Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Tiểu luận môn luật cạnh tranh đề tài các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường vị trí độc quyền nhằm bóc lột người tiêu dùng và thực tiễn tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.2 KB, 17 trang )

SVTH: 1. NGUYỄN ĐẮC KIM CHÂU
2. HUỲNH THỊ THÚY HẰNG
3. THÁI NGUYÊN QUỐC PHONG
4. TRẦN CÔNG THÀNH


SINH VIÊN THỰC HIỆN

1.
2.
3.
4.

NGUYỄN ĐẮC KIM CHÂU
HUỲNH THỊ THÚY HẰNG
THÁI NGUYÊN QUỐC PHONG
TRẦN CÔNG THÀNH

2


MỤC LỤC

1. Lời mở đầu

Cạnh tranh vốn là một hiện tượng “xưa như trái đất’’ trong lịch sử cuộc sống xã
hội loài người. Đó là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh tế (nhà sản xuất, nhà phân phối,
bán lẽ, người tiêu dùng, thương nhân…) nhằm giành lấy những vị thế tạo nên lợi thế
tương đối trong sản xuất, tiêu thụ hay tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ hay các lợi ích về kinh
tế, thương mại khác để thu được nhiều lợi ích nhất cho mình. Trong nền kinh tế thị
trường, cạnh tranh chính là động lực phát triển của các thành phần, các chủ thể kinh tế


cùng tham gia kinh doanh. Động lực cạnh tranh kích thích các doanh nghiệp cải tiến thiết
bị, công nghệ, phương thức quản lý để ứng dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại nhằm nâng
cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, hàng hoá và của doanh nghiệp của mình.
Tuy nhiên, khi mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển nền kinh tế thị
trường thì quá trình tích tụ tư bản dẫn tới sự hình thành các tập đoàn kinh tế có khả năng
chi phối hoạt động kinh doanh, sản xuất, cung ứng và giá cả trên thị trường. Độc quyền
có thể hình thành từ việc doanh nghiệp có ưu thế về vốn, quy mô sản xuất, thậm trí quyền
lực chính trị, xã hội để độc quyền sản xuất, hay nhập khẩu một loại sản phẩm nhất định.
Độc quyền có thể có được từ việc doanh nghiệp có ưu thế về kỹ thuật, công nghệ trong
3


sản xuất và kinh doanh. Độc quyền sẽ gây ra nhiều tác động tiêu cực đối với nền kinh tế.
Nếu doanh nghiệp lạm dụng vị trí thống lĩnh, độc quyền để hạn chế sản lượng, tăng giá
bán thì sẽ gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Độc quyền làm cản trở cạnh tranh lành
mạnh, giảm động lực phát triển của nền kinh tế và hạn chế tự do kinh doanh.
Thông thường, sự cạnh tranh giữa những người bán tạo điều kiện cho người tiêu
dùng được hưởng lợi. Thì trái lại, tình trạng độc quyền lại đẩy người tiêu dùng vào thế bị
lợi dụng, bị móc túi, có khi còn bị bạc đãi, bỏ rơi. Trong cảnh một mình một chợ, Doanh
nghiệp độc quyền có điều kiện áp đặt về giá, về chất lượng sản phẩm, dịch vụ, về thái độ
phục vụ. Đối với nền kinh tế, tình trạng độc quyền tất yếu dẫn đến sự trì trệ do sức ì của
những thế lực cảm thấy thỏa mãn sau khi chiến thắng và giữ vị trí độc tôn... Vì thế, để
đảm bảo cho thị trường có sự cạnh tranh lành mạnh, đúng hướng, các nước có nền kinh tế
thị trường trên thế giới đều có chính sách luật pháp điều tiết hoạt động cạnh tranh trên thị
trường để ngăn ngừa sự hình thành độc quyền, duy trì cạnh tranh lành mạnh, đảm bảo
công bằng, bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, bảo vệ cho các doanh nghiệp yếu hơn,
kém hơn khi bị chèn ép. Do đó, việc nghiên cứu nhằm đóng góp ý kiến cho các cơ quan
quản lý nhà nước về cạnh tranh, chống độc quyền là một trong những nhiệm vụ trọng tâm
hàng đầu của người học và nghiên cứu luật pháp. Trong bài viết này, chúng tôi muốn
trình bày một vấn đề không mới nhưng vẫn còn gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới người

tiêu dùng, đó là việc các doanh nghiệp lạm dụng vị trí độc quyền, thống lĩnh thị trường
nhằm bóc lột người tiêu dùng.
Cơ cấu bài viết của chúng tôi gồm ba phần, với phần đầu là những quy định pháp
luật hiện hành về cạnh tranh, và các hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ảnh hưởng
đến người tiêu dùng. Tiếp theo, chúng tôi sẽ đi sâu vào một số vụ việc cụ thể xảy ra tại
Việt Nam gây bức xúc cho xã hội và cuối cùng là những nhận xét cá nhân cũng như
những kiến nghị của chúng tôi về hạn chế cạnh tranh không lành mạnh, chống độc quyền
nhằm giúp người tiêu dùng hưởng lợi nhiều hơn từ sự cạnh tranh của các doanh nghiệp.
2. Những quy định của pháp luật

2.1.

Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường

Khoản 3 Điều 3 Luật Cạnh tranh 2004 khẳng định các hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền được coi là các hành vi hạn chế cạnh
tranh vì những hành vi này làm giảm, sai lệch và cản trở cạnh tranh trên thị trường.
Các hành vi này được quy định cụ thể tại Mục 2 Chương II Luật Cạnh tranh
2004 và được hướng dẫn thi hành tại Mục 4 Chương II Nghị định số 116/2005/NĐCP.
a. Khái niệm
4


Vị trí thống lĩnh trên thị trường là vị trí của doanh nghiệp trên thị trường mà với vị trí ấy
doanh nghiệp có thể chi phối sự biến động giá cả trên thị trường một cách đáng kể. Có
thể coi doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh là doanh nghiệp có quyền lực thị trường ở mức
cao. Căn cứ theo những quy định tại Điều 11và Điều 13 Luật ạnh tranh, có thể hiểu các
khái niệm vị trí thống lĩnh thị trường của doanh nghiệp và hành vi lạm dụng vị trí thống
lĩnh thị trường như sau. Vị trí thống lĩnh trên thị trường được xác định dựa trên thị phần
hoặc khả năng gây hạn chế cạnh tranh của một doanh nghiệp hoặc một nhóm doanh

nghiệp.
Theo đó, một doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu có thị
phần từ 30% trở lên trên thị trường liên quan hoặc có khả năng gây hạn chế cạnh
tranh một cách đáng kể.
• Một nhóm doanh nghiệp cũng có thể được coi là có vị trí thống lĩnh thị
trường nếu cùng hành động nhằm gây hạn chế cạnh tranh và thuộc một trong các
trường hợp sau: hai doanh nghiệp có tổng thị phần từ 50% trở lên trên thị trường
liên quan; ba doanh nghiệp có tổng thị phần từ 65% trở lên trên thị trường liên
quan; bốn doanh nghiệp có tổng thị phần từ 75% trở lên trên thị trường liên quan.


Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường là những hành vi do doanh nghiệp
hoặc nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường thực hiện nhằm củng cố vị trí
thống lĩnh bằng cách loại bỏ doanh nghiệp khác ra khỏi thị trường, ngăn cản, kìm hãm
doanh nghiệp khác không cho gia nhập thị trường, phát triển kinh doanh, dẫn đến những
sai lệch về cạnh tranh trên thị trường. Doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh chỉ vi phạm luật
cạnh tranh khi có hành vi “lạm dụng” vị trí của mình, tức là doanh nghiệp có vị trí thống
lĩnh không đương nhiên bị coi là trái pháp luật. Luật chỉ không cho phép doanh nghiệp
hoặc một số doanh nghiệp này lạm dụng vị trí lợi thế của mình trên thị trường nhằm bảo
đảm môi trường cạnh tranh lành mạnh và bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng.
b. Các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường gây thiệt hại người tiêu

dùng
 Áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định giá bán lại
tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng
Với hành vi này, khách hàng là những người bị chịu thiệt hại bởi giá mà họ phải mua
quá cao so với giá trị thực tế của sản phẩm hoặc phải bán hàng hóa với giá thấp hơn giá
thành thực. Giá mua, bán sản phẩm trên thị trường không được hình thành từ cạnh tranh
mà do các doanh nghiệp thống lĩnh ấn định. Mức chênh lệch giữa giá được ấn định với
giá cạnh tranh (giả định) là khoản lợi ích độc quyền mà doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh

hay vị trí độc quyền có được. Vì vậy, bằng hành vi này doanh nghiệp thống lĩnh hoặc độc
5


quyền đã có được toàn bộ giá trị thặng dư tiêu dùng của thị trường, mà thực chất là phần
giá trị lẽ ra được hưởng của người tiêu dùng nếu có cạnh tranh. Do đó, hành vi này được
coi là hành vi điển hình mang tính chất bóc lột khách hàng.
 Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hoá, dịch vụ, giới hạn thị trường, cản trở sự

phát triển kỹ thuật, công nghệ gây thiệt hại cho khách hàng
Nhóm hành vi này gồm ba hành vi cụ thể sau:
Thứ nhất, hạn chế sản xuất, phân phối sản phẩm gây thiệt hại cho khách hàng - là
hành vi giảm khả năng cung ứng hàng hóa, dịch vụ một cách giả tạo để lũng
đoạn thị trường, làm biến động quan hệ cung cầu theo hướng có lợi cho doanh
nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường trong giao dịch với khách hàng.
 Thứ hai, hạn chế thị trường gây thiệt hại cho khách hàng - là việc doanh nghiệp có
vị trí thống lĩnh tự giới hạn khu vực bán hoặc giới hạn nguồn mua sản phẩm
mà không có lý do chính đáng gây thiệt hại cho khách hàng.
 Thứ ba, hạn chế sự phát triển kỹ thuật, công nghệ làm thiệt hại cho khách hàng - là
việc doanh nghiệp thực hiện những hành vi nhằm cản trở đối thủ cạnh tranh
tiến hành việc nghiên cứu phát triển kỹ thuật, công nghệ hoặc ứng dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật vào hoạt động kinh doanh. Ví dụ như hành vi mua sáng chế,
giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp để tiêu hủy hoặc không sử dụng hoặc
hành vi đe dọa hoặc ép buộc người đang nghiên cứu phát triển kỹ thuật, công nghệ
phải ngừng hoặc hủy bỏ việc nghiên cứu đó.
2.2.
Hành vi lạm dụng vị trí độc quyền
a. Khái niệm
 Vị trí độc quyền của doanh nghiệp



Theo Điều 12 Luật Cạnh tranh, doanh nghiệp được coi là có vị trí độc quyền nếu không
có doanh nghiệp nào cạnh tranh về hàng hoá, dịch vụ mà doanh nghiệp đó kinh doanh
trên thị trường liên quan. Như vậy, khi chỉ tồn tại duy nhất một doanh nghiệp kinh doanh
trên một thị trường hàng hóa, dịch vụ nhất định thì doanh nghiệp đó có vị trí độc quyền.
Vị trí độc quyền này có thể là do không có doanh nghiệp khác muốn tham gia thị trường
hoặc do doanh nghiệp này sử dụng những cách thức để mua bản quyền duy nhất trên
thị trường đó.
Ví dụ như: đài kĩ thuật số K+ mua bản quyền phát sóng trực tiếp giải bóng đá ngoại hạng
Anh vào ngày chủ nhật hàng tuần (từ kênh truyền hình giữ bản quyền của giải ngoại hạng
Anh). Bất cứ một kênh truyền hình khác tự ý phát sóng giải bóng đá này là vi phạm bản
quyền. Như vậy đài kĩ thuật số K+ là doanh nghiệp có vị trí độc quyền trong thị trường
này.
6


 Hành vi lạm dụng vị trí độc quyền

Chúng ta có thể hiểu, hành vi lạm dụng vị trí độc quyền là hành vi của doanh nghiệp có
vị trí độc quyền, lợi dụng vị trí đó để thực hiện trục lợi cho doanh nghiệp mình nhằm: gây
thiệt hại cho khách hàng một cách bất hợp lý bằng phương pháp đe dọa cắt đứt nguồn
cung cấp hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp đó kinh doanh; tự ý thực hiện các hành vi
nhằm ngăn cản các doanh nghiệp khác tham gia thị trường, củng cố vị trí độc quyền.
Pháp luật nghiêm cấm các doanh nghiệp thực hiện hành vi này ngoại trừ một số ngành
được chính phủ quy định về vị trí độc quyền, không tự thực hiện các hành vi nhằm ngăn
cản các doanh nghiệp khác tham gia thị trường thì không phải là lạm dụng vị trí độc
quyền.
b. Các hành vi lạm dụng vị trí độc quyền

Các hành vi lạm dụng vị trí độc quyền trước tiên chính là các hành vi lạm dụng vị trí

thống lĩnh thị trường được quy định tại Điều 13 Luật Cạnh tranh, bởi sở hữu vị trí độc
quyền là mức độ cao hơn của sự thống lĩnh thị trường. Ngoài ra, Luật Cạnh tranh còn
cấm các hành vi lạm dụng vị trí độc quyền sau đây:
 Áp đặt các điều kiện bất lợi cho khách hàng

Điều 32 Nghị định 116/2005/NĐ-CP quy định: “Áp đặt các điều kiện bất lợi cho khách
hàng của doanh nghiệp có vị trí độc quyền là hành vi buộc khách hàng phải chấp nhận vô
điều kiện những nghĩa vụ gây khó khăn cho khách hàng trong quá trình thực hiện hợp
đồng”.
Các doanh nghiệp độc quyền có thể tự ý áp đặt trong hợp đồng các điều kiện bất lợi cho
khách hàng, ví dụ như buộc khách hàng khi thực hiện hợp đồng cần phải thực hiện một
hợp đồng phụ khác như mua một sản phẩm, dịch vụ kèm theo của hãng. Bởi vì khách
hàng không còn sự lựa chọn nào khác trong thị trường này nên vẫn buộc phải chấp nhận.
 Lợi dụng vị trí độc quyền để đơn phương thay đổi hoặc huỷ bỏ hợp đồng

đã giao kết mà không có lý do chính đáng
Điều 33 Nghị định 116/2005/NĐ-CP: “Lợi dụng vị trí độc quyền để đơn phương thay đổi
hoặc huỷ bỏ hợp đồng đã giao kết mà không có lý do chính đáng là hành vi của doanh
nghiệp có vị trí độc quyền thực hiện dưới một trong các hình thức sau:


Đơn phương thay đổi hoặc huỷ bỏ hợp đồng đã giao kết mà không cần thông báo
trước cho khách hàng và không phải chịu biện pháp chế tài nào.

7




Đơn phương thay đổi hoặc huỷ bỏ hợp đồng đã giao kết căn cứ vào một hoặc

một số lý do không liên quan trực tiếp đến các điều kiện cần thiết để tiếp tục
thực hiện đầy đủ hợp đồng và không phải chịu biện pháp chế tài nào”.

Doanh nghiệp thực hiện hành vi này xuất phát từ 2 lý do: một là có thể việc thực hiện hợp
đồng này không đem lại đủ lợi ích cho doanh nghiệp như mong muốn (do tại thời điểm
đó giá nguyên liệu đầu vào tăng, giá sản phẩm tăng cao hơn so với thời điểm kí kết hợp
đồng); hai là có sự vô trách nhiệm của doanh nghiệp, không thực hiện nghĩa vụ đã giao
kết trong thực hiện hợp đồng.
3. Thực tiễn tại Việt Nam

3.1.
Áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định giá
bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng
 Trường hợp tăng cước 3G của ba nhà mạng Viettel, Mobifone, Vinafone
Cùng lúc cả 3 nhà mạng lớn ở Việt Nam như VinaPhone, MobiFone và Viettel đồng loạt
tăng giá cước dịch vụ 3G vào ngày 16/10/2013 lên mức trọn gói 70.000 đồng/tháng. Như
ta biết, Vinaphone, Mobifone và Viettel là ba nhà mạng di động đang nắm giữ 97% thị
trường. Theo Điều 11, Luật Cạnh tranh, đây là nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị
trường (có tổng thị phần từ 65% trở lên). Mobifone và Viettel, mỗi doanh nghiệp đều có
thị phần trên 30% nên được xem là doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường. Việc Bộ
Thông tin Truyền thông cho phép các gói cước 3G của 3 nhà mạng di động có thị phần
khống chế như trên tăng đột biến như thế (tăng trung bình khoảng 20% và có gói cước
tăng đến 40%) đã vi phạm Luật Cạnh tranh (2005).
Cụ thể, theo Điều 13.2, Luật Cạnh tranh, các hành vi sau đây của nhóm doanh nghiệp có
vị trí thống lĩnh thị trường bị cấm: “Áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý
hoặc ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng…”. Nghị định
116/2005/NĐCP, ngày 15/09/2005 quy định chi tiết về hướng dẫn chi tiết luật kinh doanh
cũng quy định rõ thêm về việc áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc
ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng (điều 27.2): “Hành vi áp đặt giá
bán hàng hóa, dịch vụ được coi là bất hợp lý gây thiệt hại cho khách hàng nếu cầu về

hàng hoá, dịch vụ không tăng đột biến tới mức vượt quá công suất thiết kế hoặc năng lực
sản xuất của doanh nghiệp và thỏa mãn hai điều kiện sau đây:
(a) Giá bán lẻ trung bình tại cùng thị trường liên quan trong thời gian tối thiểu 60 ngày
liên tiếp được đặt ra tăng một lần vượt quá 5%; hoặc tăng nhiều lần với tổng mức tăng
vượt quá 5% so với giá đã bán trước khoảng thời gian tối thiểu đó;
(b) Không có biến động bất thường làm tăng giá thành sản xuất của hàng hóa, dịch vụ
cho thuê máy chủ đó vượt quá 5% trong thời gian tối thiểu 60 ngày liên tiếp trước khi
8


bắt đầu tăng giá”.
Như vậy trong cùng một thời điểm 3 doanh nghiệp nêu trên đồng loạt tăng giá cước 3G
lên đến 40%, trong khi nhu cầu dịch vụ không tăng đột biến, không vượt mức cung và
tăng quá cao so với 5% theo quy định của Nghị định 116 là đã vi phạm Luật Cạnh tranh
và gây ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng.
 Trường hợp EVN và vấn đề thuê cột điện

Cách đây không lâu, Tập đoàn điện lực Việt Nam và các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông
tranh chấp về việc thuê cột điện để mắc đường dây Internet. Cụ thể, Tổng Công ty Điện
lực Việt Nam (EVN) đã có công văn tới 8 công ty điện lực của các địa phương lớn yêu
cầu tăng tiền thuê treo cáp viễn thông với mức tăng từ 4 đến 8 lần mức thuê cũ. Trước sự
việc đó, nhiều doanh nghiệp viễn thông như VNPT, Viettel, SPT đã kiến nghị lên cơ quan
quản lý là Sở Thông tin Truyền thông và Bộ Thông tin Truyền thông đề nghị can thiệp.
Nhiều doanh nghiệp viễn thông cho rằng đây là sự áp đặt của EVN vì được độc quyền sở
hữu cột điện. Và chính sự độc quyền đó gây khó khăn cho các doanh nghiệp đang kinh
doanh trong lĩnh vực viễn thông.
Trong câu chuyện được đưa ra ở đây, để đánh giá EVN có thực hiện hành vi bị cấm đối
với doanh nghiệp có vị trí độc quyền được quy định tại khoản 2 điều 13 Luật cạnh tranh:
áp đặt giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý hay không thì phải xem xét mức giá thuê cột
điện mới có đắt hay không. Với giá thuê cột điện, không thể so sánh việc giá mới gấp 4-5

lần giá cũ mà bảo là đắt. Như vậy, so sánh không đúng bản chất vấn đề, vì giá cũ là giá
ước tính, phi thị trường. Muốn biết nó đắt hay là hợp lý thì phải so giá bán mới với giá
thành, chi phí đầu tư, bảo dưỡng…Do vậy, câu chuyện vẫn còn là vấn đề cần tranh cãi và
chắc chỉ còn cách thuê chuyên gia, đơn vị trung gian thẩm định mức giá thuê cột điện của
2 bên thì may ra mới có thể kết luận được vấn đề.
3.2. Áp đặt các điều kiện bất lợi cho khách hàng
 Trường hợp K+

K+ là dịch vụ truyền hình vệ tinh được cung cấp bởi công ty TNHH truyền hình số vệ
tinh Việt Nam (VSTV), liên doanh đầu tiên giữa cơ quan truyền thông của Việt Nam
VTV/VCTV và Tập đoàn truyền thông Pháp Canal+/Canal Overseas. VSTV được thành
lập vào tháng 3/2009, hiện cung cấp 3 gói dịch vụ Access (thuê bao 50 nghìn đồng/tháng)
với hơn 31 kênh, Family (thuê bao 100 nghìn đồng/tháng) với hơn 57 kênh và gói
Premium (thuê bao 250 nghìn đồng/tháng) cung cấp nhiều hơn 70 kênh. Trong đó, chỉ
gói Premium là có phát sóng tất cả các trận đấu bóng đá, ngoài ra còn phải mua bộ đầu
thu với giá 1,5 triệu đồng.
9


K+ đã thực hiện hành vi: Đầu tiên là việc MP&Silva và K+ đã ký kết hợp đồng mua bản
quyền trong đó quy định độc quyền phát sóng dẫn đến K+ không được quyền chia sẻ
hoặc chuyển nhượng quyền này cho bất kỳ nhà đài nào khác, đồng thời áp đặt giá cung
cấp dịch vụ bất hợp lý đối với các thuê bao muốn xem giải Ngoại hạng Anh. Mức chi phí
người tiêu dùng phải chịu gồm phí thuê bao 250.000 đồng/tháng và tiền mua đầu thu
1.500.000 đồng. Mức chi phí này cao hơn rất nhiều so với mức chi phí trước đây mà
người tiêu dùng phải trả. Đồng thời buộc người tiêu dùng chỉ có một lựa chọn duy nhất là
phải mua dịch vụ của K+ với mức phí ấn định không có mặc cả hay đàm phán. Vậy, K+
đã lợi dụng vị trí độc quyền để áp đặt giá cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền lên mức
bất hợp lý vi phạm Khoản 2 Điều 13 và Điều 14 Luật cạnh tranh về các hành vi lạm dụng
vị trí độc quyền bị cấm trong đó có quy định hành vi “Áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa,

dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng”.
Thêm vào đó, nếu một thuê bao đang sử dụng dịch vụ của nhà cung cấp khác giờ họ
muốn xem giải Ngoại hạng Anh thì không còn lựa chọn nào khác là phải từ bỏ dịch vụ đã
sử dụng và chuyển sang sử dụng dịch vụ của K+. Vậy, K+ đã lợi dụng vị trí độc quyền để
áp đặt các điều kiện bất lợi cho khách hàng vi phạm Khoản 2 Điều 14 Luật cạnh tranh
quy định các hành vi lạm dụng vị trí độc quyền bị cấm trong đó có hành vi “Áp đặt các
điều kiện bất lợi cho khách hàng”.
 Vụ việc thu phí sinh hoạt bất hợp lý tại chung cư 93 phố Lò Đúc

Ngày 28 tháng 6 vừa qua, nhiều phương tiện thông tin đại chúng đăng tải thông tin về sự
việc xô xát xảy ra tại khu chung cư 93 phố Lò Đúc và có côn đồ đồ ùa vào chung cư hành
hung dân. Nhiều báo điện tử cho biết, chủ đầu tư dự án xây dựng tòa nhà chung cư 93
phố Lò Đúc cùng Ban quản lý tòa nhà đã thực hiện một lọat hành vi gây ảnh hưởng
nghiêm trọng đến tính mạng, tài sản, sự an toàn và cuộc sống sinh họat của các hộ dân
sinh sống tại tòa nhà. Những thông tin mà cơ quan báo chí phản ánh về việc côn đồ xông
vào khu chung cư hành hung dân vào ngày 27/6 vừa qua cần được cơ quan điều tra xem
xét và xử lý, vấn đề ở đây là sự việc này nêu ra một hiện trạng người tiêu dùng đang bất
bình với những đơn vị cung cấp các dịch vụ sinh họat, quản lý nhà chung cư.
Những mâu thuẫn giữa người tiêu dùng và chủ đầu tư hoặc các đơn vị quản lý nhà chung
cư gia tăng mạnh trong thời gian gần đây. Bản chất mâu thuẫn này cần được giải quyết
dứt điểm ngay khi người tiêu dùng ký hợp đồng mua bán căn hộ chung cư với chủ đầu tư.
Chính vì vậy việc kiểm sóat hợp đồng mẫu mua bán căn hộ chung cư luôn hướng tới mục
đích bảo vệ người tiêu dùng – bên yếu thế trong hợp đồng mua bán – với một phạm vi

10


rộng từ giao dịch mua bán căn hộ đến bảo vệ quyền lợi khi sử dụng các dịch vụ sinh họat,
quản lý nhà chung cư.
Theo quyết đinh số 02/2012/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Danh

mục hàng hóa, dịch vụ thiết yếu phải đăng ký hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch
chung thì việc mua bán căn hộ chung cư, các dịch vụ sinh họat do đơn vị quản lý khu
chung cư cung cấp là một trong chín nhóm hàng hóa, dịch vụ phải được kiểm sóat.
Hợp đồng mẫu mua bán căn hộ chung cư ngoài những quy định về quyền và nghĩa vụ các
bên thì những phụ lục, nội quy quản lý, sinh họat…trong khu chung cư cũng được coi là
những điều kiện pháp lý ràng buộc các bên. Tuy nhiên, xuất phát từ bản chất của nội quy
là những quy tắc do một tổ chức hoặc một đơn vị quản lý đề ra nhằm tạo ra một khuôn
khổ sinh họat cho nhiều người là thành viên thì rõ ràng người tiêu dùng luôn “bị” hướng
tới “sự trói buộc” có tính nguyên tắc chung. Bảo vệ người tiêu dùng chính là xem xét
những điều kiện trong hợp đồng mua bán căn hộ chung cư trong mối tương quan giữa
bên mua và bên bán một cách bình đẳng nhất có thể.
Trở lại sự việc nêu trên, Báo Vietnamnet dẫn lời của trưởng ban đại diện, trưởng ban
thông tin khu dân cư 93 Lò Đúc và nhiều cư dân khác cho biết: Trong một thời gian dài
vừa qua, dân cư khu chung cư 93 Lò Đúc đã liên tục phản đối chủ đầu tư dự án vi phạm
hợp đồng mua bán nhà với người dân, thu phí dịch vụ quá cao, nhiều khoản vô lý; kinh
doanh, sử dụng trái phép các khoảng không gian công cộng, không đảm bảo an toàn về
các sự cố cháy nổ, hỏa hoạn, cửa thoát hiểm… cho người dân. Một số hộ dân phản ánh
sau khi đe dọa cắt điện nước các hộ dân sinh sống tại 93 Lò Đúc, chiều ngày 27/6, một số
căn hộ đã bị cắt điện nước. Đây chính là những phát sinh trong thực tế mà hiện nay khá
nhiều khu căn hộ chung cư trên địa bàn Hà Nội chưa thể giải quyết ổn thỏa với người tiêu
dùng là những cư dân sinh sống tại khu chung cư.
Hầu hết những quy định về thu phí dịch vụ, sử dụng các khu vực sở hữu chung, sở hữu
riêng, bảo hành căn hộ, các điều kiện về đảm bảo an toàn… đều được thể hiện trong hợp
đồng mua bán căn hộ chung cư. Tuy nhiên, khi đưa vào sử dụng rất nhiều người tiêu
dùng đã phản ánh về những mâu thuẫn giữa chủ đầu tư và/hoặc đơn vị quản lý tòa nhà
chung cư với cư dân khi thực hiện nội quy. Thực tế cho thấy, chủ đầu tư thường giao
hoặc ủy quyền cho một bên thứ ba thực hiện việc cung cấp các dịch vụ sinh họat, quản lý
nhà chung cư . Nếu có việc người tiêu dùng không tuân thủ hay chấp hành những quy tắc,
quy định về sử dụng dịch vụ thì đương nhiên họ đã vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng và
phải chịu những chế tài, hình thức phạt đã cam kết. Thế nhưng việc đơn vị quản lý nhà

chung cư áp dụng biện pháp phạt người tiêu dùng sẽ nảy sinh rất nhiều hậu quả pháp lý
11


khác trong khi rõ ràng phía đơn vị quản lý nhà chung cư có thể chưa thực hiện đúng cam
kết của mình và có thể tìm các biện pháp khác nhằm bảo vệ lợi ích chung của cả cộng
đồng dân cư.
Đơn cử như sự việc Ban quản lý một tòa nhà chung cư được xem là hiện đại và cao cấp
nhất ở khu vực Mỹ Đình - Hà Nội đã đơn phương khóa thang máy và cắt điện của gần
400 hộ dân để “ép” dân đóng phí dịch vụ mà phía đơn vị quản lý tòa nhà đơn phương đưa
ra. Nguyên nhân là việc trước đó giữa Ban quản lý tòa nhà và cư dân đã thỏa thuận về
mức phí tạm thời là 4.000đ/m2/tháng trước khi có sự thỏa thuận về phí dịch vụ giữa cư
dân và chủ đầu tư. Nay Ban quản lý tòa nhà đơn phương đưa ra mức phí dịch vụ là
18.843đ/m2/tháng. Mặc dù cư dân đã liên tục gửi công văn đề nghị Ban quản lý tòa nhà
đối thoại, thỏa thuận về phí dịch vụ nhưng chủ đầu tư không trả lời nên các hộ dân không
thực hiện đóng phí. Sau đó Ban quản lý tòa nhà đã cho dán thông báo tuyên bố sẽ cắt
cung cấp các dịch vụ, trong đó có việc sử dụng thang máy và đã cho tháo gỡ rất nhiều
bóng đèn to nhỏ tại các sảnh, hành lang, lối ra hầm đỗ xe, bên trong hầm đỗ xe, các khu
vui chơi sinh hoạt công cộng, đèn chiếu sáng sân vườn... Việc cắt thang máy, cắt điện đột
ngột tại khu chung cư cao cấp đã đe dọa đến tính mạng và sự an toàn của các cư dân bên
trong tòa nhà. Người dân trong các căn hộ bị cô lập, trong đó phần lớn là người già và trẻ
nhỏ, người ở bên ngoài, nếu muốn trở về nhà cũng không thể vì thang máy bị cắt, còn lối
thang bộ thoát hiểm đã bị khóa. Trong trường hợp xảy ra hỏa hoạn hay cấp cứu gây nguy
hiểm đến tính mạng người dân, thiệt hại tài sản, lợi ích công cộng thì ai sẽ phải chịu trách
nhiệm. Và thực tế các cơ quan báo chí đã phản ánh việc cắt điện, cắt thang máy đột ngột
đã khiến nhiều cư dân bị mắc kẹt nhiều giờ gây hỏang sợ.
Hiện nay, trong Hợp đồng mẫu mua bán căn hộ chung cư do các cá nhân, tổ chức kinh
doanh ban hành hầu hết đều đưa ra những quy định về mức phí dịch vụ quản lý khu nhà
chung cư. Quy định này luôn được “để mở” dạng như: “mức phí có thể được điều chỉnh
theo thời điểm bởi chủ đầu tư và/hoặc Ban quản lý tòa nhà…”. Theo logic thông thường,

quy định này hợp lý đối với sự tăng/giảm giá cả của thị trường để bảo vệ lợi ích của cá
nhân, tổ chức kinh doanh. Tuy nhiên, để bảo vệ người tiêu dùng, Luật Bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng đã mở ra triết lý cần phải có một “ba-ri-e” để chặn lại sự điều chỉnh tăng
giá đối với hàng hóa, dịch vụ do cá nhân, tổ chức kinh doanh cung cấp cho người tiêu
dùng theo Hợp đồng mẫu. Trên thực tế, rất nhiều chủ đầu tư và/hoặc Ban quản lý tòa nhà
chung cư đã dựa vào quy định này để tăng mức phí dịch vụ quản lý nhà chung cư mà
không được người tiêu dùng đồng ý dẫn đến những xung đột và mâu thuẫn. Và chưa có
trường hợp nào mức phí quản lý nhà chung cư giảm trong khi mức tăng luôn được áp
dụng thậm chí vượt mức khung/trần do cơ quan quản lý nhà nước quy định đối với dịch
vụ này.
12


Hành vi thu phí dịch vụ quá cao, nhiều khoản vô lý; kinh doanh, sử dụng trái phép các
khoảng không gian công cộng, không đảm bảo an toàn về các sự cố cháy nổ, hỏa hoạn,
cửa thoát hiểm… cho người tiêu dùng của chủ đầu tư và/hoặc Ban quản lý tòa nhà đã vi
phạm nghiêm trọng Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (có hiệu lực từ 01/7/2011).
Trong Hợp đồng mua bán căn hộ chung cư ký kết với người tiêu dùng, có nhiều khoản
thu phí dịch vụ không được thể hiện cụ thể, không được quy định rõ ràng về mức phí,
cách tính phí, thời hạn áp dụng mức phí và khi có sự thay đổi mức phí thì có thỏa thuận
với người tiêu dùng hay không. Từ việc này một số chủ đầu tư và/hoặc Ban quản lý nhà
chung cư đã tự động áp mức phí dịch vụ, ép buộc người tiêu dùng phải tuân thủ và áp
dụng hình thức, biện pháp trừng phạt gây thiệt hại và cản trở sinh họat thường ngày của
người tiêu dùng. Hơn nữa, những cam kết đảm bảo về an toàn, về không gian chung, về
các hạng mục, chất lượng công trình phục vụ sinh họat công cộng của chủ đầu tư cũng
không được thực hiện đúng gây lo lắng và bất bình trong các cư dân.
3.2.
Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hoá, dịch vụ, giới hạn thị trường gây
thiệt hại cho khách hàng
 Hiện tượng các cây xăng găm hàng trước khi có điều chỉnh giá

Đây là hiện tượng xảy ra rất phổ biến vào giai đoạn 2006-2011, khi giá tăng liên tục có
sự biến động gia tăng. Đơn cử như trường hợp trong vòng 3km (khu vực Km số 19 Đại lộ
Thăng Long rẽ vào), thuộc địa bàn các xã Bình Phú và Phùng Xá, cả 3 cây xăng đều lần
lượt, hoặc đóng cửa, hoặc không bán xăng. Đây là nguồn cung xăng của người dân toàn
bộ khu vực này, nên muốn tìm cây xăng khác, người dân phải đi xuống cách đó hơn chục
cây số nữa, hoặc chấp nhận mua xăng đong thiếu với giá 25.000 đồng/lít. Đáng nói hơn
nữa, theo phản ánh của người dân, đây là những cây xăng đã có vi phạm tương tự vào
ngày 13/8. Một lần nữa, không biết đã là lần thứ bao nhiêu, có hiện tượng cây xăng bán
hàng nhỏ giọt trước thời điểm có dấu hiệu tăng giá. 7h30, đại lý bán lẻ xăng dầu Đức Tài
thuộc Công ty cổ phần Đầu tư Tự Lực 1 khá im ắng, phía trước trưng một tấm biển bằng
gỗ vỏn vẹn mấy chữ: “Hết xăng rồi!”. Thế vào đó là hai người phụ nữ ngoài 30 tuổi đang
loay hoay hút xăng từ một thùng phuy lớn chia ra các can nhựa để bán lẻ cho khách.
Nguyên nhân thì cửa hàng đã hết xăng từ hôm qua (24/8), lại mất điện, nên bán lẻ kiểu
thủ công này thôi. Nhiều người vào đổ xăng, lúc trả tiền không khỏi giật mình vì giá bán
25.000đ/lít, chứ không phải 23.000 đồng như giá ngoài thị trường. Khi có thắc mắc, họ
giải thích ngắn gọn: bán lẻ nên phải đắt hơn. “Mọi lần tôi đổ gần 70.000 đồng là đầy
bình, nhưng không hiểu sao lần này mua 80.000 đồng mà vẫn chưa đầy” - anh Nam, một
khách hàng bức xúc nói.

13


Theo quan sát, từ sáng sớm, đại lý này bán hàng nhỏ giọt cầm chừng, mặc dù có tới 6 cột
bơm xăng dầu nhưng chỉ có một cột hoạt động, nhiều nhân viên được nhàn hạ ngồi chơi.
Khách hàng vào đổ xăng phải xếp hàng chờ tới lượt. Đến khoảng 10h, nhiều người vào
mua, được nhân viên ở đây thông báo đại lý đã hết xăng, hàng chưa về, chịu khó đi lên
đoạn trên mua. Cách đó 1km, cửa hàng xăng dầu Bình Phú cũng mới mở cửa hoạt động
trở lại.
Nếu đại lý xăng dầu biết “tương đối chắc chắn” là bộ Tài chính sắp quyết định tăng giá
xăng lên tiếp (ví dụ lên 24.300 đồng/lít), họ có thể tính toán mua xăng từ doanh nghiệp

đầu mối nạp đầy bồn bể, không bán ra mà ngồi chờ giá xăng tăng. Khi đó, ngoài chiết
khấu 100 – 200 đồng/lít, đại lý còn được hưởng khoản chênh lệch giá 3.000 đồng/lít.
Mức chênh lệch giá này quá cao, vì vậy họ sẵn sàng “hy sinh” khoản chiết khấu bán lẻ
trong một thời gian ngắn để đổi lấy khoản siêu lợi nhuận này.
Nói tóm lại, nguyên nhân của hiện tượng “găm” hàng của các đại lý xăng dầu là cơ hội
siêu lợi nhuận trong lĩnh vực phân phối xăng dầu, còn sự tồn tại của các cơ hội siêu lợi
nhuận này là do cách làm giá xăng dầu. Việc có nhiều doanh nghiệp đầu mối nhập khẩu
xăng dầu là một điều kiện rất thuận lợi để xoá bỏ độc quyền trong lĩnh vực này. Tuy
nhiên, cách làm giá xăng dầu lâu nay vô hình trung gộp tất cả các doanh nghiệp cạnh
tranh thành một “ông độc quyền tập thể” với giá bán xăng dầu giống nhau tại mọi thời
điểm và do cơ quan nhà nước quyết định.
4. Đánh giá cá nhân

Từ những trường hợp nêu trên, chúng tôi nhận thấy rằng, mặc dù sau hơn 6 năm, Luật
Cạnh tranh về cơ bản đã tạo được hành lang pháp lý quan trọng, giúp tạo lập và duy trì
môi trường kinh doanh bình đẳng, tạotiền đề quan trọng đảm bảo hoạt động kinh doanh
bình đẳng, bền vững cho các doanh nghiệp, đồng thời đảm bảo cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước và phân bổ hiệu quả các nguồn lực xã hội thế nhưng số lượng các vụ
việc được giải quyết vẫn còn ở mức hạn chế. Cụ thể, từ 2005 đến nay, Cục QLCT đã điều
tra 03 vụ việc trong các lĩnh vực: cung cấp xăng dầu hàng không; bia; phân phối và chiếu
phim nhựa. Đến thời điểm hiện tại, Cơ quan cạnh tranh đã hoàn tất việc xử lý 02 vụ việc
trong đó ra quyết định xử phạt 01 vụ việc và ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ việc đối
với vụ việc còn lại.Ngoài ra, trong nỗ lực tăng cường hoạt động thực thi pháp luật, Cục
QLCT cũng thường xuyên tiến hành hoạt động điều tra tiền tố tụng. Trong năm 2009,
Cục QLCT đã tiến hành được 08 vụ điều tra tiền tố tụng liên quan đến các hành vi lạm
dụng vị trí thống lĩnh/độc quyền. Mặc dù vậy, hoạt động điều tra tiền tố tụng đến thời

14


điểm hiện tại chưa mang lại hiệu quả tích cực, theo đó chỉ chuyển được 01 vụ việc thành

điều tra chính thức theo quy định của pháp luật cạnh tranh.
Tìm hiểu nguyên nhân của thực trạng trên, chúng tôi nhận thấy có một số nguyên nhân
chính, xuất phát từ phía: các cơ quan cạnh tranh, từ nhận thức của các doanh nghiệp về
pháp luật cạnh tranh còn hạn chế và từ các quy định của Luật Cạnh tranh, cũng như hoạt
động thực thi các quy định đó. Thực tế triển khai các hoạt động thực thi pháp luật cạnh
tranh cho thấy, các vấn đề nổi cộm liên quan đến quy định của pháp luật cạnh tranh
thường tập trung vào các nội dung như: xác định thị trường liên quan, xác định doanh
nghiệp thống lĩnh (theo ngưỡng thị phần), xác định hành vi bị coi là ―lạm dụng và một
số nội dung liên quan đến biện pháp xử phạt và khắc phục hậu quả. Rất khó để tìm ra
bằng chứng của hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường. Hơn nữa, những gì có thể
được xem như lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường có thể đơn giản là kết quả của cạnh
tranh bởi một doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn. Tuy nhiên, qua các án lệ cho thấy
có một số hành vi hạn chế cạnh tranh được đánh giá khá rõ là hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường.
Bên cạnh đó, khi tìm hiểu sâu hơn về các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường/vị
trí độc quyền của doanh nghiệp, chúng tôi thấy rằng nhìn chung, lạm dụng vị trí thống
lĩnh thị trường được chia thành hai nhóm lớn sau: Lạm dụng nhằm thu lợi bất chính: đó là
những trường hợp trong đó hoạt động của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường
nhằm thu lợi bất chính từ người tiêu dùng, ví dụ như khi doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh
thị trường áp đặt giá cao quá mức hoặc phân biệt đối xử về giá. Lạm dụng nhằm loại bỏ:
đó là những trường hợp trong đó hoạt động của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị
trường nhằm mục đích loại bỏ những đối thủ cạnh tranh khỏi thị trường, ví dụ như doanh
nghiệp thống lĩnh bán sản phẩm dưới mức chi phí (áp đặt biên/bán thấp hơn chi phí) hoặc
ràng buộc khách hàng với các thỏa thuận độc quyền, ưu đãi đối tượng hoặc hành vi bán
kèm khiến khách hàng không thể hoặc có rất ít thuận lợi để mua các sản phẩm cạnh
tranh.
Sức mạnh độc quyền đem lại cho doanh nghiệp lợi thế cạnh tranh so với các doanh
nghiệp khác và đem lại khả năng chi phối các quan hệ với khách hàng. Những lợi thế
cạnh tranh có thể là khả năng kiểm soát các yếu tố của thị trường (như nguồn nguyên
liệu, giá cả, số lượng sản phẩm đáp ứng cho người tiêu dùng; khả năng tài chính; thói

quen tiêu dùng của khách hàng .v.v.) và các yếu tố tạo ra địa vị không ngang bằng trong
cạnh tranh giữa doanh nghiệp thống lĩnh trên thị trường và các đối thủ của nó (bao gồm
cả đối thủ tiềm năng).Nhà độc quyền có điều kiện tận dụng những ưu thế trên nhằm gây
khó khăn cho đối thủ trong quá trình kinh doanh hoặc ngăn cản việc gia nhập thị trường.
15


Đối với khách hàng, vị trí thống lĩnh hoặc độc quyền đã khẳng định địa vị quan trọng của
doanh nghiệp trong cung ứng hoặc tiêu thụ sản phẩm trên thị trường liên quan bởi họ là
nguồn cung hoặc nguồn cầu chủ yếu của thị trường. Vì thế, quyền lựa chọn của khách
hàng đã bị hạn chế, nhu cầu của khách hàng bị lệ thuộc vào khả năng đáp ứng của doanh
nghiệp. Doanh nghiệp có cơ hội để bóc lột khách hàng thông qua việc áp đặt những điều
kiện giao dịch không công bằng.
Chính vì những hậu quả tiềm tàng như vậy, việc điều chỉnh hành vi của doanh nghiệp có
sức mạnh độc quyền luôn là trọng tâm của chính sách cũng như pháp luật cạnh tranh các
nước. Mặc dù pháp luật mỗi quốc gia quy định khác nhau về mức phạt tiền đối với doanh
nghiệp vi phạm, tuy nhiên các cơ quan cạnh tranh đều phải xem xét một số yếu tố nhất
định để tính toán mức phạt cuối cùng. Trong đó, hầu hết cơ quan cạnh tranh đều nhận ra
rằng tổng số tiền phạt phụ thuộc vào mức độ vi phạm. Tuy nhiên, một số yếu tố khác có
thể được xem xét (chủ yếu liên quan đến mức độ nghiêm trọng của hành vi vi phạm),
như: mức độ chủ định vi phạm, liệu hành vi vi phạm có được tiến hành một cách nghiêm
túc hay không, đặc điểm của thị trường, khoảng thời gian vi phạm, lợi nhuận có được từ
việc vi phạm v.v… Ngoài ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ có thể được xem xét khi
điều chỉnh mức phạt cơ bản, như: khoảng thời gian của hành vi, tái phạm, từ chối hợp tác,
cản trở điều tra v.v… (tình tiết tăng nặng); hợp tác hiệu quả, chấm dứt ngay hành vi vi
phạm v.v… (tình tiết giảm nhẹ).
Bên cạnh những hình thức phạt truyền thống, cũng cần lưu ý tới các cách thức khác để có
thể ngăn chặn hành vi vi phạm. Một ví dụ quan trọng là nghĩa vụ phải công khai các hình
phạt bởi vì thiệt hại gây ra cho uy tín của doanh nghiệp có thể là một hình thức ngăn chặn
rất hữu hiệu.

Vị trí của người mua trên thị trường cung cấp dấu hiệu về khả năng họ có thể hạn chế
hành vi lạm dụng của doanh nghiệp. Người mua có sức mạnh lớn có thể tận dụng khả
năng thương lượng để thúc đẩy cạnh tranh giữa các nhà cung cấp và phá vỡ những hành
động hợp tác của nhóm doanh nghiệp, gián tiếp đe dọa bằng cách chuyển đơn hàng đến
nhà cung ứng khác, xây dựng mạng lưới cung ứng mới, hoặc đe dọa sẽ thiết lập mạng
lưới tự cung ứng cấp trên.
Xây dựng hệ thống các tiêu chí đánh giá hành vi lạm dụng Luật Cạnh tranh và các văn
bản hướng dẫn thi hành mới chỉ đưa ra định nghĩa hành vi hạn chế cạnh tranh, vị trí thống
lĩnh/độc quyền mà chưa có định nghĩa hoặc các tiêu chí chung nhất để xác định như thế
nào là hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh/độc quyền. Thiếu sót này khiến doanh nghiệp
không hiểu được bản chất của hành vi để tránh; đồng thời có thể dẫn đến nhiều cách hiểu
16


khác nhau trong nội bộ các cơ quan cạnh tranh, từ đó dẫn tới thiếu định hướng, thậm chí
nhầm lẫn trong quá trình thực thi. Việc thiếu một định nghĩa chung hoặc các tiêu chí đó
đồng thời dẫn tới việc phân nhóm, liệt kê các hành vi chưa rõ ràng và chưa hợp lý.Ngoài
ra, các quy định về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh/ độc quyền chưa bao quát được
toàn điện các hành vi lạm dụng gây tác động hạn chế cạnh tranh. Lý do như sau: Luật
Cạnh tranh hiện hành định nghĩa hành vi lạm dụng bằng cách liệt kê một số lượng hạn
chế các hành vi lạm dụng tiêu biểu. Trong khi đó, kinh nghiệm 6 năm thực thi các quy
định này cho thấy, cơ quan cạnh tranh đã phải đối mặt với nhiều vụ việc mà hành vi bị
điều tra cũng có tác động hạn chế cạnh tranh giống với những hành vi được Luật liệt kê.
Tuy nhiên, do các hành vi đó không được liệt kê và giải thích trong Luật hiện hành, nên
cơ quan cạnh tranh không thể sử dụng Luật Cạnh tranh để xử lý các hành vi đó.

17




×