Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

Lịch sử dòng họ Lã trong cộng đồng người Nùng ở xóm Bắc Phong xã Dân Tiến huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 56 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

LÃ VĂN MỪNG

LỊCH SỬ DÒNG HỌ LÃ
TRONG CỘNG ĐỒNG NGƯỜI NÙNG Ở XÓM BẮC PHONG
XÃ DÂN TIẾN HUYỆN VÕ NHAI TỈNH THÁI NGUYÊN

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH : LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học : PGS.TS Hà Thị Thu Thuỷ

Thái Nguyên, năm 2014

i


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp của mình, em xin gửi lời cảm ơn
chân thành tới Ban giám hiệu, Phòng Đào tạo, Phòng Văn thư và các thầy cô
trong khoa lịch sử - trường Đại học sư phạm Thái Nguyên đã nhiệt tình chỉ
bảo và giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn tốt
nghiệp.
Với lòng biết ơn chân thành, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới cô giáo
PGS.TS Hà Thị Thu Thuỷ - người đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình
cho em trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn của mình.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các phòng ban chức năng
của Ủy ban nhân dân xã Dân Tiến đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình
thu thập số liệu, tài liệu cho việc hoàn thành luận văn tốt nghiệp của tôi.


Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình và bạn bè đã động viên,
khuyến khích tôi trong cả quá trình học tập và nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn!

Thái Nguyên, ngày 6 tháng 4 năm 2014
Tác giả
Lã Văn Mừng

ii


MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ...........................................................................................
MỞ ĐẦU.................................................................................................4
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ XÓM BẮC PHONG XÃ DÂN TIẾN
HUYỆN VÕ NHAI TỈNH THÁI NGUYÊN.......................................9
1.1 Tên gọi và lịch sử xóm Bắc Phong.................................................9
1.2 Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên.................................................12
1.3 Dân cư và thành phần dân tộc.......................................................13
1.4 Khái quát về tình hình kinh tế - xã hội xóm Bắc Phong...............17
CHƯƠNG 2: LỊCH SỬ DÒNG HỌ LÃ TRONG CỘNG ĐỒNG NGƯỜI
NÙNG Ở XÓM BẮC PHONG XÃ DÂN TIẾN HUYỆN VÕ NHAI TỈNH
THÁI NGUYÊN...................................................................................21
2.1 Lịch sử dòng họ Lã......................................................................21
2.2 Một số đặc trưng văn hoá dòng họ Lã..........................................25
2.2.1 Đặc trưng trong hoạt động sản xuất.....................................25
2.2.2 Đặc trưng trong tập tục chu kỳ đời người.............................28
2.2.3 Đặc trưng trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên........................42
2.2.4 Những nghi lễ tín ngưỡng liên quan đến sản xuất nông nghiệp...47

KẾT LUẬN..........................................................................................50
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................52
PHỤ LỤC.............................................................................................55

iii


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình hình thành làng bản của các dân tộc thiểu số khu vực miền
núi phía Bắc Việt Nam, mỗi dòng họ đến định cư là một bộ phận cấu thành.
Do vậy, lịch sử, văn hóa dòng họ là một yếu tố quan trọng tạo nên lịch sử, văn
hoá làng bản. Dù dòng họ nào, nếp gia phong thời phong kiến cũng quan
niệm cá nhân là một thành viên của những tổ chức hình vòng tròn đồng tâm:
gia đình, dòng họ, làng xã, đất nước. Bản chất của sự cố kết này là sự hình
thành tư tưởng cộng đồng, yêu thương, đùm bọc lẫn nhau, gắn kết giữa cá
nhân với tập thể, giữa cái chung và cái riêng. Tuy vậy, trong quá trình hình
thành, tồn tại và phát triển, mỗi dòng họ có lịch sử và ít nhiều nảy sinh sự
khác biệt tạo nên đặc trưng văn hoá của dòng họ.
Huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên là nơi sinh sống của nhiều dân tộc anh
em; Dao, Tày, Nùng, Kinh, Sán Chay, H’Mông,…, với các họ lớn như
Nguyễn, Lê, Hoàng, Lã, Lý, Trương, Hà,… Trong đó họ Lã là một trong số
các dòng họ chính của người Nùng ở địa phương. Dòng họ này định cư tại
xóm Bắc Phong xã Dân Tiến huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên có nguồn gốc
lịch sử lâu đời, có nhiều phong tục tập quán riêng trong sản xuất, sinh hoạt
văn hóa vẫn được duy trì đến nay. Tuy nhiên, trước tác động của những yếu
tố khách quan và chủ quan, lịch sử dòng họ và một số phong tục tập quán có
giá trị văn hóa đang đứng trước nguy cơ bị mai một. Là một người con của
dòng họ, tôi nhận thức được rằng việc nghiên cứu đặc trưng dòng họ Lã trong
cộng đồng người Nùng không chỉ giúp cho thế hệ trẻ hiểu rõ hơn về lịch sử,

phong tục tập quán của dòng họ này mà còn góp phần bảo tồn những giá trị
văn hóa của tộc người.
Vì những lý do trên, tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài: Lịch sử dòng họ Lã
trong cộng đồng người Nùng ở xóm Bắc Phong xã Dân Tiến huyện Võ

4


Nhai tỉnh Thái Nguyên. Qua việc nghiên cứu đề tài cũng là một đóng góp
nhỏ trong việc củng cố giá trị văn hóa, lịch sử của dòng họ.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Dòng họ là một hiện tượng lịch sử - văn hoá mang tính phổ quát, xuất hiện
từ lâu trong lịch sử nhân loại và tồn tại ở mọi nền văn hoá. Trên thế giới, đã từ
lâu dòng họ trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học với các
phân nhánh chuyên sâu: sử học, triết học, di truyền học, dân tộc học, nhân học
đại cương, gia phả học, xã hội học…
Ở Việt Nam, tính đến thời điểm này, việc nghiên cứu dòng họ đã đạt
được những thành tựu rất đáng ghi nhận. Trước năm 1945, tuy không nhiều
song đã xuất hiện những công trình nghiên cứu về dòng họ. Trong số đó phải
kể đến các công trình tiêu biểu của các tác giả: Phan Kế Bính, Pierre Gourou,
Đào Duy Anh … Sau năm 1945, đặc biệt là từ những năm 1986, trong không
khí đổi mới với tư tưởng chỉ đạo của Đảng: xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, nhiều công trình nghiên cứu
chuyên và không chuyên về dòng họ lần lượt được xuất bản. Tiêu biểu là công
trình của các tác giả: Toan Ánh, Nguyễn Đức Dụ, Lê Trung Hoa, Mai Văn
Hai, Phan Đại Doãn, Nguyễn Từ Chi…Nhiều cuộc hội thảo về dòng họ được
tiến hành với qui mô khác nhau. Việc nghiên cứu gia phả được thúc đẩy, trở
nên sôi nổi với nhiều địa chỉ trang web.

Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, đã có

nhiều bài viết về dòng họ của một số dân tộc thiểu số cũng được đăng tải trên
mạng internet. Sau khi xử lý các nguồn tài liệu trên phương diện này tôi đã
tham khảo bài viết tại Trang tin điện tử của Ủy ban Dân tộc - Người Nùng
tại web.cema.gov.vn v.v… cung cấp thông tin về các hoạt động trong đời
sống vật chất lẫn tinh thần của dân tộc Nùng.
Trong tác phẩm kinh điển “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu,
của nhà nước”, mặc dầu đã được kế thừa rất nhiều thành tựu nghiên cứu xuất
sắc từ công trình “Xã hội cổ đại” của L.H Moocgan (1818-1881), song F. Ăng

5


ghen (1820-1895) vẫn phải thừa nhận những khó khăn bất khả kháng trong
nghiên cứu dòng họ bởi “nguồn gốc và bản chất cho đến nay vẫn còn mù mịt
đối với tất cả các nhà sử học của chúng ta”.
Cuốn “Những điều nên biết về phong tục Việt Nam”, Bảo Thắng chủ
biên(2006), Nxb Văn hoá thông tin đã giải toả được phần nào nỗi băn khoăn và
lúng túng về các phong tục đã tồn tại lâu đời ở nước ta. Từ việc phân tích những
điều hay, dở mà trong cuốn sách giúp cho người đọc hiểu rõ hơn về phong tục
tập quán và có một cách nhìn nhận riêng, áp dụng trong đời sống thực tế [3].
Công trình “Bảy dòng họ thổ ty Lạng Sơn”, của tác giả Lã Văn Lô là một
trong những tác phẩm nghiên cứu về các dòng họ dân tộc ít người tại một địa
phương. Các dòng họ này đã được đề cập tới vai trò của dòng họ thổ ty trong
lịch sử, công lao và những đóng góp trong việc bảo vệ biên cương phía Bắc,
được triều đình phong kiến ban cho đất đai, chức tước, bổng lộc nối đời kế
tục, trấn thủ nơi biên thùy [8].
Tác giả Đào Duy Anh, “Đất nướcViệt Nam qua các đời” (2010), Nxb Văn
hoá thông tin đã khái quát quá trình lịch sử nước ta từ khi hình thành đến nay,
quá trình đấu tranh chống xâm lược của các dòng họ theo tiến trình lịch sử [3].
Có rất nhiều công trình nghiên cứu về các dòng họ của người Việt Nam

như: “Họ và tên người Việt Nam”, xuất bản năm 1992 của Lê Trung Hoa.
Trên cơ sở thống kê 931 họ ở Việt Nam, tác giả đã đi sâu nghiên cứu một số
dòng họ lớn như Nguyễn, Trần…Công trình “Sơ thảo tính danh học Việt
Nam” - xuất bản tại hải ngoại năm 2003, của tác giả giả Nguyễn Long Thao
đề cập tới danh xưng đặc biệt, tên họ, tên đệm, tên chính, tục lệ, kỵ húy và sự
xưng hô tên người Việt Nam [10].
Nghiên cứu văn hóa dân tộc thiểu số là một trong những hướng nghiên cứu
quan trong khoa học xã hội và nhân văn bao gồm các ngành như dân tộc học,
nhân chủng học, địa danh học, văn hóa học,… Trong đó dòng họ hay gia tộc

6


là đối tượng của một khoa học mới là phả hệ học thu hút sự chú ý của nhiều
nhà nghiên cứu.
Việc nghiên cứu dòng họ ở Việt Nam còn gặp không ít những khó khăn,
nhất là vấn đề gia phả - khâu then chốt nhất để nghiên cứu dòng họ. Trong khi
nhiều quốc gia đã nghiên cứu chuyên sâu môn Gia phả học với hệ thống gần
200 trường đại học danh tiếng trên thế giới thì ở Việt Nam, thành tựu nghiên
cứu gia phả học còn rất khiêm tốn. Việc sưu tầm gia phả cũng gặp không ít
khó khăn. Vì những lý do khác nhau nên rất nhiều cuốn gia phả có giá trị cao
về văn hóa, lịch sử hiện vẫn đang lưu truyền trong dân gian mà giới nghiên
cứu chưa thể sưu tầm. Bên cạnh đó sự đơn điệu về mặt phương pháp nghiên
cứu đã hạn chế rất nhiều thành tựu nghiên cứu về dòng họ ở Việt Nam. Vì
những khó khăn khách quan và chủ quan nêu trên nên so với nhiều mảng văn
hóa khác, những thành tựu nghiên cứu về văn hóa dòng họ thường mỏng và
thưa vắng. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu lịch sử dòng họ Lã ở xóm Bắc
Phong, xã Dân Tiến, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên sẽ góp thêm một phần
nhỏ vào việc nghiên cứu dòng họ từ góc nhìn lịch sử nguồn gốc, văn hóa. Với
hướng tiếp cận này, chúng ta sẽ có thêm một cơ sở khoa học để khám phá sâu

hơn bản sắc văn hóa Việt Nam từ góc nhìn văn hóa dòng họ.
Điểm qua một số công trình nghiên cứu trên đây cho thấy việc nghiên cứu
về dòng họ nói chung và văn hóa dòng họ nói riêng của các dân tộc thiểu số
đang là một hướng nghiên cứu mới. Đối với việc nghiên cứu về lịch sử dòng
họ Lã, những công trình này là nguồn tư liệu quý báu giúp tác giả tiếp cận
nghiên cứu và hoàn thiện đề tài.
3. Đối tượng, nhiệm vụ, mục đích, phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng
Đề tài nghiên cứu Lịch sử văn hóa dòng họ Lã ở xóm Bắc Phong xã Dân
Tiến huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên.
3.2 Nhiệm vụ

7


- Phân tích đặc điểm môi trường tự nhiên và xã hội của xóm Bắc Phong xã
Dân Tiến huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên.
- Điều tra, khảo sát và làm rõ nguồn gốc lịch sử, đặc trưng văn hóa dòng
họ Lã trong cộng đồng người Nùng ở xóm Bắc Phong xã Dân Tiến huyện Võ
Nhai tỉnh Thái Nguyên.
3.3 Mục đích
Tìm hiểu lịch sử của dòng họ Lã trong cộng đồng người Nùng ở xóm Bắc
Phong xã Dân Tiến huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên từ đó làm rõ những
điểm tương đồng và khác biệt về lịch sử, phong tục tập quán với các dòng học
khác ở địa phương.
3.4 Phạm vi
- Không gian: Chủ yếu là nơi định cư của dòng dòng họ Lã trong cộng
đồng người Nùng tại xóm Bắc Phong xã Dân Tiến huyện Võ Nhai tỉnh Thái
Nguyên.
- Thời gian: Đề tài nghiên cứu lịch sử và những phong tục tập quán của

dòng họ Lã từ khi cư trú ổn định đến nay (từ 1900 - 2013).
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài tác giả đã sử dụng hai phương pháp là
phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic. Ngoài ra còn sử dụng các phương
pháp điền dã dân tộc học, thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp,…để hoàn
thiện đề tài.
5. Đóng góp của đề tài
- Đề tài nghiên cứu lịch sử dòng họ của một dân tộc thiểu số góp phần làm
rõ và bổ sung vào nguồn tư liệu về dòng họ nói riêng và vào văn hoá tộc
người Nùng nói chung.
6. Cấu trúc của đề tài
- Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phục lục thì nội dung đề
tài gồm hai chương:

8


Chương 1: Khái quát về xóm Bắc Phong xã Dân Tiến huyện Võ Nhai tỉnh
Thái Nguyên
Chương 2: Lịch sử dòng họ Lã trong cộng đồng người Nùng xóm Bắc
Phong xã Dân Tiến huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên

CHƯƠNG 1:
KHÁI QUÁT VỀ XÓM BẮC PHONG XÃ DÂN TIẾN HUYỆN VÕ
NHAI TỈNH THÁI NGUYÊN
1.1. Tên gọi và lịch sử xóm Bắc Phong
Thôn xóm của người Nùng thường cư trú xen kẽ với người Tày, Kinh,
H’mông. Tuy vậy, họ cũng cư trú thành bản riêng trên cơ sở những nguồn lợi
tự nhiên như nguồn nước, đất đai, rừng núi,…để thuận lợi cho việc canh tác
lúa nước và làm nương rẫy. Ranh giới giữa các bản thường được ước lệ bằng

con suối, dải đồi hoặc các vật có sẵn trong tự nhiên khác như luỹ tre, cây đa,
… Thực tế cho thấy ranh giới giữa các bản thường dựa trên cơ sở ý thức tự
giác về quyền chiếm hữu của cộng đồng. Trong phạm vi đất đai của bản, các
thành viên có quyền cư trú, khai thác các nguồn lợi tự nhiên, đất đai để trồng
trọt và chăn nuôi. Theo tập quán, họ thường lấy khu vực cư trú làm trung tâm
từ đó phát triển thành các khu vực trồng trọt, chăn nuôi, sinh hoạt công đồng
về phạm vi và quy mô.
Theo truyền thống, địa vực cư trú của người Nùng được hình thành trên cơ
sở dòng họ, mỗi dòng họ có một khu vực cư trú riêng. Hiện nay do nhu cầu
phát triển kinh tế, dân số tăng nhanh, quan hệ hôn nhân,…, nên hầu hết các
làng bản của người Nùng, các dòng họ đã cư trú xen kẽ. Việc bố trí, xây dựng
nhà cửa trong bản thường dựa vào phong thuỷ; hướng núi, sông, suối.

9


Tên gọi xóm Bắc Phong trước đây là bản “Cốc Nùng” thuộc tổng Tràng
Xá , “Cốc Nùng” dịch ra tiếng phổ phổ thông có nghĩa là bản gốc của người
Nùng. Bởi vì nơi đây 100% là người Nùng sinh sống từ rất lâu đời. Tuy
nhiên, tên gọi “Cốc Nùng” có từ bao giờ thì chưa có cơ sở để xác định chính
xác được, chỉ biết là trước năm 1945 bản “Cốc Nùng” đổi tên thành xóm Bắc
Phong, thuộc xã Dân Tiến, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên.
Xóm Bắc Phong là nơi sinh sống của tuyệt đại đa số người Nùng từ hơn
một thế kỷ, nhưng nay địa danh này lại được đặt tên theo tiếng Kinh. Bởi vì
nơi đây nằm ở phía Bắc của huyện Võ Nhai, lại thường xuyên chịu ảnh hưởng
của gió mùa Đông Bắc và gió mùa Tây Nam nên gọi là xóm Bắc Phong.
Bắc Phong có người định cư từ khi nào cần được nghiên cứu thêm. Theo
tài liệu tự khảo sát ở địa phương cho biết, từ thời Bắc thuộc đã có người Nùng
sinh sống ở đây nhưng không rõ là du canh hay du cư. Và khi giặc phương
Bắc sang đô hộ nước ta chúng đã tàn sát đồng bào ở đây rất dã man, hầu như

cả bản bị giết, chỉ còn lại chục người trốn thoát vào rừng. Sau đó họ tiếp tục
làm ăn, sinh sôi nảy nở cùng với dân tộc ở các bản lân cận. Cụ tổ 7 đời của họ
Lã đem theo anh em, gia đình, vợ con từ Na Sầm (Lạng Sơn) xuống khai
hoang và sinh sống tại đây từ năm 1900. Tính đến nay đã được 4 đời, con
cháu phát triển nhanh chóng lan tỏa ra những xóm lân cận như Đồng Rã,
Đồng Chuối của xã Dân Tiến huyện Võ Nhai[14].
Thời kỳ thực dân Pháp thống trị, chính quyền thực dân câu kết với tầng
lớp trên ở địa phương bóc lột nhân dân ta. Chúng thực hiện chính sách chia để
trị, chia rẽ các dân tộc, dòng họ, lợi dụng triệt để sự khác biệt về phong tục để
dễ bề cai trị làm cho mối quan hệ giữa các dân tộ anh em bị rạn nứt. Dòng họ
Lã duy trì quan hệ buôn bán, quan hệ hôn nhân và các mặt hoạt động xã hội
khác cùng dân tộc mình.
Ngày 21/3/1945, chính quyền cách mạng huyện Võ Nhai - chính quyền
cấp huyện đầu tiên ở tỉnh Thái Nguyên ra đời, đã đánh dấu mốc son chói lọi

10


trong trang sử đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Võ
Nhai. Tầng lớp trên tại địa phương bị đánh đổ. Tuy nhiên, không lâu sau đó
thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta, nhân dân các tộc người Võ Nhai
đã đứng lên chiến đấu anh dũng, lập được nhiều thành tích.
Trong những năm kháng chiến chống Mĩ cứu nước, hưởng ứng các
cuộc vận động lao động “Tất cả vì miền Nam ruột thịt” nhân dân đồng
bào dân tộc nơi đây đã hăng hái sản xuất và chi viện một phần nhỏ bé
sức lực của mình cho cuộc kháng chiến. Và nhiều anh hùng đã ngã
xuống cho nền độc lập tự do của Tổ quốc.
Sau năm 1975, để bảo vệ nền độc lập thống nhất non trẻ và thực hiện
nhiệm vụ quốc tế, bảo vệ biên giới phía Bắc hơn chục thanh niên xóm Bắc
Phong nói chung và thanh niên dòng họ Lã nói riêng đã lên đường nhập ngũ ở

các chiến trường Campuchia và biên giới phía Bắc (thời kỳ 1979-1988) . Sau
khi thực hiện chủ trương đổi mới từ sau Đại hội Đảng lầ VI (12/1986), đời
sống của đồng bào từng bước được nâng lên. Hiện tượng du canh du cư, đốt
rừng làm nương được hạn chế, đồng thời phát triển các mặt văn hoá, giáo dục
và y tế tại địa phương [18].
Từ năm 1999, thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo 135. Đến nay,
nhiều công trình đã được đầu tư xây dựng từ nguồn vốn này như: trường
THCS Dân Tiến 2; hệ thống kênh mương, thủy lợi... với tổng vốn đầu tư hàng
trăm triệu đồng. Cơ sở hạ tầng được đầu tư xây dựng, người dân ở càng vững
tin để vươn lên phát triển kinh tế gia đình [11]. Được sự hỗ trợ của Đảng và
Nhà nước, sự quan tâm của các cấp chính quyền địa phương bà con trong
xóm đã tích cực đổi mới phương thức sản xuất, đưa các giống mới vào gieo
trồng, mở rộng diện tích trồng cây màu như ngô, đỗ, lạc... Nhiều giống mới
năng suất cao, chất lượng tốt đã được bà con mạnh dạn đưa vào trồng thay
cho các giống lúa, ngô địa phương năng suất thấp... Để trợ giúp nông dân

11


trong sản xuất, xã đã tranh thủ sự giúp đỡ của Phòng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn huyện mở các lớp tập huấn kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi theo
từng mùa vụ. Được trang bị về khoa học kỹ thuật, hỗ trợ giống, vốn, dòng họ
trong bản nói chung và dòng họ Lã nói riêng ở xóm giờ đã bỏ được tệ phát
nương đốt rẫy, ổn định sản xuất.
Đến nay, năng suất lúa của xã đạt gần 6 tấn/ha, năng suất ngô đạt trên 3
tấn/ha. Hiện xã cũng đã có gần 2.00 con trâu, bò và hàng nghìn con gia cầm
các loại. Dịch vụ trên địa bàn xã cũng phát triển với nhiều loại hình như cung
ứng vật tư phục vụ sản xuất, hàng tiêu dùng nông sản, lò rèn, sửa chữa máy
móc, đồ điện, máy xay xát, máy cày...
1.2. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên

Xóm Bắc Phong nằm ở phía Đông Bắc của xã Dân Tiến, phía Đông Bắc
giáp xóm Đồng Rã, phía Tây Bắc giáp xóm Tân Tiến, phía Nam giáp với xóm
Đồng Chuối, thuộc xã Dân Tiến, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên [2, tr 1].
Xóm Bắc Phong cách Ủy ban nhân dân xã Dân Tiến 5 ki lô mét về phía
Nam, các thị trấn Đình Cả 15 ki lô mét về phía Tây Bắc và cách trung tâm
thành phố Thái Nguyên 60 ki lô mét về phía Tây.
Diện tích tự nhiên của xóm Bắc Phong là 527 hecta , trong đó đất nông
nghiệp là 56 hecta; đất lâm nghiệp là 460 hecta; đất nuôi trồng thuỷ sản là 5
hecta; đất khác khoảng 6 hecta [2, tr 5].
Về địa hình, xóm Bắc Phong bao gồm nhiều cánh đồng lớn nhỏ, các khe
và nhánh suối, rừng với nhiều địa danh gồm cả tiếng Kinh, Tày, Nùng như
các cánh đồng Cúc Nùng, Đồng Quýnh, tồng kế Khiêm, Nà Bon; các khe suối
khuổi kế Quản, khuổi kế Thông, bủng Chục Nặm, bủng Cốc Quéo, bủng Cốc
Cán; các ngọn đồi Kéo Tắm, Pò Khá, đung pàu (rừng vầu), Pò Cốc Nhàn [2,
tr 3]. Nhìn về mặt tổng thể, xóm Bắc Phong giống như một máng nước uốn
khúc có chiều dài ki lô mét dọc theo nhánh chính của khuổi Vằng Kheo. Vị
trí địa lí của xóm nằm gọn trong hạ lưu con suối này trước khi chảy đến

12


cầu…nối liền xã Dân Tiến và xã Tràng Xá rồi đổ ra dòng sông Dong. Hai bên
bờ suối là nhà cửa, ruộng, ao cá xen kẽ là những bãi, đồi, ngọn núi. Con suối
này là nguồn cung cấp nước chính cho các cánh đồng. Nằm ở khu vực miền
núi trung du, xóm Bắc Phong có nhiều gò đồi, núi thấp với độ cao trung bình
từ 350 – 400 mét so với mực nước biển. Đây là tầng địa hình chủ yếu của phía
Đông Bắc của tỉnh Thái Nguyên, độ dốc trung bình 16 độ [2, tr4].
Khí hậu chịu ảnh hưởng nhiều của gió mùa Đông Bắc và gió mùa Đông Nam,
với lượng mưa nhiều, trung bình 16000 milimét trên năm. Mùa đông thường kéo
dài từ tháng 11 đến tháng 3 do ảnh hưởng của các đợt gió mùa Đông Bắc, sương

muối có khả năng xảy ra, mưa ít nên nguồn nước vào mùa khô khan hiếm [2, tr 5].
Về động thực vật, cách đây 3- 4 thập kỷ, rừng ở xóm Bắc Phong chủ yếu
là rừng nguyên sinh, cây cối um tùm với nhiều loại gỗ quý lâu năm như đinh,
lim, sến, táu…Đây cũng là nơi sinh sống của nhiều loài động vật như hổ,
hươu, nai, nhím, sóc, cầy hương, lợn rừng, gà rừng. Trước những năm 90 của
thế kỷ XX, do nhân dân đốt nương làm rẫy, khai thác gô không có kế hoạch
và săn bắt thú rừng nên độ tre phủ của rừng giảm mạnh, các loài động vật bị
uy giảm về số lượng và hầu như có loài đã bị tuyệt chủng. Triển khai chương
trình trồng cây phủ xanh đất trống đồi trọc, nhất là từ năm 1990 đến nay, nhân
dân địa phương đã đẩy mạnh trồng rừng nên diện tích bao phủ đã đăng lên
đáng kể. Hiện nay, rừng chủ yếu là rừng tái sinh, rừng thưa với các loại cây
gỗ lâu năm như bạch đàn, keo, lát, mỡ…, và một số loài thú nhỏ chim, rúi,
sóc, gà rừng...[17].
1.3. Dân cư và thành phần dân tộc
Tính đến năm 2013, xóm Bắc Phong có 97 hộ gia đình với 312 nhân khẩu.
Trong đó họ Lã chiếm 23 hộ với khoảng 61 nhân khẩu. Xóm Bắc Phong có 5
dòng họ; Hà (18 hộ), Hoàng(12 hộ), Lê (9 hộ), Lý (13 hộ), Nông (22 hộ). Các
dòng họ còn lại có chi nhánh ở các xóm lân cận đông đúc hơn. Thành phần
dân tộc về cơ bản khá thuần nhất. Người Nùng chiếm tuyệt đại đa số với 206

13


nhân khẩu. Ngoài ra người Tày với 106 nhân khẩu, H’Mông 16 nhân khẩu,
những hộ này từ các xóm, xã lân cận đến nhập khẩu [2, tr2]. Trong thời kỳ
đầu mới khai phá làng chỉ có hơn hai chục nóc nhà sàn, lợp lá gianh với vài
chục nhân khẩu. Song đến thập kỷ 60-70 của thế kỷ XX, dân số tăng nhanh
do nhu cầu sức lao động.
Hiện tượng dân di cư từ nơi khác đến rất ít và di cư đi nơi khác sống cũng
không đáng kể, thập niên 80 có một số người đi vào tỉnh Bình Phước làm ăn

lập nghiệp.
Dân cư trong độ tuổi lao động chiếm tỷ lệ khá cao với trên một nửa dân số.
Các hộ nông dân chiếm tỷ lệ trên 96%, chỉ có gần chục hộ gia đình là công
nhân viên chức nhà nước. Trình độ dân trí hiện nay đã cao hơn trước rất
nhiều, trẻ em trong độ tuổi đi học đều được đến trường, trên địa bàn huyện có
66 trường học các cấp trong đó đã hoàn thành chương trình phổ cập giáo dục
tiểu học và phấn đấu tới năm 2015 hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ
sở và trung học phổ thông, 100% đồng bào không theo đạo, chỉ có tín ngưỡng
dân gian truyền thống và bảo tồn nhiều nét văn hoá phong tục dân tộc. Hiện
nay, hầu hết những người lớn tuổi vẫn sử dụng tiếng Nùng để giao tiếp hàng
ngày. Tuy nhiên, do nhu cầu của việc học tập nên những em nhỏ trong dòng
họ Lã nói riêng và các dòng họ khác nói chung đang đứng trước nguy cơ “tốc
cúc” (mất gốc) chỉ nói tiếng phổ thông nên tiếng dân tộc của mình các em hầu
như không biết nói. Đây là một thực trạng rất đáng báo động.
Về nguồn gốc loài người, dựa vào các truyền thuyết dân gian, thần thoại,
sách cúng trong dân gian, Bonifacy đã ghi lại như sau: Khởi thuỷ nước và đất
đều không có, nhưng nước và đất không rời nhau, đã có Bàn Vương biết con
đường thẳng. Bàn Vương xuống biển và mang một con kỳ lân lên trời. Bằng
hơi thở của mình, ông ta đã làm được 9 mặt trời quay quanh mặt đất. Về sau
Thích ca tiêu diệt 7 mặt trời đủ chiếu sáng mặt đất nhưng không đốt cháy.

14


Năm Vĩnh Trinh thứ 3 có nạn hồng thuỷ ngập mặt đất, chỉ còn lại núi Côn
Lôn nước không ngập đến. Vạn vật chết hết chỉ còn Phục Hy và cô em gái
sống sót trong vỏ quả bầu tiên trên ngọn núi Côn Lôn. Họ cứ đi mãi không
thấy người nào. Khi đó chỉ có con rùa đen hiện lên bảo họ phải lấy nhau. Họ
giết con rùa và cắt xác thành từng mảnh nhưng con rùa không chết mà lại
sống lại. Rùa tiếp tục khuyên bảo họ. Họ không nghe mà tiếp tục đi mãi. Lúc

đó lại hiện lên một cái cây bảo họ lấy nhau. Họ lấy dao chặt cây đốt thành hai
đống lửa, khi hai đống lửa bay lên mặt sông quấn quýt lấy nhau và sau một
đêm, người con gai có mang. Mười tháng sau thì trên đỉnh núi Côn Lôn cô gái
đẻ ra một khối thịt hình mai rùa, khối thịt được phân làm 300 mảnh và trở
thành các họ của loài người. Có 50 mảnh trở thành dòng họ của cac chúa đất
và thánh thần. Nhưng về sau có nhiều đàn ông hơn đàn bà, họ không có quần
áo, không có thắt lưng, không biết làm nhà và gieo hạt…, họ ăn sống nuốt
tươi và không có học hành gì, giao cấu lại bừa bãi. Rồi Phục Hy trở lại trên
mặt đất dạy họ biết may mặc quần áo, Lỗ Ban dạy họ dựng nhà, Ngọc Hoàng
dạy họ dùng lửa, Thần Nông dạy họ làm ruộng nương…
Về nguồn gốc tộc người, Bonifacy viết: có 2 người con trai và 12 người
con gái, người con trai cả là tổ tiên người Hán, người con trai thứ là tổ tiên
người Kinh. Còn 12 người con gái thì Bàn Cổ không thể gả chồng cho hết
được [6, tr 889- 928].
Tiếng Nùng là ngôn ngữ của người Nùng, đây là ngôn ngữ thuộc Hệ ngôn
ngữ Tai-Kadai được nói chủ yếu ở các tỉnh Lạng Sơn và Cao Bằng, Việt Nam.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Nùng ở Việt Nam có
dân số 968.800 người, là dân tộc có dân số đứng thứ 7 tại Việt Nam, có mặt
trên tất cả 63 tỉnh, thành phố. Số người nói tiếng Nùng có thể nhỏ hơn số liệu
trên chút ít.

15


Các nhóm địa phương của người Nùng như Nùng Ân, Nùng Phàn Sình,
Nùng Cháo, Nùng Dín, Nùng Xuồng có sự khác biệt ít nhiều về ngôn ngữ,
bao gồm ngữ âm và một phần từ vựng giữa tiếng nói các địa phương. Tiếng
Nùng An phát âm gần như tiếng Cao Lan - Sán Chay và tiếng Giáy. Tiếng nói
người Nùng Phủ ảnh hưởng âm sắc của tiếng Tày.
Người Nùng dùng chữ Hán hay chữ Nôm Nùng (được phát triển khoảng

thế kỷ 17) để ghi chép thơ ca và truyện cổ dân gian. Bài Mo Nùng được ghi
bằng chữ Nôm trên giấy bản, gia phả nhiều dòng họ còn giữ lại cũng được ghi
bằng chữ Nôm Nùng. Chữ Nùng dựa trên cơ sở chữ cái La
Tinh từ năm 1961 [22].
Quan hệ xã hội: Trước Cách mạng tháng Tám, xã hội người Nùng đã đạt
đến trình độ phát triển như ở người Tày. Ruộng và nương thâm canh đã biến
thành tài sản tư hữu, có thể đem bán hay chuyển nhượng. Hình thành các giai
cấp: địa chủ và nông dân.
Thái Nguyên có nhiều nhóm Nùng có nguồn gốc từ các tỉnh lân cận như
Lạng Sơn, Cao Bằng, Tuyên Quang, ….. Họ đến đây do nhiều nguyên nhân
và vào nhiều thời điểm khác nhau. Có những nhóm Nùng do bị áp bức bóc lột
của các thế lực phong kiến Hán, họ đã bỏ quê hương đến các tỉnh biên giới
phía Bắc, rồi dần dần đi sâu vào nội địa, đến Thái Nguyên; cũng có nhóm do
giặc giã, cướp bóc, dịch bệnh mà di cư dần đến vùng này; thậm chí có những
nhóm Nùng mới đến đây cư trú sau chiến tranh biên giới (1979). Tìm hiểu
thực tế, ở Thái Nguyên hiện có 5 nhóm Nùng (nhóm địa phương): Nùng Phàn
Slình, Nùng Cháo, Nùng Inh, Nùng An và Nùng Giang. Nhóm Nùng Cháo cư
trú lâu đời nhất, tiếng nói của họ gần giống như người Tày, cư trú ở huyện
Đồng Hỷ, Võ Nhai, Đại Từ. Nhóm Nùng Phàn Slình, có nguồn gốc di cư từ
Bình Gia, Văn Quan, Cao Lộc (Lạng Sơn) cư trú ở Võ Nhai, Đồng Hỷ, Đại

16


Từ. Nhóm Nùng An, Nùng Inh, Nùng Giang có nguồn gốc từ Cao Bằng hiện
cư trú ở huyện Phú Lương, Võ Nhai, Phú Bình.
Nùng là dân tộc đứng ở vị trí thứ 3 về dân số của Thái Nguyên. Với
54.628 người chiếm 5,22% dân số toàn tỉnh, dân tộc Nùng cư trú ở tất cả các
huyện, thị xã và thành phố trong tỉnh. Trong đó, đông nhất là ở huyện Đồng
Hỷ (chiếm 26,8% dân số Nùng), tiếp đến là Võ Nhai (21,5%), Đại Từ

(19,7%), Phú Bình (7,7%). Địa phương có ít người Nùng nhất là thị xã Sông
Công (0,4%).
Năm 1960 người Nùng có mặt ở 95/162 xã phường của Thái Nguyên, tuy
nhiên quy mô dân số Nùng ở từng xã không lớn, thường là vài chục hoặc vài
trăm người, số xã có từ 500 người Nùng trở lên chỉ có 8 xã, đó là Hùng
Cường huyện Đại Từ; Động Đạt huyện Phú Lương; Cúc Đường, Nghinh
Tường, Phú Thượng huyện Võ Nhai; Minh Lập huyện Đồng Hỷ; Tân Thành
huyện Phú Bình. So với dân số của từng xã, tỷ lệ của người Nùng cũng không
lớn, chỉ có 3 xã là chiếm tỷ lệ trên 50%, đó là các xã: Tân Long, Lâu Thượng
huyện Võ Nhai và Tân Thành huyện Phú Bình.
Năm 1999, người Nùng lại cư trú phân tán ra hầu khắp các xã, phường
trong tỉnh (179/180 xã), số xã có dới 40% dân số Nùng trong xã đã chiếm 176
xã, còn lại 3 xã có từ 50% dân số Nùng trở lên là: Tân Long (65,8%) huyện
Đồng Hỷ, Lâu Thượng (54,4%) huyện Võ Nhai và Tân Thành [23].
1.4. Khái quát về tình hình kinh tế -xã hội xóm Bắc Phong
1.4.1 Một vài nét về hiện trạng kinh tế xóm
Trước đây, tình hình kinh tế xóm còn nghèo nàn lạc hậu. Với kỹ thuật
canh tác lạc hậu và những chính sách thuế khóa nặng nề của thời thực dân
phong kiến đã làm cho đời sống khổ cực, lương thực không đủ ăn, phải ăn
sắn, ăn ngô độn gạo.

17


Từ năm 1986 đến nay, hoà chung với sự phát triển của đất nước, những chính
sách ưu đãi của Đảng và Nhà nước đã góp phần nâng cao đời sống của nhân dân.
Từ việc thiếu ăn hàng ngày đã tiến tới đủ ăn, của cải dư thừa ngày một nhiều, đời
sống của những dòng họ trong xóm Bắc Phong ngày càng no đủ hơn [14].
Về trồng trọt, ngoài những giống lúa, ngô đơn thuần dài ngày, cho năng suất
thấp thì nhiều giống lúa, ngô ngắn ngày, năng suất cao đã được nhân dân trong

xóm. Như giống lúa khang dân, bao thai lùn, nếp Lang Liêu; các giống ngô lai
NK 6654, NK 66, NK888… làm cho năng suất nông nghiệp tăng lên. Sản lượng
lúa trong xóm đạt 2 tạ trên 1 sào Bắc bộ; sản lượng ngô đạt 4 đến 5 tạ trên một
sào Bắc bộ. Ngoài ra các loại khoai, sắn, đậu, lạc…, cũng được bà con chú trọng
và đạt năng suất cao. Hệ thống kênh mương phục vụ tưới tiêu cho nông nghiệp
trong xóm cũng được nhà nước hỗ trợ vốn xây dựng đến tận ruộng của từng gia
đình. Trên những cánh đồng của đồng bào xóm Bắc Phong ngày nay máy móc
đã thay thế phần lớn lao động của con người, việc áp dụng khoa học kĩ thuật mới
đã đem lại hiệu quả khá cao. Sản lượng ngô, lúa, khoai, sắn tăng lên đã cung cấp
nguyên liệu cho phát triển chăn nuôi phục vụ cho nhu cầu tự cung tự cấp cho
mỗi gia đình và tạo điều kiện cho thương nghiệp phát triển.
Năng suất lao động tăng lên những sản phẩm nông nghiệp được nông dân
đem bán chủ yếu là ngô, sắn, đỗ tương, lạc, lúa… Hai chục năm về trước bà
con phải mang ra chợ phiên bán cho các lái buôn nhưng hiện nay lái buôn vào
tận nhà để thu mua nông sản.
Về chăn nuôi, đồng bào xóm Bắc Phong có thế mạnh chăn nuôi gia súc
lớn, gia cầm và thuỷ sản ao, hồ. Trong chăn nuôi, đồng bào chú trọng chăn
nuôi đại gia súc như trâu, bò để lấy sức kéo, phân bón, lợn, dê để lấy thịt, chó
để đi săn và giữ nhà; gia cầm có gà, vịt, ngan, ngỗng. Hầu hết các gia đình
trong xóm đềucó quan niệm lý tưởng về môi trường sinh thái quanh nhà là
vườn tược, ao cá. Do đó ở những nơi thuận tiện về nguồn nước đồng bào đã

18


đào ao thả cá với quy mô lớn nhỏ khác nhau tùy theo từng hộ gia đình. Bên
cạnh đó còn phổ biến cả hình thức thả cá ruộng [14].
Bên cạnh trồng trọt và chăn nuôi đồng bào trong xóm còn duy trì và phát
triển nghề săn bắn, đánh bắt và hái lượm truyền thống. Thiên nhiên vốn ưu
đãi đồng bào miền núi thế mạnh về rừng, trong đó cung cấp nguồn động, thực

vật vô cùng phong phú để bổ sung cho bữa ăn hàng ngày và còn là nguồn
cung cấp dược liệu quý giá. Vì vậy, đồng bào vốn có kỹ thuật và kinh nghiệm
săn bắt thú rừng khá cao. Vũ khí chính của họ là súng, nỏ tự chế để bẫy gà
rừng, sóc, chồn, cáo… , và hái lượm một số loại rau rừng như măng, nấm, rau
bồ khai, rau ngót rừng, đặc biệt là các loại cây rừng được dùng làm thuốc.
1.4.2 Tình hình văn hoá - xã hội
Là cư dân nông nghiệp trồng lúa nước, đồng bào trong xóm Bắc Phong cư
trú ổn định bên các cánh đồng, ven sông, xuối. Họ sống thành làng bản, chia
nhỏ thành từng khu cụm có khoảng trên dưới 200 nóc nhà. Hướng của các
nhà thường quay ra cánh đồng, sông xuối và dựa lưng vào núi. Nhà của họ là
nhà sàn, lợp bằng lá cọ, nhà ở của cư dân trong xóm có quy mô khá lớn,
ngoài nhà sàn “lườn chàn” là ngôi nhà truyền thống, thì hiện nay họ còn còn
ở nhà nền - nhà lấy nền đất làm mặt bằng sinh hoạt, có hoặc không đổ xi
măng, và những gia đình có điều kiện thì làm nhà xây. Trước đây khi còn ở
nhà sàn, thì giữa nhà đặt một cái bếp sinh hoạt, phía trong cùng của gian nhà
chính là nơi đặt bàn thờ tổ tiên, các gian phụ là nơi đặt giường ngủ, bàn uống
nước. Nhà của họ thường chỉ mở một cửa ra vào ngay chính phía cầu thang.
Một bên thông với sàn phơi (sàn phơi dựng cao khoảng 1 đến 1,5 mét). Gầm
sàn nhà làm cao ráo, để nhốt trâu, bò, lợn, gà. Ngày xưa, đồng bào thường
làm nhà bằng các loại gỗ tròn, vuông, đục mộng ở cột kèo. Việc chọn gỗ làm
nhà, nhất là làm cột, kèo và xà nhà rất được chú trọng.
Về quan hệ gia đình, là quan hệ huyết thống theo dòng cha, mang chất phụ
quyền, có ảnh hưởng của lễ giáo phong kiến Nho giáo. Dó là gia đình nhỏ,

19


phổ biến là gia đình có ba thế hệ (ông bà, cha mẹ và con cái) và gia đình có
hai thế hệ (cha mẹ và con cái). Quy mô mỗi gia đình trung bình từ 5 đến 6
người. Mỗi gia đình là một đơn vị kinh tế, có một người quản lí chung, đó là

người đàn ông, mang tính chất gia trưởng.
Hôn nhân của đồng bào trong xóm là hôn nhân một vợ một chồng. Việc
cưới hỏi là trách nhiệm của cha mẹ. Quan hệ hôn nhân trong xã hội của đồng
bào cũng mang tính chất phụ quyền thể hiện qua việc đi hỏi vợ và tục thách
cưới làm cho hôn nhân phần nào trở thành những cuộc mua bán. Khi hỏi nhau
về việc cưới xin, người ta thường nói “khai lục thlao” (bán con gái) hay “au
lùa” (lấy dâu).
Về văn hoá tinh thần, trước hết người Nùng quan niệm mọi vật gồm cả
những vật vô tri vô giác đều có linh hồn. Người ta gọi những linh hồn đó là
“pli” (ma), ở xung quanh ta đâu đâu cũng có “pli” như ma trời(pli phạ), ma
đất (pli tâm), ma cây (pli mạy), ma tổ tiên… Theo quan niệm cổ truyền, con
người khi còn sống thì linh hồn được gọi là “khoăn”, khi chết hồn lìa khỏi xác
gọi là “pli”.
Về văn hoá nghệ thuật dân gian của người Nùng rất phong phú và đa dạng
thể hiện qua các điệu hát then, hát sli và các thành ngữ, tục ngữ, thể loại
truyền miệng nói về kinh nghiệm lao động sản xuất, dự báo thời tiết, cách ứng
xử của con người với con người và con người với tự nhiên, quan niệm về may
rủi có dấu ấn trong mọi cuộc sống và có giá trị thực tiễn cao. Trong kho tàng
văn học truyền miệng của người Nùng ở xóm Bắc Phong còn đề cập đến mọi
mặt của đời sống xã hội từ thế giới quan, nhân sinh quan đến lao động sản
xuất, đạo đức, xã hội, đấu tranh chống lại các tác động của thiên nhiên, cái
thiện và cái ác.
Các lễ tết truyền thống của cư dân Nùng ở xóm Bắc Phong là lịch đồ về
thời tiết và mùa màng của cư dân sản xuất nông nghiệp. Qua điều tra thực tế
tôi được biết bên cạnh các ngày lễ tết chung của các dân tộc khác thì dân tộc

20


Nùng còn có các lễ tết riêng, đồng bào có các lễ tết tuyền thống sau: Ngoài

tết Nguyên Đán là tết đầu năm âm lịch, “đắp moong” (30/1) âm lịch, đồng
bào còn có lễ xuống đồng được tổ chức vào đầu xuân theo quy mô hộ gia
đình, tết thanh minh mông (3/3), tết diệt sâu bọ mồng (5/5), rằm tháng bẩy
914/7), rằm tháng tám (14/8), ngày mồng (9/9), ngày 10/10 có tết ăn cơm mới
và còn nhiều ngày lễ tết khác. Trong đó quan trọng nhất là Tết Nguyên Đán,
ăn tết lại “đắp moong” (30/1), tết thanh minh (3/3) và rằm tháng bẩy, báo
hiếu tổ tiên (14/7). Nhìn chung những ngày lễ tết cổ truyền của đồng bào
Nùng ở xóm Bắc Phong về cơ bản là mang ý nghĩa lành mạnh, nó là con đẻ
của nền nông nghiệp và cuộc sống của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước.
Tiểu kết chương 1
Bắc Phong là xóm miền núi ở phía Nam xã Dân Tiến và khu vực phía Bắc
của huyện Võ Nhai. Việc thành lập và phát triển thôn xóm này gắn liền với
quá trình khai hoá của họ Lã. Đây cũng là xóm của người Nùng mà bộ phận
cư dân họ Lã chiếm đa số. Với những đặc điểm về lịch sử, điều kiện địa lí,
văn hoá, xã hội đã làm tiền đề cho mọi hoạt động trong đời sống vật chất lẫn
tinh thần của dòng họ.
CHƯƠNG 2: LỊCH SỬ DÒNG HỌ LÃ TRONG CỘNG ĐỒNG
NGƯỜI NÙNG XÓM BẮC PHONG XÃ DÂN TIẾN HUYỆN VÕ NHAI
TỈNH THÁI NGUYÊN
2.1 Lịch sử dòng họ Lã
Gia phả là tài liệu ghi chép về gốc tích, các nhánh, chi của dòng họ qua
các thế hế, nó được coi như cuốn tiểu sử của dòng họ. Nội dung gia phả của
mỗi dòng họ là khác nhau, có những gia phả ghi lại gốc tích họ mạc, vị trí mồ
mả, ngày giỗ chạp,…nhưng có những gia phả ghi khá chi tiết về đặc điểm của
dòng họ ở mỗi thế hệ. Chẳng hạn ghi lại những nhân vật thi cử đỗ đạt, làm
quan, tạo nên vinh hiển, niềm tự hào cho dòng họ, mang tính răn dạy nêu

21



gương cho hậu thế, hay ghi lại hoàn cảnh lịch sử, điều kiện xã hội ảnh hưởng
tới việc an cư hay di cư, về nề nếp, truyền thống của dòng họ với phong tục
tập quán địa phương,…Dựa vào gia phả ta có thể hiểu thêm hoàn cảnh lịch
sử, nguồn gốc, đặc điểm dân cư, thành phần dân tộc, đời sống vật chất văn
hóa tinh thần…của dòng họ, hoặc các dòng họ ở địa phương [3, tr 30]
Dòng họ là một hiện tượng lịch sử - xã hội đặc biệt mang tính phổ quát của
nhân loại. Theo từ điển Tiếng Việt của Trung tâm từ điển họ, dòng họ là toàn
thể nói chung những người cùng huyết thống làm thành các thế hệ nối tiếp
nhau [12].
Ý thức về lịch sử dòng họ đánh dấu bước phát triển của xã hội loài người
từ mông muội đến văn minh. Dòng họ có từ trước khi xã hội phân chia thành
giai cấp và khi Nhà nước đã tiêu vong thì dòng họ với tư cách là sự liên tục
giữa ông cha và con cháu vẫn tồn tại.
Ý thức về lịch sử dòng họ gắn liền với ý thức về tổ tông, theo sự nghiên
cứu của các học giả về văn tự giáp cốt thì chữ “Tổ” (祖) thoạt đầu không có
bộ “Thị” , viết tựa như chữ “Thả” (且) sau này. Còn trong Kim văn sơ kỳ là
chữ tượng hình, cái hình của bộ phận sinh dục nam tượng trưng cho khái
niệm tổ tiên, gắn liền với ý thức sùng bái vai trò trọng yếu của ông bố trong
việc duy trì huyết thống của gia tộc, dòng họ [24].
Hiện nay, thống kê về các dòng họ ở Việt Nam có nhiều con số khác
nhau. Dạ Lan Nguyễn Đức Dụ trong cuốn “Gia phả khảo luận và thực hành”
(Nhà xuất bản Thời đại, 2010), ước tính ở Việt Nam có khoảng gần 300 họ.
Giáo sư Hà Mai Phương và Bảng Phong trong bài “Lược khảo về tên, họ
người Việt Nam” đưa ra danh sách 351 tên họ. Năm 1992, Tiến sĩ Lê Trung
Hoa tạm đưa ra danh sách 391 họ trong cuốn “Họ và tên người Việt Nam” .
Nhưng xét theo quan điểm hiện đại thì những con số này đều chỉ có tính
tương đối vì những người mang cùng một họ chưa hẳn là đồng tôn và ngược

22



lại, những người mang họ khác hiện nay lại rất có thể vốn là chung nhau một
ông tổ. Hình thái sớm nhất của tộc phả khởi đầu từ đế vương niên biểu, hình
thành trên cơ sở lấy hệ tư tưởng đế vương làm trung tâm, về sau mới bắt đầu
có tộc phả cá nhân [24]. Kết quả tìm hiểu thực tế của dòng họ Lã, tôi được
biết cũng đã có người đổi sang các họ khác như họ Lê, Lý, Triệu…
Họ Lã là một họ của người châu Á. Họ này xuất hiện ở Việt Nam, Triều
Tiên: Hangul; (여) (nam) hoặc (려) (bắc), Hanja; (呂); Romaja quốc ngữ: Yeo
(nam) hoặc Ryeo (bắc)) và Trung Quốc: Hán tự; (吕), Bính âm (Lu). Họ này
xếp thứ 22 trong danh sách Bách gia tính, về mức độ phổ biến họ này xếp thứ
43 ở Trung Quốc theo thống kê năm 2006. Chữ ( 吕) có phiên âm Hán Việt
chuẩn là Lữ nhưng thường được các sách Việt Nam chuyển thành Lã.
Theo những tài liệu bằng chữ Hán và ghi chép của cụ Lã Văn Lô, thì dòng
họ Lã tụ cư chủ yếu ở các xóm Lục Luông, Chì Ca, Co Chí, Pàn Cú, Bản
Làng, Pàn Khoang, thuộc huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn.
Theo tục truyền, ghi trong các bài văn tế, họ Lã Nguyên quán ở ba huyện
Nam Hải tỉnh Sơn Đông (Trung Quốc). Tổ tiên của dòng họ, trước khi di cư
vào Việt Nam, đã từng sinh sống ở vùng Pá Sliếc, Co Càng, Chang Ná, thuộc
huyện Minh Giang, tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc). Có hai truyền thuyết liên
quan đến dòng họ Lã.
1. Nuôi hổ để canh ao cá.
Theo truyện kể lại, ngày xưa, một cụ tổ tiên ta nuôi hổ để canh ao cá.
Thường thường cụ vẫn đi guốc đinh, đang đêm đến kiểm tra xem nó có làm
tròn nhiệm vụ không, nhưng không thấy bóng nó đâu cả. Một đêm cụ đi chân
không để kiểm tra, liền bị hổ cắn chết. Hổ biết đã cắn nhầm chủ, liền vác xác
đem quẳng vào đầu hồi, thi thể nằm ngang với chiều ngang của ngôi nhà, rồi
đi cắn lợn, quẳng vào nhà làm ma cho chủ. Ngày nay, khi nhà có người chết,

23



những người thuộc dòng họ Lã vẫn có tục lệ để chiếc quan tài nghiêng với
chiều ngang của ngôi nhà.
2. Thầy phủ thuỷ cao tay
Họ Lã có tục làm thầy phù thuỷ, tức là thầy tào, thờ Phật tổ Như Lai và Thái
Thượng Lão Quân , tức là tổ sư của nghề cúng bái.
Theo truyền thuyết, họ Lã có một thầy phù thuỷ rất cao tay là cụ Lã Thanh
Toản. Cụ có thể dùng sọt đan mắt cáo để gánh nước, dùng nón để làm thuyền
bơi sang sông. Một hôm ở chợ Kỳ Lừa, khách tổ chức một đám chay lớn.
Một cụ mặc áo nhà quê đến đám chay. Cụ rất thích đánh trống, thấy trống của
đám chay, cụ cầm rùi đánh liên hồi. Bọn thầy cúng Tàu không biết cụ là ai,
cho là một ông lão dở hơi, liền mắng đuổi cụ đi. Bỗng chốc, bao nhiêu lá cờ,
phướn đều chổng ngược lên trời. Thấy điều lạ, thầy cúng chủ trì đám chay hỏi
ra mới biết là đồ đệ của ông đã ngược đãi cụ Lã Thanh Toản. Ông liền cấp tốc
cho đồ đệ đuổi theo mời cụ đến để xin lỗi. Cụ Toản thu phép lại. Lúc bấy giờ
lá cờ, phướn trong đám chay lại trở lại bình thường không.
Về lai lịch, bản gia phả ghi chép bằng chữ Hán nói rằng, thời xưa không rõ
tông tích lắm. Chỉ biết là dòng họ Lã có hai chi: Chi trưởng là Trí Hữu, chi
Thư là Toán Hữu. Đến nay đã truyền được hơn 10 đời[25].
Trong cuốn gia phả của dòng họ Lã, có ghi chép về lịch sử dòng họ từ khi
đến “khai sơn phá thạch” ở xóm Bắc Phong xã Dân Tiến huyện Võ Nhai tỉnh
Thái Nguyên từ năm 1900, đến nay đã trải qua 5 đời. Còn về trước đó, khi
còn cư trú ở Na Sầm, Lạng Sơn vì một lí do nào đó mà phần ghi gia phả của
dòng họ từ trước đó đến năm 1900 không còn. Đây là một mất mát khá lớn
đối với dòng họ. Tuy nhiên theo lời kể của các thế hệ ông bà để lại thì họ Lã
có nguồn gốc di cư sang Việt Nam từ Quảng Tây (Trung Quốc). Vào thời Bắc
thuộc, chính sách cai trị của phong kiến phương Bắc là đưa người Hán sang ở
lẫn người Việt nhằm đồng hoá dân tộc ta ta, một bộ phận nhỏ họ Lữ được đưa
sang tỉnh Quảng Ninh. Sau một thời gian sinh sống, những nhóm người Lữ


24


bắt đầu xâm nhập vào sâu lãnh thổ Việt Nam. Họ đến những tỉnh trung du và
miền núi Bắc Kạn, Thái Nguyên đây là những nơi tập trung đông người họ Lã
(Lữ), ngoài ra rải rác ở một số tỉnh khác như Quảng Ninh, Phú Thọ, Vĩnh
Phúc…
Trong khoảng thời gian từ cuối thế kỷ XVIII đến cuối thế kỷ XIX, cộng
đồng người này đã lần lượt thay đổi nơi sinh sống. Từ Hạ Long (Quảng Ninh)
thâm nhập vào các huyện của tỉnh Bắc Giang, lên Lạng Sơn, Tuyên Quang,
Thái Nguyên. Trong suốt quá trình đó dòng họ Lã cũng bị lưu lạc, phân tán
khắp nơi [6], [14],[15],[16].
Đặc biệt, kể từ sau cuộc khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc ở các tỉnh miền
Nam Trung Quốc thất bại, nhiều toán tàn quân khởi nghĩa tháo chạy từ Quảng
Tây sang Việt Nam rồi dần dần biến thành những toán thổ phỉ hoành hành ở
vùng núi trung du Đông Bắc, Tây Bắc. Đó là những toán quân Cờ Vàng (do
Ngô Côn, Hoàng Sùng Anh, Diệp Tài cầm đầu), quân Cờ trắng(do Bàn Văn
Nghị, Long Văn Sợi cầm đầu) và ảnh hưởng lớn nhất là quân Cờ đen do Lưu
Vĩnh Phúc cầm đầu. Những đám tàn quân khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc
vào lãnh thổ Việt Nam chuyên đi chém giết, cướp bóc nhân dân miền núi và
đánh lẫn nhau làm cho quan quân triều đình nhà Nguyễn và quân Thanh sang
đàn áp rất vất vả [26].
Ban đầu, dòng họ Lã cư trú chủ yếu ở huyện Na Sầm, Lạng Sơn. Trong
quá trình tồn tại, do nhu cầu phát triển cuộc sống, đất đai canh tác, nên đã di
cư xuống xóm Bắc Phong, Dân Tiến, Võ Nhai để lập nghiệp.
Theo ghi chép trong gia phả thì họ Lã bắt đầu đến cư trú ở xóm Bắc Phong
từ năm 1900, (tính đến nay đã được hơn một trăm năm) với hai hộ. Trải qua
một thời gian khá dài từ 1900 đến 2014, dòng họ Lã đã đạt được những thành
tựu nhất định trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hiện nay đã có trên
Có thể coi lịch sử khai hoang và thành lập xóm Bắc Phong không tách rời với sự

nghiệp xây dựng và phát triển của dòng họ Lã.

25


×