Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

de cuong mon chu nghia xa hoi khoa hoc day du (1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.26 KB, 24 trang )

Câu 1: Trình bày những điều kiện khách quan, chủ quan quy định sứ
mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân? Liên hệ với thực tiễn
đẩy mạnh CNH – HĐH gắn với kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay?
Trên cơ sở phân tích quy luật kinh tế của sự vận động trong xã hội
TBCN, Chủ nghĩa Mac LeNin đã làm sáng tỏ tính tất yếu diệt vong của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và sự ra đời của tất yếu của phương
thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa mà lực lương duy nhất có sứ mệnh lãnh
đạo cuộc cách mạng thực hiện bước chuyển biến lịch sử này chính là giai
cấp công nhân. Như vậy giai cấp công nhân là gì?
Có nhiều quan niệm khác nhau về giai cấp công nhân.
(Hoặc ghi: sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là phạm trù cơ bản
nhất của chủ nghĩa xã hội khoa học. Phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân là một trong những cống hiến vĩ đại nhất của chủ nghĩa Mac
LeNin.
Để hiểu rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, trước hết cần làm
rõ khái niệm giai cấp công nhân.
1/ Quan niệm về giai cấp công nhân:
a) Quan điểm của Mác và Ăngghen về giai cấp công nhân:
C.Mac và Ph.Ăngghen đã dùng nhiều thuật ngữ khác nhau để chỉ giai cấp
công nhân như: giai cấp vô sản, giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ dựa vào việc
bán sức lao động của mình, lao động làm thuê ở thế kỷ XIX, giai cấp công
nhân hiện đại, giai cấp công nhân đại công nghiệp…với nghĩa là họ là người
không có tư liệu sản suất, đất đai, công cụ lao động.
Giai cấp vô sản ra đời từ nửa cuối thế kỷ thứ 18, nó gắn liền với cuộc
cách mạng đại công nghiệp ở nước Anh, nó còn là sản phẩm con đẻ của nền
đại công nghiệp.
b) Giai cấp công nhân trong CNTB:


Giai cấp vô sản là những người lao động trong nền tảng công nhân, lao
động bằng máy móc gắn liền với khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển, lao


động sản xuất ra của cải vật chất là chủ yếu.
Xét về mặt XH: vì không có tư liệu sản xuất nên phải đi làm thuê cho giai
cấp tư sản và bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư nên cuộc sống của
giai cấp công nhân lệ thuộc vào giai cấp tư sản, giai cấp công nhân sản xuất
ra của cải vật chất là chủ yếu.
c) Những biến đổi của giai cấp công nhân:
- Số lượng, chất lượng của giai cấp công nhân ngày càng nâng cao. Đời
sống của công nhân được cải thiện, một bộ phận công nhân có cổ phần, xuất
hiện công nhân hóa trí thức. Từ tự biến đổi trên đã phủ định sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân mà cho rằng công nhân đã hòa tan với trí thức, không
còn là giai cấp công nhân nên cũng không có SMLS của mình trên thế giới.
- Trong xã hội xuất hiện một bộ phận công nhân không trực tiếp đứng
máy sản xuất ra của cải vật chất mà hoạt động trong lĩch vực dịch vụ trực
tiếp phục vụ công nghiệp như tài chính, tín dụng, ngân hàng, bảo hiểm, kinh
doanh hàng công nghiệp như buôn bán máy móc.
d) Đặc trưng của gia cấp công nhân trong XHCN.
Là giai cấp thông qua ĐCS trở thành giai cấp lãnh đạo, là người chủ nhà
máy, xí nghiệp, không còn phải đi làm thuê bị áp bức bóc lột như trong
CNTB, là giai cấp sản xuất ra của cải vật chất để nuôi sống xã hội, cũng là
giai cấp xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH.
e) Giai cấp công nhân ở một số nước XHCN hiện nay:
- Trung Quốc có trên 300 triệu công nhân trong đó có trên 120 triệu làm
việc trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước; 42% làm trong lĩnh vực dịch
vụ.
- Ở Việt Nam có trên 11 triệu công nhân, hàng năm đóng góp 7% giá trị
tổng sản phẩm trong nước và 6% cho ngân sách nhà nước.


- Mác – LêNin chia công nhân làm 3 bộ phận:
+ Công nhân khai thác mỏ, chế biến nguyên liệu: Là bộ phận đầu tiên,

đứa con đầu lòng của nên đại công nghiệp.
+ Công nhân sản xuất tư liệu sản xuất.
+ Công nhân sản xuất ra tư liệu tiêu dùng như công nhân nhà máy dệt,
sản xuất trong lĩnh vực bánh kẹo, nước giải khát…
2/ Sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp Công Nhân:
Là gc thành lập nên chính đảng cộng sản của mình, tự giải phóng mình và
toàn xã hội thoát khỏi áp bức, bóc lột bất công, xóa bỏ CNTB, xây dựng
thành công CNXH, CNCS – trên phạm vi toàn thế giới. Sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân được thể hiện những lĩnh 3 lĩnh vực sau:
Về chính trị: Giai cấp công nhân phải đấu tranh lật đổ giai cấp tư sản
giành chính quyền, xây dựng nhà nước XHCN & nền dân chủ vô sản.
Về kinh tế: giai cấp công nhân là cá thể trong quá trình sản xuất của cải,
vật chất ở các nước XHCN giai cấp công nhân còn là giai cấp tiến hành
CNH – HĐH, xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH, xây dựng quan hệ sản
xuất mới và xây dựng một kiểu tổ chức lao động mới.
Về xã hội, tư tưởng: Xây dựng hệ tư tưởng trong giai cấp công nhân đấu
tranh với hệ tư tưởng phi VS, xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.
3/ Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử trong giai cấp
công nhân:
-

Giai cấp công nhân thông qua đảng trở thành giai cấp lãnh đạo có sứ mệnh
lịch sử (SMLS) xóa bỏ CNTB, xây dựng thành công CNXH là do địa vị kinh
tế xã hội quy định 1 cách khách quan.
a). Địa vị kinh tế: Quy định SMLS toàn TG trong giai cấp công
nhân: là lịch sử xã hội loài người vận động phát triển không ngừng từ thấp
đến cao, không có một chế độ xã hội, giai cấp tồn tại mãi mãi mà bị một xã


hội sau văn minh, tiến bộ hơn thay thế vì nó tuân theo quy luật QHSX phù

hợp với tính chất, trình độ phát triển LLSX. Giai cấp nào, đại biểu cho
LLSX, QHSX tiến bộ thì giai cấp đó lãnh đạo.
- Giai cấp công nhân - Đảng cộng sản đại biểu cho LLXS, QHSX dựa
trên chế độ chiếm hữu , tập thể, hợp tác, liên kết sẽ thay thế, phủ định chế độ
tư hữu tư sản, CNTB giai cấp tư sản hết vai trò lịch sử của nó. Chính do tính
chất xã hội hóa trong LLSX và CNTB phủ định chế độ tư hữu TS để cho
chế độ công hữu ra đời mà giai cấp đảng cộng sản lãnh đạo là cơ sở khoa
học khẳng định giai cấp công nhân đảng cộng sản có SMLS xóa bỏ CNTB
xây dựng thành công CNXH, CNCS.
b). Địa vị xã hội: Quyết định sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai
cấp công nhân là do mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản thống trị áp bức bóc lột
và giai cấp công nhân đi làm thuê bị áp bức bóc lột, mâu thuẫn này đòi hỏi
phải được giải quyết (bản thân giai cấp tư sản không thể tự giải quyết mâu
thuẫn) mà do giai cấp công nhân giải quyết bằng cuộc cách mạng vô sản,
đấu tranh lật đổ giai cấp tư sản giành chính quyền đề cho xã hội mới ra đời –
xã hội xã hội chủ nghĩa.
- Chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư sản chỉ sụp đổ khi hết vai trò lịch sử
của nó khi khủng hoảng kinh tế, xã hội – chính trị. Ngày nay, công nhân ở
các nước TBCN chưa ủng hộ người cộng sản vì CNTB còn khả năng phát
triển. Chỉ đến khi giai cấp tư sản không thể thống trị được nữa, giai cấp công
nhân và nhân dân cũng không thể sống như trước được nữa, lúc đó vấn đề lật
đổ chính quyền, giải phóng giai cấp công nhân được đặt ra.
Tóm lại, SMLS của giai cấp công nhân là do địa vị kinh tế, địa vị xã
hội quy định. Tất yếu giai cấp công nhân - ĐCS phải trở thành giai cấp lãnh
đạo, xóa bỏ giai cấp tư sản, chế độ tư sản, xây dựng thành công chế độ
XHCN, CNCS.
4/ Điều kiện chủ quan.
a) Sự phát triển của giai cấp công nhân về số lượng, chất lượng.
-


Về số lượng: Giai cấp công nhân ngày càng phát triển đông về số lượng do
cuộc CMKH kỹ thuật CNH – HĐH ngày một phát triển. Số lượng đông là 1


trong những người tố đem lại sức mạnh cho giai cấp công nhân, để họ hoàn
thành sứ mệnh lịch sử của mình.
- Về chất lượng: Trình độ tay nghề bậc thợ trong giai cấp công nhân ngày 1
nâng cao. Giúp cho giai cấp công nhân nhận thức được vị trí, vai trò SMLS
của mình.
Chất lượng thể hiện ở ý thức giai cấp công nhân, lý luận CNMLN đưa
vào phong trào ông nhân khi giai cấp công nhân nhận thức được lý luận cách
mạng, tạo nên sức mạnh cho giai cấp công nhân, đấu tranh xóa bỏ CNTB
xây dựng thành công CNCS.
b) Đảng cộng sản – nhân tố chủ quan cơ bản nhất để thực hiện thắng
lợi SMLS trong giai cấp công nhân:
SMLS toàn thế giới của giai cấp công nhân là khách quan, khoa học
nhưng muốn thực hiện thắng lợi sứ mệnh đó thì đòi hỏi giai cấp công nhân
ĐCS, nhân dân phải nhận thức được phương pháp, cách thức đấu tranh để
thực hiện SMLS của mình.
- Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân khi chưa có đảng là phong trào
đấu tranh tự phát, đấu tranh tự phát không xóa bỏ được giai cấp TS, áp bức
bóc lột bất công.
- Bản thân phong trào đấu tranh giai cấp công nhân đòi hỏi phải được tổ chức
lại, phải có lý luận CM soi đường, ĐCS lãnh đạo.
- Quy luật ra đời của đảng cộng sản Mác xít là phong trào đấu tranh của giai
cấp công nhân kết hợp với chủ nghĩa MLN dẫn đến sự ra đời của ĐCS.
VD: Quốc tế 1 ra đời 1986 ở thu đô Luân Đôn (Anh) có Mác Ăngghen
tham gia.
Quốc tế 2 ra đời năm 1989 ở Pari (Pháp)
Quốc tế 3 do Lênin là người thành lập ra đời 1919 ở Matcơva.

Đảng CSVN ra đời ngày 03/02/1930 tại Cửu Long, Hương Cảng, Trung
Quốc do Nguyễn Ái Quốc sáng lập. ĐCS ra đời đánh dấu bước phát triển
phong trào công nhân từ tự phát đến tự giác, từ đây phong trào đấu tranh
trong giai cấp công nhân được tổ chức lại có lý luận khoa học cách mạng của
chủ nghĩa Mác LêNin dẫn đường.
- Mối quan hệ giữa ĐCS và giai cấp công nhân:
+ Đảng cộng sản giai cấp công nhân không phải là 1, đảng là tổ chức
cao nhất trong giai cấp công nhân, là bộ tham mưu chiến đấu, lãnh tụ chính


trị trong giai cấp công nhân. Đảng bao gồm những người ưu tú trong giai
cấp công nhân, trí thức, nông dân, viên chức….
+ Khi nói đến giai cấp công nhân lãnh đạo không phải từng người
công nhân lãnh đạo mà thông qua đội tiền phong là ĐCS (Đảng lãnh đạo
bằng đường lối, cương lĩnh, chính trị, NQ, đó là con đường phát triển cho
đất nước, dân tộc. Đảng lãnh đạo dựa trên lý luận của CNMLN thực tiển ở
mỗi nước).
VD: Đảng lãnh đạo thông qua ĐH đảng toàn quốc, chỉ ra đường lối phát
triển, nhưng cụ thể hóa đường lối bằng hiến pháp, pháp luật, biến đường lối
vào hoạt động thực tiễn.
+ Đảng cộng sản là nhân tố quyết định thắng lợi, vai trò SMLS của
giai cấp công nhân là vì đảng lãnh đạo bằng đường lới, bằng công tác tổ
chức, công tác cán bộ, là nêu ra xây dựng tiêu chí cán bộ, đào tạo, xây dựng,
khen thưởng, kỷ luật, đánh giá, chính sách cho cán bộ đảng lãnh đạo được ví
như con thuyền đi những đại dương, cần có những người cầm lái. Những
công cụ, bộ máy thực hiện đường lối chính trị trong đảng cộng sản. Đảng
cộng sản không phải đảng đứng trên, đứng ngoài pháp luật mà mỗi đảng
viên là công dân, cán bộ công chức phải thực thi hiến pháp, pháp luật chứ
không phải đảng đứng ngoài, đứng trên pl như một số quan điểm muốn bôi
nhọ vai trò của Đảng.

 Tóm lại: ĐCS là nhân tố quyết định thực hiện thắng lợi SMLS trong giai cấp
công nhân.
5/ Liên hệ thực tiễn:
a) Quá trình ra đời của giai cấp công nhân Việt Nam.
-

Giai cấp công dân Việt Nam ra đời gắn liền với quá trình khai thác thuộc địa
của Pháp ở Việt Nam từ cuối thế kỉ 19-20. Số lượng ít, trình độ tay nghề bậc
thợ giảm so với khu vực và thế giới, xuất thân từ giai cấp nông dân là chủ
yếu, sớm có ĐCS Việt Nam lãnh đạo đã được tôi rèn trong quá trình đấu
tranh giải phóng dân tộc. Hiện nay đã trở thành giai cấp lãnh đạo thông qua
đội tiền phong là ĐCS, từ năm 1954 ở MB & tới ĐHĐ lần 6 (1989) trên
phạm vi cả nước giai cấp công nhân lao động làm việc theo mô hình xô viết
(mô hình CNXH quản lý tập trung quan liêu bao cấp, quyền lực tập trung
vào cơ quan quản lý cấp trên– từ đại hội 6 đổi mới, trao quyền tự chủ cho
đơn vị SXKD).


b) Định nghĩa mới về giai cấp công nhân Việt Nam.
-

Hội nghị BCH Trung Ương 6 khóa 10 năm 2006 định nghĩa: Giai cấp công
nhân lực lượng xã hội to lớn đang phát triển bao gồm những người lao động
chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các hoạt động xã hội, kinh
doanh, dịch vụ, công nghiệp hoặc sản xuất kinh doanh dịch vụ có tính chất
chuyên nghiệp, ngân hàng, tổ chức tín dụng…
VD: Buôn bán máy móc, thuốc trừ sâu….
c) sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam.

“Giai cấp công nhân Việt Nam có SMLS to lớn, là giai cấp lãnh đạo cách

mạng thông qua đội tiền phong là ĐCS VN; giai cấp đại diện cho PTSX tiên
tiến, giai cấp tiên phong trong sự nghiệp CNH – HĐH đất nước vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xh công bằng, DC văn minh, là phương pháp nồng cốt
trong liên minh giai cấp công nhân với nhân dân và đội ngũ trí thức dưới sự
lãnh đạo của Đảng”.
d) Thành tựu và hạn chế:
* Thành tựu: Giai cấp công nhân đã đóng góp to lớn vào quá trình
phát triển của đất nước, cùng với các tầng lớp và thành phần xã hội khác,
giai cấp công nhân Việt Nam là cơ sở chính trị, xã hội vững chắc của Đảng
và Nhà nước. Trong quá trình phát triển của đất nước, việc làm và đời sống
của giai cấp công nhân ngày càng được cải thiện. Hiện nay có khoảng 11
triệu công nhân, hàng năm đóng góp 7% tổng thu nhập quốc dân, 6% ngân
sách Nhà nước).
* Hạn chế:
- Sự phát triển của giai cấp công nhân chưa đáp ứng được yêu cầu về
số lượng, cơ cấu và trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. tiếu các
chuyên gia kỹ thuật, quản lý giỏi, công nhân lành nghề, tác phong công
nghiệp và kỷ luật lao động còn hạn chế, đa số xuất thân thấp từ nông dân,
CN có trình độ tay nghề cao còn ít.
- Hạn chế về phát huy vai trò nồng cốt trong liên minh gii cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của
Đảng, Giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị của công nhân không đồng





-


-

đều, sự hiểu biết về chính sách pháp luật còn hạn chế. Tỉ lệ đảng viên và cán
bộ lãnh đạo xuất thân từ công nhân còn thấp…
e) Quan điểm, giải pháp, phương hướng xây dựng giai cấp công
nhân Việt Nam hiện nay.
• Về quan điểm:
Kiên định qđ giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo đang thông qua đội tiên
phong ĐCS.
Xây dựng giai cấp CN lớn mạnh về mặt hữu cơ tồn tại chiến lược phát triển
xã hội.
Đào tạo bồi dưỡng cho CN về tay nghề bậc thợ, ý thức giai cấp gắn liền với
trí thức CN.
Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống
chính trị.
Về phương hướng: Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục giai cấp công
nhân cả về chất lượng, số lượng. Nâng cao bản lĩnh chính trị trình độ, học
vấn, chuyên môn, tác phong công nhân… đáp ứng yêu cầu sự nghiệp CNH –
HĐH gắn với hội nhập Quốc tế, bảo vệ quyền lợi và nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần trong công nhân.
Về giải pháp: Tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về
giai cấp công nhân trong điều kiện thị trường, định hướng XHCN.
Đẩy mạnh, nâng cao chất lượng dạy nghề, từng bước bố trí thức hóa giai cấp
công nhân.
Quan tâm, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, ý thức giai cấp công nhân,
tinh thần dân tộc.
Bổ sung sửa đổi, xây dựng thực hiện nghiêm, chính sách PL để bảo đảm
quyền lợi chính trị của công nhân, chăm lo đời số vật chất tinh thần công
nhân.
Tăng cường sức lãnh đạo của Đảng, vai trò của các tổ chức chính trị xã hội,

công đoàn trong xây dựng giai cấp công nhân.



Câu 2: Phân tích quan điểm của đảng ta đi lên CNXH là khát vọng của
ND ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng cộng sản VN & chủ tịch HCM
phù hợp với xu thế phát triển của thời đại.
1/ Trình bày một số quan điểm về chủ nghĩa xã hội và tính tốt đẹp
của nó đáp ứng nguyện vọng của nhân dân ta.
a) Một số quan điểm về CNXH:
- Quan điểm của Ăngghen: CNXH là “học thuyết” bàn về những điều
kiện đấu tranh để giải phòng giai cấp vô sản”.
- Quan điểm của Lê Nin: “ chủ nghĩa xã hội là xóa bỏ giai cấp, muốn
xóa bỏ giai cấp phải đánh đổ bọn địa chủ, bọn tư sản”.
- Quan điểm của Hồ Chí Minh: Chủ tịch HCM cho rằng nếu nói một
cách vắn tắt, mộc mạc thì CNXH trước hết nhằm làm cho nhân dân thoát
khỏi nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và
có cuộc sống hạnh phúc.
b) Tính tốt đẹp của CNXH đáp ứng nguyên vọng của nhân dân ta:
CNXH là ước mơ hoài bão của những người đi lao động làm thuê bị
áp bức, bóc lột mơ về một tương lai tưoi đẹp không còn áp bức, bóc lột, bất
công.
CNXH phù hợp với nguyên vọng của nhân dân ta vì”
- Đó là một xã hội văn minh, tốt đẹp hơn CNTB, nó xóa bỏ áp bức bất
công đem lại quyền làm chủ cho nhân dân, tạo điều kiện cho con người phát
triển toàn diện, xóa bỏ tệ nạn trong CNTB.
- CNXH đảm bảo đời sống tự do, cuộc sống ấm no, thỏa mãn nhu cầu
vật chất của con người.
- Lực lượng sản xuất phát triển trên cơ sở khoa học kỹ thuật cao hơn CNTB.
- Mục tiêu xây dựng CNXH ở Việt Nam là một xã hội “Dân giàu,

nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền
kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản


xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; con
người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn
diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng
và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng cộng sản lãnh đạo; có quan
hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
2/ Sự ra đời của CNXH là một tất yếu khách quan.
Mặc dù CNTB nắm ưu thế về vốn, khoa học và công nghệ, thị trường
nhưng nó không thể khắc phục được những mâu thuẫn vốn có của xã hội tư
bản. Đặc biệt là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực
lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản về tư liệu sản xuất, mâu
thuẫn giữa các nước đang phát triển với các nước phát triển…. Chế độ công
hữu hợp tác tập thể phủ định chế độ tư hữu tư sản, tư hữu tư sản hết vai trò
của nó. Chỉ có trên cơ sở công hữu hóa thì khoa học, kỹ thuật, kinh tế mới
phát triển, từng cá nhân không thể phát triển kinh tế, phát triển lực lượng sản
xuất nếu không hợp tác, liên kết, vì vậy CNXH ra đời dựa trên chế độ công
hữu để phát triển lực lượng sản xuất, kinh tế để nâng cao đời sống cho con
người.
Do đó, đi lên CNXH là tất yếu, khách quan, khoa học. Chế độ tư hữu,
chế độ người bóc lột người không còn phù hợp.
Ở Việt Nam: Năm 1945 sau khi CMT8 thành công VN đã đi theo con
đường XHCN. Sau năm 30/4/1975 miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất
nước thống nhất, cả nước bắt tay vào công cuộc xây dựng CNXH.
Sự lựa chọn con đường XHCN của dân tộc Việt Nam là sự lựa chọn
đúng đắn nhất. Bản chất của CNTB là dồn dân, cướp đất, tước đoạt giá trị
thặng dư của người nghèo khổ. CNTB không phải là tương lai của loài

người, nó không phù hợp với nguyện vọng của loài người và quy luật phát
triển của xã hội. Ở Việt Nam, lịch sử đã chứng minh rõ ràng và cụ thể con
đường mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn là đúng đắn và phù hợp với đất
nước, với tâm tư nguyện vọng của nhân dân.


Bởi lẽ, chỉ có CNXH mới giải phóng được nhân dân lao động khỏi áp
bức, bóc lột, bất công, mới đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho
nhân dân. Sự lựa chọn đúng đắn của nhân dân ta đã đem đến thắng lợi cho
cách mạng Việt Nam.
Lựa chọn con đường đi lên CNXH của nhân dân việt Nam không
những phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử mà còn còn phù hợp với
nguyện vọng của nhân dân, những người đã chiến đấu hy sinh thân mình vì
độc lập tự do của dân tộc, vì sự ấm no của mọi người, xây dựng xã hội công
bằng dân chủ, văn minh mà những yêu cầu ấy chỉ có XHCN mới đáp ứng
được.
3/ Đặc trưng của CNXH:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991), ĐCS VN đã thông qua
cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Ở cương lĩnh
này lần đầu tiên Đảng ta xác định những đặc trưng của XH XHCN mà nhân
dân ta xây dựng. Đến đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng ta bổ sung,
điều chỉnh các đặc trưng trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) thành 8 đặc trưng, cụ thể
như sau:
Đặc trưng thứ nhất: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
Đây là đặc trưng tổng quát nhất chi phối các đặc trưng khác, bởi nó thể hiện
mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội
mà nhân dân ta đang xây dựng phải hướng tới việc hiện thực hóa đầy đủ,
đồng bộ hệ mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh.
Tư tưởng xuyên suốt của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền

với chủ nghĩa xã hội. Đối với dân tộc Việt Nam, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới
bảo đảm cho dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh thật sự.
Đây là khát vọng tha thiết của toàn thể nhân dân Việt Nam sau khi đất nước
giành được độc lập và thống nhất Tổ quốc.
Đặc trưng thứ hai: Do nhân dân làm chủ
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu vừa là
động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân
dân. Dân chủ phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mọi cấp, trên tất


cả các lĩnh vực thông qua hoạt động của Nhà nước do nhân dân bầu ra và
các hình thức dân chủ trực tiếp...
- Đặc trưng thứ ba: có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
Đây là đặc trưng thể hiện tính ưu việt trên lĩnh vực kinh tế của chủ nghĩa xã
hội mà nhân dân ta đang xây dựng so với các chế độ xã hội khác. Những
mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã
hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân
tư bản chủ nghĩa chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở nên
sâu sắc.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải dựa trên chế độ công hữu về
các tư liệu sản xuất chủ yếu là một trong những yếu tố đảm bảo định hướng
xã hội chủ nghĩa trong phát triển nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần
kinh tế.
- Đặc trưng thứ tư: có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, mang đậm bản sắc dân tộc đòi hỏi vừa
phải tiếp thu những giá trị của tinh hoa văn hóa nhân loại, vừa phải kế thừa,
phát triển bản sắc văn hóa của các tộc người Việt Nam, xây dựng một nền
văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng. Sự kết hợp hài hòa những giá

trị tiên tiến với những giá trị mang đậm bản sắc dân tộc thể hiện tính ưu việt
của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng trên lĩnh vực văn hóa, làm cho
văn hóa trở thành sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển.
- Đặc trưng thứ năm: con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có
điều kiện phát triển toàn diện.
Về phương diện con người, chủ nghĩa xã hội đồng nghĩa với chủ nghĩa nhân
văn, nhân đạo: tất cả vì con người, cho con người và phát triển con người
toàn diện. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội
thì phải có con người xã hội chủ nghĩa. Để có con người xã hội chủ nghĩa
phải xác định và hiện thực hóa hệ giá trị phản ánh nhu cầu chính đáng của
con người trong xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng.
- Đặc trưng thứ sáu: các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn
kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển.
Thực hiện 25 năm đổi mới đất nước đã và đang chứng minh tính ưu việt
trong chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, chứng minh tính ưu việt
của chủ nghĩa xã hội trong giải quyết các quan hệ dân tộc ở Việt Nam. Nhờ
đó đã và đang phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, tính đồng
thuận trong cộng đồng 54 dân tộc anh em, chống lại âm mưu chia rẽ dân tộc
của các thế lực thù địch.


- Đặc trưng thứ bảy: có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Nhà nước gắn bó chặt chẽ với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của
nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của
nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan
liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lộng quyền, xâm phạm quyền
dân chủ của công dân…
- Đặc trưng thứ tám: có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước
trên thế giới.

Việt Nam luôn luôn khẳng định quan hệ hữu nghị và hợp tác giữ nhân dân ta
và nhân dân các nước trên thế giới. Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của
các nước trong cộng đồng quốc tế…Đảng và Nhà nước ta chủ trương hợp
tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính
trị-xã hội khác nhau trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương
Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế. Việc chủ động, tích cực hội nhập quốc
tế, tham gia tích cực vào các tổ chức, diễn đàn quốc tế và khu vực đã chứng
minh một cách sinh động tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta
đang xây dựng, thể hiện trong đặc trưng về quan hệ đối ngoại của Đảng và
Nhà nước.
Tám đặc trưng của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng được điều chỉnh,
bổ sung, thể hiện thái độ khoa học, tôn trọng thực tiễn, tổng kết thực tiễn ở
Việt Nam để bổ sung, phát triển lý luật củ Đảng, chủ nghĩ xã hội khoa học
và con đường đi lẹn chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
4/ Kết luận:
Bất chấp thăng trầm củ lịch sử từ khi ra đời đến nay chủ nghĩa MLN luôn tỏ
rõ sức sống mãnh liệt của mình. Thực tiễn thành công và thất bại của công
cuộc xây dựng CNXH ở Việt Nam cũng như trên thế giới đã chứng minh bản
chất khoa học, cách mạng là của chủ nghĩa MLN. Trung thành với bản chất
khoa học và cách mạng của chủ nghĩa MLN, vận dụng một cách sáng tạo
trong điều kiện cụ thể củqa nước ta, vạch ra đường lối đúng đắn cho sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Với quyết tâm khắc phục khó khăn, với
tinh thần kiên trì và tích cực trong tìm tòi, thử nghiệm, nhân dân ta vẫn
không nao núng trước những biến động về kinh tế, xã hội. Đảng ta quyết tâm
làm chuyển biến tư duy, nhận thức và tư tưởng, xác định nhiềm chủ trương,
chính sách mới, nhằm khắc phục khủng hoảng và tìm mọi cách đưa đất nước
phát triển theo chủ nhân đường XHCN. Nhất định Đảng sẽ lãnh đạo nhân
dân xây dựng thành công CNXH thời kỳ đôi mới gắn với dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.



Câu 3: Phân tích chứng minh luận điểm của Lê Nin: Chế độ dân chủ vô
sản là chế độ tiến bộ hơn gấp vạn lần so với chế độ dân chủ tư sản tiến
bộ nhất.
1/ Khái niệm dân chủ:
Vấn đề dân chủ là vấn đề mà nhân loại qua các thời kỳ lịch sử đều rất
quan tâm. Tuy nhiên, mỗi giai cấp trong các thời đại khác nhau và qua các
chế độ khác nhau thì quan niệm về dân chủ cũng không giống nhau.
Thuật ngữ này xuất hiện đầu tiên tại Hy Lạp với cụm từ dimokratia "quyền
lực của nhân dân", được ghép từ chữ dēmos, "nhân dân" và kratos, "quyền
lực" vào khoảng giữa thế kỷ thứ 5 đến thứ 4 trước Công nguyên để chỉ hệ
thống chính trị tồn tại ở một số thành bang Hy Lạp, nổi bật nhất
là Anthena sau cuộc nổi dậy của dân chúng vào năm 508 TCN.
Mặc dù chưa có một định nghĩa thống nhất về 'dân chủ', có hai nguyên tắc
mà bất kỳ một định nghĩa dân chủ nào cũng đưa vào. Nguyên tắc thứ nhất là
tất cả mọi thành viên của xã hội (công dân) đều có quyền tiếp cận đến quyền
lực một cách bình đẳng và thứ hai, tất cả mọi thành viên (công dân) đều
được hưởng các quyền tự do được công nhận rộng rãi.
(Dân chủ là một hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội trong
đó thừa nhận nhân dân là chủ của quyền lực) bài giảng cô Oanh định
nghĩa.
2/ Các hình thức dân chủ tồn tại trong lịch sử như:
- Dân chủ nguyên thủy: là dân chủ cho mọi người, nền dân chủ sơ khai đầu
tiên trong lịch sử xã hội loài người.
- Dân chủ chủ nô: Nền dân chủ chủ nô là nền dân chủ đầu tiên được tổ chức
dưới hình thức Nhà nước – Nhà nước chủ nô. Lê Nin chỉ rõ bản chất của
nền dân chủ chủ nô là “Tất cả nguồn lợi đều thuộc về chủ nô, còn nô lệ
không có quyền gì cả và vẫn là một giai cấp bị áp bức họ không được coi là
người”. Do vậy trong xã hội chiếm hữu nô lệ dân chủ chỉ được thực hiện với
thiểu số bóc lột chủ nô và bộ phận rất nhỏ người bình dân còn nô lệ thì

không được thừa nhận là con người.


Chế độ phong kiến không có nền dân chủ: LN cho rằng “trong đêm trường
trung cổ dân chủ bị săn lùng và thủ tiêu không thương tiếc”.
+ Nền dân chủ tư sản:
+ Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa:
(3/ Bản chất giai cấp của nền dân chủ:
- Nền dân chủ mang bản chất của giai cấp thống trị.
- Mang tính lịch sử vì mỗi giai đoạn đều có sự thay đổi, nó gắn liền với điều
kiện ra đời và mất đi khi điều kiện đó không còn.
- Dân chủ khác chuyên chế ở chỗ: Nó mang bản chất nhân dân.
4/ Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
- Mang bản chất giai cấp công nhân.
- Dựa trên chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về các tư liệu sản xuất chủ
yếu.
- Được thực hiện bằng Nhà nước pháp quyền XHCN.
- Dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng cộng sản.
Ngày càng mở rộng quyền làm chủ cho nhân dân trên tất cả các lĩnh
vực đời sống xã hội. Chế độ tư hữu thay thế chế độ công hữu, làm chủ quyền
lực kinh tế, chủ tư liệu sản xuất nên làm chủ quyền lực nhà nước.)
+ Nền dân chủ tư sản: quá trình ra đời, mục tiêu chính trị, quan hệ
kinh tế, lý luận.
Quá trình ra đời: Sự phát triển của LLSX làm cho QHSX PK ngày
càng trở nên lỗi thời và lạc hậu dẫn đến phải bị một phương thức sản xuất
mới tiến bộ hơn thay thế. Đại diện cho PTXS mới này là GCTS.
Để tập hợp lực lượng, giai cấp tư sản đã đưa ra khẩu hiệu “tự do, bình đẳng,
bác ái…” nên đã tập hợp được một lực lượng lớn những người ủng hộ và



thành công trong việc lật đổ chế độ phong kiến, thành lập nhà nước tư sản và
nền dân chủ tư sản.
Nền dân chủ tư sản ra đời là một bước tiến mới trong lịch sử tiến hóa của
dân chủ, nhưng về thực chất nền dân chủ tư sản chưa phải là nền dân chủ
đầy đủ nhất, dân chủ của đa số nhân dân lao động mà chỉ là nền chuyên
chính của giai cấp tư sản. Trong giai đoạn đầu của CNTB giai cấp tư sản là
người đại diện cho LLSX tiên tiến. Do đó, nó đóng vai trò trung tâm trong
việc tập hợp lực lượng để chống phong kiến. GCTS đã xây dựng nên một thể
chế dân chủ như quyền đầu phiếu phổ thông, chế độ phân quyền, quyền tự
do cá nhân. Tuy nhiên, nền dân chủ tư sản thực ra chỉ thực hiện cho thiểu số
giai cấp bóc lột, còn nhân dân lao động và đông đảo các tầng lớp giai cấp
khác tuyệt nhiên không có dân chủ.
Quan hệ kinh tế: Dân chủ tư sản là chế độ tư bản tư nhân về tư liệu
sản xuất. TLSX tập trung vào tay tư bản và chúng có quyền phân phối và sử
dụng những tư liệu đó. Những người lao động phải làm thuê cho chúng với
mức lương rẻ mạt.
Mục tiêu chính trị:: Toàn bộ thiết chế được giai cấp tư sản dựng lên để
nhằm mục đích duy nhất là bảo vệ địa vị thống trị của giai cấp tư sản, để
truyền bá tư tưởng tư sản, để mị dân chống lại tư tưởng tự do, dân chủ của
GCVS.
Trong tác phẩm những thắng lợi của phong trào cải cách xã hội trên lục địa
(1983) Ăng ghen viết về chế độ dân chủ tư sản như sau: “Chế độ dân chủ,
giống như bất kỳ chính thể nào khác, rốt cuộc cũng là sự mâu thuẫn, ở ngay
trong bản thân, cũng là dối trá, chẳng qua cũng chỉ là sự giả dối…Tự do
chính trị là tự do giả, là chế độ nô lệ tồi nhất; nó chỉ là cái vẻ bề ngoài của tự
do và trên thực tế nó là chế độ nô lệ. Bình đẳng chính trị cũng vậy, vì thế chế
độ dân chủ giống như bất kỳ mọi hình thức quản lý nào khác, cuối cùng phải
tan rã. Sự giả dối không thể tồn tại lâu dài, mâu thuẫn che đậy ở trong nó tất
yếu sẽ phải bộc lộ ra, hoặc là chế độ nô lệ thực sự, tức là chế độ chuyên chế
không che đậy; hoặc là tự do thực sự và bình đẳng thực sự, tức là chủ nghĩa

cộng sản.


Ăng ghen cho rằng, cuộc cách mạng cộng sản như là bước mà xã hội
loài người nhất định phải trải qua để dẫn đến một xã hội dân chủ chân chính.
Nền dân chủ tư sản tuy là một bước tiến lịch sử vĩ đại so với thời
trung cổ nhưng dưới chế độ tư sản nó không thể không là một chế độ dân
chủ bị cắt xén, giả dối, một thiên đường cho bọn giàu có và là một cái bẫy
đối với người bị bóc lộc. Đặc biệt, khi chủ nghĩa tư bản chuyển sang chủ
nghĩa đế quốc thì nó càng thể hiện tính chất phản động của nó, dân chủ ngày
càng bị thu hẹp, nhân dân lao động ngày càng bị áp bức bóc lột nặng nề, dẫn
tới khoảng cách giàu nghèo ngày một xa.
Xét về bản chất:
- Nền dân chủ tư sản mang bản chất tư sản.
- Kinh tế: Dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về các
tư liệu sản xuất.
- Nhà nước: Được thực hiện bằng Nhà nước pháp quyền tư sản.
- Chính trị: Dưới sự lãnh đạo của Đảng tư sản trên nền chính trị đa
nguyên.
- Xu hướng phát triển: Không vượt qua giới hạn cho phép của chủ
nghĩa tư bản. Bởi vì trong
Như vậy, dân chủ tư sản là thứ dân chủ hình thức, dân chủ với bọn tư sản và
chuyên chính với nhân dân lao động.
Do đó, cần phải có một nền dân chủ thực sự thay thế dân chủ tư sản và
nền dân chủ đó là dân chủ vô sản.
+ Nền dân chủ vô sản: Theo LN chế độ dân chủ vô sản là chế độ của đại đa
số dân cư, của những người lao động bị bóc lột.
Quá trình ra đời: Nền dân chủ vô sản (dân chủ XHCN) ra đời khi giai
cấp công nhân và nhân dân lao động giành được chính quyền. Nó kế thừa tất
cả những giá trị nhân văn, nhân đạo của các nền dân chủ trước đó đặc biệt là

dân chủ tư sản. Dân chủ vô sản là nền dân chủ khác về chất so với các nền


dân chủ trước đó, nó thực hiện dân chủ rộng rãi cho tuyệt đại đa số, chỉ hạn
chế dân chủ đối với thiểu số bọn bóc lột.
Theo chủ nghĩa MLN thì chuyên chính vô sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa
về cơ bản là thống nhất.
Xét về bản chất nền dân chủ XHCN thể hiện sự dân chủ trên các mặt sau:
-

Về bản chất chính trị: Dưới sự lãnh đạo của một Đảng của giai cấp
công nhân đảng MLN mà trên mọi lĩnh vực xã hội đều thực hiện
quyền lực của nhân dân, thể hiện qua các quyền dân chủ, làm chủ,
quyền con người, thỏa mãn ngày càng cao hơn các nhu cầu và các lợi
ích của nhân dân. LN chỉ rõ bản chất chính trị của nền dân chủ XHCN
là sự lãnh đạo chính trị của giai cấp công nhân thông qua đảng của nó
đối với toàn xã hội, nhưng không phải chỉ đề thực hện quyền lực và
lợi ích riêng cho giai cấp công nhân mà chủ yếu là để thực hiện quyền
lực và lợi ích cho toàn thể nhân dân trong đó có giai cấp công nhân.
Cuộc cách mạng XHCN khác với các cuộc cách mạng trước đây ở chỗ
nó là cuộc cách mạng của số đông, vì lợi ích củ số đông nhân dân. LN
nhấn mạnh dân chủ XHCn là chế độ mà nhân dân ngày càng tham gia
nhiều vào công việc Nhà nước. Dân chủ XHCN vừa có bản chất giai
cấp công nhân, vừa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc.

Bản chất kinh tế: Nền dân chủ XHCN dựa trên chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất của toàn xã hội, đáp ứng ngày càng cao những nhu cầu
vật chất và tinh thần của toàn thể nhân dân lao động. Nó là sự kế thừa
và phát triển mọi thành tựu nhân loại đã tạo ra trong lịch sử đồng thời
loại bỏ những nhân tố lạc hậu, tiêu cực, kềm hãm của các chế độ kinh

tế trước đó nhất là bản chất tư hữu, áp bức, bóc lột, bất công đối với
đa số nhân dân.
- Bản chất tư tưởng – văn hóa: Nền dân chủ XHCN lấy hệ tư tưởng
MLN, hệ tư tưởng củ giai cấp công nhân làm nền tảng đối với mọi
hình thái ý thức xã hội trong xã hội mới như văn học, nghệ thuật, giáo
dục, đạo đức, lối sống…đồng thời kế thừa, phát huy những tinh hoa
văn hóa truyền thống các dân tộc, tiếp thu những giá trị tư tưởng văn
hóa, văn minh, tiến bộ xã hội mà nhân loại đã tạo ra ở tất cả các quốc
gia dân tộc.Do đó, đời sống tư tưởng, văn hóa của nền dân chủ XHCN
rất phong phú và đa dạng, toàn diện.
-


TỪ tất cả những ý nghĩa trên LN đã đi đến một tư tưởng khái quát “Dân
chủ tư sản là thứ dân chủ hơn gấp triệu lần dân chủ tư sản”.


Câu 4: Trình bày tính tất yếu, vị trí, vai trò, nội dung và phương hướng xây
dựng liên minh công – nông – trí trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.
Liên minh công nông trí là sự đoàn kết, hợp lực, hợp tác… của công nhân,
nông dân và đội ngũ trí thức nhằm thực hiện nhu cầu và lợi ích của mỗi lực
lượng và của cả khối liên minh, đồng thời góp phần thực hiện lợi ích chung
của cả dân tộc , của sự nghiệp xây dựng CHXH (tr.316 giáo trình).
1/ Tính tất yếu của liên minh công nông trí trong thời kỳ quá độ lên CHXH.
Tính tất yếu của liên minh công nông trí biểu hiện ở những mặt sau:
Một là: Xét dưới góc độ kinh tế kỹ thuật và phân công lao động:
Hai là: Xét dưới góc độ chính trị xã hội.
2/ Vị trí, vai trò của liên minh công công trí.
Trong thời kỳ quá độ tất yếu còn có các thành phần kinh tế dựa trên các hình
thức sở hữu khác nhau và vận hành theo cơ chế thị trường. Do đó giai cấp

công nhân phải tranh thủ sự ủng hộ của giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức
để tiến hành xây dựng xơ sở kinh tế - xã hội vững vàng, xây dựng chủ nghĩa
xã hội thành công. Các thế lực thù địch luôn tìm cách chia rẽ khối đại đoàn
kết dân tộc nhằm phá hoại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Do vậy,
liên minh công nông trí là vấn đề chiếc lược có ý nghĩa quyết định thắng lợi
của mọi quá trình cách mạng. Nếu không xây dựng được khối liên minh này
thì cách mạng xã hội chủ nghĩa không thể thành công.
Liên minh công nông trí là lực lượng cơ bản đóng vai trò quan trọng về
chính trị, inh tế, văn hóa, xã hội. Khi sản suất càng phát triển thì liên minh
này phải càng gắn bó chặt chẽ để tạo thành nền tảng vững chắc của chế độ
và là cơ sở chính trị xã hội bảo đảm sự lãnh đạo của ĐCS đối với toàn xã hội
và khối liên minh.
Mặt khác trong thời kỳ quá độ lên CNXH khối liên minh này đóng vai trò rất
quan trọng. Nó được hình thành, củng cố và tăng cường không chỉ xuất phát
từ yêu cầu khách quan mà trước hết đáp ứng yêu cầu tồn tại và phát triển của
mỗi lực lượng trong khối liên minh, đồng thời nhằm đảm bảo thực hiện lợi
ích của cả dân tộc.


Như vậy liên minh công nông trí có vị trí và vai trò quan trọng nhằm tạo ra
nguồn lực và động lực to lớn để phát triển đất nước, xây dựng và bảo vệ tổ
quốc XHCN.
3/ Nội dung cơ bản của liên minh:
Để thực hiện tốt các nội dung của liên minh, trong quá trình thực hiện liên
minh cần phải đảm bảo nguyên tắt sau:
Thứ nhất: Phải kết hợp đúng đắn lợi ích của các chủ thể trong khối liên
minh.
Thứ hai: Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng trong khối liên minh.
Từ những nguyên tắc đó khối liên minh thực hiện những nội dung cơ bản
sau:

-

Nội dung chính trị.

Nội dung kinh tế.
Nội dung văn hóa – xã hội.
4/ Phương hướng xây dựng liên minh công nông trí trong thời kỳ quá độ
lên CNXH ở nước ta.
-

Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, nhất là khi đất nước đang ở giai đoạn
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh
tế tri thức, liên minh trên cần phải được tăng cưởng vững chắc.
Một là: Quán triệt thực hiện đường lối chủ trương, chính s1ch của Đảng
về xây dựng giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
Đối với giai cấp công nhân: thực hiện chiến lược xây ựng giai cấp công
nhân lớn mạnh gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Giải quyết những vấn đề bức xúc, cấp bách của giai
cấp công nhân. Xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định tiến bộ trong
các loại hình doanh nghiệp. Coi trọng đào tạo, nâng cao trình độ học vấn,
chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp cho giai cấp công nhân….
Đối với giai cấp nông dân: Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân
cư nông thôn, nông dân được đào tạo có trình độ sản xuất ngang bằng với


các nước tiên tiến trong khu vực và đủ bản lĩnh chính trị, đóng vai trò làm
chủ nộng thôn mới..
Đối với độ ngũ trí thức: Thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do
tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo của trí thức. Tạo môi
trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động nghề nghiệp của trí thức.

Trọng dụng, đãi ngộ và tôn vinh trí thức….
Hai là: Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn, xây dựng nông thôn mới là phương thức căn bản và quan
trọng để thực hiện liên minh công nông trí thức ở Việt Nam hiện nay.
Ba là: Tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị ở cơ sở và thực hiệt tốt Quy
chế và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở cơ sở.
Bốn là: Kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức nghề nghiệp của công nhân, nông dân và trí
thức.
Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động và nâng cao chất
lượng hoạt động của tổ chức công đoàn trong các loại hình doanh nghiệp
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của công nhân.
Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của MTTQ và các
đoàn thể chính trị - xã hội ở nông thôn, tạo cơ chế và điều kiện thuận lợi
cho Hội nông dân Việt Nam trong việc thực hiện một số chương trình ,
dự án phục vụ sản suất và nâng cao đời sống của nông dân.
Nâng cao chất lượng hoạt động của Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật,
liên hiệp các hội văn học nghệ thuật trong học tập, vận động, đoàn kết trí
thức. Củng cố, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của các tổ chức
thành viên liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam…tạo môi
trường lành mạnh để phát huy năng lực sáng tạo và nâng cao phẩm chất
đạo đức của đội ngũ trí thức.
Phát huy mạnh mẽ vao trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà
nước và của các tổ chức chính trọ, xã hội nhằm tăng cường liên minh


công nông trí để khối liên minh thực sự là nền tảng của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc.




×