Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Mien bac vua chien đau vua chong chien tranh pha hoai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.5 KB, 9 trang )

A. MIỀN BẮC VỪA CHIẾN ĐẤU CHỐNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI LẦN
THỨ NHẤT CỦA MĨ, VỪA SẢN XUẤT VÀ LÀM NGHĨA VỤ HẬU PHƯƠNG 6568.

* Âm mưu chiến tranh phá hoại của Mĩ.
Thấy rõ vai trò của miền Bắc trong cuộc kháng chiến, nên ngay
từ đầu và trong suốt quá trình chiến tranh Mĩ luôn tìm cách phá
hoại.
Tháng 3-64, Gion xơn phê chuẩn kế hoạch dùng tàu khu trục Mĩ
tuần tiễu ở vịnh Bắc Bộ để ngăn chặn nguồn tiếp tế đường biển
của ta và tiến hành quấy rối, trinh sát vùng ven biển, yểm trợ cho
tàu biệt kích ngụy vây bắt ngư dân đánh cá để khai thác tin tức.
Giữa tháng 4-64, Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mĩ vạch
ra kế hoạch ném bom miền Bắc, lên danh sách 94 mục tiêu sẽ đánh
phá.
Ngày 31-7, tầu khu trục Mađốc của Mĩ xâm phạm khu vực phía
Nam đảo Cồn Cỏ, máy bay Mĩ ngang nhiên bắn phá hai đồn biên
phòng Nậm Cắn và Nọong Dẻ (Nghệ An).
Trưa chủ nhật, 2-8-64, hải quân ta cho phân đội 3, có 3 tầu
phóng lôi số 333, 336, 339 (thuộc đoàn 135) đánh đuổi tầu khu
trục Mađốc, khi nó vào sâu hải phận của ta ở vùng biển giữa đảo
Hòn Kê và Lạch Trường.
Sau đó, chính quyền Giônxơn dựng lên câu chuyện rằng; đêm 48-64, tàu chiến Mĩ bị quân ta tiến công lần 2 ở ngoài khơi vịnh Bắc
Bộ thuộc hải phận quốc tế, để lấy cớ ném bom căn cứ hải quân và
một kho dầu của ta ở miền Bắc ngày 5-8-64.
Mục tiêu đánh phá miền Bắc nhằm:
- Phá tiềm lực kinh tế, quốc phòng, phá công cuộc xây dựng
CNXH ở miền Bắc.
- Ngăn chặn nguồn chi viện từ bên ngoài vào miền Bắc và từ
miền Bắc vào miền Nam.
- Uy hiếp tinh thần, làm lung lay ý chí chống Mĩ của nhân dân
ta ở hai miền đất nước.




Mĩ coi việc thực hiện các mục tiêu đó nhằm củng cố tinh thần
bọn tay sai đang sa sút nghiêm trọng và ngăn chặn phong trào giải
phóng dân tộc đang lên cao.
* Thủ đoạn của Mĩ.
Cuối 64 đầu 65, cùng với việc đẩy mạnh chiến tranh xâm lược
miền Nam, Mĩ mở rộng chiến tranh, dùng không quân và hải quân
phá họai miền Bắc.
Để lấy cớ gây ra cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, Giôn xơn
dựng lên “sự kiện Bắc Bộ” ngày 5-8-64, tàu chiến Mĩ bị hải quân
Việt Nam tấn công ở ngoài khơi vịnh Bắc Bộ.
Từ 7-2-65, lấy cớ “trả đũa” việc quân giải phóng miền Nam
Việt Nam tấn công doanh trại quân Mĩ ở Plâyku (6-2-65), Giôn
xơn ra lệnh mở chiến dịch “Mũi lao lửa”, ném bom bắn phá thị xã
Đồng Hới, đảo Cồn Cỏ, chính thức mở cuộc chiến tranh phá hoại
bằng không quân và hải quân trên toàn miền Bắc.
Mĩ đã huy động một lực lượng không quân, hải quân rất lớn
gồm hàng ngàn máy bay tối tân thuộc 50 loại khác nhau, kể cả
những loại mới nhất; B.52, F111…
Mục tiêu tấn công của Mĩ là các mục tiêu quân sự, kinh tế giao
thông, nhà máy, xí nghiệp… nhưng dã man hơn chúng còn tấn
công cả khu vực đông dân cư như bệnh viện, trường học, khu an
dưỡng…
Cường độ ném bom, bắn phá ngày càng ác liệt, mọi lúc, mọi
nơi, mọi thời tiết. Trung bình mỗi ngày có 300 lần chiếc máy bay
đi gây tội ác với 1600 tấn bom trút xuống các làng mạc, phố xá.
* Miền Bắc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại.
Theo tinh thần Hội nghị TW Đảng 11 (3-65), miền Bắc kịp thời
chuyển mọi hoạt động phù hợp với hoàn cảnh thời chiến, thực hiện

quân sự hóa toàn dân, tiến hành sơ tán khỏi những vùng trọng điểm
để tránh thiệt hại.
Với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, quân dân
miền Bắc đã sôi nổi tham gia các phong trào thi đua yêu nước,
chống Mĩ với khẩu hiệu “Nhằm thẳng quân thù mà bắn”, “Chắc
tay súng, vững tay búa”, “Chắc tay súng vững tay cày”… vừa
chiến đấu vừa sản xuất.


Trong hơn 4 năm (từ 5-8-64 đến 1-11-68), quân và dân miền
Bắc đã bắn rơi và phá hủy 3.243 máy bay, trong đó có 6 B.52, 3
F.111, bắn chìm và bắn hỏng 143 tàu chiến, bắt hàng nghìn giặc
lái…Mĩ buộc phải tuyên bố ngừng ném bom bắn phá (từ vĩ tuyến
20 trở ra) bắt đầu từ 31-3-68 và sau đó từ 1-11-68, chúng tuyên bố
chấm dứt không điều kiện việc ném bom bắn phá miền Bắc.
Trong chiến đấu đã xuất hiện nhiều tập thể và cá nhân xuất sắc:
chiến công của bộ đội tên lửa, trong các ngày 7 và 18-3-66, bằng 1
quả đạn, hạ 2 máy bay Mĩ; Đơn vị dân quân xã Hà Thượng (Đại
Từ, Thái Nguyên), bằng 18 viên đạn súng máy, súng trường bắn
rơi chiếc máy bay Mĩ RF.4C trong ngày 1-8-66; đơn vị lão dân
quân xã Hoằng Trùng (Hoằng Hóa, Thanh Hóa), bằng vũ khí thông
thường, bắn rơi máy bay Mĩ trong ngày 14-10-67; đơn vị pháo
binh dân quân gái Ngư Thủy (Lệ Thủy, Quảng Bình), bắn cháy tàu
chiến Mĩ ngày 7-2-68…
Trong nông nghiệp, với tinh thần “làm ngày không đủ, tranh
thủ làm đêm”, nông dân đẩy mạnh sản xuất, diện tích canh tác
được mở rộng, năng suất tăng, năm 65 có 7 huyện, 680 HTX đạt 5
tấn thóc/ha; đến năm 66 tăng lên 17 huyện, 764 HTX; đến 67 tăng
lên 30 huyện, 2.600 HTX.
Trong công nghiệp, sản lượng vẫn được giữ vững, công nghiệp

địa phương và công nghiệp quốc phòng tăng hơn trước. Mỗi tỉnh
trở thành một đơn vị kinh tế tương đối hoàn chỉnh, có thể tự cấp, tự
túc, đảm bảo hậu cần tại chỗ.
Hệ thống giao thông vận tải đảm bảo thông suốt.
Văn hóa, giáo dục, y tế, văn học nghệ thuật phát triển mạnh,
phục vụ nhu cầu vừa kháng chiến vừa kiến quốc.
* Miền Bắc làm nghĩa vụ hậu phương lớn.
Với vai trò là hậu phương lớn, trong suốt những năm kháng
chiến chống Mĩ, đặc biệt là các năm 65-68, chống Mĩ phá hoại lần
1, bên cạnh tăng gia sản xuất thì miền Bắc còn là hậu phương lớn,
sẵn sàng đáp ứng mọi yêu cầu của tiền tuyến lớn: “Thóc không
thiếu một cân, quân không thiếu một người”, vì miền Nam ruột
thịt, miền Bắc thi đua phấn đấu “mỗi người làm việc bằng hai”.


Đưa vào Nam bộ đội, sức người, sức của thông qua tuyến đường
sắt chiến lược Bắc- Nam (khai thông từ 5-59), mang tên Hồ Chí
Minh trên bộ và trên biển.
Kết quả: trong 4 năm (65-68), miền Bắc đã đưa vào miền Nam
trên 300.000 cán bộ, bộ đội tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu,
xây dựng kinh tế- xã hội tại các vùng giải phóng, cùng với hàng
chục vạn tấn vũ khí đạn dược, quân trang, quân dụng, thuốc men,
xăng dầu…tăng 10 lần so với giai đoạn trước.


Sự chi viện trên và những kết quả chống phá hoại lần 1
góp phần quyết định vào thắng lợi của quân dân miền
Nam trong kháng chiến chống “chiến tranh cục bộ” của
Mĩ-Ngụy.


B. Miền Bắc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ
hai của Mĩ (72-73).
* Hoàn cảnh.
Cuộc tiến công chiến lược 72 của quân dân ta ở miền Nam đã
đẩy quân ngụy vào tình thế khó khăn, làm cho chiến lược “Việt
Nam hóa chiến tranh” của Nich xơn đứng trước nguy cơ bị phá sản
hoàn toàn.
Để cứu vãn tình thế, chính quyền Nich xơn thực hiện “Mĩ hóa”
trở lại cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam bằng cách huy động
lực lượng lớn không quân và hải quân, ồ ạt tham chiến ở miền
Nam và gây ra cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc.
Lực lượng không quân và hải quân mà Mĩ huy động vào Việt
Nam từ 4-72, với số lượng lớn nhất và hiện đại nhất. Số lượng máy
bay, cao nhất là 1.400 máy bay chiến thuật, 193 B.52 (bằng 3 nước
Tây Âu; Anh, Pháp, Tây Đức lúc đó cộng lại). Về tàu chiến chúng
huy động 14 chiếc chiếm ¾ tổng số tàu chiến của Hạm đội 7.
* Mục đích của Mĩ.


Ngoài 3 mục đích trong chiến tranh phá hoại lần thứ nhất là;
phá tiềm lực kinh tế, ngăn chặn sự chi viện, uy hiếp tinh thần nhân
dân ta. Cuộc chiến tranh phá hoại lần hai còn nhằm mục đích trước
mắt là ; cứu vãn sự thất bại của chiến lược “Việt Nam hóa chiến
tranh” và tạo thế mạnh trên bàn đàm phán.
* Thủ đoạn của Mĩ trong cuộc chiến tranh phá hoại lần 2.
Để hỗ trợ cho cuộc càn quét ở chiến trường miền Nam trong
chiến lược “ Việt Nam hóa chiến tranh”:
- Từ 6-4-72, một tuần sau khi quân dân miền Nam bắt đầu cuộc
tiến công chiến lược (30-3-72), Mĩ cho hải quân và không quân
đánh phá một số nơi ở khu IV cũ.

- Ngày 16-4-72, Ních xơn tuyên bố chính thức tiến hành cuộc
chiến tranh bằng không quân và hải quân phá hoại miền Bắc lần
2.
- Ngày 9-5-72, Ních xơn ra lệnh phong tỏa cảng Hải Phòng cùng
các cửa sông, luồng lạch và vùng biển miền Bắc.
* Quy mô:
Cuộc chiến tranh phá hoại lần 2 Ních xơn đã vượt xa cuộc chiến
tranh phá hoại lần thứ nhất của Giôn xơn về cả quy mô, tốc độ,
cường độ đánh phá, nhất là sử dụng một cách phổ biến, tập trung
các loại máy bay hiện đại nhất như B.52, F.111. Ý đồ của Ních
xơn là cứu nguy cho chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và tạo
thế mạnh trên bàn đàm phán tại Pari.
* Diễn biến.
Thực hiện nghị quyết của TW Đảng (1-6-72), miền Bắc đã
nhanh chóng chuyển mọi hoạt động sang thời chiến, thực hiện
công tác, phòng không, sơ tán, phân tán ở các thành phố, thị xã,
các khu vực trọng điểm giao thông.


Nhờ được chuẩn bị trước và tư thế luôn sẵn sàng chiến đấu,
quân dân ta ở miền Bắc đã có thể chủ động, kịp thời chống trả địch
ngay từ trận đầu. Với cách đánh mưu trí, dũng cảm, vận dụng và
phát triển sáng tạo những kinh nghiệm tác chiến của chiến tranh
nhân dân trong chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất
(65-68), các lực lượng vũ trang phòng không, không quân và
phòng thủ vùng biển của ta đã đánh thắng giòn giã. Chỉ tính trong
7 tháng đầu của cuộc chiến đấu (4 đến 10-72), quân dân ta đã bắn
rơi 651 máy bay, bắn cháy và bắn bị thương 80 tầu chiến Mĩ, bắt
sống hàng trăm giặc lái.
Trong điều kiện chiến tranh ác liệt, các hoạt động sản xuất xây

dựng ở miền Bắc vẫn không bị ngừng trệ, giao thông vận tải đảm
bảo thông suốt, các mặt hoạt động khác như văn hóa, giáo dục, y tế
được duy trì và phát triển.
C. Cuộc tập kích chiến lược đường không bằng máy bay
B.52 của Mĩ cuối 72.
* Hoàn cảnh.
Cách mạng Lào và Campuchia giành thêm thắng lợi về chính
trị- ngoại giao.
Cuối 7-72, Hội nghị các ĐCS và công nhân châu Âu (27 đoàn)
họp ở Pari để tỏ tình đoàn kết, ủng hộ cuộc chiến đấu chống Mĩ
của nhân dân 3 nước Đông Dương.
Ngày 10-8-72, Hội nghị đại biểu 59 nước “không liên kết” họp
ở Gióogiơtao (Cộng hòa Guyanna) đã công nhận địa vị hợp pháp
của chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam
và chính phủ Campuchia trong đại gia đình các nước “không liên
kết”.
Nich xơn cử một phái đoàn đến Pari để nối lại cuộc đàm phán
mà chúng đã tự ý bỏ (hồi 3-72) và đến ngày 22-10-72 thì tuyên bố
ngừng ném bom bắn phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra.


Nhận rõ hành động trên của Nich xơn chỉ nhằm đánh lừa dư
luận thế giới và trong nước để tranh thủ số phiếu trong cuộc bầu cử
tổng thống cuối 72. Bộ chính trị và Quân ủy trung ương nhắc nhở
quân dân ta cảnh giác, sẵn sàng tư thế chiến đấu, vì Mĩ có thể ném
bom trở lại miền Bắc bất cứ lúc nào.
Đúng như Đảng dự đoán, sau khi trúng cử Tổng thống (8-1172), Nich xơn liền trở mặt, làm cho cuộc đàm phán ở Pari bị bỏ dở.
Ngày 14-12-72, gần hai tháng sau khi tuyên bố ngừng ném bom
miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra để hỗ trợ cho mưu đồ chính trị,
ngoại giao, Nich xơn phê chuẩn kế hoạch mở cuộc tập kích bằng

không quân chiến lược vào Hà Nội, Hải Phòng. Cuộc tập kích
24/24 h trong ngày bằng máy bay B.52 vào thủ đô Hà Nội và thành
phố cảng Hải Phòng bắt đầu từ chiều 18-12 đến hết ngày 29-12-72.
* Mục tiêu đánh phá:
1. Làm áp lực cho cuộc đàm phán ở Pari, đánh vào tâm lí
nhân dân.
2. Phá hoại tiềm lực kinh tế, quốc phòng, ngăn chặn nguồn
tiếp tế của hậu phương cho tiền tuyến.
3. Tạo điều kiện củng cố chính quyền Sài Gòn.
4. Chứng minh sức mạnh quân sự của Mĩ.
* Diễn biến.
Trong 12 ngày đêm, Mĩ sử dụng trên 700 lần chiếc máy bay
B.52, gần 4000 lần chiếc máy bay chiến đấu, giải xuống Hà Nội,
Hải Phòng và một số mục tiêu phía Bắc vĩ tuyến 20 với số lượng
bom đạn lên tới 10 vạn tấn (riêng Hà Nội 4 vạn tấn) với sức mạnh
công phá của 5 quả nguyên tử mà Mĩ ném xuống Nhật Bản năm
45.
* Kết quả.


Nhờ chuẩn bị tốt về cả tư tưởng lẫn tổ chức, lực lượng và
phương tiên, quân dân miền Bắc đã đánh trả địch những đòn đích
đáng từ trận đầu và đã đánh bại hoàn tòan cuộc tập kích bằng máy
gay chiến lược B.52 của Mĩ, làm nên trận “Điện Biên Phủ trên
không”, hạ 81 máy bay, trong đó có 34 B.52, 5 F.111, bắt 44 giặc
lái.
Tính chung cuộc chiến tranh phá hoại lần hai, ta đã hạ 735 máy
bay (trong đó có 61 B.52, 10 F.111), 125 tàu chiến và bắt sống
hàng trăm giặc lái.
Ngày 30-12-72, chính phủ Mĩ tuyên bố ngừng mọi hoạt động

chống phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra.
* Ý nghĩa:
Đến ngày 15-1-73, Mĩ tuyên bố ngừng hoàn toàn các hoạt động
chống phá miền Bắc, đi đến kí Hiệp định Pari 27-1-73.
C. Miền Bắc chi viện cho miền Nam.
Miền Bắc thực hiện nghĩa vụ hậu phương từ 69-73 trong tình
hình chiến tranh như thế nào, từ đó đặt ra yêu cầu gì? Nêu kết quả
và ý nghĩa.
- Tình hình chiến tranh và yêu cầu được đặt ra.
Miền Bắc vừa phải chiến đấu tự bảo vệ mình chống lại cuộc
chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mĩ,
vừa ra sức chi viện cho miền Nam, phục vụ công cụ kháng chiến
chống Mĩ, tiến tới giải phóng miền Nam khi thời cơ đến.
Tuy bị đế quốc Mĩ phá hoại bằng không quân và hải quân,
nhưng miền Bắc ngày càng lớn mạnh và vững chắc thêm, đáp ứng
đầy đủ các nhu cầu cho tiền tuyến miền Nam, thúc đẩy cách mạng
Việt Nam.


Bên cạnh việc làm nghĩa vụ hậu phương lớn đối với tiền tuyến
miền Nam, nhân dân miền Bắc còn phải làm nghĩa vụ quốc tế đối
với Lào và Campuchia. Như vậy lúc này, yêu cầu chi viện là rất
lớn.
- Kết quả:
Số lượng bộ đội, cán bộ thanh niên xung phong lên đường vào
Nam đánh giặc ngày càng tăng: Trong 3 năm 69-71, hàng chục vạn
thanh niên miền Bắc được gọi nhập ngũ, trong đó có 60% lên
đường bổ xung cho các chiến trường miền Nam và cả ở Lào và
Campuchia.
Khối lượng vật chất (vũ khí, đạn dược, lương thực…) đưa vào

chiến trường trong 3 năm gấp 1.6 lần so với 3 năm trước đó.
Trong những năm 72, miền Bắc đã động viên trên 22 vạn thanh
niên bổ sung cho lực lượng vũ trang đưa vào chiến trường ba nước
Đông Dương.
Cuối 8-72, trong báo cáo gửi Nich xơn, cơ quan tình báo Mĩ
phải thú nhận “mặc dầu ném bom rất ác liệt vẫn không giảm đi một
cách có ý nghĩa việc đưa người và trang thiết bị vào miền Nam”.
* Ý nghĩa:
Những thắng lợi của miền Bắc trong cuộc chiến chống phá hoại
bằng không quân và hải quân của Mĩ cũng như những thành tích
chi viện về sức người, sức của cho miền Nam, càng chứng tỏ sự
lớn mạnh của chế độ XHCN, tạo miền tin cho nhân dân miền Nam
trong cuộc kháng chiến chống Mĩ đến thắng lợi cuối cùng.



×