Tải bản đầy đủ (.pdf) (131 trang)

Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn Tỉnh Thanh Hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.85 MB, 131 trang )

1

2

đại học quốc gia hà nội
khoa luật



phùng thị quyên



đào tạo, bồi d-ỡng kiến thức pháp luật
cho cán bộ, công chức cấp xã
trên địa bàn tỉnh thanh hóa

Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà n-ớc và pháp luật
Mã số : 60 38 01



tóm tắt luận văn thạc sĩ luật học



hà nội - 2012
Công trình đ-ợc hoàn thành
tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội




Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: GS.TS Phạm Hồng Thái




Phản biện 1:


Phản biện 2:



Luận văn đ-ợc bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vào hồi giờ , ngày tháng năm 2012.



Có thể tìm hiểu luận văn
tại Trung tâm t- liệu - Th- viện Đại học Quốc gia Hà Nội Trung
tâm t- liệu - Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội
MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa



Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các từ viết tắt


Danh mục các bảng


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG
KIẾN THỨC PHÁP LUẬT CHO CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
CẤP XÃ
6
1.1.
Khái niệm, vị trí, vai trò của cán bộ, công chức cấp xã
6
1.1.1.
Khái niệm cán bộ, công chức cấp xã
6
1.1.2.
Vị trí, vai trò của cán bộ, công chức cấp xã
9
1.2.

Khái niệm, đặc điểm, nội dung đào tạo, bồi dưỡng kiến thức
pháp luật cho cán bộ, công chức cấp xã
10
1.2.1.
Khái niệm đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho cán bộ,
công chức cấp xã
10
1.2.2.
Đặc điểm đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho cán bộ,
công chức cấp xã
12
1.2.3.
Nội dung đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho cán bộ,
công chức cấp xã
19
1.3.
Yêu cầu và điều kiện đảm bảo cho công tác đào tạo, bồi
24
dưỡng kiến thức pháp luật cho cán bộ, công chức cấp xã
1.3.1.
Yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho cán bộ,
công chức cấp xã
24
1.3.2.
Điều kiện đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho cán bộ,
công chức cấp xã
30

Chương 2: ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG KIẾN THỨC PHÁP LUẬT CHO
CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH

THANH HÓA
35
2.1.
Khái quát điều kiện tự nhiên và tình hình kinh tế - xã hội ảnh
hưởng đến đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho cán bộ,
công chức cấp xã trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa
35
2.1.1.
Đặc điểm tự nhiên
35
2.1.2.
Đặc điểm kinh tế
36
2.1.3.
Đặc điểm xã hội
37
2.2.
Tình hình đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn tỉnh
Thanh Hóa
39
2.2.1.
Khái quát chung về đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã trên địa
bàn tỉnh Thanh Hóa
39
2.2.2.
Nhận xét chung về tình hình cán bộ, công chức cấp xã trên địa
bàn tỉnh Thanh Hoá
53
2.3.
Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho cán bộ, công chức

cấp xã trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá hiện nay
58
2.3.1.
Kết quả đạt được của công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp
luật cho cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá
59
2.3.2.
Đánh giá về công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật
cho cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá
71

Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TRONG ĐÀO
TẠO, BỒI DƯỠNG KIẾN THỨC PHÁP LUẬT CHO CÁN
BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
THANH HÓA HIỆN NAY
81
3.1.
Quan điểm về đào tạo bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho cán
bộ công chức cấp xã trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá
81
3.1.1.
Đào tạo, bồi kiến thức pháp luật cho cán bộ, công chức cấp xã
trước hết phải nhận thức sâu sắc quan điểm, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác đào, tạo
bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho cán bộ, công chức cấp xã
81
3.1.2.
Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho cán bộ, công chức
cấp xã phải bám sát quan điểm chỉ đạo của Tỉnh uỷ, Ủy ban
nhân dân tỉnh Thanh Hoá

83
3.1.3.
Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho cán bộ, công chức
cấp xã là yêu cầu cấp bách trong giai đoạn hiện nay
84
3.2.
Giải pháp về đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho cán
bộ công chức cấp xã trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá hiện nay
89
3.2.2.
Tăng cường quản lý nhà nước về công tác đào tạo, bồi dưỡng
kiến thức pháp luật cho cán bộ, công chức cấp xã
90
3.2.3.
Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng
kiến thức pháp luật cán bộ, công chức cấp xã
91
3.2.4.
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật và các
chính sách về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã
95
3.2.5.
Tăng cư ơ sở đào tạo, bồi dưỡng
96
3.2.6.
Về nguồn kinh phí
97

KẾT LUẬN
98


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
100

PHỤ LỤC
104




Danh môc c¸c Tõ VIÕT T¾T

CBCC
: Cán bộ, công chức
ĐTBD
: Đào tạo, bồi dưỡng
HĐND
: Hội đồng nhân dân
UBND
: Ủy ban nhân dân
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa
Danh môc c¸c b¶ng
Sè hiÖu
b¶ng
Tªn b¶ng
Trang
2.1
Số liệu về trình độ văn hóa của cán bộ chuyên trách cấp
xã tỉnh Thanh Hóa năm 2005, 2010

43
2.2
Số liệu về trình độ chuyên môn của cán bộ chuyên trách
cấp xã tỉnh Thanh Hóa năm 2005, 2010
45
2.3
Số liệu về trình độ lý luận chính trị của cán bộ chuyên
trách cấp xã tỉnh Thanh Hóa năm 2005, 2010
45
2.4
Số liệu về trình độ quản lý hành chính nhà nước của cán
bộ chuyên trách cấp xã tỉnh Thanh Hóa năm 2005, 2010
46
2.5
Số liệu về độ tuổi của cán bộ chuyên trách cấp xã tỉnh
Thanh Hóa năm 2005, 2010
47
5.6
Số liệu về trình độ văn hóa của công chức cấp xã tỉnh
Thanh Hóa năm 2005, 2010
49
2.7
Số liệu về trình độ chuyên môn của công chức cấp xã tỉnh
Thanh Hóa năm 2005, 2010
50
2.8
Số liệu về trình độ lý luận chính trị của công chức cấp xã
tỉnh Thanh Hóa năm 2005, 2010
51
2.9

Số liệu về trình độ quản lý nhà nước của công chức cấp
xã tỉnh Thanh Hóa năm 2005, 2010
52
2.10
Số liệu về độ tuổi của công chức cấp xã tỉnh Thanh Hóa
năm 2005, 2010
53
2.11
Kết quả đào tạo hệ trung cấp Chính trị - Hành chính tập trung
59
2.12
Kết quả đào tạo hệ trung cấp Chính trị - Hành chính tại chức
60
2.13
Kết quả đào tạo hệ trung cấp Hành chính - Văn thư
61
2.14
Kết quả đào tạo hệ trung cấp Luật
62


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta trong công cuộc đổi mới đất
nước hiện nay là một đòi hỏi cấp thiết, phù hợp với những đòi hỏi khách quan
của đất nước và xu thế chung của thời đại. Một trong những đặc trưng cơ bản
của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam đó là đảm bảo
tính tối cao của luật trong việc điều chỉnh tất cả các mối quan hệ xã hội. Vì vậy việc
đào tạo, bồi dưỡng (ĐTBD) kiến thức pháp luật cho cán bộ, công chức (CBCC)

một việc làm rất quan trọng và cần thiết, bởi CBCC là bộ phận cấu thành nên bộ
máy nhà nước, thay mặt nhà nước và gắn liền với vận mệnh của đất nước. Thông
qua những hoạt động cụ thể của CBCC thì chức năng nhiệm vụ của nhà nước
mới được thực hiện, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định "Cán bộ là gốc của mọi
công việc". Nhà nước muốn vững mạnh thì CBCC phải vững vàng về chuyên môn
nghiệp vụ, có năng lực quản lý và hiểu biệt về pháp luật. Do đó, "huấn luyện cán
bộ là công việc gốc của Đảng" [24, tr. 269].
Theo quy định của pháp luật về CBCC hiện hành, CBCC làm việc ở cả
bốn cấp đơn vị hành chính trong cơ quan, tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam,
nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội. Trong đó CBCC xã, phường, thị trấn
(gọi chung là cấp xã) có một vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng đây là nơi trực tiếp
tổ chức, vận động nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân là cầu nối giữa nhà nước và nhân dân. Tất cả những
hoạt động đó có thành công hay không phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng đội
ngũ CBCC cấp xã, ảnh hưởng đến sức mạnh của hệ thống chính trị ở cơ sở, tác
động trực tiếp đến sự nghiệp cách mạng và đổi mới của Đảng và Nhà nước ta.
Điều đó đã được chứng minh qua thực tiễn ở Việt Nam ở nơi nào có trình độ học
vấn nói chung, kiến thức pháp luật nói riêng của đội ngũ CBCC vững mạnh thì
chính quyền cơ sở ở đó vững mạnh, ý thức pháp luật của người dân cũng được
nâng cao và ngược lại.
Qua mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau Nhà nước ta đã có những chính sách
cụ thể về ĐTBD nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp cũng như kiến thức
pháp luật cho CBCC cấp xã, làm cho chất lượng của CBCC cấp xã ngày càng
được nâng cao về mọi mặt đặc biệt là việc sử dụng pháp luật vào quản lý nhà
nước, quản lý xã hội tại cơ sở phần nào đáp ứng được yêu cầu trong thời kỳ mới
hiện nay. Bên cạnh đó công tác ĐTBD kiến thức pháp luật cho CBCC cấp xã còn
nhiều hạn chế chủ yếu là mới thực hiện việc cung cấp thông tin pháp luật mà
chưa đưa ra được kỹ năng vận dụng pháp luật, vì vậy khi gặp phải những tình
huống phức tạp thì CBCC cấp xã còn lúng túng và chưa đưa ra được phương án

giải quyết tối ưu.
Thanh Hóa là một tỉnh đất rộng, người đông với địa hình tự nhiên phức
tạp, có nhiều dân tộc anh em cùng sinh sống. Do đó đội ngũ CBCC cấp xã càng
có vị trí, vai trò quan trọng góp phần quyết định lòng tin của nhân dân vào Đảng
và Nhà nước, quyết định sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nhà. Vì vậy công
tác ĐTBD kiến thức pháp luật cho CBCC cấp xã trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa là
yêu cầu cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
Với những lý do trình bày ở trên tôi đã lựa chọn và nghiên cứu đề tài
"Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho cán bộ, công chức cấp xã trên
địa bàn tỉnh Thanh Hóa".
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề CBCC và ĐTBD CBCC cấp xã đã được nhiều nhà khoa học phân
tích nghiên cứu dưới nhiều cấp độ tính chất khác nhau, có giá trị thiết thực và
được vận dụng vào thực tiễn. Những công trình, bài viết đó là:
- PGS.TS Nguyễn Phú Trọng, PGS.TS Trần Xuân Sầm: "Luận cứ khoa
học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2001.
- TS Lê Đình Khiên: "Nâng cao ý thức pháp luật cho đội ngũ cán bộ
quản lý hành chính", Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
- PGS.TS Lê Văn Hòe: "Công tác nghiên cứu lý luận về giáo dục pháp
luật trong thời kỳ đổi mới", Tạp chí Nghiên cứu pháp luật, 2008.
- TS Trương Tiến Hưng: "Bồi dưỡng công chức theo nhu cầu công việc"
Tạp chí Tổ chức Nhà nước, 2010.
- TS Nguyễn Thị Hồng Hải: "Tư tưởng Hồ Chí Minh về tuyển chọn và
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức", Tạp chí Tổ chức nhà nước, 2011.
- Nguyễn Thị Hậu: "Nâng cao đội ngũ cán bộ công chức chính quyền cấp
xã ở tỉnh Phú Thọ hiện nay", Luận văn thạc sĩ, Hà Nội, 2003.
- Trần Văn Tài: "Đào tạo nguồn cán bộ quản lý hành chính nhà nước cấp
xã trên địa bàn thành phố Cần Thơ - Thực trạng và giải pháp", Luận văn thạc sĩ,

Hà Nội, 2004.
- Đào Văn Hội: "Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã huyện Vĩnh
Cửu, tỉnh Đồng Nai", Luận văn thạc sĩ, Hà Nội, 2005.
- Nguyễn Thị Thanh: "Hoàn thiện về cán bộ, công chức cấp xã nước ta
hiện nay", Luận văn thạc sĩ Luật học, 2006.
- Trần Ánh Dương: "Nâng cao năng lực quản lý nhà nước của cán bộ công
chức chính quyền cấp xã ở tỉnh Hà Tĩnh hiện nay", Luận văn thạc sĩ, Hà Nội, 2006.
- Bùi Doãn Dũng: "Đào tạo, bồi dưỡng công chức hành chính theo yêu
cầu xây dựng nhà nước pháp quyền ở quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội", Luận
văn thạc sĩ Luật, Hà Nội, 2007.
- Đoàn Thị Trung Thủy: "Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho
cán bộ, công chức chính quyền cơ sở tỉnh Hưng Yên", Luận văn thạc sĩ Luật học,
Hà Nội, 2008.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng về vấn đề ĐTBD kiến
thức pháp luật cho CBCC cấp xã đồng thời đề xuất giải pháp cụ thể phục vụ cho
công tác ĐTBD kiến thức pháp luật cho đội ngũ CBCC cấp xã trên địa bàn tỉnh
Thanh Hóa.
* Nhiệm vụ:
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về ĐTBD kiến thức pháp luật cho
CBCC cấp xã.
- Phân tích để làm rõ về thực trạng công tác ĐTBD kiến thức pháp luật
cho CBCC cấp xã ở tỉnh Thành Hóa để thấy được những điểm tích cực cần phát
huy và những hạn chế cần phải khắc phục.
- Đề xuất các giải pháp để nâng cao chất lượng hoạt động ĐTBD kiến
thức pháp luật cho CBCC xã trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện
nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:

Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng về ĐTBD kiến thức
pháp luật cho CBCC cấp xã.
* Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu về vấn đề ĐTBD kiến thức pháp luật
cho CBCC cấp xã trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa từ năm 2005 đến nay.
5. Phương pháp tiếp cận văn đề
Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử ngoài ra còn sử dụng một số phương
pháp cụ thể như phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, điều tra xã hội học và
một số phương pháp khác.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Góp phần hệ thống hóa các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, của Đảng và nhà nước về ĐTBD kiến thức pháp luật cho
CBCC cấp xã.
- Đánh giá thực trạng về kiến thức pháp luật của đội ngũ CBCC cấp xã
trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, thấy được những ưu điểm, hạn chế của công tác
ĐTBD kiến thức pháp luật và đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
ĐTBD kiến thức pháp luật của đội ngũ CBCC cấp xã trên địa bàn tỉnh Thanh
Hóa đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn mới hiện nay.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan nhà nước trong
việc quản lý nhà nước đối với CBCC cấp xã, các cơ sở đào tạo có chức năng
ĐTBD CBCC cấp xã và cho tất cả những cá nhân, tổ chức quan tâm đến vấn đề
này.
7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp
luật cho cán bộ, công chức cấp xã.
Chương 2: Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho cán bộ, công chức
cấp xã trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.

Chương 3: Quan điểm và giải pháp trong đào tạo, bồi dưỡng kiến thức
pháp luật cho cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa hiện nay.


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG
KIẾN THỨC PHÁP LUẬT CHO CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ

1.1. KHÁI NIỆM, VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ
1.1.1. Khái niệm cán bộ, công chức cấp xã
Con người luôn là nhân tố quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển
của bất cứ tổ chức nào, bởi chỉ có thông qua con người, tổ chức mới có thể đạt
được mục tiêu của mình. Con người trong cơ quan nhà nước càng có vai trò quan
trọng hơn, đây là lực lượng lao động đặc biệt trong xã hội, là nhân tố quyết định
sự thành công hay thất bại của mọi công việc trong quản lý nhà nước, là lực
lượng đảm bảo cho sự phát triển bền vững của nền hành chính quốc gia. Vì vậy
lúc sinh thời Bác Hồ luôn quan tâm tới đến công tác cán bộ đặc biệt là công tác
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CBCC.
Ngay từ những ngày đầu kiến thiết đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
ký Sắc lệnh số 76/SL, ngày 20/5/19590 về quy chế công chức. Sau đó có một số
văn bản quy phạm pháp luật quy định về CBCC đã được nhà nước ban hành như
Nghị định 169/HĐBT ngày 25 tháng 5 năm 1991, Pháp lệnh CBCC năm 1998.
Tuy nhiên đến trước thời điểm năm 2003 thì vẫn chưa có một văn bản quy phạm
pháp luật nào điều chỉnh đối tượng CBCC cấp xã, một lực lượng đông đảo trong
hệ thống chính trị, điều đó đã ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả hoạt động của cấp
xã. Để khắc phục hạn chế trên thì Pháp lệnh CBCC năm 2003 sửa đổi bổ sung
một số điều Pháp lệnh CBCC năm 1998 đã sửa đổi, bổ sung khái niệm CBCC và
đưa đối tượng CBCC cấp xã vào phạm vi điều chỉnh của Pháp lệnh này. Theo
quy định tại điều 1 của Pháp lệnh CBCC sửa đổi bổ sung năm 2003 thì đối tượng
là CBCC đã được mở rộng đến tận cấp xã. Lần đầu tiên những người làm việc ở

cấp xã (trong thường trực Hội đồng nhân dân (HĐND), Ủy ban nhân dân
(UBND), tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội và 07
chức danh làm công tác chuyên môn) đã được đề cập đến trong Pháp lệnh và gọi
chung là CBCC cấp xã. Trong Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp
lệnh CBCC mới chỉ dừng lại ở việc quy định chung về CBCC. Để cụ thể hóa
Pháp lệnh, ngày 10 tháng 10 năm 2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định
114/NĐ-CP về CBCC xã, phường, thị trấn. Nghị định này quy định về chức
danh, tiêu chuẩn, nghĩa vụ quyền lợi, những việc không được làm, chế độ chính
sách và quản lý CBCC xã, phường, thị trấn (gọi chung là CBCC cấp xã).
Theo Luật CBCC và Nghị định số 92/2009/NĐ-CP quy định khái niệm
CBCC cấp xã như sau:
Cán bộ cấp xã là công dân Việt Nam được bầu cử giữ chức vụ theo
nhiệm kỳ, trong thường trực HĐND, UBND, người đứng đầu các tổ chức chính
trị - xã hội trong biên chế hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Gồm:
- Bí thư, phó bí thư Đảng ủy
- Chủ tịch, phó chủ tịch Hội đồng nhân dân
- Chủ tịch, phó chủ tịch Ủy ban nhân dân
- Chủ tịch Ủy ban mặt trận Tổ quốc Việt Nam
- Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
- Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
- Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam (áp dụng đối với xã,
phường, thị trấn có hoạt động nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và có tổ
chức Hội Nông dân Việt Nam
- Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam [29].
Đối với cán bộ chuyên trách cấp xã được chia làm hai nhóm:
- Nhóm thứ nhất: Cán bộ làm việc trong các cơ quan nhà nước (HĐND,
UBND) do cử tri bầu theo quy định của pháp luật về bầu cử để thực hiện chức
năng quản lý nhà nước theo vị trí, tính chất công việc.
- Nhóm thứ hai: Cán bộ làm việc trong tổ chức của Đảng Cộng sản Việt
Nam và các tổ chức chính trị - xã hội do các thành viên của tổ chức đó bầu theo

điều lệ của tổ chức để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn mà tổ chức giao.
Như vậy cả hai nhóm cán bộ này đều chủ yếu hình thành bằng con đường
bầu cử nhưng cách thức bầu, tính chất công việc hoàn toàn khác nhau. Vì vậy,
trong hoạt động ĐTBD kiến thức pháp luật phải chú ý tới dấu hiệu đặc thù đó để
có nội dung, phương pháp phù hợp với tính chất công việc việc của mỗi nhóm.
Công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức
danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc UBND cấp xã, trong biên chế và hưởng
lương từ ngân sách nhà nước. Gồm:
- Trưởng công an
- Chỉ huy trưởng quân sự
- Văn phòng - Thống kê
- Địa chính - Xây dựng - đô thị và môi trường (đối với phường,
thị trấn) hoặc địa chính - Nông nghiệp và môi trường (đối với xã)
- Tài chính - Kế toán
- Tư pháp - Hộ tịch
- Văn hóa - Xã hội [29].
Số lượng của CBCC cấp xã được bố trí theo loại đơn vị hành chính cấp
xã, trong đó gồm cả CBCC điều động, biệt phái, luân chuyển về cấp xã. Cụ thể:
- Xã loại 1: không quá 25 người
- Xã loại 2: không quá 23 người
- Xã loại 3: không quá 21 người [14].
1.1.2. Vị trí, vai trò của cán bộ, công chức cấp xã
Theo Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001) thì cấp xã là một
trong bốn cấp đơn vị hành chính của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Về cấu
trúc thì cấp xã bao gồm có các cơ quan nhà nước như HĐND và UBND ngoài ra
ở cấp xã còn có cơ quan, tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam đó là Đảng ủy
cấp xã và các tổ chức chính trị - xã hội. Theo quy định của pháp luật thì cấp xã là
một cấp đơn vị hành chính có tổ chức bộ máy đơn giản nhất nhưng cũng là cấp
gần dân nhất, trực tiếp giải quyết những yêu cầu để đảm bảo quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân, là nơi nối liền Đảng, Nhà nước, các tổ chức trong hệ

thống chính trị của đất nước với nhân dân, đảm bảo thực hiện thắng lợi mọi chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Vì vậy, sự vững mạnh về
mọi mặt của cấp xã sẽ là điều kiện đảm bảo cho hoạt đồng bình thường, ổn định
của cả hệ thống chính trị. Điều đó đã được Bác Hồ khẳng định: Cấp xã là cấp
gần gũi với dân nhất, là nền tảng của hành chính, cấp xã làm được thì mọi việc
đều xong xuôi. Như vậy vai trò của cấp xã đã được nhìn nhận từ rất lâu, điều đó
chứng tỏ tầm quan trọng của đội ngũ CBCC cấp xã, nó quyết định hiệu quả, chất
lượng làm việc của chính quyền cấp xã.
Hoạt động của cấp xã được tiến hành bởi đội ngũ CBCC. Họ là người
trực tiếp thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong phạm vi địa giới hành
chính, trực tiếp giải quyết theo thẩm quyền các yêu cầu của nhân dân, lắng nghe
những tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. CBCC cấp xã cũng là người thường
xuyên tiếp xúc với nhân dân để triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và đưa những quy định đó vào thực
tiễn cuộc sống tạo ra sự ổn định về mọi mặt kinh tế, văn hóa - xã hội, hành chính -
chính trị, an ninh - quốc phòng.
Thông qua hoạt động của CBCC cấp xã sẽ đánh giá được chất lượng hoạt
động của tổ chức Đảng, của cơ quan nhà nước, đánh giá được tính phù hợp,
khách quan của các chính sách, pháp luật. Từ đó để kịp thời sửa đổi, bổ sung,
điều chỉnh và xử lý trong trường hợp cần thiết.
CBCC cấp xã còn là những "tuyên truyền viên" pháp luật góp phần nâng
cao trình độ dân trí, ý thức pháp luật của nhân dân tạo điều kiện cho người dân
sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Đây là một trong những yêu cầu
cơ bản khi xây dựng nhà nước pháp quyền.
1.2. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, NỘI DUNG ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG KIẾN
THỨC PHÁP LUẬT CHO CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ
1.2.1. Khái niệm đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho cán bộ,
công chức cấp xã
Đào tạo, bồi dưỡng là hoạt động quan trọng trong công tác quản lý, phát
triển nguồn nhân lực của các cơ quan nhà nước, tổ chức nhằm xây dựng và phát

triển một đội ngũ CBCC chuyên nghiệp, thành thạo về chuyên môn, vững vàng
về năng lực quản lý. ĐTBD CBCC phải dựa trên cơ sở xác định nhu cầu ĐTBD
của từng vị trí công tác, năng lực thực hiện công việc của CBCC.
Theo Từ điển tiếng Việt, đào tạo được hiểu là việc "làm cho trở thành
người có năng lực theo những tiêu chuẩn nhất định" [46, tr. 279]. Theo đó:
Đào tạo theo một nghĩa chung nhất được hiểu là quá trình tác
động đến con người làm cho người đó lĩnh hội và nắm vững những tri
thức, kỹ năng, kỹ xảo một cách có hệ thống nhằm chuẩn bị cho họ
thích nghi với cuộc sống và khả năng nhận một sự phân công lao động
nhất định, góp phần của mình vào phát triển xã hội [30].
Như vậy đào tạo kiến thức pháp luật cho CBCC cấp xã chính là quá trình
tác động đến đối tượng làm cho họ có trình độ, năng lực thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của mình theo đúng quy định của pháp luật.
Cũng theo Từ điển tiếng Việt bồi dưỡng là việc "làm cho tăng thêm năng
lực hoặc phẩm chất" [46, tr. 505]. Còn theo Nghị định 18/2010/NĐ-CP về đào
tạo bồi dưỡng công chức thì bồi dưỡng được hiểu là "hoạt động trang bị, cập
nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng làm việc" [13]. Như vậy bồi dưỡng kiến thức
pháp luật cho CBCC cấp xã là làm tăng thêm lượng kiến thức pháp luật để giải
quyết các công việc trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình
một cách có hiệu quả nhất. Bồi dưỡng được thực hiện thông qua hình thức chính
thống đó là lớp học, ngoài ra còn được thực hiện thông qua nhiều hình thức khác,
nhưng mục đích cuối cùng đều hướng tới việc nâng cao kiến thức pháp luật, kỹ
năng giải quyết, vận dụng pháp luật trong thực tiễn nhằm thực hiện tốt hơn chức
năng, nhiệm vụ của CBCC cấp xã.
Theo sự phân tích trên cho thấy, nếu hiểu theo nghĩa rộng thì đào tạo đã
bao hàm trong đó cả nghĩa bồi dưỡng bởi cả hai đều hướng tới mục đích trang bị
kiến thức pháp luật, kỹ năng vận dụng pháp luật cho CBCC cấp xã. Tuy nhiên
nếu hiểu theo nghĩa hẹp thì đào tạo kiến thức pháp luật là quá trình trang bị
những kiến thức pháp luật, kỹ năng thực hiện pháp luật cho CBCC chưa qua đào
tạo. Còn bồi dưỡng kiến thức pháp luật là quá trình nâng cao kiến thức pháp luật,

kỹ năng thực hiện pháp luật một cách thường xuyên trên cơ sở những kiến thức,
kỹ năng đã có. Bồi dưỡng kiến thức pháp luật thường được tổ chức trong quỹ
thời gian ngắn hơn so với đào tạo tuy nhiên nó lại được thực hiện một cách
thường xuyên hơn để cập nhật, trang bị thêm, trang bị mới những kiến thức pháp
luật, văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành. Sau khi ĐTBD xong thì
đào tạo sẽ được cấp bằng hoặc chứng chỉ để chứng nhận trình độ được đào tạo,
còn bồi dưỡng chỉ được cấp chứng chỉ để chứng nhận đã qua khóa học bồi
dưỡng. Mặc dù ĐTBD kiến thức pháp luật cho CBCC có một số điểm khác nhau
nhưng về cơ bản cả hai hoạt động này đều hướng đến mục đích cuối cùng là
trang bị kiến thức pháp luật và vận dụng những kiến thức đó vào giải quyết các
công việc cụ thể trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Từ đó có thể đưa ra khái
niệm chung về ĐTBD thức pháp luật cho CBCC cấp xã như sau: ĐTBD kiến
thức pháp luật cho CBCC cấp xã là quá trình tác động có tổ chức, có kế hoạch,
có chương trình cụ thể nhằm làm cho đội ngũ CBCC cấp xã lĩnh hội, nắm vững
một cách có hệ thống và tăng thêm vốn kiến thức pháp luật, kỹ năng thực hiện
pháp luật trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình đồng thời góp phần
tuyên truyền, phổ biến và nâng cao luật ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân
địa phương.
1.2.2. Đặc điểm đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho cán bộ,
công chức cấp xã
Xuất phát từ đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài đó là ĐTBD
kiến thức pháp luật cho CBCC cấp xã, đồng thời có căn cứ để phân biệt với hoạt
động ĐTBD khác, cần xác định rõ những đặc điểm sau đây.
1.2.2.1. Chủ thể đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho cán bộ,
công chức cấp xã
Tại khoản 3 Điều 63 Luật CBCC quy định: "Việc đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức cấp xã phải căn cứ vào tiêu chuẩn của từng chức vụ, chức danh,
yêu cầu nhiệm vụ và phù hợp với quy hoạch cán bộ, công chức" [29]. Như vậy
tùy thuộc vào từng vị trí, chức danh CBCC để nhà nước quy định thẩm quyền
ĐTBD kiến thức pháp luật cho CBCC cấp xã.

Hiện nay, chủ thể có chức năng đào tạo chuyên ngành luật cho CBCC
cấp xã gồm: Khoa Luật, trường Đại học Quốc gia Hà Nội; trường Đại học Luật
Hà Nội; trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh; các trường đại học khác
có đào tạo chuyên ngành luật; một số trường đào tạo chuyên ngành trung cấp
luật và các trung tâm ĐTBD CBCC của các bộ, các ngành. Đã đào tạo một lực
lượng lao động có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao sẵn sàng bổ sung cho lực
lượng CBCC cấp xã. Không chỉ đào tạo dưới hình thức chính quy mà các trường
này còn liên kết với các trường Chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương,
và các trường khác của tỉnh để mở các lớp đào tạo chuyên ngành Luật với các hệ
Đại học và Trung cấp dưới hình thức đào tạo vừa học vừa làm. Các lớp học này
đã thu hút được lực lượng không nhỏ là CBCC cấp xã theo học.
Ngoài các chủ thể nêu trên còn có một chủ thể có vai trò rất quan trọng
trong công tác ĐTBD kiến thức pháp luật cho CBCC cấp xã đó là các trường
Chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Điều 13 Nghị định số
18/2010/NĐ-CP quy định về phân công tổ chức ĐTBD CBCC xác định rõ
trường Chính trị các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thẩm quyền "Tổ
chức thực hiện chương trình bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh công chức cấp
xã và các đối tượng khác do cấp có thẩm quyền giao" [13].
Quyết định số 184-QĐ/TW về chức năng nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của
trường Chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, chức năng của trường
Chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là:
Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo quản lý của hệ
thống chính trị cấp cơ sở, cán bộ công chức ở địa phương về lý luận
chính trị - hành chính, đường lối. Các nghị quyết, chỉ thị của Đảng,
chính sách pháp luật của nhà nước, kiến thức và chuyên môn nghiệp
vụ về công tác xây dựng Đảng, chính quyền Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể chính trị xã hội, kiến thức về pháp luật và quản lý nhà nước
và một số lĩnh vực khác [17].
Căn cứ vào chức năng nhiệm vụ theo quy định của pháp luật trường
Chính trị tỉnh Thanh Hóa đã có các hệ đào tạo như: trung cấp Lý luận chính trị -

Hành chính; trung học Hành chính - Văn thư; trung học Luật ngoài ra còn có các
lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước; bồi dưỡng đại biểu HĐND; bồi
dưỡng chủ tịch HĐND; UBND; bồi dưỡng kiến thức quốc phòng ở những lớp
này đã dành một lượng thời gian không nhỏ cho việc giảng dạy môn Nhà nước
và pháp luật.
Hệ trung học Luật có thời gian học là 24 tháng trong đó có 17 môn học
chuyên ngành với 1185 tiết và 03 môn bổ trợ liên quan đến nghiệp vụ tư pháp ở
cấp xã với 160 tiết.
Hệ trung học Hành chính - Văn thư tổng số tiết 1485 trong đó các môn
chuyên ngành luật là 195 tiết.
Hệ trung cấp Lý luận chính trị - Hành chính số tiết môn nhà nước pháp
luật là 79 tiết. Ngoài ra còn một số phần về kỹ năng quản lý nhà nước có liên
quan đến kiến thức pháp luật.
Ở các trường, các trung tâm có chức năng ĐTBD, tập hợp một đội ngũ
giảng viên có trình độ chuyên môn về pháp luật cao và được ĐTBD về nghiệp vụ
sư phạm. Hiện nay đội ngũ giảng viên giảng dạy pháp luật ngày càng được nâng
cao cả về số lượng và chất lượng để đáp ứng yêu cầu về ĐTBD trong thời kỳ đổi.
Việc ĐTBD kiến thức pháp luật chỉ có thể thực hiện và đem lại hiệu quả cao khi
có một đội ngũ giảng viên vững vàng về kiến thức chuyên môn và kiến thức
pháp luật phải được truyền đạt người học bằng phương pháp sư phạm nhuần
nhuyễn để đạt được mục đích cuối cùng là vận dụng pháp luật vào thực tiễn quản
lý nhà nước ở cơ sở một cách có hiệu quả.
1.2.2.2. Đối tượng đào tạo bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho cán bộ
công chức cấp xã
Đối tượng ĐTBD kiến thức pháp luật cho CBCC cấp xã chính là đội ngũ
CBCC cấp xã, tùy thuộc vào sự phân loại xã để xác định số lượng CBCC cấp xã.
Đối với xã loại 1: không quá 25 người
Đối với xã loại 2: không quá 23 người
Đối với xã loại 3: không quá 21 người
Kể cả cán bộ, công chức do điều động, biệt phái, luân chuyển

về cấp xã [14].
Hiện nay, "cả nước có khoảng 10.900 đơn vị hành chính cấp xã với số
lượng CBCC cấp xã khoảng 250.000 người" [34]. Để công tác ĐTBD kiến thức
pháp luật cho CBCC cấp xã có hiệu quả thì phải xác định được đặc điểm cơ bản
của đội ngũ CBCC cấp xã. Cụ thể bao gồm các đặc điểm sau đây:
Một là, cán bộ chuyên trách làm việc ở cấp xã hiện nay hoàn toàn phụ
thuộc vào lá phiếu bầu cử của cử tri nên thiếu tính ổn định, dễ thay đổi sau mỗi
lần bầu cử. Đặc điểm này đã dẫn đến tình trạng có những cán bộ đã được ĐTBD
nhưng vì lý do khác nhau không trúng cử buộc phải nghỉ, thay vào đó là những
người hoàn toàn mới, để thực hiện được chức năng, nhiệm vụ của mình phải
được ĐTBD nhất là về kiến thức pháp luật. Điều đó dẫn đến tình trạng cán bộ
cấp xã chưa thực sự quan tâm hoặc chỉ quan tâm tới việc học tập, bồi dưỡng
nâng cao về trình độ chuyên môn cũng như kiến thức pháp luật khi có khả năng
chắc chắn giữ được vị trí của mình.
Hai là, đội ngũ CBCC cấp xã hiện nay còn thiếu tính chuyên nghiệp.
Điều này xuất phát từ một số lý do sau đây:
- Đây là đội ngũ mới được pháp luật về CBCC điều chỉnh từ năm 2003 nên
cần phải có thời gian để hoàn thiện về kiến thức cũng như kỹ năng quản lý.
- Do hậu quả của việc thay đổi nhân sự qua bầu cử.
- Nguồn của CBCC cấp xã chủ yếu là người hiện đang sinh sống tại địa
phương, bộ đội xuất ngũ, thương binh, trong đó có nhiều người đi lên từ hoạt
động phong trào, đoàn thể phần nhiều không được đào tạo chính quy, bài bản
dẫn tới năng lực thực hiện công việc bị hạn chế.
- Trình độ văn hóa, lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ không đồng
đều điều đó tạo ra sự không đồng bộ, thống nhất trong quá trình quản lý nhà
nước ở địa phương.
Ba là, Thu nhập của CBCC cấp xã là tương đối thấp. Từ sau khi Pháp
lệnh sửa đổi bổ sung một số điều Pháp lệnh CBCC năm 2003 có hiệu lực thì
CBCC cấp xã đã được hưởng lương thay cho chế độ sinh hoạt phí, từ đó đến nay
nhà nước đã có nhiều quy định mới liên quan đến chế độ của đối tượng này

nhưng nhìn chung trên thực tế thu nhập của họ vẫn còn rất hạn hẹp, trong khi
khối lượng công việc lại nhiều. Điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ tới việc ĐTBD
CBCC cấp xã.
Bốn là, trong công việc CBCC cấp xã thường bị ảnh hưởng tác động của
các quan hệ dòng họ, văn hóa ứng xử truyền thống, phong tục tập quán và lối
sống riêng của địa phương. Bởi phần lớn họ xuất thân từ địa phương, trực tiếp
sống và làm việc ngay tại địa phương. Với đặc điểm này một mặt, thể hiện ưu
điểm trong quá trình thực thi công vụ, nhiệm vụ dễ nắm bắt tâm tư nguyện vọng
của nhân dân, từ đó có những biện pháp phù hợp để thuyết phục nhân dân thực
hiện đúng chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Mặt khác
nó làm cho CBCC cấp xã bị ràng buộc bởi những quan hệ họ hàng, anh em, làng
xóm nên nhiều khi nể nang, né trách đấu tranh hoặc ngược lại vì quan hệ dòng
họ mà tạo ra phe cánh gây mất đoàn kết nội bộ. Đó là một trong những lý do cản
trở CBCC thực hiện chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo đúng quy
định của pháp luật.
Xuất phát từ những đặc điểm nêu trên đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải
đặc biệt quan tâm tới công tác ĐTBD kiến thức pháp luật cho CBCC cấp xã,
nhằm mục đích nâng cao kiến thức pháp luật giúp họ khắc phục những khó khăn, hạn
chế và phát huy tốt vai trò của mình trong quản lý nhà nước ở địa phương.
1.2.2.3. Hình thức đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho cán bộ,
công chức cấp xã
Theo quy định tại điều 22 của quy chế ĐTBD CBCC (ban hành kèm theo
Quyết định số 161/QĐ-TTg năm 2003 của Thủ tướng Chính phủ) các hình thức
ĐTBD CBCC gồm tập trung, bán tập trung và tại chức.
Theo Nghị định số 18/2010/CP-NĐ về đào tạo, bồì dưỡng công chức quy
định hình thức tổ chức đào tạo công chức gồm tập trung, bán tập trung, vừa học
vừa làm, từ xa.
Đào tạo tập trung bao gồm cả tập trung dài hạn và tập trung ngắn hạn.
Đối với tập trung ngắn hạn thời gian học là từ 6 tháng đến một năm, đối với lớp
dài hạn thời gian học trên một năm. Trong thời gian học, học viên không phải

đảm nhận công việc ở cơ quan và tập trung học liên tục theo thời gian đã định.
Hình thức này thường áp dụng cho đối tượng CBCC trẻ, dự nguồn CBCC. Với
hình thức đào tạo này người học sẽ được đào tạo một cách chính quy, bài bản,

×