Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

HỆ THỐNG tài LIỆU ôn tập môn KIẾN THỨC CHUNG (dùng cho thi tuyển công chức cấp xã)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (234.63 KB, 34 trang )

HỆ THỐNG TÀI LIỆU ÔN TẬP MÔN KIẾN THỨC CHUNG
(Dùng cho thi tuyển Công chức cấp xã)
Bài 1
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1. Định nghĩa hệ thống chính trị
Hệ thống chính trị (HTCT) là một phạm trù cơ bản của khoa học chính trị.
Nó là tổng hợp những vấn đề của thực tiễn chính trị, của đời sống chính trị. Hơn
nữa những vấn đề đó không phải được xem xét rời rạc, lộn xộn, biệt lập mà là
xem xét trong một chỉnh thể có tính hệ thống, có hình thái phát sinh, phát triển,
có chủ thể, đối tượng, với các mối quan hệ chức năng, theo những vị trí vai trò
nhất định…
Hiện nay có nhiều cách tiếp cận khác nhau về HTCT, phụ thuộc vào
khuynh hướng, trường phái chính trị học khác nhau. Ví dụ: Cách tiếp cận hình
thái kinh tế - xã hội, cách tiếp cận thể chế, cách tiếp cận hệ thống, cách tiếp cận
chức năng, cách tiếp cận của chủ nghĩa hành vi…
HTCT tác động như một chỉnh thể trong việc tổ chức mối quan hệ qua lại
với những hệ thống khác: hệ thống kinh tế, văn hóa, sắc tộc, tôn giáo. Ngày nay,
đời sống chính trị thế giới tương tự như trong đời sống kinh tế đã đặt ra yêu cầu
chức năng hóa HTCT dân tộc trong các vấn đề liên quan đến những quan hệ với
HTCT rộng lớn như khu vực hoặc toàn cầu.
Các nhân tố ảnh hưởng đến HTCT quốc gia là địa lý và điều kiện kinh tế
- xã hội. Ví dụ Anh, Mỹ, châu Âu… Nhật Bản, các nước khác nhau ở các khu
vực khác nhau có những sự khác biệt nhất định trong quá trình hình thành và tác
động của các HTCT.
Các nhân tố kinh tế - xã hội tác động rõ rệt đến quá trình chính trị. Thứ
nhất, chúng ảnh hưởng đến vị trí, phân bổ quyền lực chính trị. Thứ hai, tạo điều
kiện cho ổn định chính trị, xã hội. Các cuộc khủng hoảng kinh tế, giảm sút sản
xuất, hạ thấp mức sống dân cư có nguy cơ đưa đến sự tan rã của HTCT.
Xuất phát từ các cách tiếp cận trên, chúng ta có thể định nghĩa: HTCT là
tổ hợp có tính chỉnh thể các thể chế chính trị (các cơ quan quyền lực nhà nước,


các đảng chính trị, các phong trào xã hội, các tổ chức chính trị - xã hội…) được
xây dựng trên các quyền và các chuẩn mực xã hội, phân bổ theo một kết cấu
chức năng nhất định, vận hành theo những nguyên tắc, cơ chế và quan hệ cụ thể,
nhằm thực thi quyền lực chính trị.
2. Cấu trúc của Hệ thống chính trị
HTCT được tạo thành từ nhiều bộ phận, mỗi bộ phận đó lại là một kết cấu
phức tạp gồm nhiều bộ phận nhỏ khác, có thể coi là các “tiểu hệ thống”.
1


- Các thể chế chính trị (các tổ chức) – Tiểu hệ thống thể chế.
- Các quan hệ chính trị - Tiểu hệ thống quan hệ.
- Các cơ chế hoạt động – Tiểu hệ thống cơ chế.
- Các nguyên tắc vận hành – Tiểu hệ thống các nguyên tắc vận hành.
Như vậy, cấu trúc của HTCT gồm 4 bộ phận chủ yếu: Các tổ chức là cốt
vật chất của HTCT; các quan hệ chính trị là bộ phận kết nối các tổ chức và đảm
bảo các vai trò, chức năng nhất định của chúng; các cơ chế và nguyên tắc vận
hành đảm bảo cho hệ thống chính trị vận hành thông suốt và đúng đắn.
3. Một số đặc điểm của Hệ thống chính trị Việt Nam
HTCT nước ta tất yếu vừa mang tình phổ biến vừa mang tính đặc thù. Do
đó, về cơ bản được tổ chức gần giống như HTCT nhiều nước trên thế giới. Mặt
khác, HTCT Việt Nam được tổ chức và vận hành trong một điều kiện lịch sử,
kinh tế - xã hội và môi trường văn hóa chính trị đặc thù. Chính vì vậy, HTCT
nước ta có những đặc điểm riêng.
Thứ nhất, HTCT nước ta do duy nhất một Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo. Tính đặc thù này được quy định bởi vai trò, vị trí, khả năng lãnh đạo, uy tín
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi thành lập đến nay trong quá trình
tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc, chống ách thực dân, thống nhất đất
nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đổi mới xã hội…
Thứ hai, HTCT nước ta về bản chất là HTCT XHCN, mặc dù đang trong

quá trình đổi mới, hoàn thiện nhưng ảnh hưởng của cơ chế tập trung, bao cấp
còn khá nặng nề. Những ảnh hưởng của cơ chế tập trung, bao cấp lại được củng
cố thêm bởi tổ chức chiến đấu, chiến tranh, kháng chiến. Những thói quen xử lý
công việc, quản lý xã hội, ứng xử theo thời chiến vẫn còn ảnh hưởng khá đậm
nét trong các thế hệ cán bộ, đặc biệt là thế hệ trưởng thành trong chiến tranh.
Thứ ba, nền hành chính nhà nước, một bộ phận quan trọng của Nhà nước
ta còn rất non trẻ, lại hầu như không được kế thừa gì từ quá khứ, (chế độ thực
dân phong kiến) bị ảnh hưởng nặng của mô hình tập trung quan liêu cao độ,
nhưng phải thực hiện một loạt nhiệm vụ lịch sử mới mẻ và to lớn. Đó là, đưa
nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ là chủ yếu đi lên CNXH,
bỏ quan chế độ TBCN, thực hiện CNH, HĐH đất nước, xây dựng một nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN, Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân,
vì dân, hội nhập quốc tế; rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước trong khu
vực và trên thế giới.
Những đặc điểm này vừa quy định kết cấu, tổ chức, vận hành và các mối
quan hệ vừa cho thấy những khó khăn, thách thức mà chúng ta phải giải quyết…
vừa đặt ra những yêu cầu đổi mới và hoàn thiện HTCT nước ta.

2


4. Cấu trúc của Hệ thống chính trị nước ta
a. Tổ chức bộ máy của HTCT nước ta
HTCT nước ta về tổ chức bộ máy bao gồm Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam và các đoàn thể nhân dân (các
tổ chức chính trị - xã hội) như: Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ
nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam.
- Đảng Cộng sản Việt Nam là hạt nhân và lãnh đạo HTCT.
- Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam bao gồm Quốc hội, Chủ tịch

nước, Chính phủ, hệ thống tư pháp (Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân)
và chính quyền các địa phương.
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.
Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề
quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.
Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam về đối nội và đối ngoại.
Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội.
Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội.
Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội.
Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước. Chính phủ
và Thủ tướng Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội, Ủy ban Thường vụ
Quốc hội và Chủ tịch nước; phải báo cáo công tác trước Quốc hội, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước.
HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí,
nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu ra,
chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên.
UBND ở cấp chính quyền địa phương do HĐND cùng cấp bầu là cơ quan
chấp hành của HĐND, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách
nhiệm trước HĐND và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên. UBND tổ chức
việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; Tổ chức thực hiện Nghị
quyết của HĐND và thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước cấp trên giao.
Tòa án nhân dân (TAND) và Viện Kiểm sát nhân dân (VKSND) có chức
năng, nhiệm vụ là bảo vệ Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước. Để thực hiện
nhiệm vụ đó, các cơ quan này phải thực hiện một số nhiệm vụ như điều tra, tố
tụng, xét xử, thi hành án… Hệ thống tòa án ở nước ta bao gồm: TAND Tối cao,


3


các TAND địa phương, các Tòa án quân sự và các tòa án khác do luật định. Đó
là những cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.
Trong tình hình đặc biệt, Quốc hội có thể quy định thành lập tòa án đặc
biệt. Tòa án xét xử công khai. Các thẩm phán và hội thẩm khi xét xử chỉ tuân
theo pháp luật.
VKSND Tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp, các VKSND địa phương, các VKS Quân sự, thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp trong phạm vi trách nhiệm do luật định.
Ở nước ta, quyền lực nhà nước tập trung vào Quốc hội (cơ quan đại biểu
cao nhất, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất). Chủ tịch nước và các cơ quan
khác như Chính phủ, TAND và VKS đều được Quốc hội cử ra, chịu trách nhiệm
trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc hội. Chính phủ còn là cơ quan
chấp hành của Quốc hội.
Mặc dù quyền lực nhà nước là tập trung, thống nhất không thể phân chia,
nhưng có phân công, phân nhiệm rõ ràng cho các cơ quan nhà nước trong việc
thực thi các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, thành viên của Mặt
trận là một bộ phận của hệ thống chính trị.
- MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính
quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn
dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tham gia công tác bầu cử quốc hội,
HĐND các cấp, xây dựng chủ trương, chính sách pháp luật, vận động nhân dân
thực hiện đường lối chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thực hiện
giám sát, phản biện hoạt động các cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ,
công chức, đảng viên, giải quyết những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân.
b. Các quan hệ chính trị
- Quan hệ giữa người có chủ quyền và người được ủy quyền

Trong HTCT nước ta, công dân Việt Nam là người có chủ quyền nhà
nước. Công dân Việt Nam thực hiện sự ủy quyền (bầu cử dân chủ: tự do, phổ
thông, trực tiếp và kín) để bầu ra các cơ quan quyền lực nhà nước và có thể bãi
miễn các cơ quan đó. Các cơ quan quyền lực nhà nước thay mặt nhân dân thực
thi quyền lực nhà nước, thực chất là hiện thực hóa quyền, ý chí và lợi ích của
nhân dân.
Quyền lực chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam về thực chất là quyền
lực do đảng viên ủy quyền tạo thành. Các tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở
đều thay mặt đảng viên, mà cơ quan cao nhất là Đại hội đại biểu toàn quốc thực
hiện quyền lực chính trị, thực hiện sự lãnh đạo nhà nước và xã hội.
MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội là các cơ quan đại diện cho quyền
và lợi ích hợp pháp của thành viên hội viên, là cơ sở chính trị của chính quyền
nhân dân, vừa tham gia vào đời sống chính trị của đất nước, vừa thực hiện chức
năng xã hội đối với thành viên và hội viên của mình.
4


- Quan hệ theo chiều ngang
Trong HTCT nước ta, các quan hệ chính trị được xác lập do một cơ chế
chủ đạo (và cũng là quan hệ chủ đạo). Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà
nước quản lý.
Trong các mối quan hệ này, sự lãnh đạo của Đảng được xác định bằng các
phương thức chủ yếu sau:
+ Lãnh đạo bằng cương lĩnh, đường lối, chủ trương thông qua các nghị
quyết của các tổ chức đảng từ nghị quyết đại hội Đảng đến nghị quyết chi bộ cơ
sở. Đường lối, cương lĩnh của Đảng được thể chế hóa, cụ thể hóa trong Hiến
pháp và pháp luật, trong hệ thống văn bản pháp quy của Nhà nước…
+ Lãnh đạo bằng giáo dục, tuyên truyền vận động nêu gương.
+ Lãnh đạo bằng công tác tổ chức và cán bộ.
+ Lãnh đạo bằng công tác kiểm tra.

Nhân dân làm chủ, trước hết được xác định ở địa vị chủ thể quyền lực
Nhà nước. Chỉ nhân dân mới có chủ quyền đối với quyền lực nhà nước. Nhưng
nhân dân ủy quyền cho các đại biểu của mình và giám sát đại biểu đó trong quá
trình thực thi quyền lực nhà nước.
Nhân dân còn làm chủ bằng các hình thức trực tiếp và gián tiếp (thông
qua các đại biểu, các cơ quan dân cử và các đoàn thể của dân). Ngày nay, quyền
làm chủ của nhân dân ở nước ta không chỉ được đảm bảo bằng Hiến pháp, pháp
luật, mà còn bằng hệ thống truyền thông, các phương tiện thông tin đại chúng,
các cuộc vận động, thông qua thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, thực hiện dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, thông qua vai trò của MTTQ và các đoàn
thể nhân dân.
Nhà nước quản lý xã hội trước hết bằng hệ thống QPPL, bằng hệ thống
các cơ quan quản lý nhà nước từ các bộ đến các cơ sở, trong đó không loại trừ
các biện pháp cưỡng chế để đảm bảo thực hiện sự nghiêm minh của pháp luật.
Nhà nước thực hiện quản lý trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội,
quản lý theo ngành hoặc lãnh thổ theo cấp vĩ mô hoặc vi mô. Nhà nước thực
hiện sự quản lý bằng cả chính sách, các công cụ đòn bẩy khác… Mục tiêu của
quản lý nhà nước là phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, đảm bảo cho nhân dân được làm tất cả những gì
mà pháp luật không cấm, phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh
tế, nhằm phát triển nhanh và mạnh mẽ lực lượng sản xuất của đất nước.
Quan hệ giữa Nhà nước với MTTQ Việt Nam là quan hệ phối hợp hành
động, được thực hiện theo Quy chế phối hợp công tác do UBMTTQ Việt Nam
cơ quan hữu quan ở từng cấp ban ngành.
Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là người lãnh đạo Mặt trận vừa là thành
viên của Mặt trận. Vì vậy, quan hệ giữa Đảng và MTTQ vừa là quan hệ lãnh đạo
vừa là quan hệ hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động.

5



Các thành viên của MTTQ Việt Nam phải tuân theo Điều lệ của MTTQ
Việt Nam; đồng thời vẫn giữ tính độc lập của tổ chức mình.
- Quan hệ dọc từ Trung ương đến cơ sở
Quan hệ giữa Trung ương – địa phương và cơ sở của các tổ chức trong
HTCT nước ta được tổ chức theo cấp hành chính gồm 4 cấp. Trong đó, cấp dưới
phải phục tùng cấp trên. Trong mối quan hệ phân cấp, bao giờ cũng đi kèm với
phân quyền nhất định, nhằm đảm bảo cho cấp dưới vừa đại diện cho lợi ích cấp
trên và cả nước, đồng thời phát huy được sự năng động sáng tạo của địa phương
và cơ sở.
c. Các nguyên tắc và cơ chế vận hành
- Các nguyên tắc
+ Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân
Điều 2 Hiến pháp 1992 (sửa đổi) ghi: Nhà nước Cộng hòa XHCN là nhà
nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và đội ngũ trí thức.
Chủ quyền nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân thực hiện chủ quyền ấy
bằng cách bầu ra các cơ quan quyền lực như Quốc hội, HĐND… Những cơ
quan này thay mặt nhân dân thực thi quyền lực nhà nước. Ở nước ta, các đại
biểu của dân được ủy quyền theo một thời hạn nhất định (nhiệm kỳ).
+ Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước
và xã hội.
+ Nguyên tắc tập trung dân chủ. Riêng MTTQ Việt Nam với tư cách là
một bộ phận của HTCT, MTTQ vừa phải tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ
vừa thực hiện nguyên tắc tự nguyện, hiệp thương dân chủ, thống nhất và phối
hợp hành động.
+ Nguyên tắc quyền lực nhà nước thống nhất có phân công phối hợp giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp; thực hiện sự phân cấp, nâng cao tính chủ động của chính quyền địa

phương, cơ sở…
+ Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách
- Các cơ chế vận hành
+ Cơ chế Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
+ Cơ chế mệnh lệnh hành chính.
+ Cơ chế thể chế (xây dựng, vận hành và hoàn thiện hệ thống các tổ chức
của HTCT).
+ Cơ chế tư vấn: giáo dục, thông tin tuyên truyền, cổ động. Mục đích là
làm thay đổi nhận thức, để thay đổi hành vi nhân dân theo định hướng chính trị
nhất định.
6


+ Cơ chế kiểm soát quyền lực.
HTCT nước ta có hai hệ thống kiểm soát quyền lực: bên trong Nhà nước,
như giám sát của Quốc hội, các HĐND, Thanh tra Chính phủ, Kiểm toán Nhà
nước, Thanh tra nhân dân. Một hệ thống bên ngoài Nhà nước, như kiểm tra
đảng, giám sát phản biện của MTTQ và các đoàn thể nhân dân, dư luận xã hội,
các phương tiện truyền thông, quyền khiếu nại tố cáo của nhân dân.
Các cơ chế vận hành có quan hệ chặt chẽ với nhau. Mỗi một loại tổ chức
trong HTCT tùy theo chức năng, nhiệm vụ, phương thức tổ chức và hoạt động
để sử dụng và kết hợp các cơ chế sao cho quá trình thực thi quyền lực chính trị
có hiệu lực và hiệu quả.
5. Khái quát thực trạng hoạt động của HTCT nước ta
HTCT nước ta đã tỏ rõ tính ưu việt của nó trong suốt hai cuộc kháng
chiến, đã tập trung nguồn lực cao độ của đất nước phục vụ cho tiền tuyến với
tinh thần tất cả để chiến thắng. HTCT đã động viên sự hy sinh vô bờ bến của
nhân dân cho thắng lợi của cách mạng, tạo được những điều kiện cần thiết để kết
hợp được sức mạnh của dân tộc và thời đại, đánh thắng hai đế quốc lớn là Pháp
và Mỹ, hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc trên cả nước, thống nhất Tổ

quốc đưa cả nước cùng đi lên CNXH.
Sau chiến tranh, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, nhiều
thiếu sót, yếu kém của HTCT, đất nước rơi vào cuộc khủng hoảng. Nhưng
chúng ta đã đứng vững được, vượt qua khủng hoảng đưa đất nước phát triển lên
những bước mới, đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Bên cạnh những thành tựu mà nguyên nhân gắn liền với hoạt động của
HTCT, thì HTCT nước ta còn bộc lộ một số yếu kém như:
- Về cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý. Cơ chế
này bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Tuy vậy, vẫn
còn tình trạng Đảng bao biện làm thay, cơ quan nhà nước thụ động chờ chủ
trương, chỉ thị, hướng dẫn của Đảng; bộ máy chồng chéo, trùng lắp, hiệu quả
hoạt động còn thấp.
- Vận dụng chưa tốt các phương thức thực thi quyền lực chính trị. Thông
thường nhiều nơi chỉ chú ý vận dụng một loại cơ chế mà ít phối hợp các cơ chế.
- Chưa thực hiện đúng các nguyên tắc hoạt động của HTCT. Nguyên tắc
chủ quyền nhà nước thuộc về nhân dân, trên thực tế chưa thực hiện đầy đủ, còn
có những hạn chế. Điều này xảy ra vì chúng ta chưa có cơ chế thích đáng để
giám sát quyền lực nói chung và cơ chế cho dân giám sát nói riêng. Vì vậy, mặc
dù được nhân dân ủy quyền nhưng nhiều cơ quan công quyền, cá nhân “có chức
có quyền” lại lạm quyền, lộng quyền, sử dụng quyền lực để ức hiếp quần chúng.
Chưa vận dụng đúng đắn nguyên tắc tập trung dân chủ. Nhân dân, cơ sở
có khuynh hướng nhấn mạnh “dân chủ”, cán bộ có chức có quyền, cấp trên
muốn nhấn mạnh “tập trung”. Có nơi nguyên tắc này được vận dụng tùy tiện.

7


Còn quan niệm giản đơn về quyền lực thống nhất có phân công, phân
nhiệm rành mạch, cụ thể. Chúng ta cần nhấn mạnh tính thống nhất của quyền
lực nhà nước, nhưng lại quá chú ý tìm sự thống nhất đó ở một tổ chức duy nhất

là Quốc hội, biến Quốc hội từ cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất thành cơ
quan điều hành nhà nước cao nhất.
Cần phải khẳng định rằng những yếu kém của HTCT ở nước ta là do
những nguyên nhân khách quan và chủ quan.
Những yếu kém của Đảng, được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
thứ X chỉ rõ:
- Việc tổ chức thực hiện nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng
chưa tốt, kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm.
- Một số quan điểm chủ trương chưa rõ; chưa có sự nhận thức thống nhất
và chưa được thông suốt ở các cấp, các ngành.
- Cải cách hành chính tiến hành chậm, thiếu kiên quyết, hiệu quả thấp.
- Công tác tư tưởng lý luận, công tác tổ chức cán bộ có nhiều yếu kém,
bất cập.
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ ĐỔI MỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở
NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1. Nội dung.
a. Về tổ chức và vận hành bộ máy
Trước hết phải nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức
cơ sở đảng. Khắc phục tình trạng chồng chéo hoặc làm thay của tổ chức cơ sở
đảng đối với các hoạt động của chính quyền. Nâng cao chất lượng hoạt động của
HĐND, đổi mới hoạt động điều hành của UBND.
b. Về đội ngũ cán bộ
Đào tạo đội ngũ cán bộ có năng lực, phẩm chất và chuyên môn đáp ứng
được yêu cầu của HTCT ở cơ sở hiện nay. Hoạt động của cán bộ, các cấp cần
quan tâm đến cơ sở hướng mạnh về cơ sở. Nâng cao trách nhiệm của đội ngũ
cán bộ chủ chốt, đứng đầu.
c. Về quan hệ với nhân dân
Cần phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng sự đồng
thuận trong nhân dân, phát huy tính tích cực và sáng kiến của các tầng lớp nhân
dân, chăm lo bảo vệ lợi ích hợp pháp của các tầng lớp nhân dân, bảo đảm công

bằng xã hội. Tôn trọng và phát huy vai trò gương mẫu, dẫn dắt của những người
tiêu biểu, có uy tín trong cộng đồng, trong các tộc người, các tôn giáo, phát huy
tính tự quản của các cộng đồng dân cư ở cơ sở.
2. Phương châm
+ Thực hiện đổi mới từng bước vững chắc trên cơ sở đổi mới kinh tế.

8


+ Khâu mấu chốt là phân định rõ chức năng và giải quyết tốt mối quan hệ
giữa Đảng, Nhà nước và MTTQ.
+ Hướng về cơ sở, tăng cường hiệu lực hiệu quả của HTCT ở cơ sở.
3. Giải pháp
Đổi mới HTCT ở nước ta cần tuân thủ những định hướng có tính giải
pháp lớn được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001) nêu rõ và được
khẳng định trong Nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X sau đây:
+ Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng.
+ Cải cách thể chế và phương thức hoạt động của Nhà nước. Trong đó:
* Kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động
của Quốc hội. Trọng tâm là công tác lập pháp, xây dựng chương trình, quy trình
làm luật, ban hành luật và hướng dẫn thi hành luật.
* Xây dựng một nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh,
từng bước hiện đại hóa. Quản lý nhà nước các lĩnh vực của đời sống xã hội bằng
hệ thống luật pháp và chính sách đồng bộ, hoàn chỉnh. Định rõ chức năng quyền
hạn của các bộ theo hướng quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, cung cấp địch vụ công.
Phân công, phân cấp, nâng cao tính chủ động của chính quyền địa phương; tổ
chức hợp lý HĐND, kiện toàn UBND và bộ máy chính quyền cấp xã, phường, thị
trấn. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch có năng lực.
* Cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp.
+ Phát huy dân chủ, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế.

* Hoàn thiện hệ thống bầu cử, nhằm nâng cao chất lượng của đại biểu dân
cử các cấp và Quốc hội. Tăng thêm đại biểu chuyên trách của Quốc hội.
* Xây dựng luật trưng cầu dân ý.
* Thực hiện tốt Quy chế dân chủ cơ sở.
* Đổi mới cơ chế vận hành của HTCT, xác định rõ trách nhiệm của các
chủ thể chính trị trong các hoạt động chung.
* Tăng cường pháp chế
+ Xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng. Trong đó có một số nhiệm vụ cụ thể:
* Giáo dục tư tưởng, chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ
nghĩa cá nhân.
* Tiếp tục đổi mới công tác cán bộ.
* Xây dựng, củng cố các tổ chức, cơ sở Đảng.
* Kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
+ Tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động của MTTQ Việt Nam và các
đoàn thể nhân dân. Trong đó cần chú ý:
9


* Thực hiện tốt Luật MTTQ Việt Nam.
* Mở rộng và đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân, tham gia các
đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội, các hội nghề nghiệp, văn hóa hữu nghị, từ
thiện nhân đạo… sớm ban hành luật về hội.
* Tổ chức các phong trào thi đua yêu nước gắn liền với các chương trình
phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, từng địa phương và địa bàn dân cư.
* Thực hiện tốt chức năng giám sát và phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam.
* Hướng mạnh các hoạt động về cơ sở, cộng đồng dân cư và từng gia đình.
* Những định hướng có tính giải pháp này cần phải được thực hiện trong
điều kiện tích cực chống nạn quan liêu, tham nhũng, bảo đảm sự phát triển bền
vững nền kinh tế và thực hiện một bước công bằng xã hội.

- Đổi mới HTCT ở nước ta càn phải thực hiện các mục tiêu có tính
nguyên tắc cơ bản sau:
+ Đổi mới HTCT nhằm tạo điều kiện cho ổn định chính trị, phát triển kinh
tế - xã hội.
+ Đổi mới HTCT phải đảm bảo tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
HTCT.
+ Đổi mới HTCT nhằm tăng cường hiệu quả của HTCT theo hướng xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân.

BÀI 2
NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
I. NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1. Bản chất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng
hòa ra đời, đó là nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Nhà nước
Việt Nam Dân chủ cộng hòa trước đây nay là Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là nhà nước kiểu mới về bản chất, khác hẳn với các kiểu nhà
nước từng có trong lịch sử. Bản chất bao trùm chi phối mọi lĩnh vực tổ chức và
hoạt động của đời sống nhà nước là tính nhân dân của nhà nước. Điều 2 Hiếu
pháp năm 2013 khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân
dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là

10


thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.

Bản chất nhà nước của dân, do dân và vì dân được thể hiện bằng những đặc
trưng sau:
a. Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhân dân ta đã tiến hành đấu tranh cách mạng,
trải qua bao hy sinh gian khổ làm nên cách mạng Tháng Tám năm 1945, Nhân
dân tự mình lập nên nhà nước. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
ngày nay là sự tiếp nối sự nghiệp của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, là
nhà nước do Nhân dân mà nòng cốt là liên minh công - nông - trí thức, tự mình
định đoạt quyền lực nhà nước.
Nhân dân với tính cách là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước thực hiện
quyền lực nhà nước với nhiều hình thức khác nhau. Hình thức cơ bản nhất là
Nhân dân thông qua bầu cử lập ra các cơ quan đại diện quyền lực của mình.
Điều 6 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước
bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng
nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”.
b. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của tất cả
các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam, là biểu hiện tập trung của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc
Tính dân tộc của Nhà nước Việt Nam là vấn đề có truyền thống lâu dài, là
nguồn gốc sức mạnh của nhà nước. Ngày nay, tính dân tộc ấy lại được tăng cường
và nâng cao nhờ khả năng kết hợp giữa tính giai cấp, tính nhân dân, tính dân tộc
và tính thời đại. Điều 5 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên
đất nước Việt Nam. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng
phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Ngôn ngữ quốc gia là
tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc,
phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình. Nhà
nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc
thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước”.
c. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức và hoạt

động trên cơ sở nguyên tắc bình đẳng trong mối quan hệ giữa nhà nước và
công dân
Trước đây, trong các kiểu nhà nước cũ, quan hệ giữa nhà nước và công dân
là mối quan hệ lệ thuộc, người dân bị lệ thuộc vào nhà nước, các quyền tự do
dân chủ bị hạn chế.
Ngày nay, khi quyền lực thuộc về nhân dân thì quan hệ giữa nhà nước và
công dân đã thay đổi, công dân có quyền tự do dân chủ trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội, đồng thời làm tròn nghĩa vụ trước nhà nước. Pháp luật bảo
11


đảm thực hiện trách nhiệm hai chiều giữa nhà nước và công dân; quyền của
công dân là nghĩa vụ, trách nhiệm của nhà nước, nghĩa vụ của công dân là quyền
của nhà nước.
d. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước dân chủ và
pháp quyền
Dân chủ hóa đời sống nhà nước và xã hội không chỉ là nhu cầu bức thiết
của thời đại mà còn là một đòi hỏi có tính nguyên tắc, nảy sinh từ bản chất dân
chủ của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Thực chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa là thu hút người lao động tham gia
một cách bình đẳng và ngày càng rộng rãi vào quản lý công việc của nhà nước
và của xã hội. Vì vậy, quá trình xây dựng nhà nước phải là quá trình dân chủ hóa
tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, đồng thời phải cụ thể hóa tư tưởng
dân chủ thành các quyền của công dân, quyền dân sự, chính trị cũng như quyền
kinh tế, xã hội và văn hóa. Phát huy được quyền dân chủ của nhân dân ngày
càng rộng rãi là nguồn sức mạnh vô hạn của nhà nước.
Dân chủ bao giờ cũng gắn với pháp luật. Đó là bản chất của nhà nước pháp
quyền. Vì vậy, toàn bộ cơ quan nhà nước từ cơ quan lập pháp, hành pháp, tư
pháp đều phải được tổ chức và hoạt động theo pháp luật, bằng pháp luật. Nhà
nước ban hành pháp luật, quản lý xã hội bằng pháp luật, nhưng nhà nước và cơ

quan nhà nước phải đặt mình dưới pháp luật. Cơ quan nhà nước “chỉ được làm
những điều pháp luật cho phép”; bảo đảm và phát triển quyền tự do dân chủ của
nhân dân, còn nhân dân “được làm tất cả những gì pháp luật không cấm”.
Những đặc điểm mang tính bản chất nêu trên của Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam được thể hiện cụ thể trong các chức năng, nhiệm vụ của
Nhà nước và pháp luật chế định một cách chặt chẽ. Tóm lại, Nhà nước ta mang
bản chất giai cấp công nhân, quán triệt tư tưởng, quan điểm của giai cấp công
nhân từ pháp luật, cơ chế, chính sách đến tổ chức hoạt động của mình. Đồng
thời, Nhà nước ta cũng mang tính dân tộc, tính nhân dân sâu sắc. Đó là nhà nước
của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân.
2. Chức năng của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Chức năng của nhà nước là những phương diện hoạt động cơ bản của nhà
nước, thể hiện bản chất, mục đích của nó, được quy định bởi thực tế khách quan
của tình hình chính trị, kinh tế, xã hội trong nước và tình hình quốc tế từng giai
đoạn phát triển.
Căn cứ vào phạm trù tác động của các phương diện hoạt động cơ bản của
nhà nước, có thể chia các chức năng của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thành chức năng đối nội và chức năng đối ngoại.
a. Chức năng đối nội
- Chức năng bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ an ninh chính trị, trật
tự an toàn xã hội. Muốn tiến hành sự nghiệp đổi mới thuận lợi, Nhà nước ta phải
bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên toàn bộ đất nước. Nhà nước
12


phải có đủ sức mạnh và kịp thời đập tan mọi âm mưu chống đối của các thế lực
thù địch, đảm bảo điều kiện ổn định cho Nhân dân sản xuất kinh doanh. Muốn
vậy, Nhà nước phải quan tâm xây dựng các lực lượng an ninh, các cơ quan bảo
vệ pháp luật, đồng thời phải “phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính
trị, tính tích cực cách mạng của khối đại đoàn kết toàn dân, phối hợp lực lượng

quốc phòng và an ninh trong cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh, trật tự” (Đảng
Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb.ST,
H1991, tr.87).
- Chức năng bảo vệ quyền tự do, dân chủ của Nhân dân. Đây là một trong
những chức năng quan trọng của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa; bởi vì,
việc thực hiện chức năng này thể hiện trực tiếp bản chất của nhà nước kiểu mới,
nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Đồng thời, việc thực hiện
chức năng này sẽ đảm bảo sức mạnh của Nhà nước trong việc thực hiện tất cả
các chức năng khác của Nhà nước, quan hệ đến sự tồn tại, phát triển của bản
thân Nhà nước và chế độ. Đảng ta nhấn mạnh “Nhà nước có mối liên hệ thường
xuyên và chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân,
chịu sự giám sát của nhân dân. Có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và
trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lộng quyền, vô trách nhiệm, xâm phạm
quyền dân chủ của nhân dân”(Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb.ST, H.1991, tr19).
- Chức năng bảo vệ trật tự pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa. Đây là chức năng quan trọng, liên quan trực tiếp đến việc thực hiện tất cả
các chức năng khác của Nhà nước. Pháp luật là phương tiện quan trọng để Nhà
nước tổ chức thực hiện có hiệu quả tất cả các chức năng của mình, do đó, bảo vệ
trật tự pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa là hoạt động thường
xuyên, có ý nghĩa quyết định đối với việc nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà
nước. Mục đích của chức năng này là nhằm bảo đảm cho pháp luật được thi
hành một cách nghiêm chỉnh và thống nhất, thực hiện quản lý trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội bằng pháp luật.
- Chức năng tổ chức và quản lý kinh tế.
Tổ chức và quản lý nền kinh tế đất nước, xét đến cùng là chức năng hàng
đầu và là cơ bản nhất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa nhằm xây dựng
mọi xã hội dựa trên cơ sở vật chất và kỹ thuật phát triển cao.
Nhà nước ta là người đại diện cho ý chí, quyền lực của Nhân dân lao động,
là người chủ sở hữu đối với các tư liệu sản xuất chủ yếu; là người nắm trong tay

các công cụ, phương tiện quản lý (chính sách, kế hoạch, pháp luật, tài chính,
ngân hàng…) và quản lý việc sử dụng tài sản quốc gia. Trên cơ sở đó, Nhà nước
có đủ điều kiện để tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế trong
nước cũng như hợp tác quốc tế.
- Chức năng tổ chức và quản lý văn hóa, khoa học, giáo dục.
Xã hội mới mà Nhân dân ta đang xây dựng là xã hội do Nhân dân lao động
làm chủ; có nền kinh tế phát triển trên cơ sở một nền khoa học và công nghệ tiên
13


tiến; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải
phóng khỏi sự áp bức, bóc lột, bất công, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, có điều
kiện phát triển toàn diện cá nhân. Muốn xây dựng xã hội đó, Nhà nước ta phải tổ
chức, quản lý sự nghiệp giáo dục đào tạo, văn hóa, phát triển khoa học và công
nghệ. Đó là quốc sách hàng đầu để phát huy nhân tố con người, phát huy vai trò
then chốt của khoa học và công nghệ. Đó là những động lực trực tiếp của sự
phát triển, tạo điều kiện cần thiết cho việc thực hiện các chức năng khác của Nhà
nước vừa nhằm tổ chức quản lý văn hóa, khoa học, giáo dục vừa nhằm thực hiện
những nhiệm vụ kinh tế xã hội. Trước mắt, cần chuẩn bị cho đất nước bước vào
những giai đoạn phát triển tiếp theo trong tương lai, hòa nhập với sự phát triển
của nền văn minh thế giới.
b. Chức năng đối ngoại
Nhà nước ta thực hiện chức năng đối ngoại nhằm tranh thủ sự đồng tình
ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân thế giới, mở rộng hợp tác quốc tế, tạo điều kiện
thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời làm tròn nghĩa
vụ quốc tế đối với phong trào cách mạng thế giới. Đảng ta nhấn mạnh: “Mục
tiêu của chính sách đối ngoại là tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đi lên chủ nghĩa xã hội, góp phần vào sự nghiệp
đấu tranh chung của nhân loại thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam : Cương lĩnh xây dựng đất nước trong

thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb.ST, H.1991, tr19).
- Chức năng bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Tất cả chức năng đối nội của nhà nước chỉ có thể được triển khai thực hiện
tốt khi Tổ quốc được bảo vệ vững chắc. Vì vậy, bảo vệ Tổ quốc là chức năng
cực kỳ quan trọng nhằm giữ gìn thành quả cách mạng, bảo vệ công cuộc xây
dựng hòa bình của nhân dân, tạo điều kiện ổn định triển khai các kế hoạch phát
triển kinh tế xã hội của đất nước.
- Chức năng củng cố, tăng cường tình hữu nghị và hợp tác với các nước xã
hội chủ nghĩa, đồng thời mở rộng quan hệ với các nước khác theo nguyên tắc
bình đẳng, cùng có lợi, cùng tồn tại hòa bình, không can thiệp vào công việc nội
bộ của nhau.
Tư tưởng chỉ đạo thực hiện chức năng này của Nhà nước ta là, trên cơ sở
kiên trì đường lối độc lập tự chủ và đoàn kết quốc tế, “nhiệm vụ đối ngoại bao
trùm trong thời gian tới là giữ vững hòa bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp
tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào công cuộc đấu tranh chung
của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”
(Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
Nxb.ST, H1991, tr.88).
- Chức năng ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc, phong trào cách mạng
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở các nước tư bản, chống chủ
nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân cũ và mới. Chống chủ nghĩa phân biệt chủng
14


tộc, chống chính sách gây chiến và chạy đua vũ trang, góp phần tích cực vào
cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và tiến bộ xã hội.
Trong thời đại ngày nay, sự phát triển của mỗi nước phụ thuộc vào nhiều
vào cộng đồng thế giới. Vì vậy, bất cứ nhà nước tiến bộ nào cũng đều có nghĩa

vụ ủng hộ phong trào cách mạng và tiến bộ trên thế giới. Thắng lợi của cách
mạng Việt Nam không tách rời sự ủng hộ và giúp đỡ to lớn của nhân dân thế
giới. Ngày nay, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang mở rộng
hợp tác với tất cả các nước trên thế giới cùng phấn đấu vì một thế giới hòa bình,
ổn định, hợp tác và phát triển.
3. Bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Để thực hiện tốt chức năng của Nhà nước, bộ máy nhà nước cần được tổ
chức chặt chẽ, khoa học. Bộ máy nhà nước là hệ thống các cơ quan nhà nước từ
Trung ương đến địa phương, được tổ chức theo những nguyên tắc chung thống
nhất, tạo thành một cơ chế đồng bộ để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của
Nhà nước.
Thông thường trong bộ máy nhà nước nói chung bao gồm ba loại cơ quan:
cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp.
- Cơ quan quyền lực nhà nước (Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Hội đồng nhân dân là cơ quan
quyền lực nhà nước ở địa phương).
- Cơ quan hành chính nhà nước, tức là cơ quan hành pháp (đứng đầu hệ
thống này là Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Chính
phủ và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, huyện, xã, các sở, phòng, ban…).
- Cơ quan tư pháp:
+ Các cơ quan xét xử (Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa
phương, Tòa án quân sự…).
+ Các cơ quan kiểm sát (Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các Viện kiểm sát
nhân dân địa phương, Viện kiểm sát quân sự). Hiệu lực, hiệu quả của bộ máy
nhà nước tùy thuộc vào hiệu lực, hiệu quả hoạt động của từng cơ quan nhà nước.
Nhìn tổng quát, bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
được tổ chức thành các phân hệ sau:
a. Quốc hội
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo Hiến pháp

năm 2013, Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn
đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội được quy định tại Điều 70 Hiến pháp 2013.
b. Chủ tịch nước

15


Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại (Điều 86); nhiệm vụ, quyền hạn
được quy định tại Điều 88 Hiến pháp 2013.
c. Chính phủ
Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của
Quốc hội. Chính phủ có nhiệm vụ thống nhất quản lý mọi mặt đời sống xã hội
trên cơ sở Hiến pháp và luật.
d. Các cơ quan xét xử:
Các cơ quan xét xử gồm:
- Tòa án nhân dân tối cao.
- Tòa án nhân dân địa phương.
- Tòa án quân sự.
- Các tòa án do luật định.
Nhiệm vụ là xét xử và giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, lao động, hôn
nhân và gia đình… để bảo vệ trật tự pháp luật. Nguyên tắc hoạt động của tòa án
là độc lập xét xử, chỉ tuân theo pháp luật.
đ. Các cơ quan kiểm sát
Các cơ quan kiểm sát gồm:
- Viện kiển sát nhân dân tối cao.
- Viện kiểm sát nhân dân địa phương.
- Viện kiểm sát quân sự.

Nhiệm vụ là kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thực hiện quyền công tố
nhà nước trong phạm vi thẩm quyền do luật định, bảo đảm cho pháp luật được
chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
e. Chính quyền địa phương
Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện
cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa
phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà
nước cấp trên. Hội đồng nhân dân quyết định các vấn đề của địa phương do luật
định; giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực
hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân (Điều 113).
Uỷ ban nhân dân ở cấp chính quyền địa phương do Hội đồng nhân dân cùng
cấp bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà
nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành
chính nhà nước cấp trên. Uỷ ban nhân dân tổ chức việc thi hành Hiến pháp và
pháp luật ở địa phương; tổ chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân và
thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước cấp trên giao (Điều 114).
16


4. Phương thức hoạt động của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam
Để thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại, Nhà nước áp dụng nhiều
hình thức hoạt động khác nhau. Những hình thức ấy bắt nguồn và trực tiếp thể
hiện bản chất cũng như mục tiêu hoạt động của Nhà nước. Hoạt động của Nhà
nước là hoạt động quản lý gắn với quyền lực, pháp luật. Nó thường diễn ra dưới
các hình thức cơ bản là:
- Ban hành pháp luật;
- Thực hiện pháp luật;
- Bảo vệ pháp luật.
Nhà nước sử dụng pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội, chẳng hạn,

quan hệ giữa các giai cấp trong xã hội; quan hệ giữa Nhà nước với các cộng
đồng dân tộc trong một quốc gia; quan hệ giữa Nhà nước và công dân; quan hệ
giữa Nhà nước với các cộng đồng tôn giáo… Các quan hệ đó lại diễn ra trên tất
cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đời sống. Nhiệm vụ của
Nhà nước ta là sử dụng pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát triển
theo hướng lành mạnh và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình
quản lý, Nhà nước phải kết hợp pháp luật với đạo đức, coi trọng giáo dục nâng
cao đạo đức xã hội chủ nghĩa, hơn nữa, do bản chất của Nhà nước ta quy định
nên dù Nhà nước hoạt động dưới hình thức nào cũng phải thu hút được đông đảo
nhân dân lao động tham gia vào xây dựng nhà nước và quản lý nhà nước.
II. QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG XÂY DỰNG VÀ HOÀN
THIỆN NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1. Hệ thống quan điểm đổi mới tổ chức và hoạt động của Nhà nước
Nhà nước là trung tâm của hệ thống chính trị, là công cụ thực hiện quyền
lực của Nhân dân. Công cuộc đổi mới càng mở rộng, càng đòi hỏi bức bách phải
xây dựng, kiện toàn bộ máy nhà nước vững mạnh, trong sạch, quản lý có hiệu
lực và hiệu quả trong điều kiện mới, bảo đảm cho bộ máy Nhà nước ta giữ vững
bản chất cách mạng, thực sự là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Vì vậy, việc
xây dựng và hoàn thiện Nhà nước trong những năm tới phải tiếp tục quán triệt
sâu sắc các quan điểm cơ bản sau đây:
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì
dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức
làm nền tảng do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của
Nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm
phạm lợi ích của Tổ quốc và Nhân dân. Đây là vấn đề bản chất nhà nước, cần
phải được quán triệt trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước. Quán
triệt bản chất giai cấp của Nhà nước ta chính là kiên định vai trò lãnh đạo của
Đảng, kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và mục tiêu xã
hội chủ nghĩa. Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân; mọi quyền lực
nhà nước đều thuộc về Nhân dân. Nhà nước ta do dân lập nên, dân bầu ra, dân

17


giám sát và bãi miễn. Sức mạnh của Nhà nước ta bắt nguồn từ sức mạnh của
Nhân dân. Nhà nước phải thể hiện được ý chí, nguyện vọng của Nhân dân. Dân
chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của Nhà nước ta. Dân chủ phải đi đôi với kỷ
cương, pháp luật.
Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các
cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Trong Cương lĩnh của Đảng ta đã khẳng định: “Nhà nước ta thống nhất
ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp với sự phân công rành mạch giữa ba
quyền đó”. Như vậy,khác với thuyết “phân lập các quyền”, ở đây, quyền lực
nhà nước là thống nhất, không phân chia và thuộc về Nhân dân. Nhân dân trao
quyền lực cho Quốc hội bằng phổ thông đầu phiếu, trực tiếp, bỏ phiếu kín. Quốc
hội là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp; giải quyết những vấn đề quan trọng
của đất nước về đối nội và đối ngoại; quyết định về tổ chức và bố trí nhân sự của
bộ máy nhà nước; thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động
của bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, lại có sự phân biệt và phân bổ các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp trong hệ thống bộ máy nhà nước thống nhất. Có thể
xem đó như là một sự phân công lao động hợp lý giữa những tổ chức của nhà
nước có sự ràng buộc, hợp tác và giám sát lẫn nhau, bảo đảm cho mọi tổ chức
làm đúng chức năng của mình và đúng pháp luật: không một ai, không một tổ
chức nào được lạm quyền và đứng trên pháp luật, nhưng tất cả đều nằm trong
quyền lực nhà nước thống nhất, không có sự phân lập, đối lập lẫn nhau.
Quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của
nhà nước. Kết hợp đúng đắn tập trụng và dân chủ trong từng thời kỳ là bài học
kinh nghiệm trong quản lý xã hội, là yếu tố quyết định sức mạnh tổ chức và hiệu
lực hoạt động của bộ máy nhà nước, nó tạo ra sự thống nhất về tổ chức và hành
động, tạo ra sức mạnh tổng hợp của cả tập thể và từng cá nhân, của cả nước và
từng địa phương. Vì vậy, trong quá trình cải cách bộ máy nhà nước cần tăng

cường sự lãnh đạo và điều hành tập trung thống nhất của trung ương nhằm khắc
phục nguy cơ tự phát, vô chính phủ. Đồng thời, phát huy trách nhiệm và tính
năng động sáng tạo của địa phương, kết hợp chặt chẽ quản lý ngành và quản lý
lãnh thổ.
Tuy nhiên, nội dung nguyên tắc tập trung dân chủ phải được hiểu và vận
dụng sát với tính chất, chức năng của từng loại cơ quan, từng lĩnh vực hoạt
động. Nội dung tập trung và dân chủ phải được quán triệt trong luật, nghị định,
quy chế về tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước, phân cấp quản lý giữa các
cấp chính quyền xác định rõ quyền và nghĩa vụ của từng cấp chính quyền.
- Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền
Việt Nam. Quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao
đạo đức.
Đề cao tinh thần hợp hiến của hoạt động nhà nước và tính nhân văn của
pháp luật là một đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền. Pháp luật điều
chỉnh những quan hệ xã hội cơ bản: giữa công dân với nhà nước, giữa công dân
18


với nhau, giữa nhà nước và các tổ chức xã hội… Và bản thân nhà nước cũng
được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Trong quá trình cải cách bộ máy nhà nước, cần tiếp tục rà soát, bổ sung
hoàn chỉnh hệ thống pháp luật nhằm đáp ứng yêu cầu mới của quản lý nhà nước
trong điều kiện của cơ chế thị trường, mở cửa với bên ngoài, bảo đảm quyền và
nghĩa vụ của công dân về kinh tế, chính trị, xã hội, lao động, dân sự; đấu tranh
chống tệ quan liêu, tham nhũng, hoàn thiện bộ máy nhà nước, cải cách nền hành
chính quốc gia, tăng cường quốc phòng và an ninh.
Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trên các lĩnh vực xây dựng pháp
luật, thực hiện pháp luật, bảo vệ pháp luật. Pháp luật phải được thi hành nghiêm
chỉnh và thống nhất. Kiên quyết đấu tranh chống hiện tượng coi thường pháp
luật, kỷ cương phép nước không nghiêm. Xử lý nghiêm minh những vụ vi phạm

pháp luật, trước hết từ trong nội bộ Đảng, từ bên trên.
Quá trình xây dựng pháp luật và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa
cần kết hợp chặt chẽ với việc giáo dục, nâng cao đạo đức, kết hợp chặt chẽ sức
mạnh của pháp luật và sức mạnh của đạo đức, tính tự giác trong quá trình quản
lý nhà nước và xã hội.
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Quá trình cải cách bộ máy nhà nước phải bảo đảm tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng. Thiếu nó nhà nước sẽ không còn là nhà nước kiểu mới, bài học ở Liên
Xô và Đông Âu là khi Đảng Cộng sản mất vai trò lãnh đạo đối với nhà nước thì
nhà nước biến chất, do đó, những người lao động mất quyền.
Sự lãnh đạo của Đảng bảo đảm cho Nhà nước hoạt động đúng hướng là nhà
nước của dân, do dân, vì dân, đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên,
trong quá trình Nhà nước đổi mới thì Đảng cũng không thể lãnh đạo theo phương
thức áp đặt, bao biện làm thay như trước, do đó, cần chỉnh đốn Đảng và đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng với Nhà nước. Trong điều kiện mới, sự lãnh đạo
của Đảng được tăng cường không phải dựa vào uy quyền, mệnh lệnh, mà là ở trí
tuệ, năng lực lãnh đạo của Đảng, ở khả năng vạch ra đường lối chính trị đúng đắn
và khả năng giáo dục thuyết phục toàn xã hội chấp nhận, ở vai trò tiên phong
gương mẫu của đảng viên và tổ chức Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền.
2. Phương thức đổi mới tổ chức và hoạt động của Nhà nước
Văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ X đã khẳng định:
“Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Cần xây dựng cơ chế
vận hành của nhà nước, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều
thuộc về nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối
hợp giữa các cơ quan trong thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng cường tính cụ thể, khả thi của các quy định
trong văn bản pháp luật. Xây dưng và hoàn thiện thể chế giám sát, kiểm tra tính
hợp hiến và hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công

19



quyền” (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb CTQG, H.2006, tr45).
Phương hướng đổi mới tổ chức và hoạt động của Nhà nước ta hiện nay là:
“Đẩy nhanh công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên tất
cả các mặt: hệ thống thể chế, chức năng, nhiệm vụ; tổ chức bộ máy; cán bộ,
công chức; phương thức hoạt động. Định rõ những việc nhà nước phải làm và
bảo đảm đủ các điều kiện để làm tốt; khắc phục tình trạng buông lỏng hoặc làm
thay, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan của Đảng và cơ quan
nhà nước. Nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội, tiếp tục cải cách tư pháp
một cách thực chất và toàn diện” (Sđd, st.253).
Bộ máy nhà nước cần được cải cách theo những phương hướng chủ yếu
sau đây:
a. Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của Nhân
dân trong xây dựng nhà nước và quản lý nhà nước.
Chúng ta chủ trương xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó cán bộ, đảng
viên và công chức phải thực sự là công bộc của Nhân dân, chịu sự giám sát của
Nhân dân. Đây là phương hướng vừa cơ bản vừa cấp bách nhằm giữ vững và
phát huy bản chất tốt đẹp của Nhà nước ta, đồng thời sẽ tạo ra điều kiện cơ bản
để ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng thoái hóa đạo đức, tham nhũng, lãng phí, quan
liêu, sách nhiễu nhân dân trong bộ máy nhà nước. Trong quá trình cải cách bộ
máy nhà nước, cần làm cho cán bộ và Nhân dân nhận thức sâu sắc rằng, đây là
vấn đề sống còn đối với chế độ ta. Chính quyền có trong sạch, được dân tin yêu,
ủng hộ thì mới vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Và cũng chỉ có dựa
vào sức mạnh của Nhân dân thì mới xây dựng được chính quyền trong sạch
vững mạnh, tạo ra động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội. Tất nhiên, mở rộng
dân chủ phải đi đôi với tăng cường kỷ cương, pháp chế, quyền lợi đi đôi với
trách nhiệm, nghĩa vụ.
Thực hiện phương hướng trên, cần nâng cao chất lượng chế độ dân chủ

đại diện, đồng thời từng bước thực hiện chế độ dân chủ trực tiếp một cách thiết
thực và có hiệu quả. Vì vậy, cần tiếp tục cải tiến chế độ bầu cử để thực sự là cơ
quan đại điện và là cơ quan quyền lực nhà nước; xác định rõ trách nhiệm của thủ
trưởng cơ quan nhà nước trong việc giải quyết khiếu nại và tố cáo của công dân;
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần bổ sung và xây dựng mới các văn bản
pháp luật nhằm xác định rõ quyền giám sát, kiểm tra của Nhân dân trong các
lĩnh vực.
b. Nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội
Trong những năm tới, việc nâng cao chất lượng của Quốc hội cần được
thực hiện theo những phương hướng chủ yếu sau đây:
- Tăng cường hoạt động của Quốc hội, nhất là chất lượng hoạt động lập
pháp, phấn đấu trong những năm tới xây dựng được một hệ thống pháp luật
đồng bộ, làm cơ sở pháp lý cho việc điều hành, quản lý các hoạt động trên các
lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội.
20


- Phấn đấu tiến tới việc Quốc hội thực hiện đầy đủ quyền quyết định ngân
sách như Hiến pháp quy định.
- Nâng cao chất lượng, giám sát tối cao của Quốc hội, khẩn trương xây
dựng cơ chế giám sát có hiệu lực, hiệu quả.
- Tiếp tục kiện toàn tổ chức Quốc hội, nâng cao chất lượng hoạt động của
đại biểu Quốc hội.
c. Tiếp tục cải cách nền hành chính nhà nước.
Đây là yêu cầu rất bức xúc và là trọng tâm của việc xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời gian tới. Trong
những năm trước mắt, tập trung làm tốt một số công việc sau đây:
- Tăng cường quản lý kinh tế xã hội theo pháp luật, giữ vững ổn định
chính trị xã hội, chăm lo xây dựng kết cấu hạ tầng và những ngành kinh tế then
chốt, bảo đảm môi trường và điều kiện chung cho nhân dân phát triển sản xuất

kinh doanh, nâng cao đời sống.
- Xây dựng bộ máy nhà nước gọn nhẹ, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả,
phân định rõ trách nhiệm, thẩm quyền của cơ quan nhà nước, của các cấp chính
quyền theo hướng phân cấp rõ hơn cho địa phương, kết hợp chặt chẽ quản lý
ngành và quản lý lãnh thổ, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Tăng cường tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra, coi đó là công cụ
quan trọng và hữu hiệu để bảo đảm hiệu quả quản lý nhà nước, thiết lập kỷ
cương xã hội, đặc biệt là tăng cường thanh tra việc thực hiện thể chế về những
lĩnh vực quan trọng như tài chính, lao động, giáo dục, vệ sinh, y tế, xây dựng,
công vụ…
d. Cải cách hệ thống cơ quan tư pháp
Tiếp tục cải cách hệ thống cơ quan tư pháp theo tinh thần Nghị quyết 08
của Bộ Chính trị. Hoạt động tư pháp phải nhằm đấu tranh nghiêm trị các tội
chống Tổ quốc, chống chế độ, chống tội tham nhũng và các tội hình sự khác,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
- Tòa án nhân dân phải thực hiện đúng hai cấp xét xử. Bỏ thủ tục xét xử
sơ, chung thẩm của Tòa án nhân dân tối cao và Tòa án quân sự Trung ương. Tòa
án nhân dân tối cao tập trung vào công tác tổng kết xét xử, hướng dẫn các tòa án
áp dụng pháp luật thống nhất và làm tốt chức năng giám đốc xét xử.
- Nâng cao chất lượng hoạt động của Viện Kiểm sát nhân dân, tập trung
tốt chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.
- Ngoài ra cần kiện toàn tổ chức thi hành án; chấn chỉnh các trại giam để
giáo dục cải tạo phạm nhân, củng cố tăng cường các tổ chức bổ trợ tư pháp, xây
dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh, có phẩm chất chính trị, đạo
đức và năng lực chuyên môn.
đ. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân

21



Văn kiện Đại hội X của Đảng đã chỉ ra rằng: Điều chỉnh cơ cấu chính
quyền địa phương cho phù hợp với những thay đổi chức năng, nhiệm vụ. Phân
biệt rõ những khác biệt giữa chính quyền nông thôn và chính quyền đô thị để tổ
chức bộ máy phù hợp. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng và kiểm tra hoạt động của
bộ máy chính quyền cơ sở.
Trong những năm tới, cần làm tốt những việc sau đây:
- Tập trung sức kiện toàn chính quyền cơ sở (xã, phường, thị trấn).
- Kiện toàn, củng cố Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp để bảo
đảm tốt nhiệm vụ và thẩm quyền, cùng chính quyền cấp trên thực hiện nhiệm vụ
quản lý nhà nước theo ngành trên địa bàn lãnh thổ.
- Xây dựng Hội đồng nhân dân các cấp có thực hiện quyền để thực hiện
đầy đủ vai trò là cơ quan đại diện và quyền lực nhà nước ở địa phương.
e. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có chất lượng chính trị và chất
lượng chuyên môn là yếu tố quyết định chất lượng hoạt động của bộ máy nhà nước
Đổi mới chính sách cán bộ và công tác quản lý cán bộ, xây dựng chế độ
công vụ rõ ràng, minh bạch, đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất và năng
lực gắn với chế độ hưởng thụ thỏa đáng và công bằng. Thực hiện đầy đủ nguyên
tắc công khai, minh bạch, dân chủ và phục vụ dân đối với cơ quan và công chức
nhà nước.
- Đội ngũ cán bộ công chức nhà nước cần được tuyển chọn và sử dụng
theo hướng chuyên môn hóa, ổn định, bảo đảm trình độ và năng lực của từng
chức danh; xây dựng và từng bước hoàn thiện chế độ công vụ và quy chế công
chức, đào tạo lại công chức theo yêu cầu mới của quản lý nhà nước, từng bước
hiện đại hóa công sở, trang thiết bị hành chính.
- Đẩy mạnh việc đào tạo đội ngũ cán bộ công chức. Chương trình nội
dung đào tạo phải thiết thực, bảo đảm chất lượng, từng bước theo kịp trình độ
hiện đại.
- Đấu tranh kiên quyết và bền bỉ chống tệ tham nhũng, lãng phí của công,
gắn cuộc đấu tranh này với công cuộc cải cách nên hành chính và chỉnh đốn Đảng.
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì

dân là một quá trình phức tạp, diễn ra trên nhiều lĩnh vực. Do vậy, cần có những
bước đi vững chắc. Quá trình đổi mới tổ chức biến động của bộ máy nhà nước
phải sát hợp với yêu cầu khách quan của sự phát triển kinh tế xã hội, đáp ứng
được yêu cầu dân chủ và pháp quyền của quá trình phát triển, tạo ra động lực
mạnh mẽ cho sự phát triển kinh tế xã hội của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, hiện đại hóa đất nước.
BÀI 3
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN
22


VỀ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
I. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH
NHÀ NƯỚC
1. Khái niệm quản lý hành chính nhà nước
Để hiểu khái niệm quản lý hành chính nhà nước trước hết cần làm rõ khái
niệm quản lý và quản lý nhà nước.
Quản lý trong xã hội nói chung là quá trình tổ chức, điều hành các hoạt
động nhằm đạt được những mục tiêu và yêu cầu nhất định, dựa trên những quy
luật khách quan.
Quản lý nhà nước là sự tác động, tổ chức, điều chỉnh mang tính quyền lực
nhà nước, thông qua hoạt động của bộ máy nhà nước, bằng phương tiện, công
cụ, cách thức tác động của Nhà nước đối với các lĩnh vực của đời sống chính trị,
kinh tế, văn hóa - xã hội và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội theo đường
lối, quan điểm của Đảng cầm quyền.
Quản lý nhà nước được hiểu theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, quản lý nhà nước là hoạt động tổ chức, điều hành của cả
bộ máy nhà nước, nghĩa là bao hàm cả sự tác động, tổ chức của quyền lực nhà
nước trên các phương diện lập pháp, hành pháp và tư pháp.Theo cách hiểu này,
quản lý nhà nước được đặt trong cơ chế: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,

Nhân dân lao động làm chủ”.
Theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước chủ yếu là quá trình tổ chức, điều hành
của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành
vi hoạt động của con người theo pháp luật, nhằm đạt được những mục tiêu, yêu
cầu, nhiệm vụ của quản lý nhà nước. Đồng thời các cơ quan nhà nước nói chung
còn thực hiện các hoạt động có tính chất chấp hành, điều hành, tính chất hành
chính nhà nước nhằm xây dựng, tổ chức bộ máy và củng cố chế độ công tác nội
bộ của mình. Chẳng hạn, ra quyết định thành lập, chia tách, sáp nhập các đơn vị,
tổ chức thuộc bộ máy của mình; đề bạt, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức;
ban hành quy chế làm việc nội bộ… Những hoạt động trên cũng là hoạt động
quản lý hành chính nhà nước trong nội bộ các cơ quan nhà nước.
Quản lý hành chính nhà nước đồng nghĩa với quản lý nhà nước hiểu theo
nghĩa hẹp.
Từ sự phân tích trên có thể hiểu khái niệm quản lý hành chính nhà nước
như sau: Quản lý hành chính nhà nước là quá trình tổ chức, điều hành, bằng
quyền lực nhà nước, phương thức tác động mang tính chất quyền lực nhà nước
của các cơ quan hành chính nhà nước đối với các chủ thể quản lý và các lĩnh vực
đời sống xã hội cũng như hành vi hoạt động của con người và các hoạt động có
tính chất hành chính nhà nước, nhằm xây dựng tổ chức bộ máy và củng cố chế
độ công tác nội bộ trong các cơ quan, tổ chức nhà nước.
2. Đặc điểm của quản lý hành chính nhà nước

23


Đối với nhà nước xã hội chủ nghĩa, quản lý hành chính nhà nước có
những đặc điểm cơ bản sau:
Một là, quản lý hành chính nhà nước luôn luôn mang tính quyền lực nhà
nước, tính tổ chức chặt chẽ. Đặc điểm pháp lý của quan hệ quản lý là sự không
bình đẳng giữa các bên trong quan hệ quản lý, chính vì vậy, trong quản lý hành

chính nhà nước, mọi mệnh lệnh, quyết định quản lý luôn mang tính đơn phương,
một chiều, bắt buộc thực hiện và khi cần thiết các chủ thể quản lý có thể áp dụng
các biện pháp cưỡng chế thi hành. Mọi mệnh lệnh, quyết định quản lý phải được
chấp hành nghiêm túc, triệt để, xác định rõ trách nhiệm pháp lý và xử lý nghiệm
minh mọi sự chây ì, dây dưa, chấp hành không nghiêm túc.
Hai là, quản lý hành chính nhà nước là hoạt động có mục tiêu rõ ràng, có
chiến lược và kế hoạch để thực hiện mục tiêu. Đặc điểm này đòi hỏi các cơ quan
hành chính nhà nước phải xác định mục tiêu, xây dựng chiến lược và kế hoạch
hoạt động của mình nhằm đạt các mục tiêu đã xác định trên cơ sở chiến lược, kế
hoạch của cấp trên và đường lối, chính sách của Đảng. Như vậy, các cơ quan
hành chính nhà nước phải xác định mục tiêu và kế hoạch dài hạn, trung hạn và
hàng năm. Bên cạnh việc xác định các mục tiêu, định hướng chủ yếu cần dự báo
tình hình, những biến động, thay đổi có thể xảy ra để dự kiến các biện pháp điều
chỉnh, cân đối, nhằm thực hiện được các mục tiêu và định hướng chủ yếu, có tính
chiến lược.
Ba là, quản lý hành chính nhà nước là hoạt động dựa trên các quy định
chặt chẽ của pháp luật, đồng thời là hoạt động có tính chủ động, sáng tạo và linh
hoạt trong thực tiễn điều hành, quản lý. Trên cơ sở những quy định của pháp
luật và mục tiêu, định hướng đã được xác định, cơ quan quản lý hành chính các
cấp phải phát huy tính chủ động, sáng tạo của mình trong quản lý, điều hành,
nhằm động viên được mọi tiềm năng, nguồn lực tạo nên sức mạnh tổng hợp,
thực hiện có hiệu lực, hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của mình theo đúng quy
định của pháp luật, đúng thẩm quyền đã được phân công, phân cấp, đảm bảo
nguyên tắc tập trung dân chủ, trách nhiệm quản lý theo ngành và theo lãnh thổ.
Bốn là, quản lý hành chính nhà nước phải đảm bảo nguyên tắc công khai,
dân chủ. Nhà nước là nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân. Vì thế, trong
hoạt động của mình, các cơ quan, cán bộ, công chức thực hiện chức năng quản
lý hành chính nhà nước phải công khai mọi hoạt động của mình, thể hiện tinh
thần tôn trọng Nhân dân để mọi việc dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra;
phải biết lắng nghe ý kiến của Nhân dân, có biện pháp thu hút, tổ chức cho Nhân

dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội.
Mặc dù quản lý hành chính nhà nước luôn luôn có tính đơn phương, mệnh
lệnh nhưng một mặt phải đề cao các biện pháp giáo dục, thuyết phục, vận động
quần chúng, chống quan liêu, cửa quyền, ức hiếp quần chúng. Mặt khác, phải
từng bước hiện đại hóa nền hành chính, xây dựng phong cách làm việc chính
quy, khắc phục tình trạng tùy tiện, xuê xoa, luộm thuộm, bảo đảm hiệu lực của
các quyết định, mệnh lệnh quản lý.
24


II. CÁC NGUYÊN TẮC QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
Các nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước là những tư tưởng, quan
điểm xây dựng chỉ đạo tổ chức bộ máy và hoạt động quản lý hành chính nhà
nước. Chúng phản ánh bản chất nhà nước xã hội chủ nghĩa và những yêu cầu
khách quan đảm bảo cho nhà nước xã hội chủ nghĩa tồn tại, phát triển và hệ
thống các cơ quan hành chính nhà nước hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.
1. Nguyên tắc Đảng lãnh đạo nhà nước
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt
Nam, được trang bị nền tảng tư tưởng, lý luận là chủ nghĩa Mác – Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành chính quyền, bảo vệ
nền độc lập, tự do của Tổ quốc, ngày nay đang tiến hành thắng lợi sự nghiệp đổi
mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. Đảng có vai trò to lớn và thực
sự đã trở thành lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội. Điều 4 Hiến pháp 2013
khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam – Đội tiên phong của giai cấp công
nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt
Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, Nhân dân lao động và
của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác – Lên nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.
Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội thông qua đường lối, chính sách;
thông qua các tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các cơ quan, tổ chức

nhà nước; thông qua công tác cán bộ; thông qua công tác kiểm tra việc thực hiện
đường lối, chính sách của Đảng của các cơ quan nhà nước. Đảng lãnh đạo công
tác xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật của nhà nước, song “các tổ chức
của Đảng và Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ
Hiến pháp và pháp luật” (Điều 4 Hiến pháp năm 2013).
2. Nguyên tắc Nhân dân lao động tham gia quản lý Nhà nước và xã hội
Trong chế độ Xã hội chủ nghĩa, Nhân dân lao động là người chủ nước nhà,
là lực lượng hùng hậu thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước. Sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc là sự nghiệp của Nhân dân. Chính vì vậy, tổ chức cho
Nhân dân lao động tham gia quản lý nhà nước và xã hội là yêu cầu khách quan,
cấp bách trong tổ chức, hoạt động của nhà nước. Điều 28 Hiến pháp năm 2013
khẳng định: “Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia
thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương
và cả nước. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã
hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của
công dân”.
Nhân dân lao động tham gia quản lý nhà nước và xã hội dưới hình thức
rất đa dạng và phong phú: Tham gia bầu cử, ứng cử; thảo luận các dự thảo văn
bản pháp luật; giám sát các hoạt động của cơ quan nhà nước, cán bộ, công
chức nhà nước...

25


×