Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Cái bi trong hệ thống phạm trù mĩ học, biểu hiện và giá trị thẩm mĩ của nó (TT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (339.74 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM MINH ÁI

CÁI BI TRONG HỆ THỐNG PHẠM TRÙ MĨ HỌC,
BIỂU HIỆN VÀ GIÁ TRỊ THẨM MĨ CỦA NÓ
Chuyên ngành
Mã số

: Mĩ học
: 62.22.03.07

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Hà Nội - 2016


Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học xã hội

Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. Nguyễn Văn Huyên

Phản biện 1: GS.TS. Hồ Sĩ Quý

Phản biện 2: PGS.TS. Phạm Văn Nhuận

Phản biện 3: PGS.TS. Trần Sỹ Phán

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện họp tại:
...............................................................................................................


vào hồi…….giờ…………phút, ngày………tháng……….năm 2015

Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia
- Thư viện Học Viện Khoa học Xã hội


DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Phạm Minh Ái (2013), Giáo dục thẩm mĩ thông qua nghệ thuật bi kịch Hi Lạp
cổ đại, Tạp chí Giáo dục số 10.
2. Phạm Minh Ái (2014), Cái bi trong mĩ cảm Phật giáo, Tạp chí Khoa học Đại
học Sư phạm Hà Nội số 5.
3. Phạm Minh Ái (2014), Vấn đề phụ nữ trong một số tác phẩm bi kịch Hi Lạp cổ
đại, Tạp chí Khoa học Đại học Sư phạm Hà Nội số 6.
4. Phạm Minh Ái (2014), Quan hệ giữa tất yếu và ngẫu nhiên trong cái bi của mĩ học
phương Tây từ cổ đại đến cận đại, Tạp chí Triết học số 12.


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tình yêu cổ xưa nhất và cũng vĩ đại nhất của con người chính là tình yêu cuộc sống,
yêu cái đẹp. Khát vọng chân chính của con người là vươn tới cuộc sống tốt đẹp. Nhưng vốn
dĩ hành trình kiếm tìm hạnh phúc đi đến cuộc sống nhân văn là một cuộc đấu tranh lâu dài
và gian khổ mà không phải lúc nào chiến thắng cũng thuộc về những điều tốt đẹp chân
chính. Thực tế lịch sử loài người đã chứng minh cho tính biện chứng của sự phát triển thông
qua quá trình không ngừng giải quyết những xung đột, mâu thuẫn. Tất yếu cuộc sống luôn

là những xung đột nhưng khi cuộc sống đã đặt ra những yêu cầu, nhiệm vụ dù khó khăn đến
đâu thì con người cũng sẽ nỗ lực tìm cách vượt qua. Cái bi và bi kịch vẫn hiện hữu khách
quan trong hành trình nỗ lực ấy khiến nhân loại vẫn không ngừng trăn trở về nó.
Cái bi là một phạm trù cơ bản của mĩ học mang ý nghĩa nhân văn và triết lí sâu
sắc, một hiện tượng thẩm mĩ đặc biệt chỉ nảy sinh trong quá trình lao động và đấu tranh
cải tạo tự nhiên, xã hội của con người. Phạm trù cái bi cùng với cái đẹp, cái hài, cái cao
cả khái quát những mảng hiện thực thẩm mĩ cơ bản của con người. Từ thời điểm thuật
ngữ này ra đời, cho đến khi nó được thừa nhận là một phạm trù mĩ học độc lập và đến
tận ngày hôm nay, nội hàm của nó đã được nhiều học giả bàn đến với những quan điểm
khác nhau. Sự vận động ngày càng phức tạp của xã hội đòi hỏi chúng ta cần nhìn nhận,
xem xét biểu hiện cái bi trong cuộc sống và trong nghệ thuật hết sức phong phú và đa
dạng, đồng thời có cái nhìn mang tư duy phê phán với những quan điểm khác nhau về
phạm trù này. Vì vậy, nghiên cứu về cái bi - phạm trù cơ bản của mĩ học là vấn đề cần
được quan tâm đúng mức.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện dân chủ,
công bằng, bình đẳng là vô cùng tốt đẹp. Lâu nay, thường tồn tại quan điểm phủ nhận sự
tồn tại của cái bi trong xã hội ta hoặc né tránh, không nói. Nhưng như vậy không có nghĩa
là có thể thỏa mãn với hiện tại bởi lẽ vẫn còn những xung đột, mâu thuẫn, những oan trái,
đau khổ có thật của con người hiện diện trong xã hội hiện nay mà nếu ta không dũng cảm
và thẳng thắn thừa nhận, vạch ra để hành động thì hậu quả sẽ là khôn lường. Ngay trong
Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói đây là cuộc chiến đấu khổng lồ chống lại những cái hư
hỏng, kiến tạo những cái tốt đẹp. Con đường đến mục tiêu lí tưởng ấy thật không bằng
phẳng, dễ dàng, mà gập ghềnh, quanh co, nhiều rủi ro, bất trắc; cũng không phải chỉ có
thuận buồm xuôi gió mà phải trải qua không ít vấp váp, sai lầm, lẽ phải và cái mới
không phải bao giờ cũng chiến thắng dễ dàng, nhiều khi phải trả giá bằng cay đắng. Vì
lẽ đó, cùng với niềm vui thắng lợi, niềm tin về những nhân tố mới mẻ, tốt tươi đang
ngày càng nở rộ, chúng ta còn vô vàn trăn trở vì nhiều điều cũ kĩ, hư hỏng vẫn đang tác
oai tác quái trong đời sống xã hội. Chừng nào những đấu tranh tốt - xấu, thiện - ác,
chính - tà vẫn còn diễn ra gay gắt, thì chừng đó cái bi vẫn còn cơ sở hiện diện. Vì thế
nghiên cứu làm rõ về biểu hiện và giá trị của cái bi trong cuộc sống và nghệ thuật là hết

sức cần thiết.
Lí luận mĩ học Mác - Lênin được các học giả Liên Xô trước đây xây dựng nên đã
trở thành khuôn mẫu, kim chỉ nam cho mĩ học và nghệ thuật nước ta. Không thể phủ
nhận những tác động tích cực từ khối tri thức đồ sộ của lí luận mĩ học Liên Xô đối với
Việt Nam, đặc biệt là hệ thống thuật ngữ, khái niệm, phạm trù trong đó có cái bi đã trở


2

thành công cụ cho tư duy lí luận, nền tảng vững chắc cho nghiên cứu mĩ học. Tuy nhiên
“việc giới thiệu lí luận văn nghệ macxit của ta khá phiến diện đã làm tổn hại đến một
trào lưu lí thuyết về văn học nghệ thuật chứa đựng nhiều chân lí và sáng tạo” [244,
tr.643]. Khuynh hướng đối lập, khép kín, ít tiếp cận tư tưởng học thuật hiện đại, rập
khuôn theo lí thuyết cũ, vận hành trong một khung tư duy khá chật hẹp đã khiến sự
giao lưu lí thuyết và nghiên cứu mĩ học bị gián đoạn và dường như không đảm đương
nổi vai trò “đi trước”, “phương pháp luận” cho nghiên cứu văn học nghệ thuật. Khung
lí luận đó dường như không bao chứa được những vấn đề thẩm mĩ của đời sống đương
đại đặt ra. Vì vậy lí luận và nhận thức về cái bi trong lí luận mĩ học cần có sự nỗ lực đổi
mới và phát triển để đảm nhận được vai trò của mình.
Mảng văn học nghệ thuật phản ánh cái bi sau năm 1975 có một sự chuyển biến
rất mạnh mẽ trong phương thức thể hiện. Sau chiến tranh, phản ánh cái bi trong văn
học là một yêu cầu chứa đầy thử thách đối với các nghệ sĩ. Điều này do văn học hoặc
là chỉ phản ánh một chiều, máy móc, dung tục thực tại, phản ánh quan niệm có sẵn;
hoặc là việc dự báo tương lai, dự báo những hiện tượng xấu, tiêu cực trong xã hội
thường khiến cho nghệ sĩ bị buộc tội bôi đen, gieo rắc hoài nghi, mà chính điều này
đã khiến cho văn nghệ sĩ dè dặt, chưa phát huy được sức sáng tạo dồi dào. Phản ánh
mảng thẩm mĩ cái bi trong văn học như thế nào là một vấn đề cần được giải đáp về lí
luận để giúp văn học hoàn thành sứ mệnh cao cả của mình, vừa giúp nhận thức về
hiện thực cuộc sống, vừa mang đến cho con người khát vọng Chân - Thiện - Mĩ. Lịch
sử nghệ thuật đã chứng minh rằng nền nghệ thuật của mỗi thời đại chịu ảnh hưởng rất

lớn từ những thành tựu lí luận triết học và mĩ học. Bởi vậy nghiên cứu về cái bi, làm
rõ bản chất, biểu hiện và giá trị của nó trong nghệ thuật dưới góc độ mĩ học là điều
cần thiết chỉ dẫn cho việc sáng tạo hình tượng cái bi mang tính thẩm mĩ cao.
Vấn đề cái bi không phải là mới. Đối với các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, cái
bi đã được nghiên cứu nhiều ở cả phương diện lí luận và thực tiễn. Tuy nhiên, ở nước ta lâu
nay, nghiên cứu mĩ học phần lớn hướng về cái đẹp, cái cao cả, cái bi chưa thực sự được
quan tâm đúng mức mà chủ yếu vấn đề chỉ được trình bày với một dung lượng nhỏ ở hệ
thống nguyên lí chung hay rải rác ở một số khía cạnh đan xen vào các vấn đề khác. Cái bi
trong hệ thống phạm trù mĩ học, biểu hiện và giá trị thẩm mĩ của nó chưa trở thành đối
tượng nghiên cứu chuyên biệt và có hệ thống ở một luận văn, luận án nào.
Với những lí do trên, tác giả đã chọn vấn đề “Cái bi trong hệ thống phạm trù mĩ
học, biểu hiện và giá trị thẩm mĩ của nó” làm đề tài luận án của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
* Mục đích:Luận án là làm sáng rõ hơn bản chất thẩm mĩ của cái bi thông qua
việc luận giải các nội dung trong cái bi và mối quan hệ giữa cái bi với các phạm trù
khác trong hệ thống như cái đẹp, cái cao cả, cái hài; nhận diện sự biểu hiện của cái bi
trong cuộc sống và trong văn học Việt Nam sau chiến tranh, từ đó rút ra những giá trị
thẩm mĩ của cái bi và đề xuất một số giải pháp nâng cao nhận thức về giá trị thẩm mĩ
của cái bi.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài, phân tích một cách có hệ
thống các quan điểm về cái bi trong lịch sử mĩ học phương Tây và phương Đông, trong
đó có Việt Nam.


3

- Phân tích bản chất thẩm mĩ và các nội dung của cái bi và mối quan hệ giữa cái
bi với các phạm trù cơ bản khác trong hệ thống phạm trù mĩ học.
- Nhận diện và phân tích các biểu hiện cơ bản và sự chuyển biến, vận động của

cái bi với tư cách một hiện tượng thẩm mĩ trong đời sống và văn học nghệ thuật Việt
Nam sau chiến tranh.
- Khái quát một số giá trị thẩm mĩ của cái bi đối với con người, xã hội và văn học
nghệ thuật.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
* Đối tượng nghiên cứu của luận án là phạm trù mĩ học cái bi và quan hệ của nó với
các phạm trù mĩ học khác cũng như những biểu hiện và giá trị của cái bi.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Luận án tiếp cận đối tượng và giải quyết nhiệm vụ của luận án trên cơ sở triết
học và mĩ học Mác – Lênin. Hệ thống phạm trù mĩ học rất đa dạng, phong phú, luận án chỉ
đi vào phân tích các khía cạnh quan hệ của cái bi với các phạm trù khách thể cơ bản của mĩ
học là cái đẹp, cái cao cả, cái hài và một số phạm trù phái sinh.
- Biểu hiện của cái bi trong đời sống và nghệ thuật nói chung bao trùm một phạm
vi vô cùng rộng lớn cả về không gian, thời gian và lĩnh vực. Trong nghệ thuật thì văn
học là một loại hình nghệ thuật đặc biệt điển hình, dùng ngôn từ làm phương tiện sắc
bén để đi sâu vào các ngóc ngách của cuộc sống và thân phận con người. Vì vậy, tác
giả chọn đi sâu nghiên cứu biểu biện và giá trị của cái bi trong phạm vi đời sống và văn
học Việt Nam sau chiến tranh (với mốc thời gian là từ 1975 trở lại đây).
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
Trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy vật, đề tài sử dụng một số
phương pháp sau:
- Phương pháp logic - lịch sử: Với phạm vi tư liệu trong suốt một tiến trình lịch
sử tư tưởng triết học, mĩ học và nghệ thuật, người viết luôn ý thức đặt đối tượng nghiên
cứu trong cả cái nhìn lịch sử để thấy được logic vận động nội tại trong quan niệm và
biểu hiện của cái bi trong các thời kì lịch sử xã hội và văn học nghệ thuật.
- Phương pháp hệ thống: Phương pháp này giúp tác giả có cách tiếp cận hợp lí
để nhận diện bản chất thẩm mĩ của cái bi đặt trong hệ thống các phạm trù cơ bản của mĩ
học. Phạm trù cái bi không tồn tại biệt lập mà có mối quan hệ biện chứng chặt chẽ với
các phạm trù mĩ học khác, vừa thống nhất vừa khác biệt.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phương pháp này cho phép phân tích để

khái quát các tư tưởng về cái bi trong lịch sử, trên cơ sở đó tổng hợp tạo thành hệ thống
quan điểm để làm sáng tỏ vấn đề một cách toàn diện nhất.
- Phương pháp loại hình: Phương pháp này được sử dụng để nhận diện các
khuynh hướng trong các tác phẩm văn học sau chiến tranh, làm cơ sở cho việc phân
tích đặc điểm của cái bi biểu hiện trong văn học thời kì này.
- Phương pháp so sánh: Phương pháp so sánh cho phép người viết nhận diện sự
tương đồng và khác biệt trong quan niệm cũng như biểu hiện của cái bi ở phương Tây,
phương Đông và Việt Nam. Qua đó sẽ thấy những đặc thù trong quan niệm về cái bi
trong nền thẩm mĩ dân tộc. Phương pháp này giúp làm rõ sự khác biệt của hai lĩnh vực
biểu hiện cơ bản của cái bi là trong cuộc sống và văn học nghệ thuật đồng thời tìm ra


4

sự tương đồng và khác biệt về giá trị thẩm mĩ đem lại của cái bi trong cuộc sống và
trong nghệ thuật.
- Phương pháp liên ngành: Để thực hiện đề tài, người viết luôn có ý thức vận
dụng những thành tựu của triết học, mĩ học, lí luận và phê bình văn học nghệ thuật, đạo
đức học, tâm lí học và sử học để đạt được cái nhìn toàn diện nhất.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Với những kết quả nghiên cứu của mình, luận án góp phần làm phong phú, hệ
thống hóa quan niệm về cái bi, đánh giá, so sánh những quan niệm về cái bi ở phương
Đông (Việt Nam) và phương Tây. Trên cơ sở mĩ học Mác - Lênin và tiếp cận một số
thành tựu có giá trị của mĩ học đương đại đưa ra hệ thống lí luận về bản chất và nội
dung của phạm trù cái bi, cũng như mối quan hệ cuả cái nó với các phạm trù khác trong
hệ thống
- Luận án nỗ lực nhận diện và phân tích biểu hiện của cái bi trong đời sống và
văn học Việt Nam sau chiến tranh để thấy được sự vận động cũng như chuyển biến của
nó với tư cách là một hiện tượng thẩm mĩ cơ bản.
- Luận án cũng làm rõ được giá trị thẩm mĩ của cái bi trên hai phạm vi là sự phát

triển của xã hội và sự nâng cao nhận thức, hoàn thiện nhân cách con người. Đồng thời,
tác giả cũng phân tích những giá trị của sự phản ánh cái bi đối với văn học nghệ thuật.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án
- Ý nghĩa lí luận: Với việc làm rõ bản chất, nội dung và vị trí của cái bi trong hệ
thống phạm trù mĩ học, nhất là biểu hiện và giá trị của nó trong đời sống và trong văn
học nghệ thuật, luận án đã làm sâu sắc và phong phú thêm lí thuyết phạm trù cái bi nói
riêng, mĩ học nói chung.
- Ý nghĩa thực tiễn: Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho những người làm
công tác nghiên cứu, giảng dạy mĩ học, triết học nghệ thuật, những người làm công tác
quản lí văn hóa nghệ thuật và những ai quan tâm đến lĩnh vực khoa học này.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm bao
gồm 4 chương, 11 tiết.
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Tình hình nghiên cứu về cái bi và mối quan hệ giữa cái bi với những phạm
trù khác trong hệ thống phạm trù mĩ học
1.1.1. Những công trình về bản chất thẩm mĩ và nội dung cuả cái bi
Những công trình về bản chất và nội dung của cái bi trong mĩ học phương Tây:
Trong lịch sử phát triển tư tưởng mĩ học từ cổ đại đến hiện đại, hầu hết các thời
kì đều có những công trình mang dấu ấn về sự phát triển quan niệm về cái bi. Tác phẩm
đầu tiên cần được nhắc đến mang ý nghĩa đặt nền móng cho sự phát triển lí luận về cái
bi là Nghệ thuật thơ ca (Thi pháp). Trong tác phẩm này, Aritxtot thể hiện những quan
điểm sâu sắc về bản chất của cái bi mặc dù chỉ chủ yếu thông qua hình thức nghệ thuật
bi kịch.


5

Thời cận đại, tác phẩm Mĩ học của Heghen được coi là công trình nghiên cứu

toàn diện và sâu sắc về cái bi kể từ sau Nghệ thuật thơ ca của Aritxtot. Từ lí luận
xung đột, ông đã trình bày các xung đột bi kịch dưới một hệ thống chặt chẽ và chiếm
một vị trí đặc biệt quan trọng trong lịch sử quan niệm về cái bi. Trong Hiện tượng
học tinh thần, Bài giảng lịch sử triết học, Mĩ học, Heghen gọi bi kịch là “ngôn ngữ
cao cấp”, là mặt trăng của nghệ thuật và thâu tóm nó trong toàn bộ nghệ thuật. Với
những kiến giải của mình về bi kịch, xung đột bi kịch, tình huống bi kịch, lỗi lầm bi
kịch, Heghen được coi là người có công lớn trong việc định hình và phát triển hệ
thống lí luận về cái bi. Trecnusepxki thể hiện quan điểm đối lập với Heghen thể hiện
trong Luận án tiến sĩ Quan hệ thẩm mĩ của nghệ thuật đối với hiện thực khi coi bi
kịch không mang tính tất yếu mà hoàn toàn là kết quả của cái ngẫu nhiên.
Thời hiện đại, Karl Jaspers trong tác phẩm Bàn về cái bi đã thể hiện thực chất
của cái bi trong quan hệ thắng và bại của ông, chiến thắng không thuộc về kẻ thắng mà
thuộc về kẻ bại vì kẻ chiến thắng bề ngoài nhưng hèn kém bên trong. Xét đến cùng,
thực chất không có gì chiến thắng thật sự khi so sánh với cái Siêu việt. Bi kịch - dẫn
nhập ngắn của Adrian Poole đã giải quyết được nhiều vấn đề phức tạp của cái bi,
nguồn gốc của cái bi. Sự ra đời của bi kịch của Nietzsche gợi mở con đường đánh giá
các ý niệm về cái bi là phản ứng của hệ tư tưởng tư sản trước các mâu thuẫn xã hội
ngày càng trở nên gay gắt.
Những công trình về bản chất và nội dung của cái bi trong mĩ học Phương Đông:
Cuốn Tư tưởng mĩ học Phật giáo của Thích Tâm Thiện cho rằng, Phật giáo quan
niệm về cái bi không quy ước cho định mệnh hay chuyện số phận mà nó hiện ra ở chỗ
“Biết” và “Không biết”. Bài viết Mĩ học của Phật giáo của Hoàng Thiệu Khang coi
Đức Phật là nhà mĩ học của thể nghiệm thẩm mĩ thông qua một chủ thể mang biện
chứng thẩm mĩ nội tại, đã tạo ra một cách tiếp cận mới với những vấn đề xung đột bi
kịch ở phương Đông, đặc biệt trong mĩ cảm Phật giáo với những nét khác biệt so với
những quan niệm theo chuẩn của phương Tây.
Trung Quốc có một nền lí luận mĩ học và văn học nghệ thuật cực kì phong phú
và đồ sộ không kém gì lĩnh vực sáng tác và ảnh hưởng rất sâu sắc đến Việt Nam. Lí
luận văn học, nghệ thuật cổ điển Trung Quốc của Khâu Chấn Thanh là cuốn sách có
tính phổ cập nhưng cũng không kém phần thú vị sâu sắc giới thiệu tương đối có hệ

thống về lí luận mĩ học, văn học nghệ thuật Trung Quốc. Phần lớn những công trình
hình thành hai hướng nhận định khác nhau về sự tồn tại của cái bi trong mĩ học và nghệ
thuật Trung Quốc: Thứ nhất là quan điểm cho rằng người Trung Quốc không có bi kịch
đích thực vì khởi đầu thì bi kết thúc thì hoan thể hiện ở quan điểm của Vương Quốc
Duy trong Hồng lâu mộng bình luận và tư tưởng của Chu Quang Tiềm trong Tâm lí
học bi kịch, Khoảng cách giữa cuộc đời và bi kịch. Quan điểm này có những lí giải hợp
lí nhưng có phần cực đoan trong kết luận. Thứ hai là quan điểm thừa nhận sự tồn tại cái
bi trong mĩ học và nghệ thuật Trung Quốc thể hiện qua tác giả Khấu Bằng Trình trong
Luận về tinh thần bi kịch của Trung Quốc. Quan điểm này thể hiện sự khách quan và
toàn diện hơn trong đánh giá.
Trong các bài: Những quan niệm thẩm mĩ độc đáo về nghệ thuật của người Nhật do
Phong Vũ dịch (1996), bài Mĩ học Kawabata Yasunari của Khương Việt Hà (2006), bài Mĩ
học Mono No Aware và văn chương Nhật Bản của Lê Thị Thanh Tâm (2012) đề cập đến


6

khái niệm “Aware” (bi cảm) và “mono no aware” (nỗi buồn của sự vật). Đây là những khái
niệm hàm chứa gần như đầy đủ những tinh hoa và nghịch lí trọng yếu của tâm hồn Nhật
Bản, là khái niệm được cắt nghĩa một cách phức tạp nhất bao hàm nhiều sự đối nghịch, mâu
thuẫn tạo ra nhiều tranh biện trong giới học thuật Nhật Bản và thế giới, đồng thời là nhân tố
góp phần tạo nên sự phong phú của hệ thống lí luận mĩ học phương Đông.
Các công trình bàn về cái bi trong mĩ học Việt Nam:
Có quan điểm cho rằng trong nghệ thuật truyền thống Việt Nam không có cái bi
và cái hài hay bi kịch và hài kịch. Nhà nghiên cứu Trần Trí Trắc, khi bàn về cái bi, cái
hài trong nghệ thuật chèo cổ cho rằng, ở nghệ thuật truyền thống nói chung và chèo cổ
nói riêng không hề có cái bi (Trong bài Bàn về cái bi cái hài trong chèo cổ đăng tải trên
trang vnmusic.com.vn ngày16/1/2013). Nhà nghiên cứu Mịch Quang đã thể hiện quan
điểm đối lập với quan điểm trên trong cuốn Khơi nguồn mĩ học dân tộc. Tác giả đã giới
thiệu nền văn hóa nghệ thuật của dân tộc ta qua việc liên kết chặt chẽ với các phạm trù:

cái đẹp, cái bi, cái hài, cái hậu, cái nhu, cái động. Tư tưởng mĩ học Hồ Chí Minh của Cù
Huy Chử là công trình khái lược những di sản nghệ thuật của Hồ Chí Minh, bước đầu
luận giải những quan điểm mĩ học trong tư tưởng Hồ Chí Minh từ đó nêu lên một số
vấn đề lí luận về sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Những công trình đề cập đến bản chất và nội dung của cái bi trên lập trường mĩ
học Mác – Lênin:
Phần lớn các công trình về mĩ học, giáo trình mĩ học của các nhà mĩ học macxit
của Liên Xô trước đây đều dựa trên lập trường chủ nghĩa duy vật lịch sử để phân tích
bản chất của cái bi. Trong đó đáng chú ý có: Nguyên lí mĩ học Mác - Lênin của Viện
Hàn lâm khoa học Liên Xô (1963), Những phạm trù mĩ học cơ bản của Iu.B.Bôrep
(1974), Nguyên lí mĩ học Mác-Lênin của UI.A.Lukin và V.C.Xcacherosikop (1984), ,
Tài liệu tham khảo mĩ học của B. Riwnicốp, M.B. Khraptrenco (1984) với Sáng tạo
nghệ thuật, hiện thực, con người, Cuốn Mĩ học cơ bản và nâng cao, Mĩ học Mác-Lênin
của M.F. Ôpxiannhicop (2001)…
1.1.2. Những công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa cái bi và các phạm
trù mĩ học khác
Ở hầu hết các giáo trình mĩ học trong nước đã nêu ở trên đều có bàn đến khía
cạnh mối quan hệ thẩm mĩ giữa cái bi và các phạm trù mĩ học khác (đặc biệt là cái đẹp)
nhưng chỉ thể hiện ở những điểm nhỏ và khá mờ nhạt. Trong Kỷ yếu hội nghị Cái anh
hùng - một phạm trù cơ bản của mĩ học Mác - Lênin có nhiều ý kiến bàn luận về mối quan
hệ giữa cái bi và cái anh hùng. Tuy nhiên phần lớn các ý kiến ở đây nêu lên sự khác biệt
giữa hai phạm trù này, chưa thấy rõ mối quan hệ bền chặt và sự giao thoa của hai phạm trù
này, chẳng hạn: “cái hùng nào cũng là cái đẹp nhưng chẳng cái hùng nào lại là cái bi cả”,
“khi hành động anh hùng còn đang diễn ra thì lúc này cái bi chưa xảy ra”.
Từ xu thế dân chủ hóa đến đổi mới quan niệm về hiện thực trong văn học,
nghệ thuật đã dẫn tới sự thừa nhận cái bi, cái hài như hai phạm trù phải tồn tại song
song trong nghệ thuật xã hội chủ nghĩa. Nhà nghiên cứu Phong Lê trong bài Văn học
Việt Nam trước và sau 1975 - nhìn từ yêu cầu phản ánh hiện thực (trích trong Văn
học Việt Nam sau 1975 những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục, 2006)
trực diện hơn khi đề cập đến những biểu hiện thẩm mĩ của văn học đổi mới trong sự

so sánh lịch sử. Tác giả đưa ra định đề “Cái hài bên cái bi và một giai đoạn mới của


7

văn học” để khái quát đặc trưng thẩm mĩ nổi bật của văn học sau 1975 nói chung,
văn xuôi nói riêng. Phong Lê cũng đã nói đến một “hệ thẩm mĩ mới”, và theo ông cái
hài và cái bi chính là một cặp tạo nên sự cân đối, hài hoà cho hệ thẩm mĩ mới ấy.
Cuốn Khơi nguồn mĩ học dân tộc của Mịch Quang cũng có đề cập đến mối quan hệ của
cặp phạm trù này trong những hình thức nghệ thuật đặc thù của dân tộc. Tác giả cũng
bàn đến mối quan hệ giữa cái bi với cái anh hùng, cái bi với cái hài trong nghệ thuật
dân gian dân tộc. Nếu tuồng là nền sân khấu tiêu biểu cho cái bi hùng thì chèo lại tiêu
biểu cho cái bi hài.
1.2. Tình hình nghiên cứu về biểu hiện của cái bi trong đời sống và trong
văn học Việt Nam (sau năm 1975)
1.2.1. Những công trình bàn về biểu hiện của cái bi trong đời sống xã hội Việt
Nam (sau năm 1975)
Cuộc tranh luận về cái bi ở Việt Nam cuối những năm 60, 70 có hai luồng ý kiến:
Thứ nhất là quan điểm cho rằng ở nước ta không còn mâu thuẫn đối kháng giai cấp nữa
cho nên không còn cơ sở cho sự xuất hiện của cái bi. Cũng trong Kỷ yếu hội nghị Cái
anh hùng - một phạm trù cơ bản của mĩ học Mác - Lênin có nhiều ý kiến cho rằng
trong sự phát triển tốt đẹp của xã hội ta hiện nay, cái bi sẽ mất dần vị trí và thay vào đó
là sự lên ngôi của cái anh hùng, các nước xã hội chủ nghĩa trong đó có Việt Nam không
còn giai cấp đối kháng, không còn người áp bức, bóc lột người nên dần sẽ không còn
cái bi. Ý kiến này dường như mang tính chủ quan, chưa cảm nhận thật sự sâu sắc về
những khó khăn phức tạp trên con đường mà dân tộc ta đang trải qua. Thứ hai là luồng
ý kiến cũng xuất phát từ thực tiễn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay khẳng
định cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, cái tốt đẹp và cái xấu xa thấp hèn vẫn chưa
chấm dứt thì cái bi vẫn còn cơ sở để tồn tại. Nhiều công trình đã đề cập đến những vấn
đề còn tồn tại, những mâu thuẫn thậm chí là xung đột vẫn còn diễn ra gay gắt trên

nhiều mặt của đời sống xã hội. Đây là những công trình đề cập đến một khía cạnh nào
đó về những mâu thuẫn, xung đột đang tồn tại trong xã hội ta hiện nay. Tuy nhiên, sự
đề cập này chỉ ở góc độ triết học, xã hội học chứ chưa đề cập một cách trực diện về
những mâu thuẫn đang tồn tại trong xã hội có nguy cơ trở thành những bi kịch nếu
chúng ta không nỗ lực giải quyết. Dường như về góc cạnh này, mảng lí luận còn khá dè
dặt và chưa thật sự “nói hết”. Luận án mong muốn sẽ góp phần vào mảng lí luận này
dưới góc độ cái bi mĩ học, nhận diện trực tiếp những biểu hiện xung đột đã, đang và sẽ
có thể gây ra bi kịch trong xã hội Việt Nam hiện đại.
1.2.2. Những công trình bàn về biểu hiện của cái bi trong văn học Việt Nam
(sau năm 1975)
Trên Báo Văn nghệ, cơ quan ngôn luận của Hội Nhà văn Việt Nam (số 49 &50,
ra ngày 5/12/1987), Nguyễn Minh Châu cho in bài phát biểu nổi tiếng Hãy đọc lời ai
điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh hoạ. Bài báo vừa là tuyên ngôn lí thuyết, vừa thể
hiện tinh thần đổi mới văn học hết sức triệt để của giới sáng tác. Nguyễn Minh Châu
kêu gọi Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa và đặt vấn đề
“khuyến khích cá tính, khuyến khích sáng tạo và chấp nhận đa dạng, chấp nhận sáng
tối, hoàn toàn đặt lòng tin vào lương tri các nhà văn”. Vấn đề mà Nguyễn Minh Châu
nêu ra đã nhận được sự hưởng ứng từ đông đảo văn nghệ sĩ. Có thể nói, từ cuối 1987,


8

đối thoại với những giá trị được mặc định, với những niềm tin quen thuộc được thừa
nhận, tự do sáng tạo của người nghệ sĩ không còn là vấn đề quá nhạy cảm.
Văn học Việt Nam sau 1975, những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy của
Nguyễn Văn Long và Lã Nhâm Thìn (2009) là một công trình tập hợp nhiều bài viết
trong Hội thảo khoa học cùng tên giúp chúng ta có được cái nhìn khá toàn diện về
diện mạo của văn học Việt Nam sau 1975. Trong đó có những bài viết phân tích khá
sâu mảng đề tài cái bi trong văn học Việt Nam sau 1975, mảng đề tài gây ra nhiều
bão tranh luận về nhận chân giá trị và cũng là mảng trước đó bị né tránh hoặc phản

ánh một chiều, đơn giản. Bàn về chủ đề này còn có rất nhiều những công trình
chuyên khảo và bài tạp chí khác.
1.3. Tình hình nghiên cứu về giá trị thẩm mĩ của cái bi
1.3.1. Những công trình nghiên cứu về giá trị thẩm mĩ của cái bi đối với sự phát
triển của con người và xã hội
Bi kịch có thể tạo nên những rung động mãnh liệt đến trí tuệ và tâm hồn con người.
Đây là cơ sở để Aritxtot phát triển học thuyết Katharsis (thanh lọc) của nền triết học Hi
Lạp cổ đại và được trình bày trong tác phẩm Nghệ thuật thi ca. Luận giải về những cách
hiểu về tác dụng thanh lọc của cái bi trong lịch sử, Anhikist trong Lí luận kịch từ Aritxtot
đến Lessin hệ thống hóa và giúp ta hình dung được những các cách tiếp cận để lí giải về
tác dụng thẩm mĩ của cái bi. Lê Ngọc Trà (1988) trong bài viết Về vấn đề văn học phản
ánh hiện thực khẳng định những tình cảm thẩm mĩ tích cực của cái bi trong nghệ thuật
chân chính. Vấn đề tẩy rửa trong thể loại bi kịch nhìn từ phương diện tiếp nhận của khán
giả và cấu trúc tác phẩm của Phạm Mai Chiên đề cập đến vấn đề tẩy rửa trong hiệu ứng bi
kịch. Vấn đề tẩy rửa (katharsis) liên quan đến hai đối tượng của bi kịch là khán giả và
chính nhân vật. Mảng nghiên cứu về giá trị thẩm mĩ của cái bi trong cuộc sống cũng như
trong nghệ thuật có thể nói là còn nhiều khoảng trống hoặc có những đánh giá chưa đúng
mức về giá trị của mảng thẩm mĩ này. Cần thiết phải khai thác sâu hơn nữa vấn đề nâng
cao nhận thức về những giá trị của cái bi thẩm mĩ.
1.3.2. Những công trình nghiên cứu vấn đề giá trị của sự phản ánh cái bi đối
với văn học nghệ thuật
Chúng ta chỉ có thể tìm được trong những khía cạnh nhất định ở các công trình lí
luận và phê bình văn học ở cách tiếp cận văn học chứ hầu như vắng bóng các công
trình của các nhà mĩ học với cách tiếp cận, phương pháp luận của mĩ học. Cuốn Kỉ yếu
Hội thảo Lí luận và phê bình văn học - đổi mới và phát triển của Viện Văn học (2005) là
nơi hội tụ nhiều bài viết đề cập đến giá trị của mảng thẩm mĩ cái bi trong văn học nghệ
thuật cũng như những phương hướng, giải pháp để mở đường, phát triển và nâng cao giá
trị thẩm mĩ, giá trị nghệ thuật của các tác phẩm văn học trong đó có những tác phẩm phản
ánh mảng cái bi trong văn học Việt Nam hiện nay. Những công trình nghiên cứu về mặt lí
luận và phê bình văn học này là một cơ sở quan trọng để có thể định hình những giải pháp

nâng cao giá trị thẩm mĩ của sự biểu hiện cái bi trong văn học Việt Nam hiện nay.
1.4. Đánh giá chung về tình hình nghiên cứu và một số vấn đề đặt ra đối với
luận án
1. Không khó để chúng ta có thể nhận thấy các công trình nghiên cứu mĩ học về cái
bi ở phương Đông khiêm tốn hơn rất nhiều so với ở phương Tây hoặc bị ảnh hưởng chủ
yếu bởi tư tưởng phương Tây. Luận án trên cơ sở hệ thống hóa các quan điểm về cái bi ở


9

phương Đông và phương Tây có sự phân tích, so sánh tìm ra đặc trưng riêng trong quan
niệm về cái bi ở phương Tây so với phương Đông (trong đó có Việt Nam).
2. Cách tiếp cận về cái bi trong các sách mĩ học ở ta trước đây và hiện nay vẫn
chủ yếu tiếp cận trên hệ hình của mĩ học macxit mà thực chất là trực tiếp của các học
giả Liên Xô trước đây đang ngày càng thể hiện sự đơn giản, một chiều và chật hẹp do
nhiều lí do như: Thứ nhất, bản thân lí luận mĩ học macxit của ta (trong đó có cái bi)
chưa tự hiện đại hóa, vận động mạnh mẽ để phát triển theo kịp đời sống, mà vẫn “lẽo
đẽo theo sau” chứ chưa nói là dẫn đường, mở ra ý nghĩa phương pháp luận cho đời
sống thẩm mĩ nói chung, văn học nghệ thuật nói riêng. Cách tiếp cận và nội hàm khái
niệm chưa đủ độ khái quát và chiều sâu để bao chứa những chiều kích của cuộc sống
rộng lớn, đa sự, phong phú của ngày hôm nay. Thứ hai, trong lí luận mĩ học của ta về
cái bi chưa có sự giao lưu và tiếp thu thực sự phổ biến và hiệu quả những giá trị của lí
luận mĩ học đương đại, vẫn khá nghèo nàn và xơ cứng trong việc lí giải bản chất, nội
dung của cái bi (vẫn nhấn mạnh đến khía cạnh đấu tranh giai cấp, chưa có những lí giải
sâu về bi kịch cá nhân, của bản thể cái tôi với nhiều góc khuất cần được đề cập đến
trong xã hội hiện đại).
3. Bản thân đời sống xã hội và đời sống văn học nghệ thuật thời kì đổi mới đang
có những chuyển biến mạnh mẽ, rất nhiều công trình lí luận và phê bình văn học dùng
cách tiếp cận triết học, mĩ học để nhìn nhận, đánh giá, lí giải các biểu hiện của cái bi
trong đời sống văn học hiện nay. Nhưng rõ ràng là rất thiếu vắng các công trình, tiếng

nói của bản thân các nhà mĩ học dùng tư duy triết học nghệ thuật của mình để nhận
diện và định hướng về mặt thế giới quan, phương pháp luận cho sự phát triển mạnh mẽ
của văn học nghệ thuật hiện nay.
Cái bi trong hệ thống phạm trù mĩ học, biểu hiện và giá trị thẩm mĩ của nó là một
lĩnh vực cũng thu hút được khá nhiều sự quan tâm nghiên cứu trong và ngoài nước ở
nhiều khía cạnh, góc độ và từ nhiều lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên so với các phạm trù
cơ bản khác của mĩ học thì cái bi vẫn chưa có một vị trí xứng đáng và còn nhiều cách
hiểu cũng như tranh luận xung quanh phạm trù này. Vì vậy, tác giả mong muốn có
được một công trình mang tính hệ thống, tiếp thu những thành tựu đã có và đứng trên
quan điểm của mĩ học Mác - Lênin để làm rõ về phạm trù cái bi với tư cách một phạm
trù cơ bản trong hệ thống phạm trù mĩ học cũng như biểu hiện của nó trong cuộc sống,
văn học nghệ thuật Việt Nam và giá trị của nó.
Chương 2
CÁI BI TRONG HỆ THỐNG PHẠM TRÙ MĨ HỌC
2.1. Bản chất và nội dung của cái bi
2.1.1. Quan niệm về cái bi trong các hệ thống mĩ học phương Tây và
phương Đông
Quan niệm về cái bi trong hệ thống mĩ học phương Tây là tồn tại một cách chặt
chẽ trong mạch nguồn tư tưởng từ thời cổ đại đến hiện đại. Lí luận về cái bi thời Hi Lạp
cổ đại gắn với tên tuổi của một số triết gia trong đó tiêu biểu là Aritxtot và Platon với
những quan điểm khác biệt. Aritxtot (384 - 322 TCN) là người có công đầu trong việc
đánh giá đúng mức vị trí và đặt nền móng lí luận sâu sắc về cái bi thẩm mĩ và nghệ thuật


10

bi kịch. Trong tác phẩm Nghệ thuật thi ca, Aritxtot đã đưa ra định nghĩa nổi tiếng về bi
kịch: “Bi kịch là sự bắt chước các hành động nghiêm túc và cao thượng, hành động này
có một quy mô nhất định, (sự bắt chước) đó nhờ ngôn ngữ, các phần riêng của bi kịch
được phân biệt với nhau bằng bài trí. Nhờ hành động chứ không phải do câu chuyện, bi

kịch làm trong sạch hóa những cảm xúc tương tự qua cách khêu gợi sự xót thương và
khủng khiếp”.
Thời Cận đại, Heghen (1770 - 1831) là người đặt những dấu ấn lớn trong những
tư tưởng sâu sắc về cái bi đặc biệt là trong nghệ thuật bi kịch bởi ông xuất phát từ quan
điểm đề cao tuyệt đối thế giới nghệ thuật trong lĩnh vực thẩm mĩ. Có thể tóm tắt bi kịch
theo quan điểm của Heghen: đó là hành động tự do của con người làm rối loạn tiến
trình bình thường của tự nhiên. Ông bàn tới nội dung xã hội của bi kịch và đặt ra một
cách sâu sắc vấn đề điều kiện để nảy sinh xung đột bi kịch và xuất hiện cái bi. Vấn đề
bi kịch dựa vào vấn đề tính bất tử của con người về mặt xã hội, tính tất yếu trong xung
đột bi kịch và hành động bi kịch. Trái ngược với Heghen, Trecnusepxki (1828 - 1889)
cho rằng chỉ cần định nghĩa cái bi như sau: “Cái bi hoặc là bi kịch chỉ là nỗi đau khổ và
chết chóc của người ta, bi kịch là cái khủng khiếp trong đời người”. Ông cho rằng, cái
bi là tồn tại khách quan, cái bi chỉ là nỗi đau khổ và chết chóc, là cái khủng khiếp trong
đời người, định nghĩa này theo ông có thể coi là định nghĩa hoàn toàn đầy đủ về bi kịch
trong cuộc sống và trong nghệ thuật.
Nói trong mĩ học phương Đông không có chỗ cho cái bi là nhận định mang tính chủ
quan và có phần áp đặt. Bởi lẽ, ở đâu có con người, có cuộc đấu tranh thực hiện khát vọng
vươn lên Chân - Thiện - Mĩ thì ở đó có bóng dáng của cái bi thẩm mĩ dưới một hình thức
nào đó. Quan niệm về cái bi trong mĩ học phương Đông không tồn tại dưới một hệ thống lí
luận chặt chẽ như ở phương Tây nhưng lại thể hiện chiều sâu của sự cảm nghiệm nội tâm
và sự phong phú của đời sống tình cảm, tâm linh của con người. Nếu như quan niệm về
cái bi trong mĩ học phương Tây nhấn mạnh ở những xung đột trực diện giữa cái đẹp và cái
xấu như những thực thể tách rời nhau tương đối thì ở phương Đông lại nhấn mạnh ở xung
đột nội tâm, đan xen tốt xấu, thiện ác trong bản thân một thực thể. Mỗi một nền mĩ học
đều có những thế mạnh riêng tạo nên sự hấp dẫn và những giá trị đặc sắc trong bức tranh
tư tưởng thẩm mĩ. Quan niệm về cái bi trong mĩ học Phật giáo, Trung Hoa, Nhật Bản,...
chứa đựng những nét riêng mà càng tìm hiểu chúng ta càng thấy những giá trị độc đáo và
sâu sắc chứa đựng trong đó. Phạm trù cái bi trong mĩ học dân tộc Việt Nam có những
nét đặc thù khác biệt so với quan niệm về cái bi trong mĩ cảm phương Tây hay các dân
tộc phương Đông khác. Mọi thế hệ người Việt Nam yêu nghệ thuật truyền thống của

tiền nhân, tổ tiên mình, đều hiểu và có những cung bậc tình cảm rung động theo cái
“bi” mà cha ông ta gửi vào các loại hình nghệ thuật truyền thống. Những dạng thức của
cái bi hùng, bi hài, bi hậu vẫn tồn tại một cách độc đáo trong nghệ thuật dân tộc. Cần
phải thưởng thức nghệ thuật truyền thống bằng cả trái tim để có thể thấu hiểu và đồng
cảm với những giấc mơ giản dị mà hàm chứa những bài học sâu sắc của ông cha, được
viết lên từ những khổ đau, cay đắng của cuộc đời.
2.1.2. Bản chất thẩm mĩ của cái bi
Theo nhận định của Mác và Ăngghen, cái bi biểu hiện sự mâu thuẫn giữa “yêu
cầu tất yếu về mặt lịch sử và tình trạng không thể thực hiện được nó trong thực tiễn”.
Mặc dù Mác và Ăngghen mới bàn về bi kịch cách mạng và chưa đưa ra khái niệm cái


11

bi với tư cách một phạm trù mĩ học nhưng dựa trên những quan điểm cơ bản của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và các nhà mĩ học macxit sau này, chúng ta có rất nhiều định
nghĩa về cái bi. Những định nghĩa này có thể nói là khá chặt chẽ và hợp lí. Trong luận
án, tác giả sử dụng định nghĩa về cái bi của tác giả Nguyễn Văn Huyên, Đỗ Huy trong
Giáo trình Mĩ học đại cương: “Cái bi là cái đẹp, cái cao cả, cái anh hùng, cái mới
mang nội dung xã hội tích cực trong đấu tranh với cái xấu, cái tiêu cực, đã bị thất bại
tạm thời, bị tiêu vong, bị hi sinh, tạo nên sự đồng khổ sâu rộng có ý nghĩa bất tử trong
các chủ thể xã hội tiên tiến”.
Tuy nhiên, ở đây tác giả muốn nhấn mạnh và bổ sung thêm một số điểm trong
cách quan niệm về bản chất của cái bi:
Thứ nhất, cái bi khác gì so với nỗi buồn, nỗi đau hay cái khủng khiếp đơn thuần
trong cuộc sống. Trong cái bi, dù có nói về cái xấu, cái ác, cái tiêu cực nhưng bao giờ
cũng xuất phát từ điểm nhìn, chỗ đứng của cái đẹp, bảo vệ cái đẹp, nâng đỡ cho những
khát vọng nhân văn, chân chính, nói tiếng nói của cái tốt đẹp, lương thiện. Để hình
thành cái bi với tư cách một phạm trù thẩm mĩ thì yếu tố không thể thiếu được đó là khát
vọng nhân văn của con người, khát vọng ấy vừa ở chính mặt khách quan của đối tượng

vừa từ phía chủ thể sáng tạo và tiếp nhận trước những mâu thuẫn, xung đột với các lực
lượng đối lập (hoàn cảnh hoặc lực lượng phản nhân văn) dẫn đến tổn thất của những giá trị
người chân chính.
Thứ hai, nếu hiểu cái bi chỉ phản ánh những cái mới, cái đẹp, cái cao cả cái anh
hùng trong quá trình tích cực đấu tranh phải chịu tổn thất thì e rằng chúng ta đã tự giới
hạn lại và làm hẹp đi rất nhiều quan niệm về cái bi. Với biên độ hẹp như vậy thì nó
cũng khó lòng để thực hiện được vai trò bao quát hiện thực thẩm mĩ của cuộc sống
nhân sinh rộng lớn. Bởi lẽ, có rất nhiều những nỗi đau của con người đè lên đôi vai của
những con người bình thường, nhỏ bé thậm chí cướp đi sinh mạng của họ một cách phi
lí trong tình huống họ không chủ động tích cực đấu tranh, chưa kịp nỗ lực đấu tranh
hoặc không đủ khả năng để đấu tranh. Những nỗi đau đó cũng vô cùng phổ biến trong
cuộc sống nhân sinh. Họ chỉ là những con người bình thường, nhỏ bé nhưng quyền
sống của họ là chân chính và cao quý như quyền sống của bất kì người anh hùng nào.
Vẫn biết rằng con người được đánh giá cao bởi ý thức chủ động tích cực nỗ lực đấu
tranh cải tạo hoàn cảnh nhưng không vì thế mà quên đi những nỗi đau khác nơi muôn
nẻo nhân sinh, nơi cái tất yếu và ngẫu nhiên không tách rời nhau mà quy định lẫn nhau.
Thứ ba là cũng cần hiểu một cách linh hoạt, biện chứng về những mâu thuẫn, xung
đột. Bên cạnh những xung đột trực diện giữa thiện – ác, tốt – xấu, chính – tà như những
thực thể tách rời nhau, những mặt đối lập hoàn toàn tách biệt còn bao hàm cả những xung
đột, mâu thuẫn nội tại trong bản thân một thực thể, một cá nhân, những giằng xé nội tâm
tinh thần đầy đau đớn trong bản thể người. Điều này có thể đánh giá một cách công bằng
cho những đóng góp của những trường phái mĩ học phương Đông và mĩ học phương Tây
hiện đại, hậu hiện đại.
Bản chất của phạm trù cái bi được hình thành dựa trên mối quan hệ giữa chủ thể và
khách thể, giữa tính tất nhiên và ngẫu nhiên, giữa cái chung và cái riêng.
2.1.3. Nội dung phạm trù cái bi
Thứ nhất là mâu thuẫn, xung đột trong cái bi. Cái đẹp gắn với sự hài hòa thì cái bi
gắn với sự mâu thuẫn. Đó là mâu thuẫn dẫn đến kết quả là lí tưởng nhân văn, nhân đạo bị



12

thất bại, bị chà đạp đau thương, con người mang lí tưởng tiến bộ phải “trả giá” bằng sự
đau khổ hoặc hi sinh. Cơ sở khách quan của bi kịch là những mâu thuẫn mang tính
khách quan giữa con người với tự nhiên, giữa những lực lượng đối kháng trong xã hội
và ngay trong bản thân con người khi đứng trước những lựa chọn mà cuộc sống đặt
ra. Vì lẽ đó, bi kịch nảy sinh và tồn tại trong tất cả các xã hội, kể cả xã hội không có
chế độ người bóc lột người. Về căn bản, bi kịch chỉ đổi từ hình thức này sang hình
thức khác do tính chất phổ biến của quy luật mâu thuẫn.
Thứ hai là tình huống trong cái bi. Cái bi được tạo nên bởi sự thâm nhập và sự
tác động lẫn nhau giữa tính cách bi kịch và tình huống bi kịch. Tình huống bi kịch có
vai trò rất quan trọng đến sự xuất hiện của xung đột bi kịch và tính cách bi kịch. Tình
huống này là hoàn cảnh cụ thể được hình thành xung quanh tính cách, do ảnh hưởng
tích cực giữa tính cách và môi trường trực tiếp quanh mình, hoặc là hoàn cảnh chung,
tồn tại do một tình huống lịch sử cụ thể chung, kết quả của hoạt động của nhân loại,
điều mà Heghen từng gọi là tình huống thế giới. Chỉ ở đâu có khả năng để kéo dài cuộc
sống của cá tính qua xã hội thì ở đó mới có tính bi kịch. Chỉ ở đâu có khả năng đảm
bảo cho cá nhân một hình thái tồn tại khác trong xã hội sau cái chết của mình về thể
chất thì ở đó mới có điều kiện cho bi kịch nảy sinh. Vấn đề bi kịch dựa vào tính bất tử
của con người về mặt xã hội.
Thứ ba là nhân vật trong cái bi. Vấn đề nhân vật trong cái bi cũng là một trong
những vấn đề được quan tâm hàng đầu trong lí luận về cái bi. Xung đột được biểu hiện
một cách căng thẳng và mạnh mẽ đến đâu nhưng nếu tách rời khỏi tính cách của nhân
vật bi kịch thì sẽ chỉ là những căng thẳng bề ngoài còn nội dung thì trống rỗng. Tính
điển hình của xung đột bắt nguồn từ chiều sâu của những tính cách. Xung đột sẽ trở nên
rõ nét khi được thể hiện trên cơ sở những tính cách độc đáo. Có thể nhận diện một số
kiểu nhân vật của cái bi phổ biến ở một số khía cạnh như sau: Kiểu nhân vật điển hình
nhất cho sự cao cả dám đương đầu với thử thách, khó khăn; Kiểu nhân vật đam mê mù
quáng; Kiểu nhân vật không được là chính mình; Kiểu nhân vật là chính cái cũ nhưng
vẫn còn đặc điểm tiến bộ; Kiểu nhân vật bình dân, nhỏ bé. Như vậy, để nhận ra tính cách

trong cái bi không thể chỉ dùng những công thức cứng nhắc mà cần có cái nhìn linh
hoạt, biện chứng để thấy được và trân trọng những giá trị chân chính trong những khát
vọng làm người cao quí cả nơi những anh hùng và những con người bình thường, bé
nhỏ, không hoàn hảo thậm chí là khốn khổ.
Thứ tư là kết cục trong cái bi. Đau khổ, mất mát, cái chết là điều không thiếu
được trong cái bi nhưng nó chỉ là một yếu tố trong nội dung của cái bi và bản thân yếu
tố này cũng cần được hiểu một cách linh hoạt biện chứng. Thêm vào đó, sự thể hiện
của yếu tố này cũng rất đa dạng, mang những sắc thái ý nghĩa khác nhau nơi muôn nẻo
cuộc sống nhân sinh. Những kết cục mà con người phải gánh chịu trong bi kịch cũng
muôn hình vạn trạng. Đó là những tổn thất về thể chất và tinh thần, những mất mát, oan
ức, chà đạp, những đổ vỡ các giá trị, những day dứt, ám ảnh, dằn vặt,… và đặc biệt là
cái chết. Sự thất bại tạm thời của cái đẹp, cái tiến bộ được thể hiện ở nhiều trạng huống
khác nhau, thậm chí có thể là trong tiếng cười. Như vậy, kết cục trong cái bi cũng
không có một công thức cứng nhắc nào định sẵn. Nó cũng phong phú, phức tạp như
chính những mất mát, đau khổ, hi sinh trong cuộc sống này. Chỉ có điều trong mỗi sự
kết thúc bi kịch, con người luôn trăn trở về những giá trị đích thực của cuộc sống để có


13

thể bắt đầu và tiếp tục sống một cách ý nghĩa hơn, để trân quý và bảo vệ những giá trị
nhân văn đích thực.
2.2. Mối quan hệ giữa cái bi với những phạm trù mĩ học khác trong hệ thống
Xuất phát từ quan điểm hệ thống, chúng ta có thể nhận thấy đời sống thẩm mĩ của
con người là một thế giới thống nhất. Vì thế các phạm trù thẩm mĩ cũng không tồn tại tách
rời mà có những mối liên hệ chặt chẽ với nhau phản ánh chân thực thế giới thẩm mĩ đa
dạng, tinh tế của con người. Để có thể nhận diện chính xác hơn về phạm trù cái bi, cần đặt
nó trong mối liên hệ (bao gồm cả sự giao thoa, thống nhất và khác biệt) với những phạm
trù thẩm mĩ khác trong hệ thống như cái đẹp, cái cao cả, cái hài.
2.2.1. Quan hệ giữa cái bi và cái đẹp, cái cao cả

Trước hết, nhân vật trung tâm điển hình nhất trong cái bi chính là cái đẹp, cái cao
cả, cái bi chính là cái đẹp, cái cao cả bị tổn thất. Trong cái bi thẩm mĩ không thể vắng
bóng cái đẹp hay cái cao cả. Bởi lẽ, cái bi là sự mất mát nhưng là sự mất mát của lí
tưởng, của cái cao cả, cái đẹp, cái chân chính. Nhân vật trong cái bi phải là biểu hiện
của cái đẹp và những giá trị người ở một vị trí, khía cạnh hay mức độ nào đó.
Quan hệ giữa các phạm trù cái đẹp, cái cao cả với cái bi là không hoàn toàn trùng
khít hay bao hàm nhau nhưng cũng không hoàn toàn tách biệt nhau. Đó là quan hệ vừa
có sự thống nhất vừa có những điểm khác biệt. Nhân vật trong cái bi là cái đẹp, cái cao
cả nhưng không phải cái cao cả hay cái đẹp nào cũng là cái bi. Không phải cái cao cả nào
cũng là cái bi, ngược lại không phải cái bi nào cũng là cái cao cả. Không phải cái anh
hùng, cái cao thượng, cao cả nào cũng phải trải qua những đau khổ, mất mát hay cái
chết. Cũng như vậy, không phải sự tổn thất khủng khiếp nào cũng đều chứng tỏ nó cao
cả. Trong việc xem xét mối quan hệ này cần tránh cả hai thái cực đồng nhất hoặc tách
biệt, đối lập những phạm trù này.
Thứ hai, cái bi hùng là phạm trù thể hiện sự thống nhất giữa cái bi và cái cao cả.
Mối quan hệ giữa cái bi và cái cao cả trong cuộc sống được thể hiện ở cái bi hùng dưới
nhiều phương diện khác nhau. Cái bi hùng là phạm trù thẩm mĩ ở trong đó cái cao cả, cái
anh hùng đã gặp thất bại, mất mát, hi sinh nhưng sự hi sinh đó tạo nên sự đồng cảm
mãnh liệt tôn vinh phẩm giá và sự cao quí của con người trong hành trình đấu tranh với
tự nhiên và xã hội. Theo đó, cái bi hùng đã tôn vinh cái cao cả, tạo cho cái cao cả trở
thành bất tử trong lòng nhân dân, là một hiện tượng thẩm mĩ nổi bật của cái cao cả trong
cuộc sống. Cái bi hùng đem đến cảm xúc thẩm mĩ đặc biệt là sự hòa quyện giữa hai
luồng cảm xúc đồng cảm, xót thương và khâm phục, tự hào về phẩm giá con người để
nâng mỗi cảm xúc riêng biệt lên lên một mức độ cao hơn, mãnh liệt hơn.
2.2.2. Quan hệ giữa cái bi và cái hài
Thứ nhất là sự khác biệt giữa cái bi và cái hài. Sự khác biệt giữa cái bi và cái hài
được thể hiện ở một số khía cạnh sau: khác biệt về xung đột trong cái bi và cái hài,
khác biệt về nhân vật trong cái bi và cái hài, khác biệt về hình thức phê phán cái xấu và
vươn lên cái đẹp trong cái bi và cái hài.
Thứ hai là sự thống nhất giữa cái bi và cái hài. Sự thống nhất này thể hiện ở hai

khía cạnh cơ bản: Một là khả năng chuyển hóa giữa cái bi và cái hài trong thực tiễn lịch
sử; Hai là sự tồn tại của phạm trù cái bi hài. Có thể nói, cái bi hài là phạm trù thẩm mĩ
thể hiện sự giao thoa giữa hai phạm trù cái bi và cái hài và nhiều khi sự đan xen, thâm
nhập này khiến chúng ta khó lòng phân biệt được trong cái bi hài thì đâu là bi và đâu là


14

hài. Sự đan cài giữa phạm trù này với phạm trù khác sẽ làm biến đổi lẫn nhau và tạo
nên những sắc thái thẩm mĩ riêng so với việc không có sự đan cài đó. Trong cái bi có
mầm mống của cái hài, trong cái hài có dấu hiệu của cái bi, nhiều khi cái hài là bề nổi,
ở tầng sâu lại là cái bi. Cái bi và cái hài là hai phương diện thẩm mĩ góp phần thể hiện
sâu sắc cái nhìn và thái độ của con người đối với hiện thực cuộc sống đa chiều. Yếu tố
hài khiến cái bi được cảm nhận thấm thía hơn, yếu tố bi khiến cái hài được nhận thức
một cách sâu sắc hơn. Cái bi làm tăng thêm chiều sâu cho cái hài, cái hài làm cái bi
hiện lên với nhiều mảng màu được tiếp nhận một cách nhẹ nhàng mà thấm thía. Cái bi
hài là một hiện tượng thẩm mĩ phổ biến và là một điểm mạnh trong thẩm mĩ truyền
thống của người Việt và được thể hiện độc đáo trong thực tiễn nghệ thuật truyền thống
dân tộc.
Chương 3
BIỂU HIỆN CỦA CÁI BI TRONG ĐỜI SỐNG
VÀ TRONG VĂN HỌC NGHỆ THUẬT
3.1. Phương thức biểu hiện của cái bi trong đời sống và trong nghệ thuật
Cái bi trong bản thân cuộc sống hiện thực biểu hiện với muôn hình muôn vẻ thể
hiện những khía cạnh khác nhau trong cuộc đấu tranh cải tạo tự nhiên và xã hội của con
người. Cái bi trong cuộc sống hiện thực xuất phát từ những mâu thuẫn và xung đột có
thực của đời sống con người và xã hội loài người. Dù là bi kịch cá nhân hay bi kịch xã
hội thì những cũng đều thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa những cá nhân, những
cộng đồng và xã hội, phản ánh sự nỗ lực của con người và con đường còn muôn khó
khăn để thực hiện những nỗ lực ấy của con người và xã hội vươn tới những giá trị cốt

lõi Chân - Thiện - Mĩ. Nguyên nhân dẫn đến cái bi trong cuộc sống con người biểu hiện
thành những xung đột dẫn đến bi kịch là vô cùng phong phú, đa dạng trong mỗi chặng
đường lớn lên và trưởng thành của xã hội loài người. Mỗi thời đại, những mâu thuẫn,
xung đột chính nổi lên lại có những đặc điểm riêng gắn liền với đặc điểm nhận thức
cũng như thực tiễn lịch sử của xã hội con người.
Cái bi trong nghệ thuật là sự phản ánh cái bi trong cuộc sống nhưng hiện ra với
mức độ tập trung cao độ. Nghệ thuật là hình thức biểu hiện của ý thức thẩm mĩ, là một
hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội một cách độc đáo và sáng tạo. Vì thế,
trong những bối cảnh lịch sử khác nhau, cái bi trong nghệ thuật lại phản ánh sâu sắc
bước chuyển biến của thời đại cũng như tính chất phức tạp và căng thẳng trong những
mâu thuẫn của thời đại. Nhờ nghệ thuật mà chúng ta học được cách nhận thức sâu sắc
hơn về bi kịch trong bản thân cuộc sống. Nó dạy ta hiểu hơn những người khác và hiểu
hơn chính mình. Nghệ thuật nâng ta vượt lên những cái nhỏ nhặt, tầm thường và đưa ta
vào thế giới của những tư tưởng và tình cảm cao cả. Trước hết nó giúp ta hiểu rõ và nắm
bắt ý nghĩa cuộc sống hiện tại và bản thân mình.
Cái bi trong cuộc sống được phản ánh trong đa dạng các loại hình nghệ thuật như
văn học, âm nhạc, hội họa, nhiếp ảnh, điêu khắc, sân khấu, điện ảnh,… Bằng chất liệu
hình tượng riêng, cái bi được biểu hiện trong mỗi loại hình nghệ thuật lại có những ưu thế
khác nhau. Cái bi trong đời sống và nghệ thuật biểu hiện một cách đa dạng và muôn màu
vẻ như chính cuộc sống của con người trên hành trình sống, nhận thức và đấu tranh.


15

3.2. Biểu hiện của cái bi trong đời sống xã hội Việt Nam (sau năm 1975)
3.2.1. Biểu hiện của cái bi trong mối quan hệ giữa con người và tự nhiên
Cơ sở khách quan của cái bi trong mối quan hệ giữa con người và tự nhiên thể
hiện ở hai khía cạnh: Thứ nhất là những mất mát, hi sinh của con người trên hành trình
nỗ lực cải tạo và chinh phục tự nhiên trong điều kiện nhất định về trình độ nhận thức và
thực tiễn; Thứ hai là cái bi do những mâu thuẫn, xung đột giữa mục tiêu phát triển kinh

tế, thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con người và việc giữ cân bằng sinh thái nhân
văn. Đang có một sự lệch pha rất lớn giữa năng lực cải tạo thế giới ngày càng hùng mạnh
của con người với trình độ yếu kém về văn hóa và nhân văn để có thể sử dụng những
năng lực ấy cho lợi ích chân chính của con người một cách bền vững.
Nỗ lực chinh phục, cải tạo tự nhiên để xây dựng và phát triển đất nước là điều vô
cùng đáng quý. Với một đất nước còn nghèo và khó khăn chồng chất như Việt Nam sau
chiến tranh thì cần biết bao những sự quyết tâm để tạo dựng cuộc sống mới. Trên hành
trình ấy, biết bao con người và thế hệ không tiếc công sức và cả máu xương để xây nên
những cung đường Hạnh phúc, những công trình thế kỉ bạt núi, ngăn sông,… Chúng ta
không khỏi khâm phục và biết ơn những con người đã hi sinh thầm lặng cả tuổi thanh
xuân, sức trẻ và cả tính mạng để đặt những nền móng cho đất nước có được những bước
tiến dần vượt qua nghèo nàn, lạc hậu như ngày hôm nay.
Trong điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay làm nảy sinh
những mâu thuẫn gay gắt trong lĩnh vực quan hệ qua lại giữa con người - xã hội - tự
nhiên. Đó là mâu thuẫn giữa nhu cầu cần phải khai thác nhanh nhất, nhiều nhất các
nguồn lực trong nước trong đó có các nguồn tài nguyên thiên nhiên để phát triển kinh tế
hàng hóa với bảo vệ môi trường sống, là mâu thuẫn giữa nhu cầu phải đẩy nhanh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm tạo ra tiền đề cơ sở vật chất kĩ thuật cho sự phát triển của
đời sống và sản xuất với nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng khan hiếm và cạn kiệt;
mâu thuẫn giữa mong muốn xây dựng một nền công nghiệp sạch mang tính nhân văn với
thực lực khoa học và công nghệ ở trình độ thấp và trình độ dân trí còn nhiều hạn chế, là
mâu thuẫn giữa lợi ích kinh tế trước mắt với những giá trị sinh thái và nhân văn lâu dài.
3.2.2. Biểu hiện của cái bi trong mối quan hệ con người và con người, con người
và xã hội
Bên cạnh mối quan hệ giữa con người và tự nhiên thì mối quan hệ giữa con
người với con người và xã hội cũng ẩn chứa nhiều biểu hiện của cái bi. Đáng trân trọng
và cần kể đến trước hết có lẽ là cái bi hùng thể hiện trong những hi sinh, mất mát của
những con người đã và đang cả âm thầm, cả công khai dũng cảm đấu tranh chống lại
cái phản động, xấu xa, tham ác, cái cũ kĩ, lạc hậu, cái tiêu cực bè phái trong các mối
quan hệ xã hội. Đất nước không còn chiến tranh nhưng nhiều anh hùng, liệt sĩ vẫn

không tiếc máu xương hi sinh để bảo vệ cuộc sống bình yên cho Tổ quốc và nhân dân.
Máu của các chiến sĩ ngấm vào đất trời, tan vào biển để ngày ngày góp phần bảo vệ chủ
quyền biển đảo thiêng liêng và toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc. Tên tuổi của họ được tạc ghi
trong trái tim của nhân dân. Cuộc chiến chống lại những kẻ thù giấu mặt và những cái
tiêu cực vẫn luôn luôn vô cùng nghiệt ngã và căng thẳng. Chống tiêu cực là một việc
không phải ai cũng đủ dũng cảm để chấp nhận “mang vạ vào thân”. Những người anh
hùng thầm lặng đã phải trả giá rất lớn, không chỉ chấp nhận sự thiệt thòi, mà tính mạng
nhiều khi còn bị đe dọa. Đó không chỉ là mất thời gian, trí lực, tiền bạc mà cả xương


16

máu, sự an toàn cho bản thân, gia đình lẫn danh dự.
Trong cuộc chiến chống lại đói nghèo, bệnh tật, bất công, con người vẫn còn phải
đối mặt với bao bi kịch. Mâu thuẫn giữa lí tưởng xã hội giàu mạnh, công bằng, dân
chủ, văn minh với thực tế hiện tượng phân hóa giàu nghèo mạnh mẽ đang gây ra nhiều
hậu quả đáng buồn cho xã hội. Mâu thuẫn giữa mong muốn xây dựng một cuộc sống
ấm no, hạnh phúc với thực tế thực trạng nền kinh tế khó khăn, kém hiệu quả và chưa
thực sự ổn định đã dẫn đến tình trạng một bộ phận không nhỏ dân cư ở tình trạng nghèo
khổ. Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh là mục tiêu chúng ta hướng
đến. Nhưng trong thực tế, không phải lúc nào và ở đâu, những nội dung trong chân lí ấy
cũng song song tồn tại và phát triển mà hàm chứa đầy mâu thuẫn, xung đột. Có nơi, có
lúc, dân giàu mà nước không mạnh, hoặc ngược lại. Trong quá trình khẳng định cái tốt
đẹp, tiến bộ, trong xã hội vẫn còn bao nhiêu cái xấu đang tồn tại, còn bộ phận những
cán bộ đảng viên thoái hóa biến chất trở thành sâu mọt đục khoét xã hội, thậm chí là ở
những chức vụ cao. Những hiện tượng tiêu cực, đặc biệt là ở người có chức có quyền,
có thể lợi dụng những khiếm khuyết, bất cập của cơ chế để mưu lợi cá nhân đang làm
rối loạn đời sống kinh tế, chính trị, xã hội, làm xói mòn lòng tin của nhân dân. Nền
kinh tế thị trường chứa đựng mâu thuẫn không tránh khỏi giữa việc thực hiện chính
sách kinh tế và chính sách xã hội. Nếu tăng trưởng kinh tế không tính đến những cái giá

của sự phát triển lệch thì sẽ dẫn đến nguy cơ của nhiều bi kịch: môi trường sống bị hủy
hoại, vỡ nợ công, đạo đức xã hội xuống cấp, bản sắc dân tộc mai một,... Đó không chỉ
là nguy cơ mà ở nhiều góc cạnh và trong những chi tiết cuộc sống, nó đã là hiện thực.
Trong cơ chế thị trường, con người bị nhào nặn một cách đáng sợ, nhào nặn bởi
các mối tương quan xã hội, nhào nặn cả trong tâm thức của họ. Rút cục, họ biến dạng
đến mức đoạn tuyệt với quá khứ hào hùng vừa mới khép lại hôm qua, với hiện tại xô bồ,
khắc nghiệt hôm nay. Thiện - ác giao thoa, các giá trị đạo đức truyền thống quay đảo gần
như bị mất kiểm soát. Mâu thuẫn giữa văn minh vật chất và văn hóa tinh thần cũng dẫn
đến nhiều bi kịch trong lựa chọn và định hướng giá trị. Con người đang nhìn nhận lại
cái gọi là văn minh vật chất của đời sống hiện đại, nhận ra rằng đời sống vật chất trần
trụi đã bóp méo những giá trị đời sống tinh thần thuần khiết. Bước ra khỏi chiến tranh,
nền kinh tế thị trường làm tình người bị tổn thương. Nhiều mối quan hệ tốt đẹp giữa
người với người, nhiều giá trị tinh thần truyền thống có nguy cơ bị băng hoại trong sự
tính toán vị kỉ của chủ nghĩa cá nhân thực dụng và sự tôn sùng tuyệt đối giá trị của
đồng tiền. Ứng xử với môi trường xã hội hôm nay cũng đang ở tình trạng báo động bởi
sự rơi rụng đạo đức, làm nảy sinh trong thực tế xã hội nhiều chuyện không tử tế đến
nhói lòng. Cái bi trong cuộc sống ngổn ngang bề bộn dường như đang thưa hơn cái bi
hùng mà thay vào đó là những day dứt, trăn trở đầy lo âu về bi kịch do chính con người
tạo nên trên hành trình tìm đường để đến với hạnh phúc thực sự.
3.3. Biểu hiện của cái bi trong văn học Việt Nam (sau năm 1975)
3.3.1. Sự vận động của cái bi trong văn học Việt Nam sau năm 1975
Ba mươi năm chiến tranh là không thời gian đặc biệt khiến cái bi thuần túy gần như
vắng bóng, nếu có thì đó là sắc diện của cái bi hùng, bi tráng (nhưng trong đó cái cao cả,
cái hùng gần như lấn át cái bi). Cái bi chỉ được thể hiện ở một sự phản chiếu dưới âm
hưởng tráng ca, hào hùng. Cái bi từ trong đời sống thực của xã hội Việt Nam trong hai
cuộc kháng chiến chống quân xâm lược khi đưa vào nghệ thuật, lúc là ẩn, lúc là hiện,


17


có khi cả hiện lẫn ẩn trong âm hưởng của cái bi hùng. Đó là cách lựa chọn khôn ngoan,
là cách ứng xử hài hòa của nghệ sĩ với lịch sử, đất nước, con người. Chính vì thế mà tác
phẩm của họ đã vượt thời gian, không gian, chiếm lĩnh vị trí xứng đáng trong tâm trí
của công chúng xưa và nay.
Văn học sau 1975 với một khoảng cách nhất định về thời gian và độ lắng nhất
định, đã vắng hơn âm hưởng hùng ca, nói nhiều hơn đến nỗi đau hậu chiến bằng sự
cảm thông chân thành. Cái bi và cảm hứng bi kịch trở thành phạm trù chủ đạo. Đề tài
về chiến tranh và người lính vẫn là đề tài cơ bản của nhiều sáng tác văn học. Nhưng
hình như giới sáng tác đã cảm thấy không thể tiếp tục viết văn như trước. Viết về nỗi
đau, về bi kịch cá nhân để tố cáo chiến tranh, nhận chân giá trị chiến thắng, để tri ân
đồng bào, đồng chí, để trân trọng sự sống, trân trọng hòa bình là tâm niệm của không ít
nhà văn. Văn học từ điểm nhìn dân tộc với các vấn đề chính trị xã hội lớn lao là chủ
yếu chuyển sang điểm nhìn thế sự, nỗi đau đời tư với bao bề bộn của cuộc sống nhân
sinh chiếm ưu thế. Quan niệm về con người có nhiều thay đổi, con người được nhận
thức với tất cả sự phức tạp, đa chiều, vừa vĩ đại vừa đời thường, luôn đối mặt với cuộc
đấu tranh để hoàn thiện bản thân, luôn ở danh giới thiện - ác, tốt - xấu. Con người cá
nhân, con người số phận không chỉ bó hẹp trong góc nhìn giai cấp mà còn được nhìn
dưới góc độ tự nhiên, triết học, bản năng, tâm linh, vô thức. Văn học phản ánh bi kịch
cuộc sống một cách đa dạng và nhiều chiều với những mối quan hệ phức tạp, chằng
chịt, biến ảo, ngổn ngang bề bộn, đan xen ánh sáng và bóng tối.
3.3.2. Những sắc thái biểu hiện của cái bi trong văn học Việt Nam sau 1975
Thứ nhất, văn học sau chiến tranh phản ánh bi kịch chiến tranh dưới chiều kích
mới bằng cái nhìn thân phận, trực diện và chân thực.
Thứ hai, văn học phản ánh điều đáng sợ nhất của bi kịch chiến tranh là nỗi đau
dường như kéo dài vô tận trong những bi kịch thời hậu chiến.
Thứ ba, văn học phản ánh bi kịch do sự kém hiểu biết, ấu trĩ và lầm lạc, tha hóa.
Văn học cũng tìm cách nhận thức tối đa về bi kịch trong những xung đột giữa giá trị và
phản giá trị trong sự biến đổi phức tạp của đời sống.
Thứ tư, văn học phản ánh bi kịch cá nhân trong sự phân rã các mối quan hệ gia
đình, xã hội. Những bi kịch cá nhân trong các mối quan hệ gia đình và xã hội được

quan tâm phản ánh trong văn học sau năm 1975 với nhiều sắc diện khác nhau. Gia đình
là tế bào của xã hội, là điểm tựa yêu thương của mỗi cá nhân nhưng cũng là nơi vô
cùng nhạy cảm trước những mâu thuẫn, biến động của đời sống xã hội, những rạn nứt
của tình người.
Thứ năm, văn học phản ánh bi kịch của con người không dám và không được sống
thật với chính mình. Khát vọng được sống với đúng con người mình, với những xúc
cảm, nhu cầu được sống chân thật, tự trọng, lương thiện, yêu thương là khát vọng vô
cùng cao quý của con người. Nhưng trong rất nhiều hoàn cảnh, khát vọng tưởng như
đơn thuần ấy lại không được thực hiện, thậm chí bị vùi dập một cách phũ phàng tạo nên
nhiều tấn bi kịch được phản ánh vào văn học với chiều sâu ngòi bút của người nghệ sĩ.
Những bi kịch này do cả những mâu thuẫn bên ngoài, sự áp chế của cộng đồng với cá
nhân và cả những mâu thuẫn nội tại bên trong mỗi cá nhân con người.
Thứ sáu, văn học phản ánh bi kịch cô đơn của bản thể người. Xã hội hiện đại với
sự phát triển cao của ý thức cá nhân cũng đồng thời nảy sinh những mâu thuẫn, những


18

mặt trái, những sự lỏng lẻo của các mối quan hệ, sự cực đoan trong những đòi hỏi vị kỉ
của cá nhân, những áp lực của công việc, mưu sinh,... đã đẩy con người bị phân rã, rơi
vào bi kịch của sự tha hóa, bị lạc điệu, cô đơn, “tẩy trắng” và biến mất khỏi cộng đồng.
Họ có thể cảm thấy lạc lõng, bế tắc trước sự đổi thay của thời cuộc. Day dứt hơn cả,
trăn trở hơn cả là những bi kịch của sự cô đơn của cái tôi can đảm, mạnh mẽ, đứng cao
hơn mọi người, có bản lĩnh và ghét sự adua, khước từ sự áp đặt mang tính khuôn mẫu,
nhận ra sự thê thảm của chính con người khi họ trở thành nô lệ của niềm tin mù quáng.
Bi kịch cô đơn của người cầm bút cũng là chủ đề được chính các nhà văn quan tâm
phản ánh.
Thứ bảy, văn học thể hiện khả năng tương tác, chuyển hóa phong phú của cái bi
với các yếu tố thẩm mĩ khác. Cái bi bên cái hài và cái phi lí là một sự kết hợp thể hiện
cách thức nhận thức và phản ánh cuộc sống một cách đa chiều và mới mẻ của văn học

hiện đại sau chiến tranh. Sự xuất hiện của cái bi hài mang màu sắc “amua đen” là một
biểu hiện của sự vận động đa dạng hóa thẩm mĩ của văn học Việt Nam đương đại. Chủ
nghĩa hậu hiện đại cũng rất quan tâm đến cái bi hài và khả năng phản ánh sắc sảo, đa
chiều những góc cạnh cuộc sống của nó. Thấy được mối quan hệ chuyển hóa giữa cái
hài và cái bi là hệ quả của chiều sâu nhận thức trong cảm hứng trào lộng. Nó là tiếng
cười mang âm hưởng của cái bi. Nó không chỉ mang ý nghĩa mỉa mai, phê phán đối
tượng đang bị phủ nhận, mà đằng sau tiếng cười ấy còn là nỗi đau, là sự hoang mang,
tuyệt vọng vì nhận ra cái đáng buồn, cũng là cái khủng khiếp khó bề thay đổi, đang là
nguy cơ đe dọa cuộc sống con người và xã hội. Đó chính là bi kịch lớn của sự nhận
thức được nhưng lại đang bất lực, chưa vượt qua được. Tiếng nói thế sự làm nổi bật sự
vô lí, phi lí của cuộc đời. Cái bi, cái hài của cõi nhân sinh có nguồn cội ở đấy. Cho nên,
dù viết về cái méo mó nghịch dị, cái phi lí, hay cái đẹp, văn học thế sự mang âm hưởng
hậu hiện đại vẫn là tiếng nói thể hiện khát vọng đổi mới xã hội giữa những biến chuyển
phức tạp khó lường của cuộc sống.
Chương 4
GIÁ TRỊ THẨM MĨ CỦA CÁI BI
4.1. Giá trị thẩm mĩ của cái bi đối với sự phát triển của con người và xã hội
4.1.1. Giá trị của bản thân tính cách và hành động của nhân vật trong cái bi
đối với sự phát triển của xã hội
Đây là giá trị của những cái bi biểu hiện trong đời sống hiện thực. Sự tất thắng của
cái mới, của bản chất người chân chính và quá trình vươn lên của cuộc sống, đó là một
quy luật, quy luật này trên đường đi của nó phải kinh qua những đoạn quanh co khúc
khuỷu nào đó bao gồm cả những biến cố bi kịch nữa của quá trình phát triển. Mâu thuẫn là
những mắt khâu trong sự phát triển. Sự phát triển không diễn ra một cách dễ dàng, bằng
phẳng mà có vô vàn thử thách cần có những con người dũng cảm vượt qua. Con người và
xã hội loài người hãy cảnh giác với cái xấu, cái ác vẫn còn rất mạnh và đáng sợ cả ở bên
ngoài và bên trong chính mình. Giá trị của con người không ở chân lí người đó sở hữu
hoặc cho rằng mình sở hữu, mà ở nỗi gian khó chân thực người đó nhận lãnh trong khi tìm
chân lí. Bởi, chẳng phải sự sở hữu mà chính sự kiếm tìm chân lí mới gia tăng sức mạnh
nơi con người, chỉ ở đó mới tiềm ẩn bước tiến không ngừng của sự hoàn thiện.



19

Chân - Thiện - Mĩ vẫn luôn là hệ giá trị cốt lõi mà loài người tiến bộ hướng tới.
Bảo vệ cho những giá trị cao quý đó, bao nhiêu con người đã phải đánh đổi bằng những
cái giá rất đắt, thậm chí là mạng sống của chính mình. Trên hành trình thực hiện những
“tất yếu về mặt lịch sử”, tự bản thân tất cả những hành động kiên quyết đấu tranh ấy đã
góp phần quan trọng cho sự chứng minh hùng hồn của bánh quay tất yếu lịch sử về
phía hiểu biết, tiến bộ và nhân văn. Cái mới, chân lí, sự thật luôn phải chịu những thử
thách không hề dễ dàng. Mà đó là thành quả của của cả một quá trình nhận thức, một
chuỗi dài những nỗ lực vô tận đến hôm nay vẫn còn tiếp nối. Nỗ lực tiếp nối những nỗ
lực, đấu tranh nối tiếp đấu tranh. Tượng đài chiến thắng không chỉ được xây nên bởi
những thành công mà bằng cả những nước mắt, xương máu và thất bại, đau đớn. Những
nỗ lực dù thất bại vẫn không vô ích mà chính là những viên gạch âm thầm và mạnh mẽ
xây lên lâu đài chiến thắng. Đó là những nấc thang thay đổi nhận thức và hành động của
xã hội.
4.1.2. Giá trị của cái bi đối sự phát triển và hoàn thiện nhân cách của chủ thể
thẩm mĩ
Thứ nhất là giá trị nhận thức thẩm mĩ của cái bi.
Cái bi thức tỉnh lương tâm, bàn giao trách nhiệm và ngợi ca danh dự làm người.
Nó là sự lên án đanh thép cái xấu, ca ngợi nhiệt thành cái đẹp. Giá trị nhận thức không
chỉ bao hàm sự nhận biết mà còn là sự thức tỉnh con người và xã hội trước những cái bi
trong đời sống và trong nghệ thuật. Những đau khổ, mất mát mà con người phải trải
qua trên hành trình tiến về phía trước xét ở một khía cạnh nào đó khiến cho con người
trưởng thành hơn, đem đến cho con người những bài học đắt giá về tính phức tạp có
thật của đời sống xã hội và quan trọng hơn là nó cung cấp những bài học về sự cảnh
giác với cái ác, cái xấu. Nghệ thuật biểu hiện cái bi đề cao giá trị bất hủ của những
phẩm chất người chân chính, đó là bài ca về niềm vinh quang bất tử của con người,
thông qua cái chết để phát hiện ra ý nghĩa cuộc sống. Nhờ vậy, con người nhận thức

sâu sắc hơn về bi kịch trong cuộc sống, giúp tôi luyện để vững vàng hơn, bản lĩnh hơn
trước những thử thách của cuộc đời. Cái bi đem lại niềm tin vào tính chân thật của
nghệ thuật bởi nó đã nhận thức được quy luật nghiệt ngã của cuộc sống trong sự trải
nghiệm đến cùng của tự do - tất yếu. Và nếu không có ý thức về cái bi thì con người
sẽ trở nên yếu đuối và thảm bại, nghệ thuật sẽ mất đi khả năng thức tỉnh, khơi gợi cần
có trong cuộc đời.
Thứ hai là giá trị giáo dục của cái bi.
Giá trị giáo dục của cái bi thể hiện sự thống nhất không tách rời của hai yếu tố
khách quan và chủ quan, giữa giá trị của bản thân đối tượng và bản lĩnh văn hóa của chủ
thể tiếp nhận. Giá trị giáo dục của cái bi thể hiện hết sức đặc biệt, trước hết là thông qua
các cung bậc của tình cảm thẩm mĩ từ sâu lắng nhất đến mãnh liệt nhất.
Trước hết, cái bi giúp con người biết xót thương, đồng cảm cái đẹp. Cái bi dạy
con người biết căm phẫn, khinh miệt cái xấu. Cái bi dạy con người biết tự hào, cảm
phục, tin yêu những giá trị tốt đẹp nơi con người. Sự can đảm và dũng cảm của nhân
vật trong cái bi củng cố lòng tin của con người trong cuộc đấu tranh chống lại các thế
lực gây nên bi kịch, tôi luyện cho con người khả năng và bản lĩnh đương đầu với những
bất hạnh, khổ đau, thúc đẩy con người đấu tranh vì hạnh phúc. Cái bi giúp con người
hiểu để trân trọng và lựa chọn được những giá trị đích thực của cuộc sống và những gì


20

mà mình đang có, đó là các giá trị về tình yêu thương, sự hi sinh, tình bạn, tình yêu, tình
người. Từ đó giúp chúng ta sống nhân ái hơn, vị tha hơn, cao thượng hơn, tránh được
những cám dỗ về vật chất đơn thuần. Bi kịch biểu dương thấm thía nhất sức mạnh và sự
hùng tráng của tâm hồn con người, nhờ vậy mà bồi dưỡng ở con người đức tính gan dạ,
dũng cảm, chủ nghĩa anh hùng và những phẩm chất cao quí khác.
Những biểu hiện của cái bi trong hiện thực và nghệ thuật là vô cùng phong phú,
đa dạng như chính cuộc sống này. Mỗi biểu hiện của cái bi lại có những giá trị nhất
định xét từ một khía cạnh nào đó, khó có hiện tượng nào bao hàm tất cả những giá trị

như đã nêu. Mỗi sắc thái và biểu hiện của cái bi lại mang những nét giá trị khác nhau.
Nếu cố tình gượng ép tìm ra những cái bi hàm chứa tất cả những giá trị trên thì sẽ vô
tình phủ nhận giá trị của những biểu hiện phong phú của cái bi trong cuộc sống và nghệ
thuật.
4.1.3. Nâng cao nhận thức về giá trị thẩm mĩ của cái bi đối với sự phát triển
của con người và xã hội
Con người yêu cái đẹp và không muốn phải rơi nước mắt trước tổn thất của cái
đẹp. Nhưng nếu chỉ nói rằng cần tăng lên hay giảm đi, loại trừ biểu hiện của cái bi
trong đời sống xã hội thì đều là chưa chính xác, chiết trung và siêu hình. Bởi lẽ có yếu
tố trong cái bi chúng ta mong muốn nó bị suy giảm loại trừ, đó là những lực lượng đối
lập, những hoàn cảnh cản trở con người đến với hạnh phúc chân chính, với mục tiêu
công bằng, bình đẳng, dân chủ, văn minh. Chúng ta càng muốn giảm đi những thất bại,
đau đớn hay bất hạnh của cái đẹp. Nhưng nhìn từ phía khác, khi hiện thực còn đầy rẫy
những tiêu cực, bất công, tham ác, những lực lượng đối lập, thì chúng ta lại cần ngày
càng nhiều hơn nữa những nỗ lực của con người, những sự dũng cảm, can đảm đối mặt
và đấu tranh dù biết có thể phải trả giá đắt hay đón nhận những kết cục bi kịch. Ít nhất
chúng ta cũng mong đợi những phản ứng, những day dứt, những trăn trở mang tính bi
kịch chứ không phải sự vô tâm lạnh lẽo thiếu nhân tính. Điều đáng sợ nhất đối với xã
hội là khi con người quen với cái xấu, cái ác, chấp nhận và sợ cái xấu, cái ác. Khi đó sẽ
không còn cái bi chân chính nữa nhưng sẽ là sự thảm bại của các giá trị nhân văn.
Để nâng cao nhận thức về giá trị thẩm mĩ của cái bi trong hiện thực đời sống,
trước hết cần nhận diện những mâu thuẫn xã hội và đề ra cách thức giải quyết mâu
thuẫn một cách hiệu quả; Xây dựng môi trường xã hội theo hướng phát triển bền vững,
nhân văn. Điều đặc biệt quan trọng là sự tôn vinh, nhận chân giá trị những nỗ lực đấu
tranh của con người. Sự tôn vinh những tấm gương đấu tranh dũng cảm từ trong nhận
thức đến hành động thực tiễn sẽ là câu trả lời thích đáng nhất cho những quyết tâm của
xã hội để thay đổi theo hướng tốt đẹp hơn, là bài học quý báu nhất về giá trị và định
hướng giá trị, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ.
4.2. Giá trị của sự phản ánh cái bi đối với văn học nghệ thuật
4.2.1. Phát huy tinh thần dân chủ và môi trường khoan dung cởi mở trong đời

sống văn học
Dân chủ hóa trên mọi mặt của đời sống là một thành tựu lớn trong công cuộc đổi
mới với tinh thần cốt lõi “nhìn thẳng vào sự thật”. Phát huy dân chủ trong văn học nghệ
thuật là một trong những vấn đề mấu chốt để mở đường cho những tác phẩm văn học
phản ánh cái bi và ngược lại, những tác phẩm văn học phản ánh cái bi sẽ lại trở thành
động lực thúc đẩy tinh thần dân chủ trong văn học nghệ thuật. Bởi lẽ, không giống như


21

cái đẹp, cái cao cả dễ nhìn thấy để ai cũng yêu và dễ tiếp nhận, cái bi chứa đựng cái đẹp
nhưng là cái đẹp đang vận động, đang nhọc nhằn nỗ lực đấu tranh, thậm chí là cái đẹp
nhưng đang bị lầm tưởng hoặc “cố tình” bị coi là cái xấu. Vì thế phản ánh cái bi trong
văn học chỉ có thể có được trên một mảnh đất dân chủ thực sự của đời sống nghệ thuật.
Điều tối quan trọng là phải dân chủ thực sự trong tư duy, suy nghĩ, hành động, việc làm
và những cơ chế cụ thể. Bầu không khí dân chủ ấy đã mở đường cho nghệ sĩ trong quá
trình nhận thức và biểu đạt nhận thức trên tinh thần đối thoại và xây dựng. Với sự đa
dạng, cởi mở trong quan điểm, dân chủ trong cả cách nghĩ và cách viết đã mang đến cho
văn học nghệ thuật sự đa dạng của các hình tượng thẩm mĩ trong đó có cái bi. Để phát
huy dân chủ và có được bầu không khí khoan dung cởi mở trong đời sống văn học cần
phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa văn học và chính trị, giữa văn học và hiện
thực, mở đường cho những tự do sáng tạo và thể nghiệm.
4.2.2. Nâng cao ý thức về sứ mệnh của văn học và ý thức trách nhiệm của
người nghệ sĩ trước công chúng, dân tộc và thời đại
Thứ nhất là sự phản ánh cái bi giúp nâng cao ý thức về sứ mệnh của văn học.
Dân chủ, tự do trong đời sống văn học luôn đi liền với trách nhiệm trước công
chúng, dân tộc và thời đại. Đây chính là điều kiện để tự do thực sự trong nghệ thuật trở
thành tự do có ý nghĩa không chỉ với cá nhân mà cả với cộng đồng. Nâng cao ý thức
trách nhiệm sẽ là động lực giúp văn học và các nhà văn hoàn thành những sứ mệnh cao
cả của mình. Văn học phải ý thức được đầy đủ thiên chức của mình trong việc thanh

lọc tâm hồn, giáo dục, đánh thức tâm hồn và tình cảm. Muốn lay chuyển được lòng
người, văn học phải bộc bạch được những gì riêng tư nhất, khát vọng tha thiết nhất
thuộc về con người. Văn học phải nói được nhiều mặt, cả tốt và xấu, cao thượng và
thấp hèn, thiện và ác, được và mất. Văn học phải đi đến tận cùng những số phận con
người với những trang viết thấu đáo về đời sống và con người. Văn học còn dự báo và
cảnh báo về những bi kịch có thể xảy ra nếu chúng ta không nhận thức và tìm cách giải
quyết những xung đột, mâu thuẫn. Văn học nghệ thuật thời nào cũng là nơi nhà văn gửi
gắm những suy tư, khát vọng của mình về kiếp người.
Thứ hai là sự phản ánh cái bi giúp nâng cao ý thức trách nhiệm của nhà văn trước
công chúng và dân tộc, thời đại. Để văn học thực hiện được sứ mệnh cao quý của mình,
phản ánh hiện thực rộng lớn đa chiều trong đó có mảng thẩm mĩ cái bi thì người nghệ sĩ
chính là chủ thể thực hiện. Văn học là diễn đàn để từ đó xã hội cất lên tiếng nói thể hiện
ước mơ, khát vọng về con người và cuộc sống thể hiện ở sự phản ánh. Người nghệ sĩ có
một trách nhiệm rất lớn lao đối với cuộc sống và con người để những nỗi đau khổ nơi
góc khuất nhất của cuộc đời, tiếng khóc của những con người nhỏ bé nhất cũng được
lắng nghe và thấu hiểu. Khả năng đặc biệt ấy của người nghệ sĩ chính là xuất phát từ
cái tâm với con người, với nghề nghiệp.
4.2.3. Tăng cường nền tảng triết học, mĩ học cho văn chương
Văn chương không phải triết học nhưng một nền văn chương không có triết học
thì rất nguy hiểm. Tăng cường nền tảng triết học, mĩ học, những tìm tòi mới về văn
hóa, tư tưởng để văn chương nói về nhân tình thế thái bớt nông cạn, nhìn nhận về con
người và xã hội thấu đáo hơn. Mảng thẩm mĩ cái bi với ý nghĩa nhận thức và giáo dục
sâu sắc có khả năng đi sâu khám phá những xung đột, mâu thuẫn và quy luật vận dộng


22

và phát triển của lịch sử và xã hội. Vì thế nó giúp cho văn chương nghệ thuật được
trang bị cách nhìn nhận mang tính triết học khái quát. Đổi mới ý thức xây dựng hệ thẩm
mĩ xứng đáng với vai trò phương pháp luận trong đời sống thẩm mĩ nói chung và văn

học nghệ thuật nói riêng trở thành một nhiệm vụ hàng đầu nếu triết học và mĩ học
không muốn từ bỏ chính vai trò của mình.
Nói đến tăng cường tính triết học và mĩ học cho văn học hoàn toàn không phải
chỉ nói một chiều đến sự tác động từ bên ngoài vào văn học mà còn đòi hỏi sự tự vận
động, tự tăng cường nền tảng triết mĩ của bản thân văn học và người cầm bút. Sáng tác
văn học về mảng cái bi đã và sẽ phải đề xuất được những giá trị mĩ học mới mẻ, đồng
thời thể hiện được trách nhiệm với xã hội, thì mới thực sự có tương lai lâu dài, bền
vững.Thiếu một trong hai điều kiện trên, tất yếu sẽ bị thời gian lãng quên. Văn học
phản ánh cái bi cần được định hướng trên nền tảng mĩ học tiến bộ, dựa vững chắc trên
nền tảng thế giới quan của chủ nghĩa Mác – Lênin, đồng thời không ngừng bổ sung,
tiếp nhận và hoàn thiện quan điểm mĩ học hiện đại. Những nhà văn chân chính cần
đồng thời là những nhà tư tưởng, nhà mĩ học và nhà đạo đức học trên hành trình sáng
tạo không mệt mỏi của mình để cho ra đời những tác phẩm có giá trị.
4.2.4. Nâng cao chất lượng hoạt động lí luận, phê bình văn học
Cả người đọc và người sáng tác đều hi vọng, trông đợi vào các nhà lí luận, phê bình
gia tăng tính chuyên nghiệp, công bằng, khách quan trong học thuật, chỉ ra cho người sáng
tác cái được và chưa được với thái độ khoan dung, chân thành và thiện chí, chỉ cho người
đọc những bài học về tiếp nhận, định hướng thẩm mĩ cho công chúng yêu văn học. Có
được điều này thì sẽ có thể hi vọng cho một nền tảng và môi trường lí luận cho những giá
trị văn học đích thực, mảng thẩm mĩ về cái bi trong hiện thực sẽ được phản ánh vào văn
học và mang giá thẩm mĩ trong nhận thức và giáo dục ngày càng cao.
Thứ nhất là cần đề cao tính tự phê phán, tự phản tỉnh với tinh thần biện giải, xới
lật, mạnh mẽ phê phán những lí luận xơ cứng, phiến diện. Thứ hai là cần kế thừa di sản
lí luận văn học dân tộc, mở rộng biên độ tiếp nhận những thành tựu lí luận văn học của
thế giới.
4.2.5. Nâng cao văn hóa tiếp nhận của độc giả
Phạm trù cái bi thẩm mĩ được hình thành trên mối quan hệ chủ thể và khách thể.
Nếu chỉ xét mặt khách thể thì chưa thể nói hết được giá trị thẩm mĩ của cái bi, đặc biệt
là cái bi được thể hiện trong văn học nghệ thuật. Vì vậy giá trị thẩm mĩ của cái bi trong
văn học được xác định thông qua sự tiếp nhận của độc giả với tác phẩm và hình tượng

nghệ thuật. Ngoài vốn sống, người đọc cần được và tự nâng cao vốn nghệ thuật. Theo
Mác, muốn thưởng thức nghệ thuật thì cũng cần phải được giáo dục về nghệ thuật. Cần
nâng cao “tầm đón đợi”, tầm văn hóa, tầm hiểu biết, ý thức tiếp nhận mạnh mẽ, đa dạng và
đa chiều của độc giả. Tác phẩm đi từ tâm hồn và trí tuệ của nhà văn đến tâm hồn, trí tuệ
của bạn đọc, vừa thống nhất nhưng cũng có những khác biệt thậm chí là đối lập. Nhưng
trước tiên, người đọc cũng cần trân trọng công sức lao động nghệ thuật của những người
nghệ sĩ.


×