Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Các bài thơ hay nhất của ĐOÀN NGUYỄN THỤC VÀ ĐOÀN NGUYỄN TUẤN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.04 MB, 85 trang )

PHỤ LỤC 1
THƠ ĐI SỨ CỦA ĐOÀN NGUYỄN THỤC
1. NAM QUAN VÃN ĐỘ (南關晚渡)
Sổ thanh la pháo hưởng trùng đài(數聲鑼砲響重臺),
Bắc ải Nam quan thứ đệ khai(北隘南關次第開).
Giá lạc khách tòng Thiên thượng khứ(駕駱客從天上去),
Ca ly nhân vọng nhật biên hồi(歌驪人望日邊回).
Viễn sơn cao điểu nghinh trần khởi(遠山高鳥迎塵起),
Cố quốc thanh phong việt lĩnh lai(故國清風越嶺來).
Nhất đảm mộ vân tri đạo viễn(一擔暮雲知道遠),
Tư tình công nghĩa đệ tương thôi(私情公義遞相催).
Dịch nghĩa:
BUỔI CHIỀU QUA CỬA NAM QUAN
Nghe tiếng la tiếng pháo rộn rịp trên trùng đài,
Cửa nam cửa bắc lần lượt mở ra.
Cưỡi ngựa khách đi theo lối lên trời,
Hát khúc li câu, mong ngày về nước (về bên mặt trời)
Ngọn núi xa chim đón làn bụi bay lên,
Gió mát nước nhà vượt ngọn Ngũ Lĩnh thổi đến.
Một gánh trong mây chiều biết là đường xa tắp,
Tình riêng nghĩa công, cả hai đều bận lòng.
Chú thích:
(1) Nam Quan: cửa ải phía Nam Trung Quốc, giáp nước ta, trước gọi là Trấn
Nam Quan, sau đổi là Mục Nam Quan nghĩa là thân thiện với phương nam,
khác với trước nghĩa là trấn áp phương nam.
(2) Trùng đài: hai cái đài, một đài ở cửa quan về phía Việt Nam, một đài ở
cửa quan về phía Trung Quốc.


(2) Giá lạc: cưỡi ngựa “lạc”. Kinh thi “ngã mã duy lạc”
2. QUÁ ĐỘNG ĐÌNH HỒ (過洞庭湖)


Vạn liên vân sắc thuỷ liên không (岸連雲色水連空),
Thuỷ sắc vân quang vọng mạc cùng(水色雲光望莫窮).
Thiên địa thử gian hà khoáng mạc (天地此間何曠漠),
Ba đào chung cổ tự xung dung (波濤終古自融).
Kinh Nam lâu lỗ thanh minh ngoại (荆南樓橹青冥外),
Nhạc Bắc phàm tường diểu ái trung (岳北帆檣杳靄中).
Bạch vi hoàng mao hà xứ viễn (白葦黃茅何處遠),
Phi qua thuỳ thị lãng ngâm ông (飛過誰是朗吟翁)
Dịch nghĩa:
QUA HỒ ĐỘNG ĐÌNH
Bờ liền với sắc mây, nước liền với không trung,
Sắc nước ánh mây, xa nhìn không thấy đâu là tận cùng.
Trời đất ở chỗ này sao mà khoáng đạt, tĩnh lặng vậy?
Sóng nước từ rất xưa đã tự vỗ đập chan hoà.
Vùng phía Nam đất Kinh(1), mái chèo nằm ngoài mặt nước xanh
thẳm,
Vùng phía Bắc núi Nhạc(2), cột buồm nằm trong mây mù mờ
mịt,
Lau trắng, cỏ vàng nằm ở chốn xa xôi nào vậy,
Bay qua đây, ai là ông già nghêu ngao ngâm vịnh?
Chú thích:
(1) Kinh (tức Kinh Châu): chỉ vùng đất bờ Nam sông Trường Giang, xưa
thuộc nước Sở, nằm ở phía Bắc của Hồ Động Đình.
(2) Nhạc (tức Nam Nhạc): chỉ dãy núi Hành Sơn, ở tỉnh Hồ Nam, nằm ở phía
Nam hồ Động Đình.


3.TẾ HOÀNG HÀ (濟黃河)
Hiểu phát thanh hoài phiếm lục tần(曉發清淮泛蓼蘋),
Hoàng Hà ba lãng diểu vô tân(黃河波浪渺無津).

Mã ngưu nhai bạn sinh yên vụ(馬牛涯畔生煙霧),
Kình ngạc đàm trung xuất quái thần(鲸鱷潭中出怪神).
Chu tiếp thu thiên thiên chuyển thái(舟楫鞦韆千轉態),
Phu công khổi lỗi nhất bàn thân(夫工傀儡一般身).
Trạo ca bán khuyết đầu thiêm bạch (棹歌半闕頭添白),
Thuỳ thị cùng nguyên vạn lí nhân (誰是窮源萬里人).
Dịch nghĩa:
QUA SÔNG HOÀNG HÀ
Mờ sáng qua sông lướt trên cây cỏ,
Sông Hoàng Hà sóng cả không thấy bờ bến.
Trâu ngựa (1) cách bờ ngó như mù khói,
Kình sấu giữa đầm trông tựa ma quỷ,
Thuyền qua lại liên tiếp trông giống đu xít,
Phu phen làm lụng vất vả hình như con nộm (không còn hình người)
Nghe tiếng chèo hát nửa chừng đầu tóc thêm bạc,
Ai là người đã đi tận nguồn xa muôn dặm.
Chú thích:
(1) Sách Trang tử có câu: khi nước mùa thu tràn đến, trăm ngòi chảy xuống
sông, sông chảy lớn lao, hai bờ rộng rãi, không nhận rõ được trâu hay ngựa.
4. HỒI QUÁ DƯƠNG CHÂU TÁI DU(回過楊州再遊)
Thiển ngạn đình cao tiểu bạc chu (淺岸停篙小泊舟),
Thiều dương đạm ái mãn hoàng châu(韶陽淡靄滿黃州).


Xuân hồi khúc thủy trang tân cảnh (春回曲水妝新景),
Nhân quá tằng kiều sách cựu du (人過層高索舊遊).
Quỳnh uyển mai thư ngân lạc mạc (瓊苑梅舒銀洛漠),
Vân phong yến lộng địch chu thu (雲風燕弄笛周啾).
Yên hoa kim nhật phi tiền độ (煙花今日非前度),
Khuất chỉ li gia dĩ nhất chu (屈旨離家已一周).

Dịch nghĩa:
VỀ QUA DƯƠNG CHÂU LẠI ĐI CHƠI
Bãi cạn, cắm sào tạm đỗ thuyền chốc lát;
Nắng xuân hòa dịu đầy cả đô thành.
Xuân về trên dòng nước uốn quanh trang điểm cho cảnh mới
Người qua chiếc cầu cao để tìm thú chơi xưa.
Vườn quỳnh mai nở màu bạc lốm đốm,
Núi mây én giỡn, tiếng địch thổi vi vu.
Phong cảnh hôm nay khác hẳn dạo trước,
Tính đốt ngón tay, xa nhà đã một năm tròn!
5. NAM NINH PHONG CẢNH (南寧風景)
Xuân giang thiều đệ phiến đào hoa(春江迢遞片桃花),
Tằng đáo Nam Ninh hệ khách sà(曾到南寧繫客槎).
Thái quải lữ thuyền mê bích lạc(旅船迷碧落),
Cẩm trương nam tứ lạn hồng hà(錦帳南繡爛紅霞).
Phong yên nhiệm hữu nhân trung cảnh(風煙饒有人中景),
Văn vật tằng vi Lĩnh ngoại hoa(文物曾為嶺外花).
Thừa hứng mỗi lâm bồng thượng vọng(乘興每臨篷上望),
Cao sơn lưu thủy cánh vô nha(高山流水更無崖).


Dịch nghĩa:
PHONG CẢNH NAM NINH
Sông mùa xuân lướt thuyền trên lớp sóng hoa đào,
Đã tới Nam Ninh thuyền cột lại.
Thuyền khách nổi, màu sắc mê ly cả bầu trời xanh biếc,
Phía Nam sông, những cánh buồm gấm như ráng chiều đỏ rực.
Khói mây bày ra cảnh sắc ở giữa cõi người,
Vãn vật nổi tiếng hoa lệ ngoài núi Lĩnh Nam.
Nhân lúc hào hứng lên mui thuyền ngồi trông,

Non cao nước chảy thật không bờ bến.
6. TẦM DƯƠNG LÃM THẮNG (潯陽覽勝)
Nhàn lai lãm thắng bộ tằng thê (閒來覽勝步曾梯),
Tự cổ Tầm Dương nhập phẩm đề (自古潯陽入品題).
Bát cảnh bãi khai thiên viễn cận (八景罷開天遠近),
Nhất thành khúc chiếm địa cao đế (一城曲占地高低).
Tinh kỳ phồn ảnh huyền hoa điếm (旌旗繁影懸花店),
Tiêu quản thư thanh nhiễu lục đê (簫管餘聲繞綠堤).
Xuân yến dã tri xuân ý hảo (春燕也知春意好),
Cẩm tường tượng thượng cố thê thê (錦墙墙上固淒淒).
Dịch nghĩa:
XEM CẢNH ĐẸP PHỦ TẦM DƯƠNG (1)
Khi rảnh việc bước lên mấy tầng thang để xem cảnh đẹp,
Từ xưa khu vực Tầm Dương đã được đưa vào phẩm đề.
Tám cảnh mở rộng vùng trời xa gần,
Một thành chiếm riêng khoảnh đất thấp vùng cao.
Rợp bóng tinh kỳ treo kín các đình điếm hoa rừng,


Văng vẳng tiếng ống tiêu ống sáo quanh con đường đê cỏ mọc
xanh um.
Chim én mùa xuân hiểu được ý xuân tươi sáng,
Cho nên trên ngọn tường gấm cứ chập chờn bay.
Nguyên chú:
(1) Ngoài phủ cửa thành Tầm Dương trông ngay ra sông có biển đề bốn chữ
“Tầm Dương lâu phủ” trong phủ có tám cảnh đẹp là:
“Bạch thạch đổng thiên,
Tây Sơn hiểu vọng,
La tùng nham thạch,
Đông tháp hồi lan,

Nam tân đại đô,
Đồng cổ thu đào,
Kim liên dạ vũ,
Bắc ngạn ngư tiền.”
7. CHU GIANG HÍ THUẬT (舟江戲术)
Xuân giang đào trướng thủy như xoa (春江濤漲水如杈),
Cao lỗ tân phân ứng trạo ca (篙櫓散紛應掉歌).
Trịch chúc đạp lai lâm lạc diệp (躑屬踏來林落葉),
Hử hà hô lý chử dương ba (滸何呼裏渚揚波).
Dĩ di quỹ ảnh tam can phản (已移軌影三干返),
Vị tố châu trình nhất xích đa (未做舟程一尺多).
Hà sự giá cô thanh thảo dã (何事這鴣青草野),
Man đề “hành bất đắc kha kha”(漫啼 “行不得呵呵”).
Dịch nghĩa:
BỠN THUẬT TRUYỆN SÔNG THUYỀN ĐƯƠNG ĐI (1)


Sông mùa xuân thủy trào dâng mạnh chảy như lao thoi,
Mái chèo và con sào rối rít như nói giọng hò chèo đò.
Bước chân dậm dịch làm cho lá rừng cũng phải rơi rụng xuống,
Tiếng hò hừ hà khiến cho sóng dưới bến cũng phải dẫy lên.
Bóng mặt trời đã xế chừng ba tầm rồi,
Đường thuyền nhích đi chưa được hơn một thước.
Cớ sao gà gô đậu trên bãi cỏ xanh kia,
Cứ kêu hoài những tiếng “hành bất đắc kha kha” (2) là cớ gì?
Nguyên chú:
(1) Thuyền đi qua thác Cổ Lãm, người chèo, người kéo hết sức, xuýt không đi
được, nghe những tiếng hò a a vang động bờ sông. Một con thuyền đi trước
đã xa, trong bãi cỏ tốt thì có những gà gô đương kêu.
Chú thích:

(2) “Hành bất đắc kha kha”: tiếng kêu của gà gô, đây hàm ý nghĩa “đi không
được anh anh”.
8. CHIÊU GIANG (昭江)
Tịch mịch hoang thâu điểu đạo thông (寂寞荒 鳥道通),
Thanh la nhất đới vạn sơn trung (青羅一帶萬山重).
Vân thâm dị thái sơn đầu vũ (雲深易洒山頭雨),
Chướng hợp non khu thủy diện phong (瘴合難墟水面風).
Ẩn chẩn dao oa yên lý động (隱稹猺窩煙裏洞),
Phi ly hổ kính chử biên tùng (菲離虎徑楮邊叢).
Mộ lai các trạo thư nhàn vọng (暮來擱棹舒閒望),
Sái sái thiên quang tập nhiệt bồng 洒洒天光集若篷).
Dịch nghĩa:


SÔNG CHIÊU GIANG
Cõi hoang vắng vẻ chỉ có đường chim đi về,
Một dải lụa xanh ở ngay giữa muôn trùng non.
Mây u ám rất dễ đổ mưa trên ngọn núi,
Chướng khí kết lại, khó thổi luồng gió trên mặt sông.
Hang động trong khói ẩn hiện như lỗ cầy cáo,
Bụi rậm bên cồn có đường ngang tắt như đường hổ báo.
Chiều đến gác con chèo thư thả mà nhìn,
Ánh mặt trời lấp lánh lồng trên mui thuyền.
9. ĐĂNG NHẠC DƯƠNG LÂU (登岳陽樓)
Lăng tiêu tuyệt bích ủng nguy lâu (凌霄絕碧聳巍樓),
Kinh sở yên hoa vọng lý thu (荊楚煙花望裏收).
Lạp trạch phàm tường giang yến chử (臘澤帆牆江燕渚),
Quân sơn vân thụ hải doanh phù (軍山雲樹海贏浮).
Tiên Ông tằng thử đa tam túy (仙翁曾此多三醉),
Lữ khách như hà thiểu nhất du (旅客如何少一遊).

Đăng lãm du nhiên trần ngoại tứ (登覽悠然塵外思),
Lan can nguyệt thướng thượng di do (闌干月上上移猶).
Dịch nghĩa:
LÊN LẦU NHẠC DƯƠNG (1)
Ngọn núi chọc trời dựng lên một ngôi lầu cao,
Thu cả vào trong tầm mắt phong cảnh Kinh Sở.
Cánh buồm qua đầm Lạp trạch như lũ én bay trên sông,
Mây và cây trên núi Quân Sơn như đám cá chuồn nổi trên mặt
biển khơi.
Tiên ông đã ba lần say rượu ở trên lầu này (2),


Khách lữ hành cớ sao mà không dạo chơi một phen?
Lên xem chợt có cảm tưởng như siêu thoát ngoài cõi trần.
Bóng trăng chiếu vào lan can vẫn trù trừ chưa muốn về.
Nguyên chú:
(1) Lầu cao ba tầng ở ngay bên hồ Động Đình. Triều Tống: Đằng Tử Hinh
dựng lên, Phạm Trọng Yêm soạn bài kỷ, Tô Tử Viêm viết, Thiện Sơ triện, đời
khen là tứ tuyệt. Mùa thu lên xem, gió mát đưa tới, hửng sáng mặt hồ bát
ngát, hòn núi Quân Sơn nổi lên ở giữa mặt nước, thuyền câu quay về thấp
thoáng trong những đám mây khói mờ mờ khiến cho ái nấy đều có cái ý nghĩ
ngoài đời,
(2) Lã Động Tân có câu: “Tam túy Nhạc Dương nhân bất thức,/ Lãng ngâm
phi quá Động Đình hồ”. Nghĩa là: Ba lần say ở lầu Nhạc Dương, không ai
biết,/ Tiếng ngâm vang bay qua hồ Động Đình.
10. MINH GIANG CHÂU THỨ(明江舟次)
Tòng cổ Ninh Minh ý ngoại thâu,(從古明江意外偷),
Chỉ kim phồn thịnh loát trung châu. (只今繁盛刷中州).
Cư nam thôn lị Kim Long đống, (居南村莅金龍棟),
Tống khách giang hoành mộc mã châu,(送客江橫木馬舟).

Vật thiểu nùng phong kham chỉ sử,(物少儂風堪只使),
Thanh đa việt ngữ dị tư tư (聲多越語易私私).
Cao sư dữ ngã tương thương bãi (篙師與我相商罷),
Nghi thị xà tòng Kiến Đức du (宜是槎從建德游).
Dịch nghĩa:
BẾN THUYỀN MINH GIANG
Từ xưa cho rằng châu Ninh Minh là đất hẻo lánh,
Nay nơi đây phồn thịnh hơn cả Trung Châu.


Nhà làm phía nam thôn (đều) cột chạm rồng vàng,
Đưa khách dọc sông trên thuyền “mộc mã” (1)
Đồ vật kiểu người Nùng có thể dùng thì ít,
Dùng tiếng Việt lại dễ hỏi về việc riêng tư.
Người chủ đò đã mặc cả với ta xong,
Thế là, thả bè theo đi chơi vùng Kiến Đức (2).
Chú thích:
(1) Mộc mã: thuyền gỗ, mũi nghếch cao, thân dài như ngựa.
(2) Kiến Đức: tên huyện thuộc tỉnh Triết Giang, nhưng ở đây nghi không phải
tác giả nói tới Kiến Đức ở Triết Giang mà là một danh thắng nổi tiếng nào đó.
11. XÍCH BÍCH HOÀI CỔ (赤壁懷古)
Cô bồ phât lĩnh thủy mạn không (菰蒲拂嶺水漫空),
Tam quốc tranh hoành thử địa trung (三國爭衡此地中).
Lưu trám Tào công ngâm hậu nguyệt (流蘸曹公吟後月),
Ngạn phiêu Gia cát tế dư phong (岸飄諸葛祭餘風).
Đỉnh đồ nhất thuấn thành xuy kiếm (鼎圖一瞬成吹劍),
Giang cảnh thiên niên phó ỷ bồng (江景千年付倚蓬).
Ngư địch bán xoang thu sắc mộ (漁笛半腔秋色暮),
Hứng du trường tưởng khấu thuyền ông (興遊長想扣舷翁).
Dịch nghĩa:


NHỚ XÍCH BÍCH XƯA (1)
Cỏ cô bồ phấp phới sườn núi, nước mênh mông,
Ba nước tranh nhau ở chỗ này.
Dòng nước còn in bóng trăng đêm Tào Tháo ngâm thơ,
Trên bờ còn thoảng làn gió sau khi Gia Cát tế.
Thế chân vạc chớp mắt không còn tiếng tăm nữa,


Cảnh nghìn năm trên sông, phó mặc khách tựa mui thuyền
Mấy tiếng sáo làng chài chỉ sắc thu muộn,
Thú chơi lại nhớ người gõ mạn thuyền.
Nguyên chú:
(1) Núi Xích Tị ở huyện Hoàng Cương, Phủ Hoàng Châu, ông Tô Đông Pha
qua chơi đó cho là núi Xích Bích. Mặt trước giáp sông, dài vắn so le, vách đá
khắc tượng ông và hai bài phú Tiền, Hậu Xích Bích, cùng bài Mãn đình
phương giang tây nguyệt từ, lối chữ chân và thảo, và vẽ một cây mai, nhận kỹ
hãy còn.
12. ĐỀ PHỤC BA MIẾU (題伏波廟)
Cảm hội tùy thời phổ trước tiên(感會隨時普著鞭),
Kỉ nhân lão tráng cánh cùng kiên(幾人老壯更窮堅).
Thiên thu huân nghiệp lưu Đồng trụ(千秋勳業留銅柱),
Vạn cổ anh linh kí Thiết thuyền(萬古英靈記鐵船).
Bất tiển Vân đài Cao Mật thắng(不羨雲臺高密勝),
Biệt hoài Hạ trạch Thiếu Du hiền(別懷下澤少游賢).
Chỉ kim Khởi Kính từ biên quá(祇今起祠邊過),
Tưởng tượng di phong bội khái nhiên.(想像遺風倍慨然).
Dịch nghĩa:
Cảm vận hội, theo thời thế, dấn chiếc roi ngựa,
Mấy người già rồi mà lại khoẻ mạnh và kiên cường [như ông].

Sự nghiệp ngàn đời lưu tại cột đồng(1),
Anh linh muôn thưở khắc vào thuyền sắt(2).
Không thích cái hơn của Cao Mật ở Vân đài(3),
Riêng nhớ sự minh triết của Thiếu Du với loại xe hạ trạch(4).


Đến nay qua bên miếu Khởi Kính(5),
Tưởng tượng đến phong thái còn sót lại mà càng bùi ngùi.
Chú thích:
(1) Cột đồng: Tương truyền Mã Viện dẹp tan khởi nghĩa Hai Bà Trưng, có
dựng cột đồng ở biên giới Trung – Việt để cảnh cáo người Việt.
(2) Thuyền sắt: Tục truyền khi đánh miền Nam, Mã Viện có sử dụng thuyền
sắt, sau thuyền sắt vẫn còn lại ở dưới sông, gần miếu Phục Ba.
(3) Vân đài: nơi Hán Minh Đế cho vẽ chân dung 28 vị công thần thời Quang
Vũ đế để tưởng nhớ. Cao Mật: chưa rõ lai lịch. Đây nói việc Mã Viện không
được vẽ tranh công thần ở Vân đài.
(4) Thiếu Du: Theo sách Hậu Hán Thư, Mã Thiếu Du, em họ Mã Viện không
đồng ý nói: “Kẻ sĩ sinh ra ở đời chỉ cần đủ cơm ăn áo mặc, ngồi xe nhỏ (Hạ
Trạch) cỡi ngựa gầy, làm viên lại ở quận, giữ mồ mả ông cha ở làng, được
khen là người tốt là đủ”.
(5) Khởi Kính: tên bến gần miếu Phục Ba.
13. ĐỀ HẠNG VƯƠNG MIẾU(題項王廟)
Ô giang giang thủy tự liên y,(烏江江水自漣漪),
Thuyết đáo anh hùng sự khả bi.(說到英雄事可悲).
Sử tảo Hồng Môn tùng Á Phụ.(使早紅門從亞父),
Bất thành Cai Hạ khấp Ngu ky (cơ)(不成該下泣娛幾).
Cố hương phú quý tam xuân mộng,(故鄉富貴三春夢),
Bá nghiệp hưng vong nhất cục kỳ(霸業興亡一局棋).
Tịch mịch cô phần u thảo ngạn (寂寞孤坟幽草岸),
Ngưu đồng trịnh chúc quyển lư xuy(牛童躑矚捲蘆吹).

Dịch nghĩa:


ĐỀ MIẾU HẠNG VƯƠNG
Sông Ô Giang (1), nước sông vẫn gợn sóng lăn tăn,
Nói đến bậc anh hùng này, sự việc cũng đáng thương.
Nếu sớm theo kế Á Phủ (2) ở Hồng Môn,
Thì chẳng phải khóc với Ngu Cơ (3) ở Cai Hạ.
Giàu sang về quê cũ, đã thành giấc mộng ba xuân (4),
Sự còn mất của nghiệp bá, như một cuộc cờ.
Nấm mồ cô đơn lạnh lẽo bên bờ cỏ rậm,
Lũ trẻ chăn trâu giẫm đạp, cuộn lá lau làm kèn.
Chú thích:
(1) Ô Giang: nơi có miếu thờ Hạng Vũ
(2) Khi Hạng Vương cùng Bái Công hội ẩn ở Hồng Môn, Á Phủ (tức Phạm
Tăng) bày rượu mưu giết Bái Công, Hạng Vương không nghe.
(3) Hạng thua trận chạy về Cai Hạ, trong trướng gọi vợ là Ngu Cơ hát và than
vãn. Ngu Cơ tự vẫn chết, trên mộ mọc một thứ cỏ gọi là Ngu mỹ nhân thảo.
(4) Hạng Vương bình nhật nói: Giàu sang không về quê cũ như mặc áo gấm
đi đêm.
14. ĐỀ XÍCH TỊ TÔ ĐÔNG PHA TỪ(題赤鼻蘇東坡).
Minh lỗ âu a mỗi vẫn tân (鳴櫓嘔啞每問津),
Giang ba hạo hạo thạch lân lân(江波浩浩石磷磷).
Hoàng cương Xích Tị phi thiên khách(黃岡赤鼻非遷客),
Minh nguyệt thanh phong thục chủ nhân (明月清風孰主人).
Nhị tuyệt phú lưu sơn các bảo (二絕賦留山閣寶),
Nhất chi mai chiếm thạch bình xuân (一枝梅占石屏春).
Tào Tôn hùng bá kim an tại (曹孫雄霸今安在),



Thiên hữu cao nhân diện mục chân (偏有高人面目真).
Dịch nghĩa:
ĐỀ TẠI ĐỀN TÔ ĐÔNG PHA Ở NÚI XÍCH TỊ
Vì hỏi bến đò những người xi xô kia,
Sông sóng thì đầy dẫy, đá thì lô nhô,
Huyện Hoàng Cương, núi Xích Tị không phải là quá khách,
Trăng trong, gió mát, đó chính là làm chủ nhân.
Hai bài phú tuyệt diệu vẫn lưu làm của báu ở gác cao trên núi,
Một cành hoa mai chiếm được vẻ xuân trên bức bình phong đá.
Tào Tháo, Tôn Quyền xưng hùng xưng bá nay còn đâu,
Chỉ riêng khuôn mặt của bậc cao nhân còn mãi với thời gian.
Nguyên chú:
(1) Núi Xích Tị ở huyện Hoàng Cương, phủ Hoàng Châu, ông Tô Đông Pha
chơi đó, cho là núi Xích Bích, mặt trước giáp sông, đình các dài ngắn so le,
vách đá khắc tượng ông và hai bài phú Tiền, Hậu Xích Bích cùng bài Mãn
đình phương giang tây nguyệt từ, lối chữ chân và thảo, và vẽ một cây mai,
nhận kỹ hãy còn.
15. ĐỀ TRỌNG PHU TỬ MIẾU (題仲夫子廟)
Phong long lưu dục, khí anh anh (豐隆流毓氣英英),
Dũng khái kiêm nhân, chí khí hoành (勇慨兼人志氣宏).
Trị phú hữu tài, thiên thặng tiểu (治賦有才, 千剩小),
Nhự lê vô hám, vạn chung khinh (茹藜無憾, 萬鍾輕).
Dĩ tương đạo vị khai Thù Tứ (以將道味開洙泗),
Cánh bả thư hương tí Duyện Thành (更把書香漬兖城).
Phản mạnh hữu duyên trần cảnh hạnh (反孟有緣塵景幸),


Bái chiêm dư phạm lẫm do sinh (拜瞻餘範凜猶生).
Dịch nghĩa:
ĐỀ MIẾU TRỌNG PHU TỬ (1)

Khí tốt của non sông giàu thịnh đúc nên,
Dũng cảm thì hơn người, chí hướng thì rộng rãi.
Có tài làm việc thuế khóa, cho nước nghìn cỗ xe còn ít,
Không ân hận gì sự ăn rau cỏ, coi lộc nghìn chung thóc là nhỏ(2)
Đem đạo đức mở mang rộng vùng sông Thù sống Tứ (3)
Hương thơm sách vở sánh với ấp Duyện ấp Thành (4)
Được mạnh khỏe trở về may mắn có duyên lại tới đây,
Chiêm bái những uy phong còn lẫm liệt như lúc sinh thời.
Nguyên chú:
(1) Miếu thờ Trọng Phu tử tức Tử Lộ, ở thôn Trọng Gia huyện Vấn Thủy tỉnh
Sơn Đông, xưa ông làm nhà ở đó, miếu lợp ngói màu vàng lờ lờ, biển treo
bốn chữ “Thánh học can thành”. Sứ thần ta trước đây đều có vịnh thơ khắc
lên bia. Nay cùng cùng hai phó sứ kính cẩn vào lễ, cũng thế.
(2) Luận ngữ: Khổng Tử bảo Trọng Do kia (tên cái Tử Lộ) nước nghìn cỗ xe
(nước lớn) có thể coi về việc thu thuế.
(3) Ăn rau lê rau hoắc là món Tử Lộ nuôi mẹ khi còn nghèo túng. Sau mẹ
mất, sang làm quan nước Sở được ban thưởng nhiều thóc, bấy giờ nhớ tới cha
mẹ, muốn nuôi bằng lê hoắc mà không được.
(4)Nguyên là nơi ở của Khổng Tử, sau Tử Lộ cũng ở đó
(5) Duyện, thành tên hai ấp.
16. TRÁC CHÂU ĐẠO TRUNG (琢州道中)
Trác quận thành biên hiểu giá nghê (琢郡城邊曉駕輗),
Hán Tiền vân vật vọng trung mê (漢前云物望中迷).
Man không bạch tuyết biếm nhân cốt (滿空白雪窆人骨),


Cổn địa hoàng trần một mã đề (滾地黃塵沒馬踶).
Thiên trủng tùng thu bình dã bắc (千塚松楸坪野北),
Sổ gia dương liễu mộ hà tê (數家楊柳暮河西).
Kinh qua thử diệc kham trù trướng (經過此亦堪惆悵),

Thùy cánh cùng hoang sĩ nhụ chi (誰竟窮荒俟孺搘)
Dịch nghĩa:
GIỮA ĐƯỜNG TRÁC CHÂU (1)
Buổi sớm đã ruổi xe bên thành Trác quận,
Cảnh vật đời Hán xưa trông mà mê man,
Tuyết trắng ngập trời lạnh buốt tới xương,
Bụi vàng cuốn đất ngập cả móng chân ngựa.
Cây tùng mọc trên hàng nghìn ngôi mộ ở bãi đồng bằng,
Cây dương cây liễu của mấy nhà trồng ngay phía tây con sông.
Khi qua đây lòng cảm thấy buồn bã,
Ai ở nơi hoang vu mà đợi dê đực sinh con? (2)
Chú thích:
(1) Đường ở bên thành Trác quận
(2) Đời Hán, Tô Vũ sáng sứ Hồ, vua Hồ hẹn bao giờ dê đực sinh con thì mới
cho về.
17. TRIỀU TIÊN SỨ DOÃN ĐÔNG THĂNG LÝ TRÍ TRUNG
(餞朝鮮國使尹東昇 李致中)
Việt điện sơn xuyên cấu biện thần (越甸山川傋弁辰),
Tha hương kim hạnh bả thanh trần (他鄉今幸把清塵).
Tằng chiêm Hán triết trung tinh đẩu (曾瞻漢節徵星斗),
Cánh địch Chu trì húy phượng lân (更覿周墀鳳麟).


Lữ huống hữu tâm giai thượng hữu (旅况有心皆尚友),
Văn quang vô địa bất đồng luân (文光無地不同倫).
Tương phùng mạc nhạ phân tiêu tảo (相逢莫訝分鑣早),
Cố quốc mai hoa kim hựu xuân (故國梅花今又春).
Dịch nghĩa:
TIỄN SỨ THẦN TRIỀU TIÊN
DOÃN ĐÔNG THĂNG LÝ TRÍ TRUNG (1)

Non sông cõi Việt cách xa Biện thần,
Ở đất khách may mắn nay lại được chiêm ngưỡng dung nhan.
Từng trông sứ Hán tới cõi trời sao Ngưu sao Đẩu,
Lại thấy sân nhà Chu nổi vẻ đẹp của kỳ lân, phượng hoàng.
Ở nơi đất khách đã gặp ai cũng là bạn tốt,
Ánh sáng của văn chương không đâu là không gặp người đồng đạo.
Gặp nhau đây chớ lấy làm lạ là chưa bầu bạn sớm,
Chốn quê cũ, hoa mai nở lại mùa xuân tới.
Nguyên chú:
(1) Sứ thần Triều Tiên là Vũ Kiệm lão phố Doãn Đông Thăng, ngày 27 tháng
12 năm Tân Mão (Thanh Kiền Long 36. Dương lịch 1772) đến Yên Kinh.
Ngày 30 cùng sứ ta diễn lễ, hội tiệc ở Lễ bộ đường.
18. TIỄN THÁI BÌNH PHỦ HỘ TỐNG NGHIÊU NGỘ THÁI

(餞太平府護送堯遇泰)
Ngọc Long, Kim Mã dục anh thông (玉龍, 金馬毓英聰),
Tài học chẩn vi Tây thổ hùng (才學畛圍西土雄).
Thụ khái dã tằng tiên Tạ Liễn (受也曾先謝璉),
Phú tâm sinh khẳng hậu Trường Thông (賦心生肯後長通).
Phân phù dĩ bái tùy xa vũ (扮扶已沛隨車雨),


Ác chủ hoàn sinh mãn tọa phong (握拄還生滿坐風).
Điền, Việt do lai lân hảo cửu (滇越猶來鄰好久),
Thử gian đông đạo cánh kì phùng (此間東道更奇逢).
Dịch nghĩa:
TIỄN CHỨC HỘ TỐNG Ở PHỦ THÁI BÌNH
LÀ NGHIÊU NGỘ THÁI (1)
Hai trái núi Ngọc Long và Kim Mã (2) đúc nên bậc anh hiền,
Tài ấy, học ấy thật trội nhất ở cõi Tây.

Nhận lương bổng đã từng đi trước ông Tạ Liễn (3),
Thuộc lòng các câu phú, há theo sau ông Trường Thông (4),
Vâng mệnh trên, đã rắc trận mưa theo xe đến.
Cầm phất trần còn sinh ra gió đầy chỗ ngồi,
Đất Điền đất Việt xưa nay vốn là láng giềng tốt.
Ngày nay gặp nhau ở phía Đông này thật là buổi gặp gỡ thú vị.
Nguyên chú:
(1) Nghiêu Ngộ Thái: người tỉnh Vân Nam, 14 tuổi đỗ tiến sĩ, bổ tri huyện
Đường Phúc, thuyền sứ về tới Tân Đình, ông lại trước đón tiếp. Tối đó đến
bái kiến, ứng đáp rất kính cẩn, thích hỏi những đồ thư, chính sự và phong tục,
mỗi việc nghe xong vui cười đôi ba lần. Lại xin cho thơ để làm của báu trong
nhà.
(2) Ngọc Long, Kim Mã: hai ngọn núi ở Vân Nam.
(3) Tạ Liễn: người đời Thanh quê ở huyện Côn Minh tỉnh Vân Nam, hiếu học,
hay chữ, tuổi 15 bổ vào trường Bác sĩ tử đệ, được ăn lương, thường dự thi các
kỳ rất nổi tiếng.
(4)Trường Thông: tên hiệu của Giả Hiền đời Hán, quán huyện Diệp Du tỉnh
Vân Nam. Có chép “Tuần phủ” 4 quyển.

19. BÀNH TRẠCH HUYỆN THÀNH (彭澤縣城)


Ngưu, Nữ phân minh nhất phụ khư (牛, 女分明一阜墟),
Yên thâm hà trọng thụ tiêu sơ (煙深何中樹蕭疏).
Địa thiên trĩ điệp lăng sơn khởi (地天峙疊凌山起),
Giang khích lư diên bạng thủy cư (江隙閭閻傍水居).
Vật bảo do lai đa tuyết nguyệt (物寶由來多雪月),
Dân sinh tự thị bán tiều ngư (民生自是半樵漁).
Nhất quan thùy cộng đầu sâm khứ (一官垂共投簪去),
Ngũ liễu y y thặng cố lư (五柳依依勝故閭).

Dịch nghĩa:
HUYỆN THÀNH BÀNH TRẠCH (1)
Một dải gò cao phân rõ sao Nữ và sao Ngưu (2)
Mây khói u ám cây sơ xác.
Lấy đất đắp tường làm nhà bên sườn núi,
Bên sông nhà cửa ở san sát mặt nước.
Vật quý số nhiều là tuyết cùng trăng,
Dân sống quá nửa về nghề kiếm củi đánh cá.
Một chức quan cùng ai treo ấn cáo về,
Năm cây liễu vẫn xanh rờn, còn trơ lại ở nếp nhà xưa.
Nguyên chú:
(1) Bành Trạch thuộc tỉnh Giang Tây, ba mặt tựa núi Lam thành, một mặt thì
ra sông. Thế đất chật hẹp, dân ở cả ven sông. Trong thành có quán Ngũ Liễu.
Tức nền nhà của Đào Tiềm.
(2) Sao Chức Nữ ở bờ sông Ngân Hà, sao Thiên ngưu thì ở bờ tây.
20. GIANG THIÊN HỔ THÍNH CA NHÂN TÁC (江天虎聽歌因作)
Thanh ca nhất khúc thủy vân thâm,(聲歌一曲水雲深),


Thùy thị đam đam hắc dạ lâm(誰是耽耽黑夜臨).
Trạo vĩ, nhược tùy nhân án tiết (掉努若隨人按節),
Đinh tình, tự cố khách huy cầm (定情自固客揮琴)
Phiên giang hảo tố lăng ba vũ (天江好做凌波舞),
Bôn ngạn kinh hồi phách thủ ngâm (奔岸翻城拍手吟).
Dục hứa cẩm triền phao bất đắc (欲許錦纏抛不得),
Cao sơn thùy đạo thị tri âm (高山誰道是知音).
Dịch nghĩa:
TRÊN SÔNG, HỔ NGHE HÁT LÀM THƠ (1)
Một khúc hát trong trẻo ở nơi mây nước thăm thẳm,
Ai đó đến nhìn chằm chằm trong đêm tối?

Vẫy đuôi dường như bắt chước người đập nhịp,
Dán mắt tựa hồ xem khách gảy đàn
Nhào xuống sông khéo làm điệu muá giỡn sóng
Chạy lên bờ kinh hoàng như vọng lại nhịp vỗ tay
Cũng muốn cho mảnh gấm quấn đầu (2)mà ném không được
Với khúc non cao kia, ai bảo là bạn tri âm.
Nguyên chú:
(1) Đêm đó đậu thuyền ở vụng Bồng Xuyên đất Chiêu Bình cùng hai vị phó
sứ và người tùy tùng là Cẩn, Trung. Trống hát xong rồi ai về thuyền nấy. Có
muông hổ thấy ánh đèn nhảy xuống, rơi ngay giữa dòng nước rồi bơi ngay
vào bờ, chạy vút. Nhân đùa bỡn mà viết bài này.
Chú thích:
(2) Bài Tì bà hành của Bạch Cư Dị có câu: “Ngũ Lăng niên thiếu tranh chiền
đầu,/ Nhất khúc hồng sao bất tri số” Nghĩa là: (Tụi niên thiếu ở Ngũ Lăng


tranh nhau trùm đầu,/ Chỉ một khúc hát mà gấm hồng không biết bao nhiêu
mà kể)
(3) Bá Nha gảy đàn, Chung Tử Kỳ lắng nghe, biết rõ chí của Bá Nha ở nơi
non cao, hay nơi nước chảy. Nhân kết làm bạn tri âm.
21. MẠC PHỦ DẠ TÚC (幕府夜宿)
Khi khu sơn lộ giá chinh phi(崎嶇山路駕征騑),
Phát tịch giao quynh chính lạc huy (發夕郊坰正落暉).
Đầu thiếp môn tiền hoàn xích lí (投帖門前環赤履),
Quan cần hạm ngoại thốc thanh y (觀芹檻外秃青衣).
Đồ thư đăng kỉ, thiên nam hiểu (圖書登几, 天南曉),
La đạc xao tường, nguyệt tự huy (鑼鐸敲墙, 月似暉).
Tiện thị Ngọc kinh tòng thử khứ (便是玉京從此去),
Dịch phu hồi cổ náo thanh vi (驛夫回鼓鬧青幃).
Dịch nghĩa:

TRỌ ĐÊM Ở MẠC PHỦ (1)
Xe ngựa miết mải trên đường núi gập ghềnh,
Ra đi từ sáng tới chiều đến xa ngoại thành thì đúng lúc ánh chiều tắt.
Những người đi giày đỏ đang vây trước cửa để đưa thiếp,
Những người cống sĩ tấp nập ngoài lan can ngắm rau cần.
Sách vở đưa trên yên mà phía nam đã rõ,
Chiêng mõ khua trên tường mà trăng vẫn sáng.
Nhân từ đây cuộc ra đi mà đến Ngọc Kinh,
Bọn phu dịch đổ hồi trống làm náo động màn xanh nơi khuê các.
Chú thích:


(1) Mạc phủ: phủ tự lập ra bất thường ở giữa đường, che mái bằng vải, vây
màn chung quanh.

PHỤ LỤC 2
25 BÀI THƠ ĐI SỨ CỦA ĐOÀN NGUYỄN TUẤN
1. VÃN TÚC MẠC PHỦ(晚宿幕府),
[Quá quan tứ thập lí 過關四十里]
Nam phong xuy chướng thụ âm thanh (南風吹瘴樹陰清),
Tiểu tiểu xuất đường yết sứ tinh (小小出塘歇使星).
Nhất khứ cố hương thành tuyệt vực (一去故鄉成絕域),
Trùng lai tân điểm hàm Chu tinh (重來新館含周星).
Viên đề động khẩu thanh bi oán (猿啼洞口聲悲怨),
Thiềm thượng nham đầu ảnh giảm minh (蟾上岩頭 影 減 明).
Lữ huống hương tình quan bất trước (旅況鄉情關不著),
Ngô âm giới hiểu thính trùng quynh (吳音戒曉哂重扃).
Dịch nghĩa:
TỐI NGỦ Ở MẠC PHỦ,
[Cách cửa ải bốn mươi dặm]

Gió nam thổi rừng núi làm bóng cây mát,
Đoàn sứ thần đi hết con đường nho nhỏ.
Vừa khỏi quê hương là thành nơi khác biệt,
Nay lại tròn một năm gặp quán mới.
Tiếng vượn kêu ai oán trước cửa động,
Và trăng núi mờ đi trên đầu núi.
Tình quê hương người lữ thứ không khóa được,


Nghe tiếng người Ngô (1) báo sáng (như gà trống gáy) mà buồn
cười.
Chú thích:
(1) Ngô: chỉ người Trung Hoa.
NGUYỄN ĐĂNG NA dịch, chú thích.
2. NINH MINH GIANG HÀNH (寧明江行) (Kỳ nhất)
Khứ khứ chinh câu hạ bạch vân (去去征駒下白雲),
Huân phong sơ tống cẩm phàm vân (薰風初送錦帆芸).
Nhất điều lục thủy đồng minh kính (一條綠水同明鏡),
Lưỡng ngạn thương nhai sáp tử thần (兩岸蒼崖插紫宸).
Đồng trụ hà niên phân địa trục (銅柱何年分地軸),
Tinh xà thử lộ đạt thiên tân (星槎此路達天津).
Vị phi hồ thỉ bình sinh chí (為非弧矢平生志),
Thực trưởng giang tâm túc thế nhân (實長江心宿世因).
Dịch nghĩa:
BÀI HÀNH VỀ SÔNG NINH MINH (1)
Chiến mã đi dưới làn mây trắng,
Gió ấm đầu hè đưa buồm gấm ra đi.
Một dòng sông xanh như gương sáng,
Hai bờ xanh cắm vào cung điện.
Năm nào cột Đồng Trụ chia ra trục đất

Thuyền (sứ thần) trên con đường này tới bến sông Trời.
Đâu vì chí hồ thỉ thuở bình sinh,
Nhân trọ ở thế giới này (2) gửi vào dòng sông đó.
Chú thích:
(1) Sông Ninh Minh: tại trấn Minh Giang, huyện Ninh Minh, Quảng Tây.
(2) Trọ ở thế giới này: chỉ con người (quá khứ, hiện tại, tương lai)


NGUYỄN ĐĂNG NA dịch, chú thích.
3. NINH MINH GIANG HÀNH (寧明江行) (Kỳ nhị)
Sùng dung bạch trĩ trấn nghiêu khê (崇墉白雉鎮嶢嵠),
Lưỡng ngạn thanh sơn mạn bích khê (兩岸青山漫碧溪).
Bất giải tằng tằng, khai cẩm tú (不廨層層開錦繡),
Giang lưu khúc khúc, dạng pha lê (江流曲曲樣玻璃).
Hoàng Sào binh mã, lâm ba động (黃巢兵馬臨波動),
Bạch Miếu hương yên, tiếu thụ đê (白廟香烟蘸樹低).
Biệt hữu nhất ban thanh nhã tuyệt (別有一般清雅絕),
Ki đầu thoa lạp vãn hà tê (磯頭簑笠晚霞西).
Dịch nghĩa:
BÀI HÀNH VỀ SÔNG NINH MINH
Thành cao trấn vùng núi kì quái,
Hai bên có núi xanh, suối trong xanh.
Chẳng phải là giải vũ, mà tầng tầng lớp lớp mở ra cảnh cẩm tú,
Với dòng sông như pha lê uốn lượn.
Hình binh mã của Hoàng Sào (1) nhìn xuống dòng sông,
Khói hương trong Bạch Miếu (2) trùm sát xuống cây cối.
Đó riêng cảnh thanh tân u nhã,
Ta đội nón, mặc áo tơi trên mỏm đá dưới nắng quái chiều tà.
Chú thích:
(1) Hoàng Sào (835 - 884): người Sơn Đông thuộc Bách Việt, chống triều

Đường và từng lên ngôi Hoàng đế, đặt quốc hiệu Đại Tề.
(2) Bạch Miếu: miếu có màu trắng.
NGUYỄN ĐĂNG NA dịch, chú thích.


4. ỨNG CHẾ ĐẰNG VƯƠNG CÁC THẬP DANH
(應制題滕王閣什名)
Tử An nhất tự kiến di biên (子安一序見遺編),
Mộng mị danh lâu sổ thập niên (夢寐名樓數十年).
Hỗ tất thử tào lâm tỉnh hội (扈蹕此遭臨省會),
Minh loan cố chỉ tại giang biên (鳴鸞故址在江邊).
Miết Đình hoa liễu lưu trì nhật (鱉亭花柳留遲日),
Thành nội hữu đàm, biến thực thủy liễu.(城內有潭,遍植水柳),
Đàm nội hữu bách hoa, châu chi nội đối Miết đình (潭內有百花,

洲之內對鱉 亭).
Ngạc Chử yên ba tiếp viễn thiên (鱷渚煙波接遠天).
Giang nhất chi danh Ngạc trì. Tích hữu nhân dưỡng ngạc ư thử
(江一支名鱷池.昔有人養鱷於此).
Bối ỷ song phong tây lĩnh mộ (背倚窗風西嶺暮),
Càn khôn hạo diểu tứ tưởng nhiên (乾坤浩渺思想然).
Dịch nghĩa:
ỨNG CHẾ ĐẰNG VƯƠNG CÁC MƯỜI TÊN
Một bài tựa của Tử An về Đằng Vương các để lại,
Đã mấy chục năm nay ta mộng đến đó.
Đi theo chuyến này đến đây chợt hiểu,
Trong tiếng nhạc xe loan tại nền cũ.
Hoa liễu tại Miết Đình như kéo ngày dài thêm,
(Thành có đầm, trồng khắp loại thủy liễu; trong đầm có trăm loại
hoa; trước mặt Miết Đình là các bãi bùn).



×