chiều
cao… Các hình dáng không gian bao gồm : các biểu tượng hình học : hình tròn, HCN, HV…
- Môn Toán góp phần rất quan trọng trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, giải quyết vấn đề, góp phần phát triển trí
thông minh. Những thao tác tư duy có thể rèn luyện cho HS qua môn Toán bao gồm phân tích tổng hợp, so sáng, tương tự,
KQH, TTH, cụ thể hoá, đặc biệt hóa. Các phẩm chất trí tuệ có thể rèn luyện cho HS bao gồm :tính độc lập, tính linh hoạt,
tính nhuần nhuyễn, tính sáng tạo. VD : giải 1 bài toán nào đó GV ghi ra
2. Mục tiêu :
Câu1 : Giải thích mục tiêu :
- Những kiến thức cơ bản ban đầu về số học: các khai niệm, tích chất, các phép toán trên số tự nhiên , phân số, số TP
- Cung cấp cho HS kiến thức ban đầu về đại lượng, đo đại lượng như độ dài, diện tích, khối lượng, thời gian, thể tích …
các quan hệ và các phép toán trên các số đo đại lượng
- Cung cấp cho HS kiến thức bàn đầu về một số YTHH biểu tượng : hình tròn, HV, HCN, tam giác … các quy tắc tính
chu vi, diện tích, thể tích của các hình đã học.
- Cung cấp cho HS kiến thức bàn đầu về 1 số thống kê đơn giản như : giải số liệu, biểu đồ, biểu đồ hình quạt
Câu 2 : Trong dạy học thực hiện MT ntn ?
- Đảm bảo cung cấp cho HS đầy đủ chính xác, đúng quy trình các kiến thức cơ bản về số học, đại lượng và đo đại lượng
về 1 số YTHH và thống kê đơn giản.
- Thực hiện được quan điểm tích hợp trong dạy toán ở tiểu học.
Ví dụ : Khi dạy cho HS khái niệm về số TP để học sinh hiểu rõ bản chất của phân số thì đầu tiên GV đưa ra 1 hình học
nào đó là đơn vị ( có thể là hình tròn, HV, HCN) sau đó tiến hành chia thành 1 số phần bằng nhau. Tô màu hay lấy đi 1 số
phần. từ đây hình thành cho HS


3. Nhiệm vụ :
1. Hình thành hệ thống các kiến thức cơ bản, đơn giản, có nhiều ứng dụng trong đời sống của số học gồm : cách đọc, viết,
so sánh các số tự nhiên, phân số, số TP; một số đặc điểm của tập hợp số tự nhiên, PS, số TP; các phép tính trong tập hợp
số tự nhiên , số TP, PS.
2. Có những hiểu biết ban đầu , thiết thực nhất về đại lượng cớ bản như độ dài, khối lượng, thời tg, S,V, dung tích, tiền
VN và một số đơn vị đo thông dụng. biết sử dụng các dụng cụ để thực hành đo lường. biết ước lượng các số đo đơn giản.
3. Rèn luyện để nắm chắc các kĩ năng thực hành tính nhẩm, tính viết về 4 phép tính với số N, số TP, PS, số đo các đại
lượng.
4. Biết nhận dạng và bước đầu biết phân biệt một số các hình hình học thường gặp. biết tính chu vi, S,V của một số hình.
Biết sử dụng các dụng cụ đơn giản để đo và vẽ hình.
5. Có những hiểu biết ban đầu, sơ giản về dùng chữ thay số, biểu thức toán học và giá trị của biểu thức toán học, phương
trình và bất phương trình đơn giản. biết tính giá trị các biểu thức số , giải một số pt và bất pt đơn giản nhất bằng phương
pháp phù hợp với tiểu học.
6. Có những hiểu biết ban đầu, đơn giản về dãy số liệu, bảng số liệu, biểu đồ thống kê,. Biết thu thập, nhận xét và sắp xếp
số liệu trong một bảng số liệu ; biết thu thập và xử lý một sô thông tin đơn giản trển một biểu đồ.
7. Biết cách giải và trình bày bài giải với các bài toán có lời văn. Nắm chắc, thực hiện đúng quy trình giải bài toán. Bước
đầu biết giải một số bài toán bằng các cách khác nhau.
8. Thông qua các hoạt động học tập toán để phát triển đúng mức một số khả năng trí tuệ và thao tác tư duy quan trọng
nhất như : so sánh, phân tích, tổng hợp, TTH,KQH, cụ thể hóa, ..
9. Hình thành tác phong học tập và làm việc có suy nghĩ, có kế hoạch, có kiểm tra, có tinh thần hợp tác, ý chí vượt qua
khó khăn, cẩn thận, …
Bài 2 :NỘI DUNG MÔN TOÁN Ở TIỂU HỌC
Câu 1 : Hiểu như thế nào về đặc điểm sau đây của môn toán ở Tiêu học :
Môn toán TH là 1 môn học thống nhất không chia thành các phân môn ( Tr100)

1


* Giải thích :
- Môn toán ở tiểu học là một môn học thống nhất. Môn toán ở TH khác với các bậc học trên là không chia thành nội dung

độc lập số học, đại số, hình học vì được tổ chức thành môn học thống nhất thể hiện qua tên gọi Toán 1, Toán 2, …
- Số học là nội dung trọng tâm cơ bản của CT môn Toán ở tiểu học, nó chiếm một khối lượng và thời lượng khá lớn trong
toàn bộ cấu trúc nội dung CT môn toán ở TH, các nội dung khác như : đại lượng, và đo đại lượng và 1 số YTHH và giải
toán trình bày xen kẽ với nội dung số học nhằm tạo sự hỗ trợ lẫn nhau, đây cũng chính là sự thể hiện của quan điểm tích
hợp trong dạy học toán ở tiểu học.
* Vận dụng đặc điểm này ntn trong dạy học :
- Ta sử dụng các kiến thức, kĩ năng về số học như là công cụ, là phương tiện để hình thành các kiến thức, kĩ năng của các
tuyến các kiến thức khác
- Thông qua dạy học các tuyến kiến thức khác để củng cố, ôn tập và vận dụng các kiến thức, kĩ năng về số học
VD : Tính diện tích HCN (GV ghi ra )

3 × 4 = 12,4 × 3 = 12

Câu 2 : Cấu trúc nội dung CT môn toán ở tiểu học quán triệt các tư tưởng của toán học hiện đại và phù hợp với
từng giai đoạn phát triển của HSTH
Giải thích :
- Tử tưởng hiện đại ở trong toán học TH được hiểu như sau :
Hình thành KN số tự nhiên và các phép toán về số tự nhiên được hình thành theo quan điểm của lí thuyết tập hợp. cụ thể :
+ KN về số tự nhiên được xem là bản số của một tập hữu hạn
+ KN về phép cộng hai số tự nhiên là tập của hai tập hợp rời nhau
- Sự phối hợp hợp lý giữa số học với các đại lượng cơ bản, yếu tố đại số, YTHH, giải toán có lời văn là thể hiện tử
tưởng coi trọng tính thống nhất của toán học. Việc hình thành KN số tự nhiên theo tinh thần của lý thuyết tập hợp , việc
coi trọng đúng mức đến dạy một số tính chất quan trọng của phép cộng và phép nhân và mối quan hệ giữa phép cộng và
phép trừ, phép nhân và phép chia; việc làm nổi rõ dần một số tính chất cảu dãy số tự nhiên; cách giới thiệu về các số thập
phân theo kiểu mở rộng tập hợp số tự nhiên … đều có dụng ý quán triệt tư tưởng của toán học hiện đại.
Căn cứ vào sự phát triển tâm lý, sinh lý của HSTH mà cấu trúc nội dung môn toán cho phù hợp với từng giai đoạn phát
triển của HS
+ Giai đoạn đầu ( lớp 1.2.3)
- HS bắt đầu chuyển tự hoạt động chủ đạo là hoạt động chơi sang hoạt động học. do đó, học tập ở giai đoạn này là “ học
mà chơi, chơi mà học”, học trong hoạt động và bằng hoạt động, nên việc tổ chức hoạt động trò chơi trong một giờ học

toán ở giai đoạn này là hết sức cần thiết. GV phải đưa HS vào các tình huống hoạt động trong một giờ học toán tức là mọi
HS đều phải được hoạt động ( bằng tư duy, ngôn ngữ, hành vi)
- Nhận thức của HS ở giai đoạn này chủ yếu là nhận thứccảm tính dựa vào các đồ vật gắn liền với đời sống hằng ngày của
HS. Vì vậy, dạy học ở giai đoạn này nhất thiết phải sử dụng các yếu tố trực quan đồng thời các yếu tố trực quan càng gần
gũi Hs càng tốt.
+ Giai đoạn cuối ( lớp 4.5)
- Hoạt động chủ đạo của học ở giai đoạn này là hoạt động học, ở đây HS học tập thông qua hoạt động thực hành, luyện tập
c ủa cá nhân hay nhóm để từ đó có thể tự mình phát hiện ra các kiến thức, kỹ năng mà GV cần dạy. do đó, việc tổ chức
các hoạt động trò chơi trong một giờ học toán của HS ở giai đoạn này là không bắt buộc, tuy nhiên nên khuyến khích việc
tổ chức các hoạt động trò chơi mang tính trí tuệ, trò chơi xử lí tình huống trong học tập và trong cuộc sống.
- Nhận thức của HS ở giai đoạn này bắt đầu chuyển sang nhận thức lý tính trên cơ sở quan sát, phân tích, so sánh các hiện
tượng và sự kiện trong học tập và trong đời sống, vì vậy, khi dạy học ở giai đoạn này cần giảm dần về thời lượng sử dụng
và mức độ trực quan của của yếu tố trực quan.
* Vận dụng :
- GV phải nắm vững các kiến thức toán học cơ bản và chỉ ra được những thể hiện của toán học hiện đại trong SGK tiểu
học.
- Tổ chức dạy học các kiến thức toán ở tiểu học phù hợp với bản chất của nó theo tinh thần của toán học hiện đại. VD :
Dạy học KN số 2…
Câu 3 : Các kiến thức kĩ, năng của môn toán ở tiểu học được hình thành chủ yếu bằng thực hành, luyện tập và
thường xuyên được ôn tập, củng cố, phát triển, vận dụng trong học tập và trong đời sống.
Giải thích : Điều này nó phù hợp với cấu trúc nội dung từng bài dạy của từng chương, từng học kì của từng năm. Đây là
sự thể hiện của nguyên lí giáo dục” học đi đôi với hành, lí luận gắn liền với thực tiễn”
- Thông qua hoạt động thực hành bước đầu giúp Hs tìm tòi, phát hiện các KN toán học, các quy tắc tính toán, đồng thời sẽ
củng cố các tri thức mới, rèn luyện các kĩ năng cơ bản, phát triển tư duy.
- Thông qua hoạt động thực hành, luyện tập HS bước đầu làm quen với cách vận dụng các kiến thức, kỹ năng của môn
tóan để giải quyết những vấn đề nảy sinh trong học tập và trong cuộc sống.

2



- Thông qua việc thường xuyên ôn tập, củng cố, và vận dụng sẽ giúp HS hiểu sâu, nhớ kĩ và vận dụng tốt các kiến thức ,
kỹ năng đã được học. đây cũng là cơ sở để hình thành và phát triển tư duy vf điều kiện cần thiết để học tập các nội dung
mới .
VD : …
* Vận dụng :
- GV cần chú ý khai thác nội dung bài dạy để tổ chức cho HS các hoạt động luyện tập khi hình thành kiến thức mới
- Trong những nội dung luyện tập cần chú ý tổ chức cho HS thực hành, luyện tập giải về các bài toán đa dạng từ dễ đến
khó, từ đơn giản đến phức tạp.
VD : Khi dạy bài HCN, GV yêu cầu HS chuẩn bị miếng bìa HCN, sau đó lên lớp tổ chức cho HS dùng ê ke đo để KT các
góc vuông , gấp đôi theo chiều dài và chiều rộng để nhận biết 2 cạnh dài = nhau, hai cạnh ngắn = nhau. ( không cần dùng
thước để đo)
Khi dạy xong HCN yêu cầu HS chỉ ra những HCN xung quanh ( trong lớp học, cuộc sống, …)
Bài 3 : ĐỔI MỚI PPDH TOÁN Ở TIỂU HỌC
1. Một số định hướng ĐMPPDH toán ở tiểu học : ( có 4 định hướng xem ở tài liệu ôn tập
tr 102)
+ Định hướng 1 : “ cách học, cách tự học và có nhu cầu tự học”
Giải thích :
- Tự học là quá trình mà người học nối những kiến thức kinh nghiệm đã có và bằng sự nỗ lực suy nghĩ, tư duy của chính
bản thân mình để đi đến tìm và khai thác, khám phá ra nội dung kiến thức cần học.
- Bản chất của việc học là tự học. Do đó, dạy cho HS cách học cũng là dạy cho HS cách tự học.
- Điều này nó phù hợp với quan điểm biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đạo tạo, biến quá trình dạy học thành quá
trình dạy-tự học,biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục.
Vận dụng :
- GV phải chú ý gợi cho HS có lòng ham thích môn toán
- Rèn cho HS các kỹ năng giải quyết bài toán hay vấn đề
- Cho HS có thói quen làm việc có kế hoạch nghiêm túc khoa học.
VD : GV đưa ra bài toán, từ hệ thống câu hỏi gợi ý cho HS tự làm bài …
Chương II : Dạy học số học ở tiểu học
Bài 1 : MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU & NỘI DUNG SỐ HỌC Ở TIỂU HỌC
Các cách khái niệm số tự nhiên :

Cách 1 : Coi số tự nhiên là bản số của của một tập hợp hữu hạn.
+ ĐN 1 : : Cho hai tập hợp A và B. ta nói tập hợp A tương đương với tập hợp B, kí hiệu A : B khi và chỉ khi có một
song ánh f từ A lên B.
+ ĐN 2 : Khi hai tập tương đương với nhau ta nói chúng có cùng lực lượng hày cùng bản số, bản số của tập A kí hiệu là
card A. A : B ⇔ Card A=Card B .
+ ĐN 3 : Bản số của một tập hợp h ữu hạn được gọi là một số tự nhiên. Tập hợp số tự nhiên kí hiệu là N.
Như vậy, nếu a là số tự nhiên thì tồn tại một tập hợp hữu hạn A, sao cho a = Card A.
Cách 2 : Xây dựng số tự nhiên bằng hệ tiên đề Pêanô
- Khái niệm cơ bản : số tự nhiên
- Quan hệ cơ bản : số liền sau
- Các tiên đề :
1. Có số tự nhiên 0 không phải là số kề sau
2. Mỗi số tự nhiên có 1 và chỉ 1 số kề sau
3. Mỗi số tự nhiên là số kề sau của không quá một số ( nếu có)
4. Mọi bộ phận M của tập số tự nhiên có các tính chất :
+ 0∈M
+ Nếu n ∈ M thì số kề sau n, của N cũng thuộc M. khi đó M ≡ N
Cách trình bày trong SGK toán tiểu học :
Về bản chất , khái niệm số tự nhiên ở toán 1 được hình thành theo tư tưởng bản số của tập hợp. vì dụ : Hinh thành số 3



•••

so3
3


Đồng thời SGK toán 1 cũng đã vận dụng tư tưởng của cách 2 khi hình thành quan hệ thứ tự , khái niệm số liền trước, liền
sau và khái niệm trong SGK toán 4 ( dãy số tự nhiên toán 4, trang 19)

* Một số yêu cầu về kiến thức, kĩ năng và một số lưu ý trong dạy học :
- cung cấp cho HS có những kiến thức cơ bản, chính xác về khái niệm số tự nhiên( kí hiệu số, cách đọc, viết)
- Quá trình hình thành khái niệm số từ lớp 1 đến lớp 4, bắt đầu từ việc hình thành khái niệm tập hợp lực lượng, sau
đó đến việc hình thành các kí hiệu số, cách đọc, cách viết và cuối cùng hình thành ra dãy số tự nhiên. ( trang 125
tài liệu ôn)
* Dạy học khái niệm phân số :
+ Cách 1 : Ta định nghĩa phân số theo cách hiểu là dạng biễu diến được mở rộng tập hợp các số số nguyên
-

phân số là 1 dạng số hữu tỉ được đặc trưng b ởi các số nguyên (a,b), b ≠ 0 và được kí hiệu dưới dạng

a
, ở đây a
b

là tử số, b là mẫu số
-

Tập các phân số

a

 / a,b ∈ ¢ ,b ≠ 0 
b


Theo cách hiểu này phân số cần được hiểu là dạng biểu diễn thương đúng của phép chia một số nguyên cho 1 số
nguyên khác 0
+ Cách 2 : Xem phân số là dạng biểu diễn số phần bằng nhau được lấy ra từ đơn vị


1
*3Cách trình bày trong SGK toán tiểu học :
Trong SGK toán 4 hiện nay vận dụng tư tưởng theo cách 2, đồng thời cũng đã vận dụng tử tưởng của cách 1 nhằm
giới thiệu cho HS một cách hiểu khác về phân số : coi phân số là dạng số dùng để ghi kết quả phép chia số tự nhiên.
* Các yêu cầu về kiến thức kĩ năng :
- HS phải có biểu tượng chính xác về khái niệm phân số
- Biết cách đọc và cách viết từng phân số cụ thể
- Bước đầu nắm được cấu tạo của mỗi phân số : tử số, mẫu số, nội dung ý nghĩa của mỗi yếu tố.
* Dạy học khái niệm số thập phân :
+Cách 1 : Cói số thập phân là dạng biểu diễn phân số thập phân. Ví dụ :

1
= 0,1
10

+Cách 2 : Xem số thập phân là dạng biểu diễn nhỏ nhất các số đo đại lượng, ví dụ 2m7dm=2,7m
+ Cách 3 : Xem số thập phân là dạng ghi số trong hệ đếm thập phân

x = a n 10n + a n −110 n −1 + ... + a110 + a 0100 + a −110 −1 + ... + a − m10 − m = a n a n −1...a 1a 0 ,a −1...a − m
Trong đó m,n ∈ ¥ ,a i∈ { 0,1,2,3,4,5,6,7,8,9}
* Cách trình bày trong SGK toán 5 :
Cách trình bày trong SGK toán 5 đã vận dụng tư tưởng cách 1,2 khi trình bày về KN số thập phân theo cách biểu diễn
là dạng biểu diễn của phân số thập phân và là dạng biểu diễn nhỏ nhất của các số đo đại lượng.
SGk toán 5 cũng đã bước đầu tiếp cận cách 3 khi trình bày về cấu tạo thập phân của số thập phân dưới dạng không
tường minh.
• Các yêu cầu về kiến thức kĩ năng :
- HS phải có biểu tượng chính xác về KN số thập phân
- Biết cách đọc, viết từng số thập phân cụ thể
- Bước đầu nắm được về cấu tạo số thập phân: phần nguyên, phần thập phân, quy tắc giá trị theo vị trí của mỗi chữ
số trong một số thập phân

• Dạy học các phép tính số học : ( Tài liệu ôn 129-130)
Chương III : Dạy học các yếu tố hình học
Có 8 nguyên tắc
• Nguyên tắc 1 : Cần phải sử dụng một cách hợp lí các yếu tố trực quan trong dạy học các YTHH ở tiểu học :
*Giải thích :

4


Các yếu tố trực quan trong dạy học các YTHH ở tiểu học bao gồm :
- Các đồ vật thật như com pa, ê ke, thước, mặt đồng hồ, …
- Các mô hình, hình tượng : HCN, hình thoi, …
- Hình vẽ hình ảnh, các sơ đồ, biểu đồ
* Tại sao phải sử dụng các yếu tố trực quan trong dạy học các YTHH ở tiểu học :
- Các YTHH ở tiểu học cho dù là dạng đơn giản nhất đều là kết quả của sự khái quát hóa, trừu tượng hóa các sự kiện
hiện tượng của thế giới khác quan. Do đó bản chất của chúng là trừu tượng . để giúp cho HS có thể lĩnh hội bản chất
trừu tượng này thì con đường tốt nhất là phải bắt đầu từ những cái cụ thể là bắt đầu các yếu tố trực quan.
- Do đặc điểm của HS tiểu học là chủ yếu dựa vào thị giác dựa vào những hình ảnh quan sát trực tiếp cho nên sử dụng
các yếu tố trực quan là phù hợp với trình độ nhận thức và năng lực tư duy của HS.
* Sử dụng các yếu tố trực quan như thế nào ?
Sử dụng đúng lúc, đúng chỗ và đúng mức độ
Có thể sử dụng các yếu tố trực quan theo quy trình :
+ Bước 1 : GV giới thiệu 1 hay 1 số yếu tố trực quan rồi tổ chức cho HS quan sát nhận xét và rút ra dấu hiệu bản chất
chứa đựng trong yếu tố trực quan đó.
+ Bước 2 : Từ yếu tố dấu hiệu bản chất này GV hướng dẫn HS trừu tượng hóa để có được YTHH cần học.
Ví dụ : Dạy về góc vuông, góc không vuông, biểu tượng về góc
Bước 1 : Giới thiệu biểu tượng từ các kim đồng hồ ( Muốn xác định 1 giờ nào đó ta phải xác định vị trí các kim- đây
là dấu hiệu về góc, ta phải biết 2 cạnh nào đó
Bước 2 : Vẽ lại kim đồng hồ rồi giới thiệu về góc, đỉnh, cạnh, tên gọi.
* Nguyên tác 2 : Cần phải kết hợp chặt chẽ giữa cái cụ thể và cái trừu tượng trong dạy học các YTHH ở tiểu học :

* Giải thích :
- Cái cụ thể là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự thể hiện của các sự kiện, hiện tượng của thế giới khác quan.
- cái trù tượng là một phạm trù triết học dùng để chỉ những thuộc tính bản chất của sự kiện hiện tượng của thế giới
khách quan và nhờ đó mà con ngươi nhận ra được những hiện tượng này đúng như bản chất vốn có của nó.
* Tại sao ?
- Nó phù hợp với quy luật nhận thức của con người đó là từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và tư duy trừu
tượng đến thực tiễn.
- cái cụ thể giúp cho HS có biểu tượng ban đầu về YTHH cần học, cái trừu tượng giúp cho HS chính xác hóa biểu
tượng ban đầu đó thành YTHH cần học.
* Như thế nào ?
- kết hợp chặt chẽ cụ thể trừu tượng theo con đường : cụ thể 1
trừu tượng cụ thể 2
- HS tiến hành hoạt động với những đồ vật hay các mô hình sau đó chuyển sang ngôn ngữ bên ngoài rồi đến ngôn ngữ
bên trong và áp dụng những điều khái quát đã lĩnh hội được vào những trường hợp cụ thể.
VD : … ( trang 138 tài liệu – Dạy về HV)
* Nguyên tắc 3 : Kết hợp chặt chẽ giữa PP quy nạp và PP suy diễn trong dạy học các YTHH ở tiểu học
* Giải thích :
- PP quy nạp : là PP suy luận đi từ cái riêng đến cái chung, từ một hay một vài trường hợp cụ thể để rút ra kết luận
chung, tổng quát.
- PP suy diễn : là PP suy luận đi từ cái chung đến cái riêng, từ quy tắc chung, tổng quát áp dụng vào từng trường hợp
cụ thể, riêng lẻ.
* Tạo sao ?
- Hầu hết các kiến thức toán ở cấp tiểu học đều được xây dựng theo con đường quy nạp không hoàn toàn. Do đó việc
sử dụng PP quy nạp là phù hợp với quy trình hình thành kiến thức đồng thời nó phù hợp với trình độ nhận thức và năng
lực tư duy của HS.
- PP suy diễn giúp HS vận dụng các kiến thức kĩ năng đã học vào các trường hợp cụ thể riêng lẻ. nhờ đó mà các em
hiểu sâu nhớ kĩ và vận dụng đúng.
* Như thế nào ?
- Trong dạy học các YTHH GV thường dùng các PP quy nạp để dạy cho HS các kiến thức, quy tắc mới ; sau đó
dùng PP suy diễn để hướng dẫn HS luyện tập áp dụng các kiến thức và quy tắc mới ấy vào giải những bài tập cụ thể.

Ví dụ : Dạy bài Diện tích hình chữ nhật, GV có thể làm như sau :
a) Dạy bài mới ( Dùng PP quy nạp)
- GV dựa vào một số ví dụ cụ thể để giúp HS nhận xét rút ra kết luận chung ( xem TL 139)
* Nguyên tắc 4 : Cần phải coi trọng PP thực hành – luyện tập trong dạy học các YTHH ở tiểu học.
a) Giải thích : PP THLT là PP dạy học liên quan đến hoạt động thực hành luyện tập để dạy các kiến thức mới hoặc rèn
luyện kỹ năng

5


b) Tại sao ?
- Phù hợp với đặc điểm cấu trúc nội dung môn toán nói chung, đặc điểm các YTHH nói riêng.
- Thông quan hoạt động THLT hs được đặc vào tình huống học tập và = hoạt động tích cực, tự giác của mình cá em có thể
phát hiện ra các kiến thức kĩ năng mà thầy cô giáo cần dạy.
- Do đặc điểm của HS tiểu học là dễ nhớ, chóng quên cho nên để khắc phục tình trạng này, cách tốt nhất là tổ chức cho
các em hoạt động thực hành luyện tập , thông qua đó mà giúp HS khắc sâu, nhớ lâu, vận dụng được các kiến thức, kỹ
năng đã học.
c) Như thế nào ?
- Khai thác nội dung bài dạy để có thể vận dụng PP THLT khi hình thành các kiến thức kỹ năng mới.
- GV cần chú ý tổ chức cho HS các hoạt động THLT ở các mức độ nhận biết tái tạo và vận dụng
- Trong các tiết luyện tập, ôn tập cần chú ý tổ chức cho HS các hoạt động thực hành luyện tập giải các bài toán đa
dạng từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Ví dụ ( trang 141)
* Nguyên tắc 5 : Cần phải kết hợp chặt chẽ việc dạy học các YTHH với dạy học các tuyến kiến thức khác.
a) Tại sao ?
- Phù hợp với đặc điểm cấu trúc nội dung chương trình môn toán ở tiểu học
- Xuất phát từ chính đặc điểm của các YTHH. Đó là : được trình bày rải rác từ lớp 1 đến 5 và xen kẽ với các tuyến
kiến thức khác cho nên trong DH các YTHH tất yếu phải kết hợp chặt chẽ các tuyến kiến thức này.
- Việc dạy học các YTHH phải kết hợp chặt chẽ với số học
- Việc dạy học các YTHH gắn bó với các vấn đề đo lường như hình với bóng.
- Có thể thấy mối liên quan chặt chẽ giữa việc giảng dạy các YTHH và các yếu tố đại số và giải toán ( trang 142)

b) Như thế nào ?
- Sử dụng các kiến thức, kỹ năng của các tuyến kiến thức khác như là công cụ, phương tiện để hình thành cho HS các
kiến thức, kĩ năng về các YTHH
- Thông qua dạy học các YTHH để góp phần ôn tập củng cố và vận dụng các kiến thức, kỹ năng các tuyến kiến thức
khác. VD : ( trang 142)
* Nguyên tắc 6 : Cần phải co trọng việc rèn luyện cho Hs kĩ năng sử dụng các dụng cụ hình học.
a. Giải thích : Các dụng cụ hình học được sử dụng chủ yếu trong dạy học các YTHH ở TH là : thước kẻ, ê ke, com
pa, …
b. Tại sao ?
- Bản thân các dụng cụ HH cũng là các yếu tố trực quan mà hs cần học : tên gọi, tác dụng, cách sử dụng. đây cũng
chính là các công cụ dựng hình mà các em sẽ gặp ở các bậc học trên.
- Các dụng cụ hình học có vai trò hết sức quan trọng trong hình học, trong toán học, trong kỹ thuật chúng là công cụ,
là phương tiện để giúp hs lĩnh hội các yếu tố hình học khác.
c. Như thế nào ?
- GV chú ý rèn luyện cho Hs kỹ năng sử dụng các dụng cụ hình học thông qua việc :
+ Dạy cho các em hiểu được tác dụng, nắm vững các thao tác cụ thể cần thiết khi sử dụng các dụng cụ hình học để đo
đạc, để vẽ hình được chính xác, sạch đẹp.
+ Dạy cho hs cách giữ gìn , bảo quản các dụng cụ hình học cẩn thận, lâu bền.
+ Về phần mình gv cũng phải làm gương trong việc giữ gìn, bảo quản và sử dụng các dụng cụ hình học.
VD : việc sử dụng ê ke để kiểm tra góc vuông, góc không vuông, vẽ hai đường thẳng vuông góc, …
* Nguyên tắc 7 : Cần đặc biệt quan tâm đến việc thường xuyên ôn tập , củng cố và hệ thống hóa các kiến thức
đã học và kỹ năng trong dạy học các YTHH ở tiểu học.
a) Tại sao ?
- Nó phù hợp với đặc điểm cấu trúc, nội dung chương trình môn toán ở tiểu học và phù hợp với đặc điểm các YTHH ở
tiểu học.
- Phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí trình độ nhận thức và năng lực tư duy của hs.
b) Như thế nào ?
- Những quy tắc và công thức hình học cần phải được thường xuyên ôn lại để học sinh dễ nhớ, sau mỗi bài mỗi chương,
mỗi học kì . GV cần tổ chức cho Hs ôn tập , củng cố, nhằm chỉ ra các kiên thức cơ b ản, trọng tâm cần phải nắm vững.
- Bước đầu tập cho hs có thói quen hệ thống hóa các YTHH đã học nhằm giúp các em thấy được mối liên hệ giữa chúng.

Điều quan trọng là gv cần tổ chưc cho hs các hoạt động thực hành luyện tập. Qua đó mà hs củng cố và ghi nhớ kiến thức
chứ không nên coi việc bắt hs đọc thuộc các công thức và quy tắc nhiều lần đề ghi nhớ kiến thức.
VD : Sau khi hs học xong hình thang, gv tổ chức cho hs hệ thống hóa các hình đã học : HV, HCN, hình thang, thoi, …
không bắt học sinh nêu các trường hợp đặc biệt.
* Nguyên tắc 8 : Cần đảm bào sự cân đối giữa tính khoa học và tính vừa sức trong dạy học các YTHH
a. Giải thích :

6


- Tính khoa học : Thể hiện ở tính lôgic, sự chặt chẽ, tính chính xác và tính đầy đủ của hệ thống kiến thức các YTHH
- Tính vừa sức : Thể hiện ở sự phù hợp với các đặc điểm tâm sinh lí, trình độ nhận thức và năng lực tư duy của Hs.
b. Tại sao ?
- Đây là 1 nguyên tắc dạy học nói chung phải tuân theo.
- Bản chất của các YTHH ở tiểu học là khoa học chính xác trong khi đó đặc điểm nhận thức và năng lực tư duy của hs còn
hạn chế. Cho nên trong dạy học các YTHH ta phải chú ý không nên đặc yêu cầu quá cao vào tính chính xác và sự chặt
chẽ của hệ thống kiến thức mà cần cân nhắc, tính toán để tránh tình trạng dạy quá cao khiến hs không thể tiếp thu được.
- Tuy nhiên cũng không nên dựa vào lí do Hs còn nhỏ khả năng suy nghĩ còn nhiều hạn chế mà bỏ qua các yêu cầu về tính
khoa học của hệ thống kiến thức.
c. Như thế nào ?
- GV cần chú ý trình bày các YTHH 1 cách đơn giản, dễ hiểu gắn liền với hình ảnh thực tế trong cuộc sống hàng ngày của
hs.
- Vận dụng hợp lí các nguyên tắc khác ( trình bày ở trên) trong 1 số trường hợp tùy từng đối tượng hs mà GV có thể hoặc
là nhấn mạnh tính khoa học nhằm giúp các em từng bước tiếp cận bản chất khoa học chính xác của các YTHH hoặc là
nhấn mạnh yếu tố vừa sức nhằm phù hợp với trình độ nhận thức và năng lực tư duy của hs. Nguyên tắc chung ở đây là cố
gắng dạy các YTHH cho Hs tới mức chặt chẽ và chính xác cao nhất mà các em có thể tiếp thu được.
Dạy học các khai niệm, quy tắc hình học (tr 145)
Hoạt động 1 : hình thành biểu tượng ( quy tăc )
Hoạt động 2 : chính xác hóa biểu tượng ( phát biểu quy tắc)
Hoạt động 3: Luyện tập, củng cố

////////////////////////////////////////////////////////////////////////////////////////////////
Tóm tắt: Tự học có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình học tập. Học trên lớp chỉ có thời gian nhất định còn tự
học là quá trình lâu dài, học suốt đời. Hiệu quả của quá trình tự học phụ thuộc vào ý chí, tố chất, động cơ và năng lực của
người học vì vậy bồi dưỡng năng lực tự học cho sinh viên (SV) là một nhiệm vụ quan trọng và cần thiết đối với qua trình
dạy học trong các Trường chuyên nghiệp nói chung và Trường Đại học Tây Bắc nói riêng. Tự học chỉ có hiệu quả khi sử
dụng một phương pháp hợp lý, phù hợp với đối tượng và điều kiện hiện có.
Từ khóa: Tự học, năng lực, biện pháp, sinh viên, Đại học Tây Bắc.
1. Đặt vấn đề
Trong thời đại mà khoa học kĩ thuật phát triển nhanh chóng như hiện nay, nhà trường dù tốt đến mấy cũng không thể
đáp ứng hết nhu cầu học tập của người học cũng như đòi hỏi ngày càng cao của đời sống xã hội. Vì vậy, bồi dưỡng năng
lực tự học cho sinh viên là một công việc có vị trí cực kì quan trọng trong các nhà trường đại học. Chỉ có tự học, tự bồi
đắp tri thức bằng nhiều con đường, nhiều cách thức khác nhau mỗi SV mới có thể bù đắp được những thiếu khuyết về tri
thức khoa học về đời sống xã hội. Từ đó có được sự tự tin trong cuộc sống, công việc bởi năng lực toàn diện của mình.
Vấn đề tự học tự đào tạo của người học đã được Đảng, Nhà nước quan tâm quán triệt sâu sắc từ nhiều năm qua. Nghị
quyết Trung ương V khóa 8 từng nêu rõ: “ Tập trung sức nâng cao chất lượng dạy và học, tạo ra năng lực tự học, tự
sáng tạo của học sinh, Bảo đảm mọi điều kiện và thời gian tự học cho học sinh, phát triển mạnh mẽ phong trao tự học, tự
đào tạo thường xuyên và rộng khắp trong toàn dân”.
Trên tinh thần ấy, rõ ràng Đảng ta đã coi tự học, tự đào tạo là vấn đề mấu chốt có vị trí cực kì quan trọng trong chiến
lược giáo dục - đào tạo của đất nước. Trong khuôn khổ báo cáo này chúng tôi muốn tập trung đề cập những vấn đề liên
quan đến khái niệm tự học, nội dung hoạt động tự học, các hình thức dạy tự học, đặc biệt là quan tâm đến các biện pháp
rèn luyện kĩ năng tự học cho SV. Để từ đó thúc đẩy quá trình rèn luyện kĩ năng tự học cho SV, góp phần vào công cuộc
đổi mới phương pháp dạy học, không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường.
2. Nội dung
2.1.Năng lực tự học – Tầm quan trọng của năng lực tự học
Theo từ điển Giáo dục học – NXB Từ điển Bách khoa 2001 “Tự học là quá trình hoạt động lĩnh hội tri thức khoa
học và rèn luyện kỹ năng thực hành…”. Tiến sĩ Võ Quang Phúc cho rằng : “Tự học là một bộ phận của học, nó cũng được
hình thành bởi những thao tác, cử chỉ, ngôn ngữ, hành động của người học trong hệ thống tương tác của hoạt động dạy
học. Tự học phản ánh rõ nhất nhu cầu bức xúc về học tập của người học, phản ánh tính tự giác và sự nỗ lực của người
học, phản ánh năng lực tổ chức và tự điều khiển của người học nhằm đạt được kết quả trong hoàn cảnh nhất định với
cường độ học tập nhất định”. Tự học thể hiện bằng cách tự đọc tài liệu giáo khoa, sách báo các loại, nghe radio, truyền

hình, nghe nói chuyện, báo cáo, tham quan bảo tàng, triển lãm, xem phim, kịch, giao tiếp với những người có học, với các

7


chuyên gia và những người hoạt động thực tiễn trong các lĩnh vực khác nhau. Người tự học phải biết cách lựa chọn tài
liệu, tìm ra những điểm chính, điểm quan trọng trong các tài liệu đã đọc, đã nghe, phải biết cách ghi chép những điều cần
thiết, biết viết tóm tắt và làm đề cương, biết cách tra cứu từ điển và sách tham khảo, biết cách làm việc trong thư viện, ….
Tự học đòi hỏi phải có tính độc lập, tự chủ, tự giác và kiên trì cao.
Năng lực tự học là năng lực hết sức quan trọng vì tự học là chìa khoá tiến vào thế kỉ XXI, một thế kỉ với quan
niệm học suốt đời, xã hội học tập. Có năng lực tự học mới có thể học suốt đời được. Vì vậy, quan trọng nhất đối với học
sinh là học cách học. Năng lực tự học là khả năng tự mình tìm tòi, nhận thức và vận dụng kiến thức vào tình huống mới
hoặc tương tự với chất lượng cao. Để rèn luyện năng lực tự học cho học sinh, trong quá trình dạy học, người giáo viên cần
biết hướng dẫn và tạo cơ hội, điều kiện thuận lợi cho học sinh hoạt động nhằm phát triển năng lực tư duy, sự linh hoạt, sự
sáng tạo cho người học.
Tự học là một giải pháp khoa học giúp giải quyết mâu thuẫn giữa khối lượng kiến thức đồ sộ với quỹ thời gian
không nhiều khi học ở nhà trường. Nó giúp khắc phục nghịch lý : học vấn thì vô hạn mà tuổi học đường thì có hạn. Tự
học là giúp tạo ra tri thức bền vững cho mỗi người bởi lẽ nó là kết quả của sự hứng thú, sự tìm tòi, nghiên cứu và lựa
chọn. Có phương pháp tự học tốt sẽ đem lại kết quả học tập cao hơn. Khi học sinh biết cách tự học, họ sẽ “có ý thức và
xây dựng thời gian tự học, tự nghiên cứu giáo trình, tài liệu, gắn lý thuyết với thực hành, phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo, biến quá trình đào tạo thành quátrình tự đào tạo”.
Tự học của học sinh còn có vai trò quan trọng đối với yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng
đào tạo tại các trường phổ thông. Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa người học sẽ phát huy tính tích
cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học trong việc lĩnh hội tri thức khoa học.Ngay từ khi còn học ở trường trung
học phổ thông, nếu học sinh rèn luyện tốt năng lực tự học, có khả năng và phương pháp tự học, tự nghiên cứu thì khi lên
đến các bậc học cao hơn như đại học, cao đẳng,… học sinh sẽ dễ dàng thích ứng với phương pháp dạy học hiện nay.
2. 2. Các hình thức tự học
a. Tự học hoàn toàn: Là việc người học nghiên cứu, tìm tòi tài liệu từ mạng Internet và sách tham khảo. Tự học
hoàn toàn có kết quả tích cực nhưng mất nhiều thời gian vì không có hệ thống và chiều sâu tư tưởng, rất ít kế thừa từ hiểu
biết của người đi trước.

b. Tự học có hướng dẫn: Là hình thức hoạt động tự lực của người học để chiếm lĩnh tri thức và hoàn thành kĩ
năng tương ứng dưới sự hướng dẫn, tổ chức, chỉ đạo của giáo viên thông qua tài liệu tham khảo. Tự học có hướng dẫn thể
hiện qua việc: Thu thập, xử lý thông tin và tự kiểm tra, điều chỉnh. Người học có thể thu thập thông tin thông qua: đọc
sách giáo khoa, nghiên cứu tài liệu tham khảo, mạng Internet và qua thí nghiệm, bài tập. Để xử lý thông tin người học
cần:Phân tích, tổng hợp, khái quát, nhận xét, đánh giá, phê phán, tự trình bày, ứng dụng, tóm tắt nội dung, lập bảng hệ
thống. Người học có thể tự đánh giá và kiểm tra thông tin qua bài làm của bạn, của mình và tổng kết của thầy.
2.3. Nội dung của quá trình tự học
Bàn về hoạt động tự học và phương pháp tổ chức cho SV tự học như thế nào để có hiệu quả thiết thực là một vấn đề
hoàn toàn không đơn giản. Ngoài việc tìm hiểu khái niệm, những vấn đề liên quan đến động cơ, thói quen học tập của SV
thì mỗi giáo viên rất cần đến quá trình nghiên cứu nhằm tìm ra nội dung cơ bản, các phương cách tối ưu rèn luyện phương
pháp tự học cho SV. Đặc biệt là việc nhận diện xem những phương pháp đó ngoài sự thích ứng chung cho mọi SV có đáp
ứng được cho từng nhóm đối tượng trong những giai đoạn và điều kiện, hoàn cảnh khác nhau trong suốt quá trình đào tạo
hay không.
Để đáp ứng yêu cầu nêu trên cần xác định rõ những yêu cầu cơ bản của hoạt động tự học như: nội dung của hoạt động
tự học gồm mấy vấn đề, để tiếp cận nó phải tuân thủ theo qui trình nào, điều kiện để áp dụng có hiệu quả các yêu cầu ra
sao… từ đó xây dựng những biện pháp dạy tự học tích cực tương ứng.
Với tất cả các lĩnh vực khoa học, việc dạy tự học có những điểm chung, thống nhất về cách thức cũng như phương
pháp. Đó là những vấn đề được xác định như sau:
a/ Xây dựng động cơ học tập
Khơi gợi hứng thú học tập để trên cơ sở đó ý thức tốt về nhu cầu học tập. Người học tự xây dựng cho mình động cơ
học tập đúng đắnlà việc cần làm đầu tiên.Bởi vì, thành công không bao giờ là kết quả của một quá trình ngẫu hứng tùy
tiện thiếu tính toán, kể cả trong học tập lẫn nghiên cứu. Nhu cầu xã hội và thị trường lao động hiện tại đặt ra cho mỗi
người những tố chất cần thiết chứ không phải là những điểm số đẹp, những chứng chỉ như vật trang sức vào đời mà không
có thực lực vì động cơ học tập lệch lạc. Có động cơ học tập tốt khiến cho người ta luôn tự giác say mê, học tập với những
mục tiêu cụ thể rõ ràng với một niềm vui sáng tạo bất tận.

8


Trong rất nhiều động cơ học tập của SV, có thể khuôn tách thành hai nhóm cơ bản:

-

Các động cơ hứng thú nhận thức.
Các động cơ trách nhiệm trong học tập.

Thông thường các động cơ hứng thú nhận thức hình thành và đến được với người học một cách tự nhiên khi bài học
có nội dung mới lạ, thú vị, bất ngờ, động và chứa nhiều những yếu tố nghịch lí, gợi sự tò mò. Động cơ này sẽ xuất hiện
thường xuyên khi GV biết tăng cường tổ chức các trò chơi nhận thức, các cuộc thảo luận hay các biện pháp kích thích tính
tự giác tích cực từ người học.
Động cơ nhiệm vụ và trách nhiệm thì bắt buộc người học phải liên hệ với ý thức về ý nghĩa xã hội của sự học. Giống
như nghĩa vụ đối với Tổ quốc, trách nhiệm đối với gia đình, thầy cô, uy tín danh dự trước bạn bè…Từ đó các em mới có ý
thức kỉ luật trong học tập, nghiêm túc tự giác thực hiện mọi nhiệm vụ học tập, những yêu cầu từ GV, phụ huynh, tôn trọng
mọi chế định của xã hội và sự điều chỉnh của dư luận.
Cả hai động cơ trên không phải là một quá trình hình thành tự phát, cũng chẳng được đem lại từ bên ngoài mà nó hình
thành và phát triển một cách tự giác thầm lặng từ bên trong. Do vậy người GV phải tùy đặc điểm môn học, tùy đặc điểm
tâm sinh lí lứa tuổi của đối tượng để tìm ra những biện pháp thích hợp nhằm khơi dây hứng thú học tập và năng lực tiềm
tàng nơi SV. Và, điều quan trọng hơn là tạo mọi điều kiện để các em tự kích thích động cơ học tập của mình.
Đối với phần đông những người trẻ, việc tạm gác những thú vui, những trò giải trí hấp dẫn nhất thời để toàn tâm toàn
sức cho việc học là hai điều có ranh giới vô cùng mỏng manh. Nó đòi hỏi sự quyết tâm cao và một ý chí mạnh mẽ cùng nghi
lực đủ để chiến thắng chính bản thân mình. Đối với người trưởng thành, khi mục đích cuộc đời đã rõ, ý thức trách nhiệm đối
với công việc đã được xác định và sự học đã trở thành niềm vui thì việc xác định động cơ thái độ học tập nói chung không
khó khăn như thế hệ trẻ. Tuy nhiên không phải là hoàn toàn không có. Vì suy cho cùng ai cũng có những nhu cầu riêng và
từ đó có những hứng thú khác nhau. Vấn đề là phải biết kết hợp biện chứng giữa nội sinh và ngoại sinh, tức là hứng thú
nhận thức, hứng thú trách nhiệm được đánh thức, khơi dậy trên cơ sở những điều kiện tốt từ bên ngoài. Trong đó người thầy
đóng vai trò chủ đạo.
b/ Xây dựng kế hoạch học tập
Đối với bất kì ai muốn việc học thật sự có hiệu quả thì mục đích, nhiệm vụ và kế hoạch học tập phải được xây dựng cụ
thể, rõ ràng. Trong đó kế hoạch phải được xác định với tính hướng đích cao. Tức là kế hoạch ngắn hạn, dài hơi thậm chí
từng môn, từng phần phải được tạo lập thật rõ ràng, nhất quán cho từng thời điểm từng giai đoạn cụ thể sao cho phù hợp
với điều kiện hoàn cảnh của mình. Vấn đề kế tiếp là phải chọn đúng trọng tâm, cái gì là cốt lõi là quan trọng để ưu tiên tác

động trực tiếp và dành thời gian công sức cho nó. Nếu việc học dàn trải thiếu tập trung thì chắc chắn hiệu quả sẽ không
cao. Sau khi đã xác định được trọng tâm, phải sắp xếp các phần việc một cách hợp lí logic về cả nội dung lẫn thời gian,
đặc biệt cần tập trung hoàn thành dứt điểm từng phần, từng hạng mục theo thứ tự được thể hiện chi tiết trong kế hoạch.
Điều đó sẽ giúp quá trình tiến hành việc học được trôi chảy thuận lợi.
c/ Tự mình nắm vững nội dung tri thức
Đây là giai đoạn quyết định và chiếm nhiều thời gian công sức nhất. Khối lượng kiến thức và các kĩ năng được hình
thành nhanh hay chậm, nắm bắt vấn đề nông hay sâu, rộng hay hẹp, có bề vững không… tùy thuộc vào nội lực của chính
bản thân người học trong bước mang tính đột phá này. Nó bao gồm các hoạt động:
- Tiếp cận thông tin: Lựa chọn và chủ động tiếp nhận thông tin từ nhiều nguồn khác nhau và từ những hoạt động đã
được xác định như đọc sách, nghe giảng, xem truyền hình, tra cứu từ Internet, cemine, hội thảo, làm thí nghiệm, quan sát,
điều tra… Trong hoạt động này rất cần có sự tỉnh táo để chọn lọc thông tin một cách thông minh và linh hoạt. Xã hội hiện
đại đang khiến phần lớn SV rời xa sách và chỉ quan tâm đến các phương tiện nghe nhìn khác. Đơn giản vì nó thỏa mãn trí
tò mò, giúp cho tai nghe mắt thấy tức thời. Đó là chưa kể đến sự nhiễu loạn thông tin mà nếu không vững vàng thì giới trẻ
sẽ rất dễ sa vào những cạm bẫy thiếu lành mạnh, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển nhân cách, tâm hồn. Trong lúc từ
cổ chí kim, muốn làm chủ tri thức nhân loại thì con đường tốt nhất của mọi người là đọc sách. Đọc sách là phương pháp
tự học rẻ tiền và hiệu quả nhất. Khi làm việc với sách ta phải sử dụng năng lực tổng hợp toàn diện và có sự xuất hiện của
hoạt động của trí não, một hoạt động tối ưu trong quá trình tự học. Do vậy, rèn luyện thói quen đọc sách là một công việc
không thể tách rời trong yêu cầu tự học. Ngoài việc tiếp nhận tri thức còn phải biết đối thoại, gợi mở, thắc mắc hay đề
xuất những vấn đề cần lưu ý sau khi đọc sách, hoặc chí ít là học cách viết, lối diễn đạt từ những cuốn sách hay. Đó là cách
đọc sáng tạo. Khác với sự giải trí đơn giản hay cảm nhận thông thường.

9


- Xử lí thông tin: Việc xử lí thông tin trong quá trình tự học không bao giờ diễn ra trong vô thức mà cần có sự gia công,
xử lí mới có thể sử dụng được. Quá trình này có thể được tiến hành thông qua việc phân tích, đánh giá, tóm lược, tổng
hợp, so sánh…
- Vận dụng tri thức, thông tin: Trong việc vận dụng thông tin tri thức khoa học để giải quyết các vấn đề liên quan như
thực hành bài tập, thảo luận, xử lí các tình huống, viết bài thu hoạch, báo cáo khoa học, tổng thuật… SV thường gặp rất
nhiều khó khăn. Có lúc tìm được một khối lượng lớn tư liệu nhưng việc tập hợp phân loại nội dung để kiến giải một vấn

đề lại không thực hiện được. Trong trường hợp này cần khoanh vùng vấn đề trong một giới hạn đừng quá rộng. Chỉ cần
tập trung đào sâu một vấn đề nào đó nhằm phát hiện ra cái mới có giá trị thực tiễn là đáp ứng yêu cầu. Trong khâu này
việc lựa chọn và thay đổi hình thức tư duy để tìm ra cách thức tối ưu nhất cho đối tượng nghiên cứu cũng rất cần thiết.
- Trao đổi, phổ biến thông tin: Việc trao đổi kinh nghiệm, chia sẻ thông tin tri thức hay diển ngôn theo yêu cầu thông
qua các hình thức: hội thảo, báo cáo khoa học, thảo luận, thuyết trình, tranh luận… là công việc cuối cùng của quá trình
tiếp nhận tri thức. Hoạt động này giúp người học có thể hình thành và phát triển kĩ năng trình bày (bằng lời nói hay văn
bản) cho người học. Giúp người học chủ động, tự tin trong giao tiếp ứng xử, phát triển năng lực hợp tác và làm việc nhóm
tốt.
d/ Tự kiểm tra đánh giá kết quả học tập
Việc nhìn nhận kết quả học tập được thực hiện bằng nhiều hình thức: Dùng các thang đo mức độ đáp ứng yêu cầu của
GV, bản thân tự đánh giá, sự đánh giá nhận xét của tập thể thông qua thảo luận, tự đối chiếu so sánh với mục tiêu đặt ra
ban đầu… Tất cả đều mang một ý nghĩa tích cực, cần được quan tâm thường xuyên. Thông qua nó người học tự đối thoại
để thẩm định mình, hiểu được cái gì làm được, điều gì chưa thỏa mãn nhu cầu học tập nghiên cứu để từ đó có hướng khắc
phục hay phát huy.
Vấn đề tự học rõ ràng không hề đơn giản. Muốn hoạt động học tập có hiệu quả nhất thiết SV phải chủ động tự giác học
tập bất cứ lúc nào có thể bằng chính nội lực của bản thân. Vì nội lực mới chính là nhân tố quyết định cho sự phát triển.
Ngoài ra, rất cần tới vai trò của người thầy với tư cách là ngoại lực trong việc trang bị cho SV một hệ thống tri thức, kĩ
năng, thái độ cùng với phương pháp tự học cụ thể, khoa học. Nhờ đó hoạt động tự học tự đào tạo của SV mới đi vào chiều
sâu thực chất.
2.4. Thực trạng tự học của sinh viên Trường Đại học Tây Bắc hiện nay
Hiện nay SV Trường Đại học Tây Bắc có khoảng 7.500 SV (hệ chính quy), trong đó đa phần các em SV là con em
các dân tộc thiểu số như: Thái, Tày, Nùng, Khơ mú, Dao, Mường, H.mông, Dáy, Sán Chỉ, Sinh mun, Hà Nhì, Kháng, Sila,
Giấy, Lự, ...và 117 lưu sinh viên Lào.
Qua thực tế quá trinh dạy học chúng tôi có thể đưa ra nhận định chung như sau: Nhiều SV chưa dành thời gian cho
việc tự học, chưa có ý thức tự giác và chưa có phương pháp tự học, còn có tâm lí chờ đợi vận may hoặc chờ giáo viên
"mang kiến thức đến cho mình''. Có thể có nhiều nguyên nhân ảnh hưởng đến hoạt động tự học của SV như:
- Bản thân SV không có tố chất, chưa có động cơ, chưa có ý chí và chưa có kĩ năng tự học.
- Giảng viên chưa thực sự chú trọng đến việc giao nội dung tự học cho SV, hoặc có giao nhưng chưa chú trọng đến
khâu kiểm tra, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ của SV.
- Điều kiện vật chất và tinh thần. Do khá nhiều SV là con em nông dân các dân tộc vùng sâu, vùng xa, vì vậy cuộc

sống kinh tế của các em còn nhiều khó khăn, ngay từ nhỏ các em đã không có điều kiện học tập nên ít nhiều đã ảnh hưởng
đến khả năng nhận thức, cũng như hình thành ở các em tư tưởng ngại học, lười học vì rỗng kiến thức.
- Môi trường sống hiện nay cũng gây ảnh hưởng lớn tới tinh thần và ý thức học tập của SV, nhiều SV đã dành phần
lớn quỹ thời gian cho những hoạt động vui chơi như chơi game, chat, bán hàng đa cấp, lô hội, sống thử....Vì vậy, việc sắp
xếp thời gian cho học chính khóa còn khó chứ chưa nói đến việc tự học.
- Đa phần các SVcòn hạn chế, thụ động mặc dù khoa học, kĩ thuật phát triển thuận tiện cho các em tìm hiểu thông
tin lĩnh hội các kiến thức khác. SV ít bày tỏ ý kiến của mình, ít được hoạt động. Do đó kiến thức SV lĩnh hội không sâu
sắc, chắc chắn.
2.5. Dạy phương pháp tự học cho sinh viên
Ngoài những nội dung và phương phápchung được trình bày ở trênmỗi môn học, mỗi đối tượng đều có những đặc thù
riêng. Và với GV cũng vậy, cũng với những phương pháp giống nhau nhưng cách sử dụng của mỗi người ở những thời

10


điểm cũng có sự khác nhau. Do vậy, việc tìm ra những cách thức dạy tự học cụ thể cho từng lĩnh vực là công việc rất có ý
nghĩa.
Từ những đặc thù của sinh viên Trường Đại học Tây Bắc, qua nghiên cứu các tài liệu về phương pháp dạy học và thực
tế giảng dạy nhiều năm chúng tôi đã rút ra bốn vấn đề cốt lõi có thể áp dụng trong quá trình dạy tự học cho SV. Đó là:
a/ Dạy cách lập kế hoạch học tập
Trên cơ sở đề cương môn học, vào đầu mỗi học phần GV cần hướng dẫn SV lập kế hoạch học tập sao cho kế hoạch đó
phải ở trong tầm với của mình, phù hợp với điều kiện của mình. Tất nhiên có thể điều chỉnh khi điều kiện thay đổi. Quán
triệt để SV hiểu rõ: mọi kế hoạch phải được xây dựng trên những mục tiêu cụ thể và hoàn toàn phấn đấu thực hiện được.
Trong đó có sự phân biệt rõ việc chính việc phụ, việc làm ngay và việc làm sau. Có như thế mới từng bước góp nhặt tri
thức tích lũy kết quả học tập một cách bền vững. Việc sử dụng và tận dụng tốt quĩ thời gian cũng cần được đặt ra để
không phải bị động trước khối lượng các môn học cũng như áp lực công việc.
b/ Dạy cách nghe giảng và ghi chép theo tinh thần tự học.
Nghe giảng và ghi chép là những kĩ năng mà ai cũng phải sử dụng trong quá trình học tập. Trình độ nghe và ghi chép
của người học không giống nhau ở những môn học khác nhau. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình học tập. Tuy nhiên
đây là vấn đề mà xưa nay chưa có ai nghiên cứu. Mỗi người đều phải tự mình rèn luyện thói quen ghi chép để có thể có

được những thông tin cần thiết về môn học. Điều quan trọng trước tiên là GV cần truyền đạt cho SV những nguyên tắc
chính của hoạt động nghe – ghi chép. Các em thường mang lối học thụ động, quen tách việc nghe và ghi chép ra khỏi
nhau, thậm chí nhiều SV chỉ chờ GV đọc mới có thể ghi chép được nội dung bài học nếu ngược lại thì đành bỏ trống vở
khiến tâm lí bị ức chế ảnh hưởng đến quá trình tiếp nhận kiến thức. Thực tế đó đòi hỏi người học phải tập trung tư tưởng
cao độ để có khả năng lĩnh hội vấn đề một cách khoa học nhất. Phải rèn luyện để có khả năng huy động vốn từ, sử dụng
tốc độ ghi chép nhanh bằng các hình thức viết tắt, gạch chân, tóm lược bằng sơ đồ hình vẽ những ý chính, các luận điểm
quan trọng mà GV nhấn mạnh, lặp lại nhiều lần là điều vô cùng cần thiết. Ngoài ra, trong quá trình học tập trên lớp, nếu
có vấn đề nào không hiểu cần đánh dấu để hỏi ngay sau khi GV ngừng giảng nhằm đào sâu kiến thức và tiết kiệm thời
gian. Rất tiếc, trên thực tế đây là điểm yếu mà phần lớn SV không quan tâm rèn luyện để có được.
Muốn tạo điều kiện cho SV nghe giảng và ghi chép tốt, GV cần lưu ý:
- Nội dung bài giảng phải mới mẻ, thiết thực, cần thiết có thể tạo ra những tình huống giả định yêu cầu SV suy nghĩ
phản biện.
- Các câu hỏi, vấn đề đặt ra trong giờ giảng phải có sự chọn lọc kĩ lưỡng, tập trung vào trọng tâm bài học như một
cách phát tín hiệu cho SV xác định nội dung chính.
- Đưa vào bài giảng những tình huống lí thú, những mẫu chuyện sinh động lấy từ thực tế có liên quan trực tiếp đến
đời sống hay lĩnh vực chuyên ngành của từng đối tượng SV để gây sự chú ý cũng như tạo cảm giác hứng thú cho người
học.
- Sau hoặc trong khi giảng bài có thể yêu cầu SV tự đặt ra những câu hỏi, tình huống sát với nội dung bài học để thay
đổi không khí, tăng cường sự chú ý của cả lớp.
- Sự truyền cảm, mạch lạc trong lời giảng cũng là điều có ý nghĩa thu hút sự chú ý của người học.
Tất cả những công việc này muốn thực hiện tốt phải có sự phối hợp nhịp nhàng ăn ý của cả thầy và trò. Trong đó thầy
đóng vai trò chủ đạo trong việc hướng dẫn tổ chức còn trò với tư cách là chủ thể tích cực chủ động sáng tạo cả trong lĩnh
hội tri thức lẫn rèn luyện kĩ năng và bộc lộ quan điểm, thái độ.
c/ Dạy cách học bài
Vấn đề mấu chốt theo quan điểm của chúng tôi chính là dạy cách học bài. GV cần giới thiệu và hướng dẫn cho SV tự
học theo mô hình các nấc thang nhận thức của Bloom. Tức là học cách phân tích, tổng hợp, học vận dụng tri thức vào
từng tình huống thực tiễn, học nhận xét đánh giá, so sánh đối chiếu các kiến thức… Bên cạnh đó còn phải rèn luyện năng
lực tư duy logic, tư duy trừu tượng, tư duy sáng tạo để tìm ra những hướng tiếp cận mới các vấn đề khoa học.
Một trong những hình thức giúp SV làm việc nhóm tốt nhất là tạo cơ hội cho các em diễn ngôn trực tiếp. Từ cách lấy
dẫn chứng để chứng minh một vấn đề, giải thích, phản biện, nêu quan điểm ý tưởng hay thuyết trình, giới thiệu, tổng thuật

một sự kiện, một vấn đề khoa học hoặc đơn giản chỉ là sự bày tỏ chính kiến trước một hiện tượng. Thông qua đó người

11


dạy cũng có thể nắm được mức độ nhận thức của SV để có sự bổ sung điều chỉnh hợp lí, kịp thời. Đảm bảo chất lượng giờ
giảng luôn được cải thiện theo hướng tích cực.
d/ Dạy cách nghiên cứu
Trước hết là dạy cách xác định đề tài, chủ đề nghiên cứu sao cho phù hợp với sở trường năng lực của mình và yêu cầu
của chuyên ngành đào tạo. Tiếp đến là dạy cách lựa chọn và tập hợp, phân loại thông tin và cách xử lí thông tin trong
khuôn khổ thời gian cho phép. Việc xác định nguồn tài liệu, điều tra, thực nghiệm cũng đòi hỏi mỗi người phấn đấu nắm
bắt kịp thời những vấn đề mang tính thời sự nóng hổi cũng là một thách thức lớn. Tài liệu sẽ lấy từ nguồn nào, giới hạn
phạm vi bao nhiêu, cách viện dẫn những thông tin ra sao cho chính xác, trích dẫn những vấn đề điển hình nào cho có tính
thuyết phục… là những vấn đề cần được hướng dẫn kĩ lưỡng chu đáo từ phía GV. Một đề cương nghiên cứu chuẩn mực,
khoa học trong cấu trúc chung từ tổng quan của vấn đề nghiên cứu, các cấp độ nội dung cần triển khai và cách xác định
phương pháp nghiên cứu phản ánh rất rõ năng lực của mỗi SV. Cần hình thành và rèn luyện cho các em sớm có được kĩ
năng ấy. Ngoài ra, việc tự kiểm tra đánh giá kết quả nghiên cứu trên cơ sở tranh thủ ý kiến của bạn bè thầy cô cũng đem
lại lợi ích thiết dụng cho người nghiên cứu, nhất là những SV bước đầu làm quen với khoa học.
Bốn vấn đề cốt lõi nêu trên chỉ là những chỉ dẫn cần thiết, mang tính định hướng. Còn việc vận dụng ra sao còn tùy
thuộc vào nhiều yếu tố: Sự cố gắng đầy ý chí nghị lực của người học, sự mẫn cán tận tâm và chu toàn của người dạy cùng
những điều kiện tiên quyết khác. Duy có một điều không cần bàn cãi là phương pháp dạy học ở bậc học đại học hiện nay
không thể thiếu việc dạy cách học.
3. KẾT LUẬN
Hiện nay, trong các trường đại học, một bộ phận khá lớn SV còn thụ động trong việc tiếp nhận tri thức. Phương
pháp học tập, nhất là phương pháp tự học luôn là bài toán khó cho không ít SV kể cả SV năm cuối. Thế nhưng vấn đề này
vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Do áp lực của khối lượng công việc luôn quá tải nên GV chỉ mãi lo thực hiện chức
năng của mình mà ít quan tâm đến rèn luyện kĩ năng toàn diện trong đó tự học cho SV trong đó kĩ năng tự học. Vì vậy,
mỗi trường đại học hiện đại cần đưa phương pháp tự học vào mục tiêu đào tạo. Bởi lẽ, nó không chỉ cần thiết cho SV khi
còn ngồi trên ghế nhà trường mà cả khi ra trường hòa nhập với xã hội, trong suốt cuộc đời. Khi tự học, mỗi SV hoàn toàn
có điều kiện để tự nghiền ngẫm những vấn đề nảy sinh trong học tập theo một phong cách riêng với những yêu cầu và

điều kiện thích hợp. Điều đó không chỉ giúp bản thân SV nắm được vấn đề một cách chắc chắn và bền vững; chủ động bồi
dưỡng phương pháp học tập và kĩ năng vận dụng tri thức mà còn là dịp tốt để rèn luyện ý chí và năng lực hoạt động độc
lập sáng tạo. Đó là những phẩm chất mà chỉ có chính bản thân SV tự rèn luyện kiên trì mới có được, không một ai có thể
cung cấp hay làm thay cho mình. Thực tế cũng đã chứng minh, mỗi thành công của SV trên con đường học tập nghiên cứu
không bao giờ là kết quả của lối học tập thụ động, đối phó, chờ thời.
Từ đó, dễ nhận thấy rằng: cùng với đòi hỏi của xu thế hội nhập toàn cầu trên tất cả các lĩnh vực và với một xã hội đầy
biến động như xã hội nước ta về sử dụng lao động, tiền lương, sự đãi ngộ và quá trình đào tạo ngày càng đi vào chiều sâu
thực chất thì hoạt động dạy học, đặc biệt là dạy cách học chắc chắn sẽ tìm được sự đồng thuận cao của cộng đồng và là
mảnh đất tốt cho bất kì ai có khát vọng học tập suốt đời.

12



×