Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Phân tích và bình luận về nguyên tắc mở cửa thị trường và đối xử quốc gia trong lĩnh vực thương mại dịch vụ theo quy định của WTO bt lớn học kì TMQT8d

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.14 KB, 7 trang )

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
I/ Các quy định cơ bản của thương mại dịch vụ trong WTO
1) Khái niệm dịch vụ và thương mại dịch vụ
2) Những nguyên tắc cơ bản
II/ Nguyên tắc mở cửa thị trường và đối xử quốc gia trong lĩnh vực thương
mại dịch vụ theo quy định của WTO
1) Cơ sở pháp lý
2) Nội dung của nguyên tắc
3) Bình luận về việc thực hiện nguyên tắc cam kết mở cửa thị trường và đối
xử quốc gia trong lĩnh vực thương mại dịch vụ
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1


MỞ ĐẦU
Luật thương mại dịch vụ quốc tế là bộ phận mới của luật thương mại quốc tế và ngày
càng giữ vị trí quan trọng trong thương mại toàn cầu. Tổ chức thương mại thế giới
(WTO) có Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS). Đây là hiệp định đầu tiên
và duy nhất đến nay tập hợp những quy định pháp luật thương mại quốc tế đa biên
điều chỉnh thương mại dịch vụ thế giới. Nhằm tạo ra môi trường cạnh tranh lành
mạnh và thúc đẩy quá trình hội nhập sâu rộng trong lĩnh vực thương mại dịch vụ, hiệp
định GATS có hệ thống những nguyên tắc trong quan hệ hợp tác kinh tế song phương
và đa phương. Trong hệ thống những nguyên tắc đó, nguyên tắc mở cửa thị trường và
đối xử quốc gia là những nguyên tắc quan trọng trong việc xây dựng, mở cửa, tiếp cận
thị trường trong quan hệ hợp tác giữa các nước thành viên. Để tìm hiểu và làm rõ hơn
về hai nguyên tắc này trong lĩnh vực thương mại dịch vụ của WTO, trong khuôn khổ


nội dung bài tập lớn em xin được chọn đề tài: “Phân tích và bình luận về nguyên tắc
mở cửa thị trường và đối xử quốc gia trong lĩnh vực thương mại dịch vụ theo quy
định của WTO”

NỘI DUNG
I/ Các quy định cơ bản của thương mại dịch vụ trong WTO
1) Khái niệm dịch vụ và thương mại dịch vụ

Trong khuôn khổ của GATT/WTO, tại vòng đàm phán Uruguay diễn ra từ năm
1986 đến năm 1994, các nước thành viên của GATT đã thông qua Hiệp định chung về
Thương mại dịch vụ (General Agreement on Trade in Services, viết tắt là GATS).
Hiệp định được thiết lập nhằm mở rộng phạm vi điều chỉnh của hệ thống thương mại
đa phương sang lĩnh vực dịch vụ chứ không điều chỉnh một mình lĩnh vực thương mại
hàng hóa như trước đó.
GATS không có định nghĩa về dịch vụ. Để xác định hành vi hoặc hoạt động nào đó là
dịch vụ, các nước phải tuân thủ theo quy định của Liên Hợp Quốc về dịch vụ, đặc biệt
2


là phải tuân theo quy định tại Bảng phân loại các dịch vụ cơ bản của Liên Hợp Quốc
(Danh mục PCPC/CPC. Bất cứ hành vi hoặc hoạt động nào được liệt kê vào, được mô
tả và được mã hóa trong Danh mục nói trên thì hành vi hoặc hoạt động đó được thừa
nhận là dịch vụ trong giao dịch thương mại quốc tế.
Đối với thương mại dịch vụ GATS có định nghĩa khá rõ ràng, Thương mại dịch vụ
được hiểu là sự cung cấp dịch vụ:
-

Từ lãnh thổ của nước này (nước cung ứng dịch vụ) đến lãnh thổ của nước khác
(nước sử dụng dịch vụ) theo phương thức “cung ứng dịch vụ qua biên giới”
(hay “phương thức 1” theo ngôn từ của WTO);


-

Trên lãnh thổ của nước này (nước sử dụng dịch vụ) cho người sử dụng dịch vụ
của bất kì nước nào khác theo phương thức “tiêu dùng dịch vụ ở nước ngoài”
(phương thức 2)

-

Cung cấp dịch vụ bởi người- tổ chức- cung ứng dịch vụ của nước này (nước
cung cấp dịch vụ) tại bất kì nước nào khác (nước sử dụng dịch vụ) theo phương
thức “hiện diện thương mại” (phương thức 3);

-

Cung cấp dịch vụ bởi người- thể nhân- cung cấp dịch vụ của nước này (nước
cung cấp dịch vụ) tại bất kì nước nào khác (nước sử dụng dịch vụ) theo phương
thức “hiện diện của thể nhân” (phương thức 4).

2) Những nguyên tắc cơ bản

Hoạt động thương mại dịch vụ nói chung phải theo các nguyên tắc cơ bản của WTO
đối với thương mại hàng hóa, nhưng có sự vận dụng linh hoạt đối với các nước đang
phát triển và đặc điểm kinh tế – xã hội của từng quốc gia. Các nguyên tắc cơ bản
trong thương mại dịch vụ theo quy định của WTO bao gồm:
-Nguyên tắc không phân biệt đối xử, gồm hai quy chế: Đãi ngộ tối huệ quốc và Đối
xử quốc gia.
- Nguyên tắc mở cửa thị trường, bao gồm hai khía cạnh: Một là, các nước thành viên
mở cửa thị trường cho nhau thông qua việc cắt giảm từng bước, tiến tới xóa bỏ hàng
rào thuế quan và phi thuế quan, mở đường cho thương mại phát triển; hai là, các chính

sách, luật lệ thương mại phải được công bố công khai, kịp thời, minh bạch để có thể
dự báo được môi trường và triển vọng thương mại.

3


- Nguyên tắc chấp nhận loại trừ các dịch vụ công: Các dịch vụ được loại ra khỏi luật
thương mại quốc tế và không có quy định nào của GATS buộc các cơ quan công
quyền phải tư nhân hóa các ngành công nghiệp dịch vụ.
- Nguyên tắc bảo đảm tính minh bạch, công khai: Luật thương mại quốc tế quy định
pháp luật trong nước phải bảo đảm tính minh bạch. Chính phủ các nước phải công bố
các luật, quy định phù hợp và thiết lập các điểm thông tin trong các cơ quan hành
chính của mình.
- Nguyên tắc công nhận hệ thống chất lượng: Khi hai (hay nhiều) chính phủ kí các
hiệp định công nhận hệ thống chất lượng của nhau thì họ phải tạo điều kiện cho các
thành viên khác được đàm phán với họ về các thỏa thuận tương tự. Việc công nhận hệ
thống chất lượng của các nước không được mang tính phân biệt đối xử cũng như
mang tính bảo hộ trá hình.
- Được thanh toán và chuyển tiền quốc tế theo lộ trình tự do hóa từng bước: Một khi
đã cam kết mở cửa một ngành dịch vụ cho cạnh tranh nước ngoài thì về nguyên tắc
chính phủ không được cấm việc trả tiền ra nước ngoài dưới danh nghĩa chi trả cho các
dịch vụ đã tiêu dùng. Chỉ có trường hợp một nước gặp khó khăn về cán cân thanh
toán nhưng ngay cả trong trường hợp này thì các quy định cấm đó chỉ có thể được áp
dụng tạm thời và phải tuân thủ những hạn chế và các quy định khác.
II/ Nguyên tắc mở cửa thị trường và đối xử quốc gia trong lĩnh vực thương mại
dịch vụ theo quy định của WTO
1) Cơ sở pháp lý

Nguyên tắc mở cửa thị trường và đối xử quốc gia trong lĩnh vực thương mại dịch vụ
được quy định tại điều XVI và XVII Phần III: Cam kết cụ thể của Hiệp định chung

về thương mại dịch vụ (GATS)
Điều XVI: Tiếp cận thị trường
“1. Đối với việc tiếp cận thị trường theo các phương thức cung cấp dịch vụ nêu tại Điều I,
mỗi Thành viên phải dành cho dịch vụ hoặc người cung cấp dịch vụ của các Thành viên
khác sự đối xử không kém thuận lợi hơn sự sự đối xử theo những điều kiện, điều khoản và
hạn chế đã được thỏa thuận và quy định tại Danh mục cam kết cụ thể.

4


Điều XVII: Đối xử quốc gia
“1. Trong những lĩnh vực được nêu trong Danh mục cam kết, và tùy thuộc vào các điều kiện
và tiêu chuẩn được quy định trong Danh mục đó, liên quan tới tất cả các biện pháp có tác
động đến việc cung cấp dịch vụ, mỗi Thành viên phải dành cho dịch vụ và người cung cấp
dịch vụ của bất kỳ Thành viên nào khác sự đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử mà
Thành viên đó dành cho dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ của mình.
2. Một Thành viên có thể đáp ứng những yêu cầu quy định tại khoản 1 bằng cách dành cho
dịch vụ hoặc nhà cung cấp dịch vụ của bất kỳ một Thành viên nào khác một sự đối xử tương
tự về hình thức hoặc sự đối xử khác biệt về hình thức mà thành viên đó dành cho dịch vụ
hoặc nhà cung cấp dịch vụ của mình.
3. Sự đối xử tương tự hoặc khác biệt về hình thức được coi là kém thuận lợi hơn nếu nó làm
thay đổi điều kiện cạnh tranh có lợi cho dịch vụ hay nhà cung cấp dịch vụ của Thành viên đó
so với dịch vụ hoặc nhà cung cấp dịch vụ tương tự của bất kỳ Thành viên nào khác.”
2) Nội dung của nguyên tắc

Cam kết của các nước về mở cửa thị trường nội địa và mức độ mở cửa trong các lĩnh vực
cụ thể chính là kết quả của các cuộc đàm phán. Các cam kết này được liệt kê lại trong các
“danh mục” các ngành sẽ được mở cửa, mức độ mở cửa đối với mỗi ngành (những hạn
chế đối với sự tham gia của đối tác nước ngoài được nêu rõ nếu cần) và các hạn chế có
thể có đối với nguyên tắc đãi ngộ quốc gia (tức khi một số ưu đãi được dành cho các công

ty trong nước nhưng không dành cho các công ty nước ngoài). Ví dụ: Nếu cho phép các
ngân hàng nước ngoài hoạt động trên thị trường nội địa, chính phủ một nước nào đó đã
đưa ra cam kết về mở cửa thị trường. Nếu chính phủ đó hạn chế số lượng giấy phép được
cấp thì đó chính là hạn chế mở cửa thị trường. Cuối cùng, nếu chính phủ đó tuyên bố các
ngân hàng nước ngoài chỉ có thể lập một chi nhánh duy nhất trong khi các ngân hàng
trong nước lại có thể lập nhiều chi nhánh thì đó được coi là một ngoại lệ của nguyên tắc
đãi ngộ quốc gia.
Những cam kết này được quy định rõ ràng và được “ràng buộc”: cũng giống như các mức
thuế quan “trần” trong thương mại hàng hoá, các cam kết trong thương mại dịch vụ chỉ có
thể được thay đổi sau khi đã thương lượng với các nước liên quan. Do rất khó bị phá vỡ,
các cam kết này chính là sự đảm bảo đối với điều kiện hoạt động của các nhà xuất khẩu
nước ngoài, các nhà nhập khẩu trong nước cũng như các nhà đầu tư trong lĩnh vực này.
3) Bình luận về việc thực hiện nguyên tắc cam kết mở cửa thị trường và đối xử
quốc gia trong lĩnh vực thương mại dịch vụ
5


Nguyên tắc cam kết mở cửa thị trường và đối xử quốc gia giúp các nước được tiếp
cận thị trường dịch vụ ở tất cả các nước thành viên với mức thuế nhập khẩu đã được cắt
giảm và các ngành dịch vụ, không bị phân biệt đối xử đồng thời tạo cơ hội cho các nước
được hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới cũng như thúc đẩy tiến trình cải cách
trong nước, bảo đảm cho tiến trình cải cách của của nước thành viên đồng bộ hơn, có hiệu
quả hơn. Ngoài ra nguyên tắc đối xử quốc gia còn tạo ra sự bình đẳng hóa giữa các dịch
vụ của nước được dành ưu đãi đối xử quốc gia với dịch vụ của nước dành ưu đãi. Hai
nguyên tắc này bổ sung cho nhau góp phần tạo nên môi trường cạnh tranh lành mạnh và
thúc đẩy thương mại quốc tế.
Tuy nhiên việc áp dụng nguyên tắc cam kết mở cửa thị trường trong lĩnh vực thương
mại dịch vụ trên thực tế vẫn gặp phải những khó khăn nhất định. Cụ thể một số thành
viên trong WTO có tiềm lực vật chất còn yếu, cơ sở vật chất hạ tầng dịch vụ chưa thực sự
phát triển nên chưa thực sự mở cửa thị trường trong một số lĩnh vực thương mại dịch vụ.

Cụ thể như ở Việt Nam hiện này có những dịch vụ chưa có quy định cho người nước
ngoài được kinh doanh (viễn thông, hàng không...). Có những phân ngành dịch vụ còn
chưa có các quy định pháp luật cụ thể, như dịch vụ nghiên cứu và phát triển, dịch vụ
nghiên cứu thị trường, dịch vụ săn bắn, dịch vụ lâm nghiệp, dịch vụ nhiếp ảnh, dịch vụ
đóng gói, dịch vụ hội nghị... Vì chưa có các quy định cụ thể nên rất khó khăn cho việc
cấp đăng lý kinh doanh cho các nhà kinh doanh các dịch vụ này. Một số dịch vụ còn sử
dụng những quy định, biện pháp mang tính hạn chế về số lượng, trợ giá các dịch vụ, số
lượng người cung cấp dịch vụ, số lượng thể nhân được tuyển dụng, tỷ lệ góp vốn của bên
nước ngoài, hình thức công ty của người nước ngoài... Về các hình thức cung cấp dịch vụ
thì hiện tại pháp luật Việt Nam mới quy định cụ thể về hình thức, đó là hiện diện thương
mại và hiện diện thể nhân. Vì vậy, chưa tạo điều kiện mở cửa thị trường cho sự phát triển
hình thức cung cấp dịch vụ qua biên giới và tiêu thụ dịch vụ ở nước ngoài. Ngoài ra sự
phức tạp trong thực thi cam kết còn bắt nguồn từ những nguyên nhân như cách thức cam
kết mở cửa thị trường dịch vụ, khó khăn trong nhận biết nếu dịch vụ hoặc đàm phán dịch
vụ không phải là lĩnh vực chuyên môn của người có liên quan, chiến thuật đàm phán của
các nhà đàm phán, tức là không mấy liên quan tới bản chất và nội dung, khiến quá trình
thực thi vốn đã phức tạp càng trở nên phức tạp và rắc rối hơn.
Việc thực hiện nguyên tắc đối xử quốc gia cũng có những vấn đề đó là nguyên tắc này
không có hiệu lực ngay lập tức mà được cam kết thực hiện theo lộ trình cụ thể. Do tác
động của việc thực hiện nguyên tắc đối xử quốc gia đến khả năng cạnh tranh của dịch vụ
của nước dành ưu đãi rất lớn, ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển của thương mại hàng
hóa, dịch vụ của quốc gia đó. Đặc biệt với những nước có năng lực cạnh tranh thấp, khi
thực hiện nguyên tắc đối xử quốc gia thì các sản phẩm dịch vụ nước ngoài sẽ tạo áp lực
cạnh tranh rất lớn lên thị trường nội địa, việc mở rộng thị trường nội địa cũng có thể biến
nước được ưu đãi trở thành thị trường tiêu thụ sản phẩm dịch vụ của nước ngoài, điều này
6


khiến cho cho các doanh nghiệp trong nước bị cạnh tranh gay gắt, nghiêm trọng hơn việc
các quốc gia có tiềm lực mạnh dành ưu đãi cũng có thể chứa đựng những yếu tố tiêu cực

gây kìm hãm, thậm chí làm cho nước được ưu đãi theo nguyên tắc này có thể bị mất thị
trường nội địa và rơi vào tình trạng nhập siêu trầm trọng, kéo theo nền sản xuất trong
nước kém phát triển.
Do nhưng vấn đề kể trên nên mức độ thực hiện nguyên tắc đối xử quốc gia còn có hạn
chế, vẫn tồn tại sự phân biệt đối xử ở mức độ nhất định. Cụ thể so sánh giữa thương mại
hàng hóa và thương mại dịch vụ, có thể thấy nguyên tắc đối xử quốc gia được áp dụng
gần như tuyệt đối trong lĩnh vực thương mại hàng hóa còn trong lĩnh vực thương mại dịch
vụ, việc áp dụng nguyên tắc này còn dè dặt và thận trọng.

KẾT LUẬN
Tự do hoá thương mại là xu thế tất yếu của thời đại, thực tiễn thương mại quốc tế cho
thấy, tự do hoá thương mại đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại dịch vụ vừa mang lại
nhiều cơ hội, vừa mang đến không ít thách thức cho các quốc gia, nhất là các quốc gia
đang và chậm phát triển. Do đó việc tham gia kí kết và thực thi có hiệu quả, phát huy
những mặt tích cực nguyên tắc cam kết mở cửa thị trường và đối xử quốc gia sẽ tạo điều
kiện cho quốc gia mở cửa và hội nhập vào quan hệ kinh tế quốc tế đồng thời phát huy vai
trò, vị thế của mình trên thị trường thế giới.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thương mại quốc tế, Nxb. CAND, Hà

Nội, 2015;
2. Lê Thanh Bình, Những tác động của việc gia nhập WTO.
3. Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS)
4. />5. />
van-de-ly-luan-va-thuc-tien.aspx

7




×