Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Các loài Chuồn chuồn (odonata) Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (767.67 KB, 15 trang )

Mô tả: Khu hệ chuồn chuồn Việt Nam được biết đến từ những năm đầu của thế kỷ 19 bởi các
nhà nghiên cứu người Pháp, nhưng mới chỉ công bố rải rác ở các tạp chí khác nhau. Trong
vòng 10 năm trở lại đây, khu hệ chuồn chuồn ở Việt Nam mới được biết đến nhiều hơn, với
hơn 20 loài mới được công bố, trong đó có nhiều loài đặc hữu và quý hiếm. Năm 2006, các
nhà nghiên cứu đã thống kê được 235 loài chuồn chuồn ở Việt Nam, tuy nhiên theo ước tính
Việt Nam phải có khoảng hơn 400 loài, thậm chí là lên đến 500 loài. Nếu so sánh với số
lượng loài chuồn chuồn ở các nước khác, như Thái Lan (gần 400 loài), Lào (khoảng 300
loài), Campuchia (gần 100 loài), Malaysia (400 loài), Singapore (126 loài), Trung Quốc (gần
600 loài) hay toàn bộ Châu Âu (trên 100 loài)… thì Việt Nam là một trong những nước có sự
đa dạng chuồn chuồn cao nhất thế giới.
Chuồn chuồn là nhóm côn trùng bán thủy sinh, giai đoạn ấu trùng chúng sống hoàn toàn dưới
nước, đến thời kỳ sinh sản, ấu trùng lột xác thành dạng trưởng thành sống trên cạn, thực hiện
quá trình giao phối và sinh sản. Chuồn chuồn hiện nay được chia thành 2 nhóm chính: Nhóm
chuồn chuồn ngô (dragonflies) với các đặc điểm cánh trước và cánh sau khác nhau về hình
dạng và hệ thống gân cánh; cánh sau rộng ở phần gốc và luôn mở cánh khi đậu; hai mắt kép
sát nhau (trừ các loài ở họ Gomphidae hai mắt cách xa nhau); ấu trùng có dạng ngắn, mập
mạp, đốt bụng cuối có các cấu trúc hình tam giác quanh lỗ hậu môn. Nhóm chuồn chuồn kim
(damselflies) thì thường khép cánh khi đậu (trừ một số loài); cánh trước và cánh sau giống
nhau về hình dạng và kích thước, cấu tạo gân cánh; hai mắt cách xa nhau; ấu trùng mảnh, đốt
bụng cuối mang 2-3 lá mang. Chuồn chuồn trưởng thành sinh sống xung quanh khu vực
nguồn nước, cánh và cơ thể con đực có màu sắc sặc sỡ để hấp dẫn con cái. Tập tính giao phối
ở chuồn chuồn khá phức tạp và lý thú. Các con đực “chiến đấu” với nhau để bảo vệ vùng lãnh
thổ của mình, khi con cái xuất hiện, con đực bay xung quanh “ve vãn” và ngăn không cho các
con đực khác đến gần. Khi giao phối, phần phụ sinh dục đực (appendages) ở đốt bụng cuối
của con đực “khóa” chặt vào phần trên của ngực trước ở con cái, trong khi đó con cái đưa
máng đẻ của mình áp chặt vào phía dưới đốt bụng thứ hai của con đực, nơi mang cơ quan
sinh dục đực để nhận tinh trùng; tư thế này tạo thành dạng tương tự như một cái “bánh
xe” giúp chúng có thể vừa bay vừa thực hiện hành vi giao phối. Ở một số loài, con đực bay
xung quanh hoặc đứng gần nơi con cái đẻ trứng để làm nhiệm vụ “cảnh giới”, hoặc con đực
vẫn “khóa” chặt con cái cho đến khi đẻ trứng xong.


Chuồn chuồn là nhóm côn trùng ăn thịt, cả ở giai đoạn ấu trùng và trưởng thành. Chúng
thường bay lượn để săn tìm các loài côn trùng khác nhỏ hơn, thậm chí là các loài chuồn khác.


Ấu trùng chuồn chuồn của một số loài có kích thước lớn thậm chí còn săn bắt cả các loài cá
nhỏ hoặc ếch nhái. Trong ảnh là một tư thế giao phối ở loài Noguchiphaea yoshikoae Asahina,
1976.

Một con Acisoma panorpoides đang ăn thịt loài khác (giống Ceriagrion)

Trong tổng số 17 họ Chuồn chuồn được biết ở Việt Nam hiện nay, có 11 họ chuồn chuồn kim
(Zygoptera) và 6 họ chuồn chuồn ngô (Anisoptera). Một trong những họ chuồn chuồn kim có
vai trò quan trọng đối với hệ sinh thái, đồng thời cũng là nhóm có màu sắc đẹp nhất là
họ Chuồn chuồn cánh màu (Calopterygidae). Có 16 loài được biết hiện nay ở Việt Nam, phổ
biến nhất là loài Neurobasis chinensis (Linnaeus, 1758). Con đực của loài này có đôi cánh
trước có màu vàng nhạt và trong suốt, khoảng 3/4 của cánh sau màu xanh biếc, phần còn lại
của cánh có màu đen sẫm. Với cơ thể hoàn toàn màu xanh, chúng có thể dễ dàng hòa lẫn vào
các đám lá để trốn tránh kẻ thù.


Còn con cái của loài Neurobasis chinensis (Linnaeus, 1758) có màu xanh nhạt hơn, cánh có
màu cam nhạt và hai điểm cánh màu trắng ở mép trên của cánh có thể dễ dàng quan sát. Loài
rất phổ biến và phân bố ở khắp các vùng núi trong cả nước.

Giống như loài N. chinensis, loài Matrona basilaris Selys, 1953 có cơ thể màu xanh biếc óng
ánh, với đôi cánh màu xanh đen ở nửa đầu cánh, phần gốc còn lại có màu xanh sáng. Ở Việt
Nam, chúng phân bố chủ yếu ở các khu vực miền núi phía Bắc như Lạng Sơn (Lộc Bình),
Vĩnh Phúc (Tam Đảo), Hoà Bình (Thượng Tiến, Kim Bôi), Cao Bằng (Trùng Khánh) và Phú
Thọ (Xuân Sơn).



Loài Vestalis gracilis (Rambur, 1842) phân bố rộng ở vùng Đông Nam Á và miền Nam Trung
Quốc. Với cơ thể màu xanh biếc, chúng có thể dễ dàng ẩn nấp trong các tán lá cây rậm rạp
xung quanh bờ suối và chỉ xuất hiện bay lượn ra ngoài khi có ánh sáng mặt trời chiếu vào.
Cánh của chúng thường phản chiếu màu xanh biếc óng ánh.

Một trong những loài có kích thước cơ thể to lớn và hiếm gặp là loài Calopteryx
coomani(Fraser, 1935), với chiều dài sải cánh và cơ thể trên 100mm. Trái ngược với những
loài trên, loài coomani mang một đôi cánh xanh đen to lớn và khỏe mạnh. Chúng thường sinh
sống gần những con suối ở vùng núi, nơi có hệ sinh thái rừng rậm rạp và gần nguyên vẹn.


Con cái Calopteryx coomani (Fraser, 1935) thì lại có màu nâu sẫm, mang một đôi đốm màu
trắng trên cả hai cánh. Là loài đặc hữu của miền Bắc Việt Nam, mới chỉ tìm thấy loài này ở
Vĩnh Phúc (Tam Đảo), Hà Tây (Tản Viên), Hà Giang (Việt Vinh) và Phú Thọ (Xuân Sơn).

Mặc dù loài Vestalis miao (Wilson & Reels, 2001) khá phổ biến ở Nam Trung Quốc, nhưng ở
Việt Nam mới chỉ ghi nhận được ở hai địa điểm là Khu bảo tồn Thiên nhiên Hữu Liên (Lạng
Sơn) và Vườn quốc gia Xuân Sơn (Phú Thọ). Cánh của con trưởng thành vừa lột xác từ ấu
trùng có màu cam đặc trưng, và trở thành trong suốt không màu khi thành thục. Phần mút đuôi
của con đực có màu trắng đặc trưng cho loài.


Con đực Vestalis miao (Wilson & Reels, 2001)

Loài Mnais mneme Ris, 1916 là một trong những loài chuồn chuồn cánh màu đẹp nhất, mang
đôi cánh rộng màu đỏ tươi, óng ánh dưới ánh sáng mặt trời. Mới chỉ ghi nhận được ở Cao
Bằng, Quảng Ninh, Hà Tĩnh, Quảng Bình và Thừa Thiên Huế.



Họ Chuồn chuồn mũi cao (Chlorocyphidae), giống như tên gọi, có đặc điểm nổi bật là phần
trước mặt lồi lên tạo thành một dạng “mỏ” (hoặc mũi) nhô lên cao. Có 13 loài được biết đến ở
Việt Nam hiện nay. Là những loài có kích thước nhỏ, cơ thể nhiều màu sắc và thường sinh
sống ở các con suối sạch ở trong rừng. Phổ biến và thường gặp nhất là loài Rhinocypha
fenestrella (Rambur, 1842). Phần ngực và bụng của loài này có màu đen sẫm, mặt trên của
ngực có đốm tím tam giác dễ nhận biệt, hai bên có các sọc nhỏ màu vàng; cánh hẹp và trong
suốt ở gốc, rộng hơn về sau và có màu xanh đen xen lẫn với các mảng màu tím óng ánh. Mặt
trước của các chân có vệt màu trắng, có chức năng giúp con đực “khoe mẽ” trong hoạt động
ve vãn và giao phối với con cái. Con cái của các loài trong họ này thường có màu sắc và ảnh
dạng tương tự nhau, với phần bụng và ngực màu vàng, cùng đôi cánh trong suốt.

Loài Libellago lineata (Burmeister, 1839) lại chỉ sinh sống ở những con suối nhỏ hoặc đầm
nước, nơi nền đáy có nhiều bùn và mùn bã thực vật, tốc độ dòng chảy chậm.


Con đực của loài Heliocypha perforata (Percheron, 1835) thường đậu gần con cái để làm
nhiệm vụ bảo vệ.

Thời gian gần đây, khi tiến hành điều tra về khu hệ chuồn chuồn ở miền Bắc Việt Nam, các
nhà nghiên cứu đã ghi nhận mới loài Rhinocypha arguta Hämäläinen & Divasiri, 1997 cho
khu hệ Việt Nam từ Vườn quốc gia Cúc Phương (Ninh Bình) và Xuân Sơn (Phú Thọ). Loài
đặc trưng bởi mặt trên của các đốt bụng màu đỏ gạch, ngực màu đen với các sọc vàng xen kẽ.


Loài Euphaea masoni Selys, 1879 thuộc họ Euphaeidae khá phổ biến ở các vùng núi, với đôi
cánh chắc khỏe màu xanh đen, mặt ngoài của đôi cánh sau có một mảng màu xanh óng ánh,
mép trong có màu đỏ, phân biệt với loài Euphaea guerini Rambur, 1842 có hình dạng và màu
sắc cơ thể tương tự, nhưng mép trong cánh sau màu xanh.

Mặc dù mới chỉ có 2 loài thuộc họ Amphipterygidae được ghi nhận ở Việt Nam, tuy nhiên,

chúng đều là những loài hiếm và phân bố hẹp, trong đó Devadatta
cyanopcephalaHämäläinen, Sasamoto & Karube, 2006 là loài đặc hữu của Việt Nam.


Loài Devadatta ducatrix Lieftinck, 1969 – loài thứ hai thuộc họ Amphipterygidae.




nhóm
chuồn
chuồn
kim,
nhưng
các
loài
trong
họ Synlestidae, Lestidae,Lestoideidae và họ Megapodagrionidae thường giang cánh khi
đậu ở tư thế treo mình lên các cành cây ở gần suối. Loài Orolestes selysi McLachIan, 1895
(ảnh trên).Rhinagrion hainanensis Wilson & Reels, 2001 (ảnh dưới)

Các loài trong họ Coenagrionidae, Platycnemididae và Protoneuridae có kích thước rất
nhỏ, phổ biến ở xung quanh các ao, hồ, đầm lầy, ruộng lúa, sông, suối… Chúng đồng thời
cũng là các loài thiên địch đối với một số côn trùng gây hại cho nông nghiệp. Copera
marginipes Rambur, 1842 (ảnh trên) và Prodasineura autumnalis Fraser, 1922 (ảnh dưới).



Trong số các họ chuồn chuồn ngô được biết ở Việt Nam, các họ có số lượng loài nhiều nhất là
họ Chuồn chuồn ngô Gomphidae (24 loài) và họ Chuồn chuồn mươngLibellulidae (48 loài);

các họ này bao gồm nhiều loài phổ biến có thể bắt gặp ở khắp nơi, từ ao, ruộng nước, kênh
mương… thậm chí là ở các vũng nước đọng sau mưa. Thứ tự các loài từ trên xuống
là Acisoma
panorpoides Rambur,
1842; Brachythemis
contaminata(Fabricius,
1793); Neurothemis fluvia (Drury, 1773); Neurothemis tulia (Drury, 1773);Nannophyopsis
clara (Needham, 1930).
Với đặc điểm địa lý của mình, Việt Nam là một trong những khu vực có sự đa dạng về thành
phần loài động thực vật nói chung, và đa dạng loài chuồn chuồn nói riêng. Khu hệ chuồn
chuồn miền Bắc tương đồng với khu hệ Nam Trung Quốc và Bắc Lào; khu hệ miền Nam lại
có thành phần loài tương tự với khu hệ bán nhiệt đới như ở các nước Thái Lan, Malaysia,
Indonesia, Singapore; và khu hệ miền Trung là sự giao thoa giữa hai khu hệ trên, đồng thời
cũng khá phân tách với khu hệ Nam và Trung Lào bởi dãy núi Trường Sơn. Bởi vậy, ngoài sự
đa dạng và phong phú về thành phần loài, khu hệ chuồn chuồn Việt Nam đồng thời cũng bao
gồm rất nhiều loài đặc hữu và quý hiếm. Do đời sống của chúng phụ thuộc rất lớn vào chất


lượng nguồn nước và hệ sinh thái rừng xung quanh, cho nên bất kỳ một tác động nào cũng
gây biến động lớn đối với khu hệ chuồn chuồn ở vùng đó. Việc bảo vệ các hệ sinh thái rừng
và nguồn nước là điều kiện tối quan trọng để bảo vệ các loài chuồn chuồn. Trong tương lai,
cần có những chương trình, chính sách cùng với các chiến dịch tuyên truyền cho cộng đồng
nhận thức được những giá trị về đa dạng sinh học và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên này của
đất nước.
Bài và ảnh: Phan Quốc Toản
Thế giới hiện có khoảng 6.000 chủng loài chuồn chuồn. Thời kỳ trưởng thành kéo dài khoảng
60 ngày. Đôi mắt rất lớn, tạo độ chính xác khi săn mồi. Dựa trên các hoá thạch, các nhà
nghiên cứu cho rằng chuồn chuồn đã xuất hiện cách đây khoảng 285 triệu năm.

LÀM MẪU

Thu thập và làm tiêu bản cá thể trưởng thành:
Do chuồn chuồn là nhóm sinh vật có mầu sắc khá sặc sỡ và việc định loại đôi khi phụ thuộc
vào mầu sắc của cơ thể nên việc giữ nguyên được mầu sắc tự nhiên của nhóm này là điều rất
quan trọng và cần thiết. Tuy nhiên, bản thân công việc này lại rất khó thực hiện, bởi vì không
giống các nhóm khác như bộ Cánh vảy hay Cánh cứng, mầu sắc của bộ Odonata phần lớn là
mầu hoá học chứ không phải vật lý, vậy nên việc làm chết đột ngột hoặc tổn thương đến mẫu
vật sẽ làm mất màu tự nhiên của nhóm này. Việc thu thập mẫu vật giống như ta tiến hành với
butterfly. Tuy nhiên việc làm tiêu bản thì hoàn toàn khác, với các loài bướm (bộ cánh vảy), ta
có thể dùng tay bóp gẫy các xương kittin là nơi bám của các hệ gân cánh, khiến chúng không
thể bay được trước khi cho vào túi tam giác. Đối với chuồn chuồn thì hoàn toàn khác (nhiều
nhà côn trùng học không biết là điều này hoàn toàn không có lợi và làm tương tự với
butterfly hay moth), vì rằng như vậy sẽ làm chuồn chuồn bị thương và chết rất nhanh, khiến
cho màu sắc tự nhiên cũng bị mất theo, không những thế, phần pterothorax (các đốt ngực
mang cánh) cũng rất quan trọng trong định loại đối với nhóm này, việc bẻ gãy xương kittin có
thể làm cho các thorax biến dạng, ảnh hưởng tới định loại sau này.
Sau khi bắt được chuồn chuồn từ vợt, cần xếp mẫu vào túi giấy tam giác (loại làm bằng giấy
can, có thể nhìn xuyên qua được và mỏng, mềm). Tuyệt đối không được giết mẫu bằng bất cứ


hình thức nào (vật và hoá học). Sau 1 - 3 ngày, mẫu vật sẽ chết tự nhiên (điều này rất quan
trọng cho việc giữ mầu tự nhiên của tiêu bản), và có thể sẽ giải phóng hết phân ở trong cơ
thể. Bắt đầu tiến hành làm tiêu bản.
Dùng kim nhỏ (ruột bút chì kim v.v...) xuyên từ cổ, qua các đốt ngực, và làm thẳng abdomen
(phần bụng). Việc này sẽ giúp ta có một tiêu bản với các đốt bụng thẳng, rất cần thiết cho việc
đo và quan sát sau này.
Dùng panh nhọn, sắp xếp lại tư thế (đầu nghiêng sang một bên - tránh làm bẹp mắt, chân để ở
tư thế tự nhiên, và separate cánh trước với cánh sau - tiện cho việc quan sát gân cánh sau
này).
Sau đó dùng ghim bấm, cố định tư thế vừa sửa trong túi giấy can tam giác. Ngâm mẫu vật
trong 2 - 3 giờ với dung dịch alcol hoặc acetone (làm mềm tiêu bản và định hình tiêu bản).

Sau đó gắp tiêu bản ra, để khô tự nhiên (tránh ánh sáng trực tiếp hoặc hơi nóng), rồi tháo đinh
ghim, dán nhãn và định loại.
Trên đây là những thao tác cơ bản nhất mà không phải bất cứ một odonatologist nào cũng
thực hiện đúng. Tôi xin chia sẻ kinh nghiệm này với mọi người để nếu ai đó trong tương lai
có quan tâm hoặc nghiên cứu về nhóm này lưu ý, tránh hiện tượng làm hỏng tiêu bản như tôi
đã từng sai lầm.
Chào thân ái! Sắp tới, khoảng đầu tháng năm, tôi sẽ nghiên cứu khu hệ Odonata ở Mã Đà,
Quảng Bình và VQG Cát tiên, nếu có thể kết hợp cùng nhóm nghiên cứu nào thì rất vui lòng!

Odonata



×