Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Tiểu luận môn luật cạnh tranh đề tài cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo thương mại và thực tiễn tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.16 KB, 29 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.
KHOA: LUẬT KINH DOANH

Tiểu luận
ĐỀ TÀI: CẠNH TRANH TRONG LĨNH VỰC QUẢNG CÁO THƯƠNG MẠI
VÀ THỰC TIỄN TẠI VIỆT NAM
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: TIẾN

SĨ. TRẦN THĂNG LONG.

SINH VIÊN THỰC HIỆN:
NGUYỄN HỮU NGUYÊN

MSSV: 33141021446

VŨ TẤN PHƯƠNG

MSSV: 33141021412

NGUYỄN LONG GIANG

MSSV: 33141021153

NGUYỄN THÀNH TIẾN

MSSV:3313102376
1



Lời mở đầu.
A.

Đặt vấn đề:

Quảng cáo được hiểu là và được dùng trong giới hạn là quảng cáo thương mại do
thương nhân thực hiện nhằm giới thiệu hoạt động kinh doanh của mình cho khách
hàng.
Trong thực tiễn thương mại đa dạng, hoạt động quảng cáo cũng đa dạng với nhiều
loại hình thức khác nhau. Người ta sử dụng nhiều tiêu chí khác nhau để phân loại
quảng cáo. Căn cứ vào nội dung quảng cáo người ta chia thành quảng cáo tổ chức,
quảng cáo sản phẩm, quảng cáo thương mại. Căn cứ vào phương tiện quảng cáo có
các hình thức: quảng cáo tại chỗ, quảng cáo báo chí, quảng cáo trên xuất bản
phẩm, quảng cáo trục tiếp.
Cạnh tranh là nền tảng của sự vận hành cơ chế thị trường, thúc đẩy và hợp lí hóa
sản xuất, thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của xã hội và là động lực cho sự phát triển
chung cho toàn bộ nền kinh tế. Tuy nhiên để cạnh tranh thực sự đem lại những lợi
ích như vậy, bản thân quá trình cạnh tranh phải diễn ra trong khuôn khổ và trật tự
nhất định. Các quốc gia có nền kinh tế phát triển đã sử dụng nhiều công cụ, chính
sách khác nhau để cạnh tranh như chính sách thuế, kiểm soát giá, điều tiết độc
quyền, quốc hữu hóa,…Trong số này, pháp luật cạnh tranh được coi là công cụ
quan trọng nhất và là trung tâm cơ chế điều tiết cạnh tranh của một nước. Pháp luật
cạnh tranh trở thành một bộ phận cấu thành khung pháp luật kinh tế điều chỉnh nên
kinh tế thị trường, phối hợp đồng bộ và hài hòa với các qui định về nền tự do và
binh đẳng trong kinh doanh của hiến pháp, địa vị pháp lí của doanh nghiệp, các
điều kiện gia nhập và rút khỏi thị trường trong pháp luật đầu tư trong khuôn khổ
của hoạt động thị trường trong giao dịch dân sự và thương mại.
2



Xuất phát từ tính chất đa dạng, phức tạp của quan hệ xã hội được điều chỉnh bởi
luật cạnh tranh, Pháp luật cạnh tranh truyền thống được chia thành hai lĩnh vực với
cách tiếp cận khác nhau, dựa trên tính chất và đặc điểm của hành vi cạnh tranh, đó
là pháp luật về chống hạn chế cạnh tranh và pháp luật về chống cạnh tranh không
lành mạnh.
Và việc cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo và thực tiễn tại Việt Nam sẽ cho
ta thấy được các vấn đề đang tồn tại trong xã hội Việt Nam, các hành vi cạnh tranh
được phép và Không được phép

3


B. giải quyết vấn đề:
I. khái niệm và đặc điểm của quảng cáo thương mại:
1. Khái niệm:
Quảng cáo là hình thức tuyên truyền được trả phí hoặc không để thực hiện
việc giới thiệu thông tin về sản phẩm, dịch vụ, công ty hay ý tưởng, quảng cáo là
hoạt động truyền thông phi trực tiếp giữa người với người mà trong đó người muốn
truyền thông phải trả tiền cho các phương tiện truyền thông đại chúng để đưa thông
tin đến thuyết phục hay tác động đến người nhận thông tin.
Quảng cáo là những nỗ lực nhằm tác động tới hành vi, thói quen mua hàng
của người tiêu dùng hay khách hàng bằng cách cung cấp những thông điệp bán
hàng theo cách thuyết phục về sản phẩm hay dịch vụ của người bán
2. Đặc điểm của quảng cáo thương mại:
Theo luật quảng cáo 2012 định nghĩa về quảng cáo: “Quảng cáo là việc sử
dụng các phương tiện nhằm giới thiệu đến công chúng sản phẩm, hàng hóa, dịch
vụ có mục đích sinh lợi hay sản phẩm, dịch vụ không có mục đích sinh lợi. Tổ
chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ, hàng hóa, sản phẩm được giới thiệu, trừ tin
thời sự. Chính sách xã hội. Thông tin cá nhân”
Như vậy, có thể hiểu đối tượng của hoạt động quảng cáo có thể là hoạt động

kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có khả năng mang lại lợi nhuận cho tổ chức, cá nhân
hoặc các dịch vụ, thông tin nhằm thực hiện một mục tiêu chính trị, văn hóa, xã hội
nào đó. Trong đó, hoạt động quảng cáo về hoạt động kinh doanh, về hàng hóa, dịch
vụ có mục đích sinh lời của thương nhân, hoạt động quảng cáo cho thương nhân
khác để thu phí dịch vụ chính là hoạt động quảng cáo thương mại. như vậ, trong
pháp luật hiện hành quảng cáo thương mại chỉ là một bộ phận của hoạt động quảng
cáo nói chung.

4


Theo Luật Thương mại năm 2005 “Quảng cáo thương mại là hoạt động xúc
tiến thương mại của thương nhân để giới thiệu với khách hàng về hoạt động kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ của mình”.
Khác với quảng cáo nói chung và các hoạt động xúc tiến thương mại khác
thì quảng cáo thương mại có các đặc điểm pháp lý cơ bản sau:
Thứ nhất, chủ thể hoạt động quảng cáo thương mại là thương nhân. Với tư
cách là người kinh doanh, thương nhân thực hiện quảng cáo thương mại để hỗ trợ
cho hoạt động kinh doanh của mình hoặc thực hiện dịch vụ quảng cáo cho thương
nhân khác theo hợp đồng để tìm kiếm lợi nhuận. Đây là đặc điểm khác biệt của
quảng cáo thương mại đối với các hoạt động thông tin, cổ động do cơ quan nhà
nước, tổ chức chính trị, tổ chức xã hội… thực hiện nhằm tuyên truyền về đường
lối, chủ trương, chính sách kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước.
Với bản chất là một hoạt động thương mại do thương nhân thực hiện, quảng cáo
thương mại khác biệt với quảng cáo nói chung, mặc dù chúng đều có chung đặc
điểm là một quá trình thông tin.
Thứ hai, về tổ chức thực hiện. Thương nhân có thể tự mình thực hiện các
công việc cần thiết để quảng cáo hoặc thuê dịch vụ quảng cáo của thương nhân
khác thông qua hợp đồng dịch vụ.
Thứ ba, cách thức xúc tiến thương mại. Trong hoạt động quảng cáo thương

mại, thương nhân sử dụng sản phẩm và phương tiện quảng cáo thương mại để
thông tin về hàng hóa dịch vụ đến khách hàng. Những thông tin bằng hình ảnh,
tiếng nói, chữ viết về hàng hóa dịch vụ cần giới thiệu… được truyền tải đến công
chúng thông qua các phương tiện truyền thanh, truyền hình, ấn phẩm. Đặc điểm
này là đặc điểm riêng biệt của quảng cáo thương mại với hình thức xúc tiến thương
mại cũng có mục đích giới thiệu hàng hóa, dịch vụ như trưng bày, hội trợ triển lãm.

5


Thứ tư , mục đích trực tiếp của quảng cáo thương mại. Mục đích là giới
thiệu về hàng hóa, dịch vụ để xúc tiến thương mại, đáp ứng nhu cầu cạnh tranh và
mục tiêu lợi nhuận của thương nhân. Thông qua các hình thức truyền đạt thông tin,
thương nhân giới thiệu về một loại hàng hóa, dịch vụ mới, tính ưu việt về chất
lượng, giá cả, khả năng đáp ứng nhu cầu sử dụng… Như vậy, thương nhân có thể
tạo sự nhận biết và kiến thức về hàng hóa, dịch vụ, có thể thu hút khách hàng đang
sử dụng hàng hóa, dịch vụ của công ty khác thông qua việc nhấn mạnh đặc điểm và
lợi ích của một nhãn hiệu cụ thể hoặc thông qua việc so sánh tính rất lớn trong việc
định hướng nhu cầu tiêu dùng xã hội bao gồm nhu cầu tiêu dùng cá nhân và sản
xuất.
II. Những điểm mới của luật quảng cáo 2012
1.

Quản lý nhà nước về hoạt động quàng cáo.

Luật quy định Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chịu trách nhiệm trước
Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về quảng cáo; Quy định về sản phẩm, hàng
hóa, dịch vụ cấm quảng cáo bao gồm: thuốc lá, rượu có nồng độ cồn từ 15 độ, sữa
dùng cho trẻ dưới 24 tháng tuổi, sản phẩm dinh dưỡng dùng cho trẻ dưới 6 tháng
tuổi, bình vú, vú ngậm nhân tạo; thuốc kê đơn, thuốc được cơ quan nhà nước

khuyến cáo hạn chế sử dụng hoặc sử dụng có sự giám sát của thầy thuốc; sản phẩm
hàng hóa có tính chất kích dục, kích động bạo lực; súng săn, đạn súng săn, vũ khí
thể thao; Đối với hành vi cấm quảng cáo. Bổ sung thêm một số nội dung mới như:
Quảng cáo thiếu thẩm mỹ, xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo, định kiến giới, về
người khuyết tật, quảng cáo sử dụng phương pháp so sánh trực tiếp, quảng cáo có
sử dụng các từ “ nhất”, duy nhất, tốt nhất, số một hoặc các từ có ý nghĩa tương tự
mà không có tài liệu hợp pháp chứng minh, vi phạm sở hữu trí tuệ, quảng cáo làm
ảnh hưởng đến trẻ em…; Quy định về Hội đồng thẩm định sản phẩm quảng cáo:
6


Hội đồng Trực thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch có nhiệm vụ xem xét và đưa
ra kết luận về sự phù hợp của sản phẩm quảng cáo với quy định của pháp luật
trước, trong và sau khi thực hiện quảng cáo khi có yêu cầu của tổ chức, cá nhân
tham gia hoạt động quảng cáo. Quy định nhiệm vụ và quyền hạn của tổ chức nghề
nghiệp về quảng cáo.
2.

Quyền và nghĩa vụ của tổ chức cá nhân trong hoạt động quảng cáo.

Tách các đối tượng tham gia hoạt động quảng cáo để quy định cụ thể quyền
và nghĩa vụ, bao gồm: quyền, nghĩa vụ của người quảng cáo; người kinh doanh
dịch vụ quảng cáo; người phát hành quảng cáo; người cho thuê địa điểm, phương
tiện quảng cáo và người tiếp nhận quảng cáo; Bổ sung thêm một đối tượng mới là
Người tiếp nhận quảng cáo và quy định vụ thể các quyền và nghĩa vụ như: Được
yêu cầu người quảng cáo hoặc người phát hành quảng cáo bồi thường thiệt hại khi
quảng cáo không đúng với chất lượng, giá cả… và được tố cáo khởi kiện dân sự
theo quy định của pháp luật
a.


Hoạt động quảng cáo.

Hoạt động quảng cáo gồm 6 Mục, 22 Điều (từ Điều 17 đến Điều 38) quy
định những nội dung về phương tiện quảng cáo; tiếng nói, chữ viết trong quảng
cáo; yêu cầu đối với nội dung quảng cáo; điều kiện quảng cáo; quảng cáo trên báo
in, báo nói, báo hình; quảng cáo trên báo điện tử và trang thông tin điện tử, trên
phương tiện điện tử, thiết bị đầu cuối và các thiết bị viễn thông khác; quảng cáo
trên các sản phẩm in, trong bản ghi âm, ghi hình; quảng cáo trên bảng quảng cáo,
băng-rôn, màn hình chuyên quảng cáo; quảng cáo trên phương tiện giao thông;
quảng cáo bằng loa phòng thanh; biển hiệu của tổ chức, cá nhân hoạt động sản xuất
kinh doanh; các yêu cầu đối với hoạt động quảng

7


cáo thông qua chương trình văn hoá, thể thao, hội nghị, hội thảo, hội chợ,
triển lãm, tổ chức sự kiện, đoàn người thực hiện quảng cáo, vật thể quảng cáo.
Quy định về một số thủ tục hành chính: Bãi bỏ Giấy phép thực hiện quảng
cáo trên bảng, băng-rôn thay bằng thủ tục thông báo sản phẩm quảng cáo đến cơ
quan quản lý nhà nước về quảng cáo trước khi thực hiện quảng cáo; Bãi bỏ Giấy
phép ra phụ trương quảng cáo thay bằng thủ tục thông báo cho cơ quan quản lý nhà
nước về báo chí; Bãi bỏ Giấy tiếp nhận hồ sơ quảng cáo (hoặc thủ tục đăng ký nội
dung quảng cáo) đối với hàng hóa, dịch vụ trong lĩnh vực y tế, nông nghiệp và phát
triển nông thay bằng quy định điều kiện phải thực hiện theo Điều 20 Luật quảng
cáo và các nội dung bắt buộc quy định tại Nghị định của Chính phủ; Tiếp tục duy
trì cấp phép đối với việc ra kênh, chương trình chuyên quảng cáo (Bộ Thông tin và
Truyền thông cấp phép) và cấp phép xây dựng đối với màn hình quảng cáo từ 20
mét vuông trở lên; bảng quảng cáo 20 m vuông gắn vào công trình đã có trước;
bảng quảng cáo đứng độc lập từ 40 m vuông trở lên (Bộ Xây dựng cấp phép).
Điều chỉnh diện tích quảng cáo trên báo chí, cụ thể:

Báo in: Tách ấn phẩm báo và ấn phẩm tạp chí. Trước đây Tại Pháp lệnh
quảng cáo quy định báo in không được quảng cáo quá 10% tổng diện tích thì nay
Luật quảng cáo quy định diện tích quảng cáo không được vượt quá 15% (tăng 5%
so với PL) tổng diện tích một ấn phẩm, 20% tổng diện tích một ấn phẩm tạp chí
(trước đây Pháp lệnh không quy định riêng cho tạp chí).
Báo nói, báo hình: Pháp lệnh quảng cáo quy định được
Quảng cáo không quá 5% nay Luật quảng cáo quy định được quảng cáo
không quá 10% (Tăng 5%). Truyền hình trả tiền được quảng cáo không quá 5%
(Tại Pháp lệnh quảng cáo không quy định riêng cho truyền hình trả tiền).

8


Không được phát sóng quảng cáo trong các chương trình: Chương trình thời
sự; chương trình phát thanh truyền hình trực tiếp về các sự kiện chính trị đặc biệt,
kỷ niệm các ngày lễ lớn của dân tộc.Đối với quảng cáo chạy dưới chân màn hình
thì không được quá 10% chiều cao màn hình.
Đối với quảng cáo bằng hình thức gửi tin nhắn, thư điện tử thì được quy
định cụ thể: Chỉ được gửi tin nhắn và thư điện tử quảng cáo khi có sự đồng ý trước
của người nhận; chỉ được gửi từ 7g đến 22 giờ; không được gửi quá 3 tin nhắn và 3
thư điện tử đến một số điện thoại hoặc một địa chỉ thư điện tử trong vòng 24g trừ
trường hợp có sự thỏa thuận khác
Quảng cáo trên các sản phẩm in
Đối với tranh, ảnh, áp-phích, ca-ta-lô, tờ rời, tờ gấp có nội dung cổ động,
tuyên truyền về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học, công nghệ, văn học,
nghệ thuật, được quảng cáo không quá 20% diện tích từng sản phẩm.
Không được quảng cáo trên các sản phẩm in là tiền hoặc giấy tờ có giá, văn
bằng chứng chỉ và văn bản quản lý nhà nước.
Thời lượng quảng cáo trong bản ghi âm, ghi hình chương trình văn hoá,
nghệ thuật, điện ảnh, bản ghi âm, ghi hình có nội dung thay sách hoặc minh họa

cho sách không được vượt quá 5% tổng thời lượng nội dung chương trình.
Bên cạnh đó, chương này cũng đưa ra các quy định về việc viết, đặt biển
hiệu, nội dung thể hiện trên biển hiệu của tổ chức, cá nhân hoạt động sản xuất kinh
doanh; quy định về công tác xây dựng quy hoạch quảng cáo tại địa phương với yêu
cầu của nội dung quy hoạch và trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước ở
địa phương trong việc xây dựng quy hoạch quảng cáo để đảm bảo cảnh quan môi
trường, mỹ quan đô thị và trật tự an toàn xã hội; quy định về hồ sơ thông báo sản

9


phẩm quảng cáo trên bảng quảng cáo, băng rôn; trình tự thông báo sản phẩm quảng
cáo trên bảng quảng cáo, băng rôn; cấp giấy phép xây dựng công trình quảng cáo.
b.

Quảng cáo có yếu tố nước ngoài.

Quảng cáo có yếu tố nước ngoài gồm 03 Điều (từ Điều 39 đến Điều 41) quy
định những vấn đề liên quan đến hoạt động quảng cáo của tổ chức, cá nhân nước
ngoài tại Việt Nam; hợp tác đầu tư nước ngoài trong hoạt động quảng cáo; văn
phòng đại diện của doanh nghiệp quảng cáo nước ngoài tại Việt Nam.
Trong Pháp lệnh Quảng cáo có quy định tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch
vụ quảng cáo nước ngoài được đặt Chi nhánh tại Việt Nam. Tuy nhiên, khi Việt
Nam trở thành thành viên của tổ chức Thương mại thế giới (WTO) thì tổ chức, cá
nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo nước ngoài được hợp đồng, hợp tác kinh doanh
hoặc liên doanh với đối tác Việt Nam nhưng không được thành lập chi nhánh. Vì
vậy, trong dự thảo Luật đã bãi bỏ việc cho phép thành lập chi nhánh cho phù hợp
cam kết của Việt Nam với WTO.
III. Thực trạng quảng cáo tại việt nam:
Quảng cáo có nền tảng công nghệ số qua internet và các thiết bị di động như

máy tính, máy tính bảng và điện thoại di động. Ngành báo in đã sớm trải qua thách
thức này và giờ là thời điểm thay đổi của ngành truyền hình.
Theo số liệu quảng cáo ghi nhận được trên 82 kênh truyền hình, 34 đầu tạp chí, 27
đầu báo in và 1 kênh radio cho tới hết quý 3/2014 đã cho thấy, quảng cáo trên
truyền hình và radio tăng hơn 40% và 75% so với 9 tháng đầu năm 2013, trong khi
quảng cáo trên báo in và tạp chí tiếp tục khuynh hướng giảm đi hơn 10% so với
năm trước.

10


Tỷ lệ sở hữu điện thoại di động thông minh ở Việt Nam tương đối cao là 34%, chỉ
đứng sau Indonesia
Phải nói thêm rằng, nhà đầu tư dành nhiều quan tâm tới quảng cáo truyền hình do
đây là phương tiện quảng cáo truyền thông linh hoạt, hấp dẫn nhất, được người dân
đánh giá có nhiều thông tin hữu ích trong các quyết định mua sắm của họ, đồng
thời các đài truyền hình cũng là những khách hàng đi đầu trong việc đầu tư và sử
dụng các số liệu nghiên cứu khán giả và quảng cáo trong hoạt động kinh doanh.
Doanh thu quảng cáo trên báo và tạp chí ghi nhận chỉ dành cho các đầu báo và tạp
chí được các công ty quảng cáo đặt hàng trước đây, trong đó có một số đầu báo và
tạp chí không còn tiếp tục phát hành trên thị trường nữa. Hầu hết các đơn vị báo in
và phát hành lại chưa có động thái tìm hiểu và đầu tư vào nghiên cứu thị trường và
nghiên cứu quảng cáo nên số liệu nghiên cứu về quảng cáo trên báo in chỉ hạn chế
ở những đầu báo đang được ghi nhận.
Dự báo tổng chi phí quảng cáo ở thị trường Việt Nam năm 2015 là như thế
nào? kỳ vọng năm 2016, con số này sẽ tăng trưởng như thế nào và đâu là lý do để
đưa ra dự đoán ấy?
Nhìn chung, tổng chi phí quảng cáo ở thị trường Việt Nam năm 2014 vẫn
tiếp tục tăng trưởng ở mức 2 con số, ít nhất là trên 25%. Tuy mức độ đầu tư vào
quảng cáo từ quý 2/2014 có dấu hiệu cắt giảm thấp hơn so với những năm trước và

quảng cáo truyền hình vẫn tiếp tục duy trì vị trí hàng đầu của mình với thị phần
quảng cáo ít nhất là trên 70% tổng chi phí quảng cáo tại Việt Nam.
Năm 2015, bức tranh quảng cáo của Việt Nam vẫn tập trung chủ yếu vào các
ngành hàng tiêu dùng nhanh và dược phẩm thì mức độ tăng trưởng của quảng cáo
sẽ tụt giảm hơn nữa so với 2014 do những động thái cắt giảm ngân sách của các
nhà quảng cáo lớn trong ngành hàng tiêu dùng. Ngược lại với việc cắt giảm ngân
sách quảng cáo là thực tế "nở rộ" của nhiều loại hình truyền thông mới, mang tới

11


cho người tiêu dùng nhiều sự lựa chọn hơn, dẫn tới việc tiếp cận và gửi được thông
điệp quảng cáo đến cho đúng đối tượng mục tiêu càng khó và tốn chi phí hơn. Như
vậy, việc cắt giảm ngân sách quảng cáo chỉ khả thi đối với những doanh nghiệp đã
chi quá dư cho quảng cáo, còn đại đa số khách hàng nhỏ và vừa khác sẽ phải đầu
tư nhiều hơn vào quảng cáo nói chung để đạt được cùng hiệu quả như trước đây.
Trong các hội thảo và hội nghị gần đây về mobile marketing, có thể thấy đơn
vị quảng cáo nhiều nhất Việt Nam đang tích cực vận động đầu tư vào mobile
advertising. Từ góc độ của đơn vị nghiên cứu truyền thông đầy đủ nhất Việt Nam
hiện nay, có cơ sở cho rằng, quảng cáo trên điện thoại di động có nhiều tiềm năng,
đặc biệt có thể thay thế loại hình quảng cáo tại điểm bán hết sức hiệu quả ở các
trung tâm mua sắm hay siêu thị nếu doanh nghiệp biết khai thác tốt. Tỷ lệ sở hữu
điện thoại di động thông minh ở Việt Nam tương đối cao là 34%, chỉ đứng sau
Indonesia. Có 91% hộ gia đình ở Việt Nam có ít nhất một điện thoại di động trong
nhà, nên ngay với điện thoại di động thường nếu biết quảng cáo cũng sẽ rất hiệu
quả để đến với người tiêu dùng ở nông thôn.
Nhìn chung, tổng chi phí quảng cáo ở thị trường Việt Nam năm 2015 vẫn
tiếp tục tăng trưởng ở mức 2 con số, ít nhất là trên 25%
Đây là thị trường tiềm năng và đang còn ở giai đoạn ban đầu. Kantar Media
có sẵn những giải pháp nghiên cứu thị trường phù hợp cho loại phương tiện truyền

thông và quảng cáo này. Hy vọng khi thị trường phát triển hơn một chút, các nhà
quảng cáo, các công ty quảng cáo và cung cấp dịch vụ sẽ đầu tư để có số liệu
nghiên cứu sâu và đầy đủ hơn về hiệu quả của phương tiện truyền thông này.
Theo dự báo của ông Ashmanov, “nếu thị trường quảng cáo trực tuyến của
Việt Nam phát triển rưa rứa như thị trường Nga, thị trường này sẽ đạt khoảng 130150 triệu USD trong vòng 4-5 năm tới, song song, mức độ giữa hình thức bán ô

12


quảng cáo và lăng xê theo nội dung sẽ tiến đến gần tỷ lệ 1:1”, ông Ashmanov Igor
dự báo.
Tuy nhiên, để quảng cáo online theo nội dung chiếm lĩnh thị trường ngang
ngửa với hình thức bán ô quảng cáo, cần có sự đổi thay về nhận thức của bản thân
các doanh nghiệp Việt.“Các doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa nhận ra hiệu quả nó
mang lại, và thiếu người truyền bá về lợi. của việc dùng Internet là kênh quảng cáo
hiệu quả. Một lý lo nữa có thể là do người dùng Internet hiện giờ cốt yếu vào mạng
để giải trí, tỷ lệ vào mạng tìm thông tin để đi đến quyết định mua hàng thấp” - ông
Ashmanov Igor nói.
Thị trường Thương mại điện tử năm 2015 phụ thuộc vào sức mạnh truyền thông
Năm 2015 là năm cuối cùng trong quá trình đẩy mạnh phát triển thương mại điện
tử Việt Nam, song, vẫn còn đó rất nhiều miếng bánh ngon dành cho những người
biết nắm lấy cơ hội. Bởi vậy, cuộc chiến truyền thông năm sau được dự đoán vô
cùng khốc liệt.
Mục tiêu đẩy mạnh phát triển Thương mại điện tử giai đoạn 2011-2015 đã
bước vào giai đoạn cuối. Đã có những khó khăn, đã có những cái tên phải ra đi một
cách bất ngờ, song, không thể phủ nhận thương mại điện tử đã có một bước tiến vô
cùng mạnh mẽ đi kèm với đó là sự nở rộ của truyền thông số Quảng cáo tực tuyến.
Với sự xâm nhập từ những tên tuổi hàng đầu thế giới cùng những đại diện ưu tú từ
trong nước, miếng bánh truyền thông liên tục được xâu xé và tất nhiên phần ngon
nhất bao giờ cũng để người cuối cùng.

Dự đoán, cuộc chiến truyền thông năm sau sẽ diễn ra một cách vô cùng khốc
liệt. thương mại điện tử còn rất nhiều triển vọng
Thực tế, sau 4 năm triển khai và đẩy mạnh Thương mại điện tử, thị trường
Việt Nam đã đạt được rất nhiều thành tựu trong đó bao gồm cả việc thu hút đầu tư
quảng cáo của các tập đoàn tài chính hàng đầu trên toàn thế giới, đặc biệt là các tập
13


đoàn công nghệ. Thị trường tiêu dùng trong nước vốn rất đa dạng và phát triển một
cách mạnh mẽ. Các tập đoàn nước ngoài không thể ngoảnh mặt làm ngơ trước
những nhu cầu ngày càng tăng cao của thị trường còn rất năng động này. Và để tiếp
cận một cách chính xác và nhanh chóng, họ sẽ phải nhờ đến truyền thông và quảng
cáo.
Theo báo cáo mới nhất từ hệ thống theo dõi dữ liệu quảng cáo online
iTracker, doanh thu tại thị trường quảng cáo trực tuyến trên 55 website lớn nhất ở
Việt Nam đạt hơn 49 triệu USD. Con số này sẽ là ~125 triệu USD nếu tính thêm
hai đại gia Google và Facebook, tăng gần gấp đôi so với năm 2014. Rõ ràng, với
định mức phát triển như vậy, năm 2016 có thể sẽ tăng cao hơn khi nhiều thông tin
thị trường cho biết Việt Nam nhận thêm những sự đầu tư lớn hơn đồng thời các tập
đoàn, công ty trong nước tiếp tục đẩy mạnh quảng bá hình ảnh của mình.
Cũng theo báo cáo của iTracker, Samsung Vina là công ty đứng đầu trong
top 50 công ty chi nhiều tiền quảng cáo nhất tại Việt Nam chiếm tới 8% thị phần
quảng cáo, tiếp theo là thương hiệu Nokia với 6%, đứng thứ 3 là Honda Vietnam
cùng với 6% thị phần. Trong top 10 công ty quảng cáo nhiều nhất, có tới 4 công ty,
tập đoàn công nghệ và dự đoán con số này sẽ được tăng lên khi các hãng điện thoại
Trung Quốc đang nhắm tới Việt Nam như một mảnh đất màu mỡ cho việc phát
triển và kinh doanh của mình.
Bên cạnh đó, một báo cáo hành vi người dùng online được Google Pacifice
đưa ra mình chứng cho một thị trường thương mại điện tử vào năm sau. Trong 40
triệu người dùng internet Việt Nam, có đến 44% người chưa thực hiện các giao

dịch trực tuyến và đang có ý định này. Con số này cũng
đem lại một cái nhìn vô cùng triển vọng về sự phát triển của thị trường thương mại
điện tử trong năm tới. Và cuộc chiến truyền thông sẽ nổ ra như một điều tất yếu.

14


CUỘC CHIẾN TRUYỀN THÔNG SỐ THÔNG QUA QUẢNG CÁO TRỰC
TUYẾN
Dễ nhận thấy các doanh nghiệp Việt Nam tập trung sử dụng Digital
Marketing vì hai mục đích: Một là quảng bá và củng cố thương hiệu, hai là nâng
cao doanh số và mở rộng thị phần thông qua Thương mại điện tử e-commerce.
Thực tế, trong năm 2014, số lượng các doanh nghiệp thương mại điện tử tăng lên
đáng kể,bên cạnh đó là sự đổ bộ của các tên tuổi từ các tập đoàn lớn trong và ngoài
nước. Điều này vô hình chung đã tạo nên một thị trường truyền thông chất chội và
vô cùng sôi động. Dự đoán trong năm 2016, sẽ có ít những công ty mới nổi hơn
đồng thời sẽ là sự cạnh tranh gay gắt giữa những cái tên có chỗ đứng trên thị
trường hiện nay.
Như đã chỉ ra ở phần đầu tiên, thương mại điện tử Việt Nam còn rất nhiều
triển vọng. Ngoài việc xoay chuyển thị phần, các hãng truyền thông sẽ tiếp tục gặm
nhấm những miếng bánh còn xót lại, và tất nhiên đó là phần ngon nhất. Còn 44%
trong số 40 triệu người Việt Nam sắp sửa tham gia trực tuyến, và còn đó những
doanh nghiệp nhiều khả năng sẽ đổ bộ vào thị trường trong nước và những cái tên
đình đám như Samsung, Nokia, Oppo, Honda,…sẽ tiếp tục chi tiêu mạnh tay để
chiếm lĩnh thị trường truyền thông. Miếng bánh ngon vẫn dành cho kẻ chiến thắng
và cuộc chiến truyền thông sẽ trở nên khốc liệt hơn bao giờ hết.

IV. Một số lý luận về cạnh tranh không lành mạnh:
Cạnh tranh là tốt, là động lực phát triển. Trong kinh doanh, sự cạnh tranh
đem đến cho người tiêu dùng nhiều lợi ích: hàng hóa tốt hơn, giá mua rẻ hơn…

Tuy nhiên, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp phải bảo đảm nguyên tắc lành
mạnh, công bằng, không có sự “ăn gian” hoặc những “thủ thuật” trái pháp luật. Vì

15


nếu như vậy thì chẳng những doanh nghiệp làm ăn chân chính bị “chơi bẩn” mà
ngay người tiêu dùng cũng chẳng lợi lộc gì.
Điều 39 – Luật cạnh tranh 2004 qui định về các hành vi được xem là cạnh
tranh không lành mạnh, bị cấm. Chủ yếu gồm 9 hành vi sau :
1. Chỉ dẫn gây nhầm lẫn;
2. Xâm phạm bí mật kinh doanh;
3. Ép buộc trong kinh doanh;
4. Gièm pha doanh nghiệp khác;
5. Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác;
6. Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh;
7. Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh;
8. Phân biệt đối xử của hiệp hội;
9. Bán hàng đa cấp bất chính;
Cụ thể hơn, chúng tôi xin được phân tích như sau :
* Chỉ dẫn gây nhầm lẫn là việc doanh nghiệp sử dụng những thông tin chỉ
dẫn (chẳng hạn trên bao bì, nhãn hàng, các pano quảng cáo ...) gây ra sự nhầm lẫn
về tên thương mại, logo, chỉ dẫn địa lý ... để làm sai lệch nhận thức của khách hàng
về hàng hóa, dịch vụ của mình.
Ví dụ: Sản phẩm trà chanh Nestea của Nestle và trà chanh Freshtea của
Công ty Thuý Hương.
Sản phẩm trà chanh Nestea hiện được ưa chuộng trên thị trường nhưng
không ít khách hàng, nhất là khách hàng ở các tỉnh, bị nhầm lẫn với Freshtea của
công ty Thuý Hương. Theo tài liệu của Công ty sở hữu trí tuệ Banca được công bố
công khai trong cuộc hội thảo do Bộ Công thương tổ chức thì, công ty Thuý

Hương (Thanh Trì, Hà Nội) đã có hành vi cạnh tranh không lành mạnh.

16


Cụ thể, Thuý Hương đã sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn giữa
Freshtea và Nestea. Sự tương tự về phần chữ: Cấu tạo, cách phát âm và tương tự cả
về cách trình bày, bố cục, mầu sắc. Trông bề ngoài, nếu không để ý sẽ khó phát
hiện hai gói trà chanh này là do hai công ty khác nhau sản xuất. Một số người tiêu
dùng được hỏi thì cho rằng, cả Freshtea và Nestea cùng là sản phẩm của công ty
Nestle, vì trông chúng rất... giống nhau!
Cùng nằm trong dòng sản phẩm của công ty Nestlé, sản phẩm sữa Milo bị
tới hai hãng khác cạnh tranh không lành mạnh thông qua các chỉ dẫn thương mại
gây nhầm lẫn. Sản phẩm sữa Good Cacao của Cty Mina được sản xuất với những
điểm tương tự sữa Milo như: Tương tự về bao gói sản phẩm, cách thức trình bày,
bố cục, mầu sắc.
Ví dụ về quảng cáo sai chỉ dẫn địa lý, xuất xứ: Một doanh nghiệp bán nước
mắm ghi là "Nước mắm Phú Quốc" nhưng thực chất đóng chai tại TP.HCM.
* Xâm phạm bí mật kinh doanh là việc doanh nghiệp có các hành vi như tiếp
cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh của doanh nghiệp khác, tiết lộ, sử
dụng thông tin, bí mật kinh doanh mà không được phép của chủ sở hữu chân
chính...
* Ép buộc trong kinh doanh là việc doanh nghiệp ép buộc, đe dọa khách
hàng, đối tác kinh doanh của doanh nghiệp đối thủ không cho họ giao dịch hoặc
phải ngừng giao dịch với doanh nghiệp đó.
* Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác là việc một doanh
nghiệp có hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp cản trở, làm gián đoạn hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp “đối thủ”.
* Quảng cáo nhằm mục đích cạnh tranh không lành mạnh là việc doanh
nghiệp:


17


 So sánh trực tiếp hàng hoá, dịch vụ của mình với hàng hoá, dịch vụ cùng loại

của doanh nghiệp khác;
Ví dụ về việc quảng cáo so sánh nói xấu đối thủ: Nệm KymDan
Vài năm trước, có chuyện công ty KymDan - là nhà sản xuất nệm cao su tự
nhiên lớn nhất tại TP. HCM đã đăng quảng cáo trên 5 tờ báo lớn với nội dung như
sau: “Đối với nệm lò xo, do tính chất không ưu việt của nguyên liệu sản xuất nên
chất lượng nệm sẽ giảm dần theo thời gian. Nếu độ đàn hồi của lò xo cao, lò xo dễ
bị gãy, gây nguy hiểm cho người sử dụng. Đối với nệm nhựa tổng hợp polyurethane (nệm mút xốp nhẹ) tính dẻo ưu việt nên không có độ đàn hồi, mau bị xẹp.
Chính vì những lý do đó mà KymDan hoàn toàn không sản xuất nệm lò xo cũng
như nệm nhựa poly-urethane. Tất cả các sản phẩm của KymDan đều được làm từ
100% cao su thiên nhiên, có độ bền cao và không xẹp lún theo thời gian...”.
Ngay sau khi mẫu quảng cáo trên phát hành, 3 công ty sản xuất nệm lò xo và
nệm mút đã khởi kiện KymDan ra toà với lý do quảng cáo của KymDan không có
căn cứ, gây thiệt hại đến uy tín sản phẩm của họ.
 Bắt chước một sản phẩm quảng cáo khác để gây nhầm lẫn cho khách hàng;

Ví dụ về nhãn hiệu gây nhầm lẫn: Cà phê Trung Nguyên
Công ty cà phê Trung Nguyên với thương hiệu G7 nổi tiếng cũng bị quy vào
một trong những doanh nghiệp có hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành
mạnh. Công ty Trung Nguyên đã sử dụng nhãn hiệu ba chiều hình cốc đỏ của
Nestlé để so sánh trực tiếp sản phẩm G7 của họ với sản phẩm Nescafé của Nestles.
Đó thực chất là việc so sánh trực tiếp sản phẩm nhằm cạnh tranh không lành mạnh.
 Đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng về giá cả, số lượng,

chất lượng, công dụng, kiểu dáng, chủng loại, bao bì, ngày sản xuất, thời hạn sử

dụng, xuất xứ hàng hoá, người sản xuất, nơi sản xuất, người gia công, nơi gia
công ...
18


* Khuyến mại không lành mạnh là việc :
 Tổ chức khuyến mại mà gian dối về giải thưởng, không trung thực hoặc gây

nhầm lẫn về hàng hoá, dịch vụ để lừa dối khách hàng.
 Phân biệt đối xử đối với các khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ chức

khuyến mại khác nhau trong cùng một chương trình khuyến mại;
 Tặng hàng hoá cho khách hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi

hàng hoá cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng đó đang sử
dụng để dùng hàng hóa của mình;
Ví dụ về khuyến mãi không đúng: Bột nêm massan
Theo một công bố của Ban Điều tra và Xử lý các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh, thì Công ty Massan đã đưa ra chương trình khuyến mại nhằm cạnh tranh
không lành mạnh tại TP. Hồ Chí Minh.
Cụ thể, công ty này đưa ra chương trình khuyến mại bột canh, người tiêu dùng
có thể đem gói bột canh dùng dở đến đổi lấy sản phẩm Massan. Hành vi này được
quy định là một trong các hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh:
“Tặng hàng hoá cho khách hàng dùng thử, nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi hàng
hoá cùng loại đang sử dụng do doanh nghiệp khác sản xuất”.
Công ty Unilever Bestfood đã khiếu nại về chương trình khuyến mại này tới Sở
Thương mại TP.Hồ Chí Minh. Thanh tra Sở đã lập biên bản và yêu cầu đình chỉ
chương trình khuyến mại.
* Bán hàng đa cấp bất chính là việc doanh nghiệp thực hiện các hành vi sau
đây:

1. Yêu cầu người tham gia phải đặt cọc, phải mua một số lượng hàng hoá ban đầu
hoặc phải trả một khoản tiền để được quyền tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp;
2. Không cam kết mua lại với mức giá ít nhất là 90% giá hàng hóa đã bán cho
người tham gia để bán lại;
19


3. Cho người tham gia nhận tiền hoa hồng, tiền thưởng, lợi ích kinh tế khác chủ
yếu từ việc dụ dỗ người khác tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp;
4. Cung cấp thông tin gian dối về lợi ích của việc tham gia mạng lưới bán hàng đa
cấp, thông tin sai lệch về tính chất, công dụng của hàng hóa để dụ dỗ người khác
tham gia.
Ví dụ về bán hàng đa cấp bất chính: Công ty Nino Vina phân phối sản phẩm
nước trái nhàu ở Việt Nam.
Nino Vina là một công ty phân phối sản phẩm nước trái nhàu ở Việt Nam.
Công ty này qui định: Để có thể trở thành thành viên cấp I của mạng lưới phân
phối, các phân phối viên phải mua 1 thùng 4 chai nước Tahitian Noni Juice với giá
gốc là 2,7 triệu đồng, giá phân phối là 3,2 triệu đồng. Nếu thành viên cấp I giới
thiệu thêm được 3 người khác tham gia vào mạng lưới (mỗi người lại đóng 2,7
triệu đồng) thì sẽ được hoa hồng 20% tổng số tiền những người này mua sản phẩm.
3 người sau này được coi là thành viên cấp II. Nếu các thành viên cấp II này giới
thiệu thêm được 3 người khác tham gia vào mạng lưới thì thành viên cấp I sẽ tự
động được hưởng thêm 5% tổng số tiền mà 3 thành viên cấp III nộp để mua sản
phẩm.
Theo tính toán, khi mạng lưới phát triển đến tầng thứ 8 thì số tiền hoa hồng
được chuyển về tài khoản của “người lôi kéo” ban đầu là 56,2 triệu đồng mặc dù
người này không phải làm gì ngoài việc rủ rê được 3 người mới tham gia vào mạng
lưới phân phối. Như vậy theo mô hình trả hoa hồng này, thu nhập thu được không
phải xuất phát việc bán sản phẩm mà là do chiếm dụng tiền của các thành viên tiếp
theo trong mạng lưới.

Ngoài các hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị cấm như trên, Luật Cạnh
tranh càng cấm nhiều hành vi có dấu hiệu “hạn chế cạnh tranh”. Hiểu theo nghĩa
nôm na, là những hành vi đơn lẻ hoặc giữa một nhóm doanh nghiệp cùng ngành
20


kinh doanh , nhằm mục đích tạo ra những sự “cản trở”, không cho các doanh
nghiệp khác có cơ hội cạnh tranh với mình.
Có 2 dạng hành vi “hạn chế cạnh tranh” gồm :
o Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, và
o Làm dụng vị trí thống lĩnh hay độc quyền trên thị trường.

Trong một số trường hợp, các hành vi có dấu hiệu “hạn chế cạnh tranh” như
trên có thể bị cấm. Dưới đây là một ví dụ về việc hai doanh nghiệp đã có hành vi
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
Công ty phát thanh cáp Atys và cap Seco Nhật Bản.
Công ty phát thanh cáp Atys và Công ty phát thanh cáp Seco, là hai nhà cung
cấp hệ thống cáp duy nhất tại một địa phương ở Nhật Bản. Họ thường thu phí sử
dụng truyền hình cáp của người dân địa phương là 300 yên/tháng và những người
dân ngoài địa phương là 400-500 yên/tháng.
Tuy nhiên, từ giữa năm 2003, Atys và Seco đã cùng gửi thư đến những
người sử dụng dịch vụ của họ để thông báo về việc tăng phí. Cả hai đã thừa nhận là
do chi phí cho các kênh chương trình tăng giá và sự cạnh tranh khốc liệt lãng phí
giữa họ nên cả hai đều phải chịu thua lỗ. Vì vậy, Atys và Seco đã thỏa thuận với
nhau và quyết định chấm dứt cạnh tranh về giá và xóa bỏ việc giảm giá cho những
người sử dụng cư trú ở các khu nhà ở và các khu liên hợp. Hai bên cũng nhất trí là
sẽ điều chỉnh giá dịch vụ. Theo quyết định Uỷ ban cạnh tranh Nhật Bản, Atys và
Seco bị yêu cầu chấm dứt việc thực hiện hành động trên. Đối với trách nhiệm hình
sự của họ, vụ việc này sẽ được chuyển cho công tố viên để điều tra thêm.
Vụ việc trên của Atys và Seco là một dấu hiệu cảnh báo đối với các doanh

nghiệp muốn dùng cách “thông đồng” để thu lợi nhuận lớn ngay trước mắt thay vì
sử dụng chính năng lực cạnh tranh và khả năng thực tế của mình để thu hút khách
hàng.
21


V. Sử lý pháp luật về hành vi cạnh tranh Không lành mạnh
Theo quy định tại Điều 33 của Nghị định số 71/2014/NĐ-CP ngày 21/7/2014
của Chính phủ "Quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh",
thì hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh bị xử lý như sau: Phạt
tiền từ 60.000.000 đồng đến 140.000.000 đồng đối với một trong các hành vi
quảng cáo sau đây: So sánh trực tiếp hàng hoá, dịch vụ của mình với hàng hoá,
dịch vụ cùng loại của doanh nghiệp khác; Bắt chước một sản phẩm quảng cáo khác
để gây nhầm lẫn cho khách hàng; Đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho
khách hàng về một trong các nội dung sau đây: Giá, số lượng, chất lượng, công
dụng, kiểu dáng, chủng loại, bao bì, ngày sản xuất, thời hạn sử dụng, xuất xứ hàng
hóa, người sản xuất, nơi sản xuất, người gia công, nơi gia công; cách thức sử dụng,
phương thức phục vụ, thời hạn bảo hành; các thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn
khác.Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng đối với một trong các
hành vi vi phạm quy định tại khoản 1 Điều này thuộc một trong các trường hợp sau
đây: Hàng hóa, dịch vụ liên quan là các mặt hàng quy định tại điểm a khoản 2 Điều
10 của Nghị định này; quy mô quảng cáo thuộc phạm vi từ hai tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương trở lên.Ngoài việc bị phạt tiền theo quy định tại khoản 1 và 2
Điều 33 Nghị định số Nghị định số 71/2014/NĐ-CP doanh nghiệp bị phạt tiền theo
quy định thì, doanh nghiệp vi phạm còn có thể bị áp dụng một hoặc một số hình
thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục sau đây: Tịch thu tang vật, phương
tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm bao gồm cả tịch thu toàn bộ khoản
lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm; buộc cải chính công khai

22



VI. Một số giải pháp
1. Một số yêu cầu nhằm thực thi có hiệu quả pháp luật về quảng cáo phải phù hợp
với quyền tự do cạnh tranh
2. Các quy định pháp luật về quảng cáo thương mại phải phù hợp với quyền tự do
cạnh tranh
Nhằm mục đích thúc đẩy nền kinh tế phát triển, nhà nước ghi nhận quyền tự
do kinh doanh của công dân nhưng phải trong phạm vi luật định. Điều 4 Luật cạnh
tranh 2014 ghi nhận:
- Doanh nghiệp được tự do cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật. Nhà nước
bảo hộ quyền cạnh tranh hợp pháp trong kinh doanh.
- Việc cạnh tranh phải được thực hiện theo nguyên tắc trung thực, không xâm
phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của
doanh nghiệp, của người tiêu dùng và phải tuân theo các quy định của Luật này.
Luật cạnh tranh, Luật thương mại, luật quảng cáo và nhiều văn bản hướng dẫn
khác cũng có quy định rõ về điều này, và nó không những đóng góp một ý nghia
quan trọng trong hoạt động quản lí nhà nước về quảng cáo thương mại mà còn làm
cơ sở xây dựng pháp luật điều chỉnh hoạt động quảng cáo thương mại phù hợp
Luật cạnh tranh và ngày càng hoàn thiện hơn.
3. Nâng cao nhận thức người tiêu dùng và ý thức chấp hành pháp luật cạnh tranh
lành mạnh của doanh nghiệp
Để nâng cao nhận thức người tiêu dung và ý thức chấp hành pháp luật cạnh
tranh của doanh nghiệp, Nhà nước cần hoàn thiện hệ thống pháp luật về cạnh tranh,
pháp luật bảo vệ người tiêu dung và các văn bản pháp luật olieen quan khác, đồng
thời tổ chức thống nhất thực hiện một cách nhất quán các đạo luật đó. Bên cạnh đó,
Nhà nước cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền pháp luật tới người dân và doanh
nghiệp.
23



Để chủ động bảo vệ quyền lợi của mình, người tiêu dùng có quyền đòi bồi
hoàn, bồi thường thiệt hại khi hang hóa, dịch vụ không đúng tiêu chuẩn, chất
lượng, số lượng, giá cả đã công bố hoặc hợp đồng đã giao kết; khiếu nại, tố cáo
khởi kiện theo quy định pháp luật đối với việc sản xuất, kinh doanh hang cấm,
hang giả, hang hóa, dịch vụ không đúng tiêu chuẩn chất lượng, số lượng và việc
quảng cáo sai sự thật..
4. Xử lí nghiêm minh những vi phạm pháp luật về cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh
vực quảng cáo
Nghị định 71/2014/NĐ-CP ngày 21/7/2014 về xử lí vi phạm trong lĩnh vực
cạnh tranh tại Điều 33 đã quy định cụ thể về mức phạt đối với hành vi quảng cáo
nhằm cạnh tranh không lành mạnh, với mức phạt thấp nhất là 60.000 000 đồng và
cao nhất là 140 000 000 đồng. bên cạnh đó, doanh nghiệp vi phạm còn có thể bị áp
dụng một hoặc một số hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả.
Đặc biệt, Bộ luật hình sự còn quy định tại Điều 168 xử lí vi phạm hình sự với tội
quảng cáo gian dối gây hậu quả nghiêm trọng và thực hiện hành vi phạm tội nhiều
lần.
Tuy nhiên, để xử lí hiệu quả những vi phạm pháp luật về cạnh tranh lành
mạnh trong quảng cáo thương mại, Nhà nước cần hoàn thiện quy định pháp luật
cũng như biện pháp xử lí đối với từng đối tượng vi phạm trong từng trường hợp cụ
thể. Cần có quy định cụ thể tạo một hành lang pháp lí hoàn chỉnh đảm bảo cho Cục
quản lí cạnh tranh có thể thực hiện tốt nhiệm vụ chức năng của mình. Đồng thời
cần có chính sách hợp lí nâng cao hiệu quả làm việc của các điều tra viên vụ việc
cạnh tranh cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn.
5. Hoàn thiện quy định pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực
quảng cáo
24


Thứ nhất, cần làm rõ khái niệm cũng như cần có hướng dẫn cụ thể về quảng

cáo so sánh. Nhà nước nên ban hành một quy chế cho quảng cáo so sánh để với
những điều kiện mà pháp luật quy định thì quảng cáo so sánh được coi là Hợp
pháp. Có thể cho phép quảng cáo so sánh nhưng đặt trong một khuôn khổ nhất
định để dễ quản lí như: so sánh khách quan về tính năng, hiệu quả sử dụng của
hang thật so với hang giả; so sánh một cách khách quan hoặc nhiều đặc tính chủ
yếu, đặc trưng của hang hóa, dịch vụ; so sánh phải dưa trên thực tế kiểm chứng và
có sự quản lí của cơ quan có thẩm quyền; mọi sản phẩm đưa ra so sánh phải có cơ
sở so sánh giống nhau; mọi quảng cáo phải mang tính chất lừa dối cũng không
mang khả năng đánh lừa người tiêu dung..
Thứ hai, xét thấy việc quy định “các hành vi quảng cáo khác mà pháp luật
cấm” đều là hành vi cạnh tranh không phù hợp vì nếu xét đến quảng cáo lợi dụng
quảng cáo gây thiệt hại cho Nhà nước hay quảng cáo trái truyền thống đạo đức xã
hội, quảng cáo tiết lộ bí mật nhà nước.. thì thiếu cơ sở để khẳng định nó là hành vi
cạnh tranh không lành mạnh. Việc xử lí hành vi này cũng không theo Luật Cạnh
tranh mà sẽ phải tuân theo Luật Hành chính hoặc luật Hình sự.
Thứ ba, việc quy định cấm quảng cáo đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm
lẫn cho khách hang thì tiêu chí lừa dối là tiêu chí chủ quan nên việc quy định này
cần đi kèm với sự lí giải về tiêu chí lừa dối. như vậy, cần có hướng dẫn và giải
thích cụ thể về tiêu chí lừa dối trong quy định cấm quảng cáo đưa đưa thông tin
gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hang.
Thứ tư, cần nâng cao mức xử phạt vi phạm đối với hành vi quảng cáo nhằm
cạnh tranh không lành mạnh vì vậy mức xử phạt phải được sửa đổi lại ở mức phạt
cao hơn để góp phần răn đe các doanh nghiệp và phù hợp với thực trạng quảng cáo
tại Việt Nam hiện nay.

25


×