Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

luận văn thạc sĩ hoàn thiện công tác kiểm soát nội bộ các khoản thu bảo hiểm xã hội tại bảo hiểm xã hội thành phố bà rịa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (569.34 KB, 107 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LẠC HỒNG
***

LÊ THỊ THANH TÂM

HOÀN THIỆN CÔNG TÁC KIỂM SOÁT NỘI BỘ
CÁC KHOẢN THU BẢO HIỂM XÃ HỘI TẠI
BẢO HIỂM XÃ HỘI THÀNH PHỐ BÀ RỊA

LUẬN VĂN THẠC SĨ KẾ TOÁN

Đồng Nai – Năm 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LẠC HỒNG
***

LÊ THỊ THANH TÂM

HOÀN THIỆN CÔNG TÁC KIỂM SOÁT NỘI BỘ
CÁC KHOẢN THU BẢO HIỂM XÃ HỘI TẠI
BẢO HIỂM XÃ HỘI THÀNH PHỐ BÀ RỊA
Chuyên ngành: Kế toán
Mã số: 60340301
LUẬN VĂN THẠC SĨ KẾ TOÁN

Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. HÀ XUÂN THẠCH


Đồng Nai – Năm 2014


LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian học tập và nghiên cứu tại Trường Đại học Lạc Hồng, Tác
giả đã hoàn thành luận văn trình độ Thạc sỹ với đề tài “Hoàn thiện công tác kiểm
soát nội bộ các khoản thu bảo hiểm xã hội tại Bảo hiểm xã hội thành phố Bà
Rịa”.
Để hoàn thành luận văn này, ngoài sự cố gắng của bản thân tác giả đã nhận
được sự giúp đỡ nhiệt tình của lãnh đạo và một số cán bộ, viên chức cơ quan Bảo
hiểm xã hội thành phố Bà Rịa.
Có được thành quả này, cho phép tác giả được bày tỏ sự biết ơn sâu sắc đến
Quý Thầy, Cô đã đem hết tâm huyết của mình để truyền đạt những kiến thức quý
báu trong suốt thời gian vừa qua; Và đặc biệt là PGS.TS Hà Xuân Thạch – người
Thầy đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong suốt quá trình tác giả nghiên cứu và thực
hiện đề tài.
Xin cùng bày tỏ lòng biết ơn tới các Thầy, Cô trong khoa Sau đại học Trường
Đại học Lạc Hồng đã tạo điều kiện thuận lợi nhất cho tác giả trong quá trình học
tập, nghiên cứu.
Cuối cùng, tác giả cũng gửi lời cảm ơn sâu sắc đến cơ quan Hội Cựu chiến
binh thành phố Bà Rịa, gia đình, bạn bè, người thân đã tận tình giúp đỡ và tạo điều
kiện thuận lợi nhất để tác giả hoàn thành khóa học và luận văn này.

Tác giả luận văn

Lê Thị Thanh Tâm


LỜI CAM ĐOAN


Tác giả luận văn: Lê Thị Thanh Tâm, học viên lớp Cao học khóa 4, ngành Kế
toán, Khoa Sau Đại học, Trường Đại học Lạc Hồng, xin cam đoan đây là công
trình nghiên cứu của riêng tôi.
Những nội dung trong luận văn, cụ thể là những phân tích, đánh giá về thực
trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại đơn vị Bảo hiểm xã hội thành phố Bà Rịa; Các
đề xuất và giải pháp là do tôi tự nghiên cứu, không sao chép.
Luận văn kế thừa có chọn lọc những công trình nghiên cứu về kiểm soát nội
bộ tại Việt Nam và trên thế giới. Các tài liệu tham khảo để thực hiện luận văn đều
được trích dẫn nguồn gốc rõ ràng.

Đồng Nai, ngày

tháng

năm 2014

Tác giả luận văn

Lê Thị Thanh Tâm


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tại các quốc gia trên thế giới, chính sách Bảo hiểm xã hội (BHXH), Bảo hiểm y
tế (BHYT) là nền tảng cơ bản cho an sinh xã hội (ASXH), là một trong những chính
sách lớn góp phần bảo đảm ổn định đời sống cho người lao động, ổn định chính trị,
trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng đất nước, bảo vệ tổ quốc.
Ở nước ta, trong suốt quá trình thành lập và phát triển, Đảng ta đã luôn quan
tâm đến việc hình thành và phát triển chính sách BHXH, BHYT đối với lao động.
BHXH vừa mang tính kinh tế nhưng cũng mang tính nhân đạo của Nhà nước ta

nhằm đảm bảo cuộc sống cho người lao động trước những biến cố làm giảm hoặc
mất thu nhập. Hơn hết mục tiêu cần thực hiện là mở rộng đối tượng tham gia
BHXH cho mọi người dân nhưng hiện nay vì nhiều nguyên nhân mục tiêu đó chưa
thực hiện được, vẫn còn có nhiều tồn tại cần được giải quyết. Kiểm soát thu BHXH
là một quy trình không thể thiếu trong hoạt động BHXH nhằm đạt được các mục
tiêu về hiệu lực và hiệu quả của các hoạt động.
Bảo hiểm xã hội thành phố Bà Rịa là một bộ phận quan trọng trong hệ thống
quản lý Bảo hiểm xã hội Việt Nam, là cơ sở để thực hiện công tác BHXH. Bảo
hiểm xã hội thành phố Bà Rịa là cơ quan trực thuộc BHXH tỉnh, có chức năng giúp
giám đốc BHXH tỉnh tổ chức thực hiện chế độ chính sách BHXH, BHYT, quản lý
thu, chi BHXH, BHYT trên địa bàn thành phố theo phân cấp quản lý của BHXH
Việt Nam và quy định của pháp luật. BHXH thành phố chịu sự quản lý trực tiếp,
toàn diện của giám đốc BHXH tỉnh và chịu sự quản lý hành chính Nhà nước của
UBND thành phố Bà Rịa.
Việc thất thoát nguồn thu BHXH hiện nay của ngành BHXH Việt Nam nói
chung và BHXH thành phố Bà Rịa nói riêng, đang là vấn đề mà các nhà quản lý
trong ngành BHXH quan tâm hàng đầu. Để tăng cường công tác quản lý nguồn thu,
một trong những biện pháp mà BHXH thành phố Bà Rịa phải thực hiện là hoàn
thiện hệ thống kiểm soát nội bộ các khoản thu tại đơn vị. Vì công tác kiểm soát nội
bộ được thực hiện tốt sẽ góp phần vào việc cũng cố công tác tổ chức hoạt động của
đơn vị ngày càng hiệu quả, ngăn ngừa được sai sót, gian lận trong hoạt động của
đơn vị cũng như hoạt động thu BHXH tại BHXH thành phố Bà Rịa.


-

Cũng như ở tất cả các doanh nghiệp, điều kiện đầu tiên của nhà quản lý

luôn quan tâm đến vấn đề kiểm soát nội bộ (KSNB) thì hệ thống ngành BHXH cũng
đặt nhiệm vụ kiểm soát và nhất là công tác kiểm soát thu tại các cơ quan BHXH và

tổ chức xây dựng chuẩn mực kiểm soát, hoàn thiện công tác kiểm soát nguồn thu
trong nội bộ ngành BHXH để quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn thu các quỹ
BHXH, quỹ BHYT, quỹ Bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) nhằm đảm bảo tính ổn định
chính sách ASXH tạo môi trường bình đẳng, thúc đẩy các doanh nghiệp cạnh tranh,
phát triển kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa (XHCN) (Võ Năm
(2012), Hoàn thiện công tác kiểm soát thu tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bình Định,
Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Đà Nẵng).
Đi cùng với xu thế phát triển của đất nước, với quy mô ngày càng mở rộng, các
hoạt động của đơn vị diễn ra nhiều hơn với các nội dung ngày càng đa dạng, đối
tượng tham gia và số thu BHXH, BHYT, BHTN ngày càng tăng; Tình trạng các cơ
quan, đơn vị, doanh nghiệp nợ đọng BHXH, BHYT, BHTN ngày càng lớn với thời
gian kéo dài, nhưng chưa có chế tài đủ mạnh để buộc các đơn vị nợ đọng nộp đầy
đủ và kịp thời theo quy định của pháp luật. Vì lẽ đó, công tác kiểm tra, kiểm soát
hoạt động thu BHXH đã được đặt ra tại Bảo hiểm xã hội thành phố Bà Rịa. Tuy
nhiên việc thực hiện còn một số hạn chế.
Đề tài nghiên cứu hoàn thiện kiểm soát nội bộ các khoản thu Bảo hiểm xã hội
tại Bảo hiểm xã hội thành phố Bà Rịa có ý nghĩa rất quan trọng trong hệ thống quy
trình kiểm soát, nhằm tìm ra những tồn tại trong công tác quản lý thu của Bảo hiểm
xã hội thành phố Bà Rịa để từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống
kiểm soát nguồn thu BHXH, BHYT, BHTN có tính khả thi cao, đáp ứng kịp thời
cho quá trình quản lý quỹ BHXH tại Bảo hiểm xã hội thành phố Bà Rịa trong giai
đoạn kinh tế phát triển mạnh mẽ hiện nay. Do đó, việc xây dựng và hoàn thiện hệ
thống kiểm soát nội bộ dựa trên cơ sở lý thuyết hiện đại về KSNB trong hoạt động
thu BHXH, BHYT, BHTN là một vấn đề đặt ra cho ngành BHXH nhằm tăng cường
kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ nguồn thu các quỹ BHXH, BHYT, BHTN là một khâu
quan trọng và cần thiết trong việc quản lý của ngành BHXH hiện nay nhằm ổn định
chính sách ASXH của Đảng và Nhà nước ta.


Trước tình hình đó, tôi chọn đề tài “Hoàn thiện công tác kiểm soát nội bộ các

khoản thu bảo hiểm xã hội tại Bảo hiểm xã hội thành phố Bà Rịa” làm đề tài
nghiên cứu hoàn thành khóa học của mình.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về KSNB các khoản thu tại đơn
vị hoạt động công.
-

Phân tích, đánh giá thực trạng về kiểm soát nội bộ các khoản thu tại Bảo

hiểm xã hội thành phố Bà Rịa, chỉ ra những kết quả đạt được và những vấn đề đang
đặt ra hiện nay trong quản lý kiểm soát thu BHXH ở Bà Rịa.
-

Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện công tác kiểm soát nội

bộ các khoản thu tại Bảo hiểm xã hội thành phố Bà Rịa.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
-

Đối tượng nghiên cứu: Hệ thống KSNB nói chung và KSNB các khoản thu

BHXH.
-

Phạm vi nghiên cứu: Đề tài đi sâu nghiên cứu về công tác kiểm soát nội bộ

các khoản thu tại Bảo hiểm xã hội thành phố Bà Rịa từ năm 2011 đến năm 2013.
4. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp thực hiện gồm:
-


Về lý luận: Vận dụng lý luận chung về KSNB theo báo cáo Uỷ ban tổ chức

đồng bảo trợ của Ủy ban Treadway (COSO) năm 1992, đồng thời vận dụng chủ yếu
theo Tổ chức Quốc tế các cơ quan kiểm toán tối cao (INTOSAI) 1992 và các bản
hướng dẫn về KSNB trong hoạt động công tại Việt Nam và thành phố Bà Rịa.
- Về thực trạng: chủ yếu sử dụng kết hợp phương pháp định tính và thống kê
mô tả để nghiên cứu. Cụ thể:
+ Sử dụng phương pháp so sánh, phân tích để đánh giá các dữ liệu thứ cấp.
+ Sử dụng phương pháp thống kê mô tả xử lý dử liệu sơ cấp thông quả kết
quả thu về từ bảng câu hỏi khảo sát với công cụ hỗ trợ chủ yếu là phần mềm excel.
+ Kết luận và giải pháp : dùng phương pháp phân tích, tổng hợp, từ đó suy
diễn các giải pháp hoàn thành mục tiêu.
5. Các đề tài nghiên cứu có liên quan đã được công bố


Có nhiều công trình nghiên cứu về KSNB đơn vị công, sau đây là một số các
công trình nghiên cứu đã công bố:
-

Nguyễn Thị Phương Liên (2011), Hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ tại

cơ quan Bảo hiểm xã hội tỉnh Phú Thọ, Luận văn thạc sỹ khoa học kinh tế, Trường
Đại học Nông Nghiệp Hà Nội.
Kết quả nghiên cứu của đề tài này là tác giả tập trung nghiên cứu về hệ thống
KSNB đối với hoạt động thu và chi BHXH và đề xuất biện pháp triển khai thực
hiện hệ thống KSNB nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của cơ quan BHXH tỉnh
Phú Thọ.
-


Võ Năm (2012), Hoàn thiện công tác kiểm soát thu tại Bảo hiểm xã hội tỉnh

Bình Định, Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Đà Nẵng.
Kết quả nghiên cứu của đề tài này là tác giả đi sâu nghiên cứu lĩnh vực KSNB
hoạt động thu BHXH, BHYT, BHTN và từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn
thiện công tác kiểm soát thu BHXH, BHYT, BHTN tại BHXH tỉnh Bình Định.
-

Trần Ngọc Tuấn (2013), Hoàn thiện công tác quản lý thu Bảo hiểm xã hội

Khu vực kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh Gia Lai, Luận văn Thạc sỹ kinh tế ,
Trường Đại học Đà Nẵng.
Kết quả nghiên cứu của đề tài là tác giả đi sâu vào việc nghiên cứu và phân tích
các vấn đề liên quan đến công tác quản lý thu BHXH đối với khu vực kinh tế tư
nhân dựa trên các quy định về quản lý thu BHXH, phân tích thực trạng công tác
quản lý thu BHXH, những nhân tố tác động đến công tác quản lý thu BHXH đối với
khu vực kinh tế tư nhân và trên cơ sở lý luận khoa học và thực tiễn đề tài xây dựng
các giải pháp hoàn thiện công tác quản lý BHXH đối với khu vực kinh tế tư nhân
trên địa bàn tỉnh Gia Lai giai đoạn từ năm 2013-2020.
6. Đóng góp mới của đề tài
Luận văn có những đóng góp sau:
-

Đánh giá thực trạng KSNB các khoản thu bảo hiểm xã hội tại Bảo hiểm xã

hội thành phố Bà Rịa.
-

Đưa ra một số giải pháp tăng cường công tác thu bảo hiểm xã hội tại Bảo


hiểm xã hội thành phố Bà Rịa.


7. Kết cấu luận văn:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của luận văn gồm 3 chương:
-

Chương 1. Cơ sở lý luận về kiểm soát nội bộ trong đơn vị hoạt động công

-

Chương 2. Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ các khoản thu tại Bảo hiểm

xã hội thành phố Bà Rịa
-

Chương 3. Một số giải pháp hoàn thiện kiểm soát nội bộ các khoản thu tại

Bảo hiểm xã hội thành phố Bà Rịa
Tài liệu tham khảo
Phụ lục


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SOÁT NỘI BỘ
TRONG ĐƠN VỊ HOẠT ĐỘNG CÔNG
1.1. Lý luận chung về hệ thống kiểm soát nội bộ (KSNB)
1.1.1. Tổng quan về sự ra đời và phát triển của kiểm soát nội bộ
Trong hơn một thế kỷ qua, khái niệm KSNB đã phát triển không chỉ là một
phương pháp giúp cho kiểm toán viên trong việc lập kế hoạch kiểm toán mà còn

được nhà quản lý sử dụng như một công cụ chủ yếu nhằm thực hiện chức năng
kiểm soát.
Từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 khái niệm KSNB được sử dụng trong
các tài liệu về kiểm toán. Trên thế giới các công ty kiểm toán xuất hiện đầu tiên đều
có nguồn gốc từ Anh quốc, rồi lan rộng sang các quốc gia khác trong những năm
cuối thế kỷ 19.
Tại Việt Nam Kiểm toán chính thức xuất hiện từ giữa năm 1991 dưới hình
thức các công ty kiểm toán độc lập, đến năm 1994 với Kiểm toán Nhà nước và đến
cuối năm 1997 với sự hiện diện của Kiểm toán nội bộ.
Hình thức ban đầu của KSNB là kiểm soát tiền. Do yêu cầu phát triển, các
công ty cần có vốn và từ đó đưa đến nhu cầu tăng cường quản lý vốn và kiểm tra
thông tin về sử dụng vốn. Thuật ngữ KSNB bắt đầu xuất hiện từ giai đoạn này.
Đến thập niên 1940, các tổ chức kế toán công và kiểm toán nội bộ Hoa Kỳ
đã xuất bản một loạt các báo cáo, hướng dẫn và tiêu chuẩn về tìm hiểu KSNB trong
các cuộc kiểm toán.
Vào những thập niên 1970-1980, nền kinh tế nhiều quốc gia trên thế giới đã
phát triển mạnh mẽ. Số lượng các công ty tăng nhanh. KSNB được quan tâm đặc
biệt. Vào năm 1977, Luật về chống hối lộ nước ngoài (Foreign Corrrupt Practices
act) ra đời, các báo cáo của Cohen Commission và Financial Executive Institute
(FEI) đều đề cập đến việc hoàn thiện hệ thống kế toán và KSNB. Ủy ban chứng
khoán Hoa Kỳ (SEC) cũng đưa ra các điều luật bắt buộc các nhà quản trị phải báo
cáo về hệ thống KSNB của tổ chức. Năm 1979, Hiệp hội kế toán viên công chứng
Hoa Kỳ (AICPA) đã thành lập một ủy ban tư vấn đặc biệt về kiểm toán nội bộ nhằm
đưa ra các hướng dẫn về việc thiết lập và đánh giá hệ thống KSNB.


Từ năm 1985, sự quan tâm về KSNB ngày càng mạnh mẽ hơn, Hội đồng
quốc gia chống gian lận về báo cáo tài chính (Treadway Commision- TC) được
thành lập. Hoạt động này nhấn mạnh tầm quan trọng của môi trường kiểm soát, các
quy tắt về đạo đức, các Ủy ban kiểm toán và chức năng của kiểm toán nội bộ. Vì thế

Ủy ban tổ chức đồng bảo trợ (COSO) của Hội đồng quốc gia chống gian lận về báo
cáo tài chính đã được thành lập nhằm nghiên cứu KSNB:
- Thống nhất định nghĩa về KSNB để phục vụ cho nhu cầu của các đối tượng
khác nhau;
- Cung cấp đầy đủ một hệ thống tiêu chuẩn để giúp các đơn vị có thể đánh
giá hệ thống KSNB để tìm giải pháp hoàn thiện;
Báo cáo COSO năm 1992 đã tạo lập một nền tảng cơ sở lý luận cơ bản về
KSNB.
1.1.2. Khái niệm hệ thống kiểm soát nội bộ
Theo chuẩn mực kiểm toán quốc tế (Chuẩn mực IAS 400) “Hệ thống KSNB
là toàn bộ những chính sách và thủ tục kiểm soát do ban lãnh đạo của đơn vị thiết
lập nhằm đảm bảo việc quản lý chặt chẽ và sự hiệu quả của các hoạt động trong khả
năng có thể. Các thủ tục này đòi hỏi việc tuân thủ các chính sách quản lý, bảo quản
tài sản, ngăn ngừa và phát hiện gian lận hoặc sai sót, tính chính xác và tính đầy đủ
của các ghi chép kế toán; đồng thời đảm bảo lập trong thời gian mong muốn những
thông tin tài chính đáng tin cậy”.
Theo định nghĩa của AICPA (Hiệp hội kế toán viên công chứng Hoa Kỳ) thì
“ KSNB gồm cơ cấu tổ chức và các biện pháp, cách thức liên quan được chấp nhận
và thực hiện trong một tổ chức để bảo vệ tài sản, kiểm tra sự chính xác và đáng tin
cậy của số liệu kế toán, thúc đẩy các hoạt động có hiệu quả, khuyến khích sự tuân
thủ các chính sách của người quản lý ”.
Theo Liên đoàn Kế toán Quốc tế (IFAC) hệ thống kiểm soát nội bộ là một hệ
thống chính sách và thủ tục được thiết lập nhằm đạt được 4 mục tiêu sau: bảo vệ tài
sản của đơn vị, bảo đảm độ tin cậy của các thông tin, bảo đảm việc thực hiện các
chế độ pháp lý và bảo đảm hiệu quả của hoạt động.


Bảo vệ tài sản của đơn vị :
Hệ thống kiểm soát nội bộ sẽ bảo vệ các tài sản của đơn vị (bao gồm tài sản



cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình) và cả các tài sản phi vật chất như sổ
sách kế toán, các tài liệu quan trọng…khỏi bị đánh cắp, hư hại hoặc bị lạm dụng
vào những mục đích khác nhau.
-

Bảo đảm độ tin cậy của các thông tin:
Thông tin kinh tế tài chính do bộ máy kế toán xử lý và tổng hợp là căn cứ



quan trọng cho việc hình thành các quyết định của nhà quản lý vì vậy các thông tin
cung cấp phải đảm bảo tính kịp thời về thời gian, tính chính xác và độ tin cậy về
thực trạng hoạt động và phản ánh đầy đủ khách quan các nội dung kinh tế chủ yếu
của mọi hoạt động.
-

Bảo đảm việc thực hiện các chế độ pháp lý:
Hệ thống kiểm soát nội bộ được thiết kế trong đơn vị phải đảm bảo các quyết



định và chế độ pháp lý liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp phải được tuân thủ đúng mức.
Cụ thể hệ thống kiểm soát nội bộ cần:
Duy trì kiểm tra việc tuân thủ chính sách có liên quan tới các hoạt động của



đơn vị.



Ngăn chặn phát hiện kịp thời, xử lý các sai phạm và gian lận .



Ghi chép kế toán đầy đủ chính xác, lập BCTC trung thực khách quan.
-



Bảo đảm hiệu quả của hoạt động và năng lực quản lý:
Các quá trình kiểm soát trong một đơn vị được thiết kế nhằm ngăn ngừa sự

lặp lại không cần thiết các tác nghiệp, gây ra sự lãng phí trong hoạt động và sử dụng
kém hiệu quả các nguồn lực.
Bốn mục tiêu nói trên của hệ thống kiểm soát nội bộ đều nằm trong một thể
thống nhất tuy nhiên đôi khi cũng có mâu thuẫn với nhau như giữa tính hiệu quả
của hoạt động với mục đích bảo vệ tài sản, sổ sách hoặc cung cấp thông tin đầy đủ
và tin cậy. Cụ thể như nếu chúng ta muốn tăng cường việc bảo vệ tài sản thì sẽ làm
tăng thêm chi phí như vậy sẽ không đảm bảo được mục tiêu nâng cao tính hiệu quả
của hoạt động. Vậy nhiệm vụ của các nhà quản lý là xây dựng một hệ thống kiểm
soát nội bộ hữu hiệu và kết hợp hài hòa bốn mục tiêu nói trên.
Theo báo cáo của COSO năm 1992 được công bố dưới tiêu đề KSNB đã
định nghĩa về kiểm soát nội bộ như sau: “ KSNB là một quá trình bị chi phối bởi


người quản lý, hội đồng quản trị và các nhân viên của đơn vị, nó được thiết lập để
cung cấp một sự đảm bảo hợp lý nhằm đạt được các mục tiêu sau đây:
(1) Sự hữu hiệu và hiệu quả của hoạt động;

(2) Sự tin cậy của báo cáo tài chính;
(3) Sự tuân thủ pháp luật và các quy định”.
Theo định nghĩa trên, có 4 khái niệm quan trọng cần lưu ý, đó là: KSNB là
một quá trình; con người; đảm bảo hợp lý và các mục tiêu.
+ Về KSNB là một quá trình: Các hoạt động của đơn vị được thực hiện thông
qua lập kế hoạch, thực hiện và giám sát. Để đạt được mục tiêu mong muốn, đơn vị
cần kiểm soát các hoạt động của mình, KSNB chính là quá trình này;
+ Về con người: KSNB được thiết kế và vận hành bởi các nhà quản lý,
HĐQT, các nhân viên trong đơn vị, nó là công cụ phục vụ cho nhà quản lý;
+ Về tính đảm bảo hợp lý: KSNB chỉ có thể cung cấp sự đảm bảo hợp lý cho
các nhà quản lý trong việc đạt được các mục tiêu của tổ chức chứ không thể đảm
bảo tuyệt đối;
+ Các mục tiêu: Có thể chia các mục tiêu kiểm soát đơn vị cần thiết lập thành
03 nhóm sau:
* Nhóm mục tiêu về hoạt động: nhấn mạnh đến sự hữu hiệu và hiệu quả của
việc sử dụng các nguồn nhân lực.
* Nhóm mục tiêu về báo cáo tài chính: nhấn mạnh đến tính trung thực và
đáng tin cậy của báo cáo tài chính mà tổ chức cung cấp.
* Nhóm mục tiêu về sự tuân thủ: nhấn mạnh đến việc tuân thủ pháp luật và
các quy định.
1.1.3. Lợi ích và hạn chế của hệ thống kiểm soát nội bộ
* Lợi ích
 Hạn chế và ngăn ngừa những rủi ro không cần thiết hoặc những thiệt hại
không đáng có.
 Đảm bảo tính liên hoàn, chính xác của các số liệu tài chính, kế toán, thống kê
cho hoạt động sản xuất, kinh doanh hay đầu tư.
 Ngăn chặn sớm các gian lận, trộm cắp, tham nhũng, lợi dụng sử dụng nguồn
lực của đơn vị.



 Tạo ra cơ chế vận hành trơn tru, minh bạch và hiệu quả trong công tác quản
lý điều hành.
 Đảm bảo cơ chế và tác nghiệp tuân thủ theo quan điểm quản trị điều hành, hệ
thống quy trình quy chuẩn hoạt động cũng như quản lý tài chính.
 Là nền tảng cho việc vận hành, cải tiến hệ thống quản lý và tác nghiệp khi
đơn vị tăng trưởng về quy mô hoặc mở rộng ngành nghề.
*Hạn chế
Khi tìm hiểu về hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị, cần nhận thức rằng
một hệ thống kiểm soát nội bộ dù có được thiết kế hoàn hảo đến đâu thì cũng không
thể nào ngăn ngừa phát hiện mọi sai phạm có thể xảy ra, đó là hạn chế cố hữu của
hệ thống kiểm soát nội bộ:


Hệ thống kiểm soát nội bộ thường bị xem xét trong mối quan hệ giữa chi phí

bỏ ra với lợi ích đem lại.


Các thủ tục kiểm soát này thường tác động đến những nghiệp vụ xảy ra

thường xuyên mà ít có tác động với những nghiệp vụ bất thường.


Hệ thống kiểm soát nội bộ thường chỉ đặt ra các thủ tục kiểm soát bên trong

đơn vị mà ít có tác động đối với các nghiệp vụ bên ngoài đơn vị.


Các thủ tục kiểm soát thường dễ bị lạc hậu theo thời gian vì có sự đối phó


của người bị kiểm soát.


Hệ thống kiểm soát nội bộ thường dễ bị vô hiệu hóa bởi những nhà quản lý

1.1.4. Kiểm soát nội bộ trong hệ thống quản lý doanh nghiệp
Thông qua hoạt động kiểm tra, kiểm soát nhà quản lý sẽ được cung cấp
thông tin về quá trình thực hiện, về kết quả đạt được, kịp thời so sánh với các mục
tiêu đã đặt ra trong kế hoạch để có những điều chỉnh các hoạt động một cách phù
hợp nhằm đạt được mục tiêu đề ra một cách hiệu quả nhất.
Ngoài ra, kiểm soát là một phương tiện nhằm giảm thiểu những yếu tố gây
tác động xấu tới hoạt động của một đối tượng nào đó.
Như vậy, kiểm soát là một chức năng của quản lý, gắn liền với quản lý, ở đâu
có quản lý thì ở đó có kiểm soát.
1.2. Kiểm soát nội bộ trong đơn vị hoạt động công


1.2.1. Lược sử sự ra đời và phát triển của kiểm soát nội bộ trong đơn vị hoạt
động công
Một số quốc gia như Mỹ, Canada đã có những công bố chính thức về KSNB
áp dụng cho các cơ quan hành chính sự nghiệp. Chuẩn mực kiểm toán của Tổng kế
toán nhà nước Hoa Kỳ (United States General Accounting Office – GAO) năm
1999 có đề cập đến vấn đề KSNB đặc thù trong tổ chức hành chính sự nghiệp, và
cũng đưa ra 5 bộ phận của hệ thống KSNB như báo cáo COSO 1992.
Hệ thống chuẩn mực kiểm toán nhà nước do Tổ chức quốc tế các cơ quan
kiểm toán tối cao (International Organization of Supreme Audit Institutions –
INTOSAI) ban hành gồm quy tắt đạo đức nghề nghiệp và chuẩn mực kiểm toán.
Năm 1996, Kiểm toán Nhà nước Việt Nam là thành viên chính thức của tổ
chức INTOSAI và đến năm 1997, Việt Nam tham gia Tổ chức các cơ quan kiểm
toán tối cao châu Á (Asian Organization of Supreme Audit Institutions – ASOSAI),

tổ chức này thành lập năm 1979, hiện nay có 46 thành viên, từ tháng 10/2009 Việt
Nam là thành viên Ban điều hành của tổ chức này nhiệm kỳ 2009-2012 (theo Tạp
chí Kế toán và kiểm toán, tháng 8/2011, Hà Nội).
Năm 2001, bản hướng dẫn của INTOSAI 1992 đã cập nhật thêm về các
chuẩn mực KSNB để phù hợp với tất cả các đối tượng và phù hợp với sự phát triển
gần đây trong KSNB và nhất là tài liệu này đã trình bày những vấn đề đặc thù về
khu vực công. Điều lưu ý là tài liệu này đã tích hợp các lý luận chung về KSNB của
Báo cáo COSO 1992.
1.2.2. Định nghĩa về KSNB của INTOSAI
Năm 2001, INTOSAI trình bày định nghĩa về KSNB như sau: “ KSNB là một
quá trình xử lý toàn bộ được thực hiện bởi nhà quản lý và các cá nhân trong tổ chức,
quá trình này được thiết kế để phát hiện các rủi ro và cung cấp một sự đảm bảo hợp
lý để đạt được nhiệm vụ của tổ chức. Sau đây là những mục tiêu cần đạt được:
- Thực hiện các hoạt động một cách có kỷ cương, có đạo đức, có tính kinh tế,
hiệu quả và thích hợp;
- Thực hiện đúng trách nhiệm;
- Tuân thủ theo pháp luật hiện hành và các nguyên tắc, quy định;
- Bảo vệ các nguồn lực chống thất thoát, sử dụng sai mục đích và tổn thất ”.


So với định nghĩa của báo cáo COSO và hướng dẫn năm 1992, khía cạnh giá
trị đạo đức trong hoạt động được thêm vào. Mục tiêu của KSNB được nhấn mạnh
thêm, đó chính là tầm quan trọng của hành vi đạo đức cũng như sự ngăn chặn, sự
phát hiện sự gian trá và tham nhũng trong khu vực công.
1.2.3. Các yếu tố của hệ thống KSNB theo INTOSAI
Cũng như Báo cáo COSO 1992, INTOSAI đưa ra 5 yếu tố của KSNB và
giữa 2 hệ thống, báo cáo COSO 1992 và hướng dẫn của INTOSAI có những khác
biệt về chi tiết.
1.2.3.1. Môi trường kiểm soát
Môi trường kiểm soát đã tạo nên một sắc thái chung cho một tổ chức, ảnh

hưởng đến ý thức kiểm soát của các nhân viên. Môi trường kiểm soát là nền tảng
cho tất cả các yếu tố khác trong KSNB, tạo lập một nề nếp kỷ cương, đạo đức và cơ
cấu tổ chức. Các nhân tố trong môi trường kiểm soát bao gồm:
+ Sự liêm chính và giá trị đạo đức cá nhân, chuyên môn của nhà lãnh đạo và
của đội ngũ nhân viên.
Sự liêm chính và tôn trọng giá trị đạo đức của nhà lãnh đạo và đội ngũ nhân
viên xác định thái độ cư xử chuẩn mực trong công việc của họ. Tinh thần tôn trọng
đạo đức thể hiện qua tất cả các cá nhân, mọi cá nhân phải tuân thủ các điều lệ, quy
định và đạo đức về cách ứng xử của cán bộ công chức nhà nước.
Thái độ và cách điều hành của người quản lý, quyết định giọng điệu (tone)
của toàn bộ tổ chức trong việc thiết lập các chính sách về kế toán, tài chính của đơn
vị; ví dụ như: công khai tài sản, quy chế chi tiêu nội bộ,.. mang tính công bằng,
khách quan, vô tư, không thiên vị,…Đồng thời, phải cho công chúng thấy được tinh
thần này trong sứ mệnh và trong tiêu chuẩn đạo đức của tổ chức thông qua các văn
bản chính thức; chẳng hạn như xây dựng giá trị đạo đức trong đơn vị mang tính
công bằng, dung hòa các lợi ích, giảm thiểu các yếu tố cơ hội phát sinh các gian lận,
tham nhũng.
+ Năng lực nhân viên
Năng lực nhân viên bao gồm trình độ hiểu biết và kỷ năng làm việc cần thiết
để đảm bảo cho việc thực hiện có kỷ cương, trung thực, tiết kiệm, hiệu qủa và hữu


hiệu, cũng như có một sự am hiểu đúng đắn về trách nhiệm của bản thân trong việc
thiết lập hệ thống KSNB.
Lãnh đạo và nhân viên phải duy trì một trình độ đủ để hiểu được việc xây
dựng thực hiện, duy trì của KSNB, vai trò của KSNB và trách nhiệm của họ trong
việc thực hiện sứ mệnh chung của tổ chức. Mỗi cá nhân trong tổ chức đều giữ một
vai trò trong hệ thống KSNB, bởi đó là trách nhiệm của họ.
Lãnh đạo và nhân viên cũng cần có những kỹ năng cần thiết để đánh giá các
rủi ro. Việc đánh giá rủi ro đảm bảo hoàn thành trách nhiệm của họ trong tổ chức.

Đào tạo là một phương thức hữu hiệu để nâng cao trình độ cho các thành
viên trong tổ chức, đó là hướng dẫn về mục tiêu KSNB, phương pháp giải quyết
những tình huống khó xử trong công việc.
+ Triết lý quản lý và phong cách lãnh đạo
Triết lý quản lý và phong cách lãnh đạo thể hiện qua cá tính, tư cách và thái
độ của nhà lãnh đạo khi điều hành. Nếu nhà lãnh đạo cấp cao cho rằng KSNB là
quan trọng thì những thành viên khác trong tổ chức cũng sẽ cảm nhận được điều đó
và sẽ theo đó mà tận tâm xây dựng hệ thống KSNB. Tinh thần này biểu hiện ra
thành những quy định đạo đức ứng xử trong cơ quan. Thí dụ như việc xây dựng
kiểm toán nội bộ trong KSNB thể hiện sự quan tâm của lãnh đạo đến KSNB.
Ngược lại nếu các thành viên trong tổ chức cho rằng KSNB không quan
trọng có nghĩa là lãnh đạo chưa quan tâm đúng mức đến KSNB. Kết quả là KSNB
chỉ còn là hình thức chứ không có ý nghĩa thực sự, dẫn đến mục tiêu, nhiệm vụ của
đơn vị không còn đạt được như mong muốn.
+ Cơ cấu tổ chức gồm:
- Sự phân chia quyền và trách nhiệm báo cáo. Mỗi cấp quản lý ý thức được
quyền hạn của mình tới đâu.
- Hệ thống báo cáo phù hợp với đơn vị, thiết lập quy trình báo cáo kịp thời,
kết quả thực hiện để đạt mục tiêu đề ra.
Trong cơ cấu tổ chức cũng bao gồm bộ phận kiểm toán nội bộ, được tổ chức
độc lập đối với các đối tượng kiểm toán và báo cáo trực tiếp đến lãnh đạo cao nhất
trong cơ quan.
+ Chính sách nhân sự


Chính sách nhân sự bao gồm sự tuyển dụng, huấn luyện, giáo dục, đánh giá,
bổ nhiệm, khen thưởng hay kỷ luật, kèm cặp nhân viên.
Mỗi cá nhân đóng vai trò quan trọng trong KSNB. Khả năng, sự tin cậy của
nhân viên rất cần thiết để kiểm soát được hữu hiệu. Vì vậy, cách thức tuyển dụng,
huấn luyện, giáo dục, đánh giá, bổ nhiệm, khen thưởng hay kỷ luật là một phần

quan trọng trong môi trường kiểm soát. Việc ra quyết định tuyển dụng nhân viên
phải đảm bảo được về tư cách đạo đức cũng như kinh nghiệm để thực hiện công
việc được giao.
Nhà lãnh đạo cần thiết lập các chương trình động viên khuyến khích bằng
các hình thức khen thưởng và nâng cao mức khuyến khích cho các hoạt động cụ thể.
Đồng thời, các hình thức kỷ luật nghiêm khắc cho các hành vi vi phạm cũng cần
được các nhà lãnh đạo quan tâm.
1.2.3.2. Đánh giá rủi ro
KSNB phục vụ để đạt mục tiêu tổ chức, việc đánh giá rủi ro là rất quan trọng
vì nó ghi nhận các sự kiện quan trọng đe dọa đến mục tiêu, nhiệm vụ của đơn vị.
Phân tích đánh giá rủi ro để thu hẹp những rủi ro chủ yếu. Việc nhận dạng
rủi ro chủ yếu hết sức quan trọng, không chỉ vì nó liên quan đến những đe dọa của
rủi ro mà còn liên quan đến sự phân chia trách nhiệm và nguồn lực đối phó rủi ro.
Đánh giá rủi ro bao gồm quá trình nhận dạng và phân tích các rủi ro một
cách thích hợp để đạt được mục tiêu của tổ chức và xác định biện pháp xử lý phù
hợp. Bao gồm:
+ Nhận dạng rủi ro: Nhận dạng rủi ro bao gồm rủi ro từ bên ngoài và bên
trong, rủi ro ở cấp toàn đơn vị và từng hoạt động, rủi ro được xem xét liên tục trong
suốt quá trình hoạt động của đơn vị.
Liên quan đến khu vực công, các cơ quan Nhà nước phải quản trị rủi ro ảnh
hưởng đến mục tiêu giao phó, bao gồm cả các chỉ tiêu được giao trong kế hoạch của
đơn vị.
+ Đánh giá rủi ro: Để kiểm soát được rủi ro, vấn đề quan trọng không chỉ là
nhận ra các rủi ro tồn tại, mà còn là đánh giá tầm quan trọng, tác hại mà rủi ro gây
ra và khả năng xảy ra rủi ro.


Có nhiều phương pháp đánh giá rủi ro tùy theo mỗi loại rủi ro, tuy nhiên phải
đánh giá rủi ro một cách có hệ thống. Thí dụ phải xây dựng các tiêu chí đánh giá
rủi ro, sau đó sắp xếp thứ tự các rủi ro, dựa vào đó nhà lãnh đạo sẽ phân bổ nguồn

lực đối phó rủi ro.
+ Phát triển các biện pháp đối phó.
Có 4 biện pháp đối phó với rủi ro: Chấp nhận rủi ro, tránh né rủi ro, xử lý
hạn chế rủi ro và phân tán rủi ro. Trong phần lớn các trường hợp rủi ro phải được
xử lý hạn chế và đơn vị duy trì KSNB để có biện pháp thích hợp. Các biện pháp xử
lý hạn chế rủi ro ở mức độ hợp lý vì mối liên hệ giữa lợi ích và chi phí nhưng nếu
nhận dạng được và đánh giá được rủi ro thì có sự chuẩn bị tốt hơn.
Khi môi trường thay đổi như các điều kiện về kinh tế, chế độ của Nhà nước,
công nghệ, luật pháp sẽ làm rủi ro thay đổi thì việc đánh giá rủi ro cũng nên thường
xuyên xem xét lại, điều chỉnh theo từng thời kỳ.
Phần này không phải là một yếu tố của KSNB, mà trên cơ sở việc nhận dạng
rủi ro, đánh giá rủi ro mà đơn vị thiết lập để đối phó với những rủi ro nào đó xảy ra.
1.2.3.3. Hoạt động kiểm soát
Hoạt động kiểm soát là những chính sách và những thủ tục đối phó rủi ro và
đảm bảo đạt được mục tiêu, nhiệm vụ của đơn vị.
Hoạt động kiểm soát có mặt xuyên suốt trong tổ chức, ở các mức độ và các
chức năng. Hoạt động kiểm soát bao gồm các hoạt động kiểm soát phòng ngừa và
phát hiện rủi ro.
+ Thủ tục phân quyền và xét duyệt
Việc thực hiện các nghiệp vụ chỉ được thực hiện bởi người được ủy quyền
theo trách nhiệm và phạm vi của họ. Ủy quyền là một cách thức chủ yếu để đảm
bảo rằng chỉ có những nghiệp vụ có thực mới được phê duyệt đúng mong muốn của
người lãnh đạo. Các thủ tục ủy quyền phải được tài liệu hóa và công bố rõ ràng,
phải bao gồm những điều kiện cụ thể.
+ Phân chia trách nhiệm
Để giảm rủi ro về việc sai sót, lãng phí, những hành động cố ý làm sai và rủi
ro không ngăn ngừa được thì không một bộ phận hay cá nhân nào được giao một
công việc từ lúc bắt đầu cho đến khi kết thúc. Trách nhiệm phải được giao một cách



có hệ thống cho từng cá nhân để đảm bảo sự kiểm tra có hiệu quả. Năm trách nhiệm
chủ yếu bao gồm ủy quyền, phê chuẩn, ghi chép, xử lý và đánh giá các nghiệp vụ.
Tuy nhiên, cần lưu ý sự thông đồng làm giảm hoặc phá hủy sự hữu hiệu của KSNB.
Trong một số trường hợp đơn vị có quy mô nhỏ, có quá ít nhân viên để thực
hiện việc phân chia phân nhiệm. Khi đó, nhà lãnh đạo phải nhận biết được rủi ro và
bù đắp bằng những biện pháp kiểm soát khác như sự luân chuyển nhân viên. Sự
luân chuyển cán bộ, công chức viên chức (CCVC) và nhân viên đảm bảo rằng một
người không xử lý mọi mặt nghiệp vụ trong một thời gian dài. Cũng như, việc
khuyến khích và yêu cầu nhân viên thực hiện những ngày nghỉ hàng năm cũng giúp
giảm rủi ro bằng cách đem lại sự luân chuyển nhân viên tạm thời.
+ Kiểm soát việc tiếp cận tài sản và sổ sách
Việc tiếp cận tài sản và sổ sách phải được giới hạn trong những cá nhân mà
họ được giao trách nhiệm bảo quản hoặc sử dụng tài sản. Trách nhiệm của người
bảo quản tài sản thể hiện qua chứng từ, hàng tồn kho, ghi chép sổ sách. Hạn chế
việc tiếp cận tài sản làm giảm rủi ro lạm dụng hoặc làm thất thoát tài sản của Nhà
nước. Mức độ giới hạn tùy thuộc vào rủi ro thất thoát tài sản. Mức độ giới hạn phải
được xem xét định kỳ.
+ Kiểm tra: Các nghiệp vụ và sự kiện phải được kiểm tra trước và sau khi xử
lý. Thí dụ, khi xác định số thu của từng đối tượng tham gia BHXH,BHYT thì căn
cứ vào số tiền đã nộp vào quỹ BHXH, BHYT trên cơ sở các sổ theo dõi thu của cán
bộ quản lý thu.
+ Đối chiếu: Sổ sách được đối chiếu với các chứng từ thích hợp một cách
định kỳ. Thí dụ, sổ sách ghi chép tiền gửi ngân hàng đối chiếu với sổ phụ ngân
hàng.
+ Rà soát việc thực hiện các hoạt động: Việc thực hiện các hoạt động được rà
soát dựa trên một loạt các chuẩn mực nguyên tắc cơ bản, đánh giá hiệu quả và tính
hữu hiệu. Nếu sự rà soát cho thấy rằng các hoạt động thực hiện không phù hợp với
mục tiêu của tổ chức hoặc các tiêu chuẩn, thì quy trình thực hiện để đạt các mục
tiêu cần phải rà soát lại để đưa ra cải tiến cần thiết.



+ Rà soát sự điều hành, xử lý và hoạt động: Việc điều hành, xử lý và hoạt
động nên được rà soát định kỳ để đảm bảo tuân thủ nguyên tắc, chính sách, thủ tục
và những đòi hỏi hiện hành khác.
+ Giám sát nhân viên (giao việc, soát xét và chấp thuận, hướng dẫn và huấn
luyện)
Việc giám sát kỹ càng giúp việc đảm bảo rằng mục tiêu của việc tổ chức sẽ
được thực hiện. Sự giao việc, soát xét và chấp thuận công việc của nhân viên bao
gồm:
- Sự thông báo rõ ràng, nghĩa vụ, trách nhiệm và sự chịu trách nhiệm giao
cho mỗi thành viên.
- Đánh giá một cách hệ thống công việc của mỗi thành viên trong phạm vi
cần thiết.
- Chấp thuận công việc theo những tiêu chuẩn để đảm bảo công việc được
thực hiện theo đúng định hướng.
Người giám sát cung cấp cho nhân viên những hướng dẫn cần thiết và huấn
luyện để đảm bảo rằng sự sai sót, lãng phí và hành động sai trái được giảm thiểu và
làm cho nhà lãnh đạo trực tiếp hiểu được và đạt được kết quả.
1.2.3.4. Thông tin và truyền thông
Thông tin và truyền thông rất cần thiết để thực hiện mục tiêu của KSNB.
+ Thông tin: Là những thông tin cần được cung cấp cho các cấp quản lý và
các cá nhân, bộ phận trong đơn vị để thực hiện các chức năng KSNB của mình, ví
dụ người quản lý cần nhận thông tin để thực hiện quản lý như việc phê duyệt hợp
đồng mua bán thì các cấp trực thuộc phải có giấy đề xuất mua hàng để phê duyệt.
Vậy giấy đề nghị là thông tin cho nhà quản lý. Hoặc là cuối tháng nhà quản lý được
cung cấp các báo cáo tình hình nợ BHXH, BHYT để thấy được đơn vị nào nợ mà
người lãnh đạo đưa ra các biện pháp thu hồi nợ đọng.
+ Truyền thông: Truyền thông để mọi người hiểu được chức năng của từng
cá nhân nhằm thấy được chức năng của mình trong thực hiện KSNB đáp ứng được
mục tiêu của cơ quan. Ngoài ra, cũng cần có sự truyền thông hiệu quả từ bên ngoài

tổ chức.


1.2.3.5. Hoạt động giám sát
Hệ thống KSNB cần được giám sát để đánh giá chất lượng hoạt động của hệ
thống qua thời gian. Những khiếm khuyết của hệ thống KSNB cần được phát hiện
kịp thời để có biện pháp khắc phục càng sớm càng tốt.
+ Giám sát thường xuyên
KSNB thiết lập cho những hoạt động thông thường và lặp lại thường ngày
trong các khâu của quy trình trong đơn vị, bao gồm cả những hoạt động giám sát và
quản lý mang tính chất định kỳ ngay trong quá trình thực hiện của các nhân viên
trong công việc hàng ngày.
+ Giám sát định kỳ
Tổ chức đánh giá công tác KSNB ở đơn vị thông qua định kỳ hàng tháng,
quý, năm phòng kiểm tra tổ chức kiểm tra hoạt động ở các bộ phận trong đơn vị.
Phạm vi và tần suất giám sát định kỳ phụ thuộc vào sự đánh giá mức độ rủi ro và
hiệu quả của thủ tục giám sát thường xuyên. Giám sát định kỳ bao phủ toàn bộ sự
đánh giá, sự hữu hiệu của hệ thống KSNB và đảm bảo KSNB đạt kết quả như mong
muốn dựa trên các phương pháp và thủ tục kiểm soát.
Và các yếu tố trên hoạt động trong mối quan hệ tương tác nhau và được biểu
diễn theo hình 1.1 sau:
Môi trường
kiểm soát

Hoạt động
giám sát

Đánh giá
rủi ro


Thông tin
truyền thông

Hoạt động
kiểm soát

(Nguồn: Các yếu tố của hệ thống KSNB theo INTOSAI)
Hình 1.1: các phương pháp và thủ tục kiểm soát.


1.3. KSNB các khoản thu Bảo hiểm xã hội
Trong tất cả các hoạt động của BHXH, hoạt động thu và chi là hai hoạt động
chủ yếu và quan trọng nhất.
1.3.1. Tổng quan về hoạt động cơ bản thu và chi Bảo hiểm xã hội
1.3.1.1.Hoạt động thu Bảo hiểm xã hội
Nhìn chung quỹ BHXH ở các nước được hình thành chủ yếu từ các
nguồn sau ( Điều 102 Luật Bảo hiểm xã hội):
-

Người lao động đóng góp

-

Người sử dụng lao động đóng góp

-

Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm

-


Thu từ nộp phạt do chậm nộp BHXH của doanh nghiệp

-

Thu từ tài trợ-viện trợ

-

Thu từ lãi đầu tư phát trển

-

Các nguồn thu hợp pháp khác.
Tuy nhiên, tỷ lệ đóng góp của các đối tượng ở mỗi nước thì lại không giống

nhau, mà tùy vào hoàn cảnh, điều kiện, chính sách xã hội (CSXH) và quan điểm của
mỗi nước. Về phần đóng góp của người sử dụng lao động thường được tính trên cơ
sở số lượng lao động thuê mướn trong doanh nghiệp. Tỷ lệ trích nộp được pháp luật
quy định. Tỷ lệ này được tính theo một mức trên tổng quỹ lương.
Bên cạnh sự đóng góp chủ yếu của người sử dụng lao động và người lao
động vào Quỹ BHXH, Nhà nước ở những nước có nền kinh tế thị trường cũng luôn
hỗ trợ quỹ khi các khoản đóng góp của hai đối tượng trên không đủ đáp ứng chi tiêu
của quỹ hoặc khi có sự biến động khủng hoảng làm cho quỹ bị thâm hụt. Nguồn bù
đắp thiếu hụt quỹ BHXH ở các nước được lấy từ thuế theo những tỷ lệ và mức khác
nhau.
Theo đánh giá chung, trong ba nguồn đóng góp thì nguồn chủ yếu là nguồn
đóng góp từ người sử dụng lao động. Tỷ lệ đóng góp ở mỗi nước rất khác nhau, các
tỷ lệ đó có thể thích hợp với nước này, song cũng có thể không thể chấp nhận ở
nước khác. Chính vì lẽ đó tỷ lệ đóng góp của mỗi bên, mỗi quốc gia xuất phát từ

nhiều cơ sở: kinh tế, chính trị, xã hội, lịch sử của chính quốc gia đó. Vì thế, cơ chế
hình thành quỹ BHXH ở các nước khác nhau. Nói chung, ở những nước có nền kinh


tế phát triển như Đức, Ý, Mỹ…thì áp dụng cơ chế tự thu tự chi, thu trong năm chủ
yếu chi hết trong năm. Còn các nước kinh tế đang phát triển thì nói chung áp dụng
cơ chế tạo quỹ tích lũy, số dư hàng năm được sử dụng đầu tư tăng trưởng. Do cơ
chế tạo quỹ khác nhau, nên tỷ lệ đóng góp của ba bên cũng khác nhau.
• Rủi ro thu Bảo hiểm xã hội
Nhận diện rủi ro có thể xảy ra trong công tác thu BHXH:
Việc nhận dạng các rủi ro và đánh giá tầm quan trọng của các rủi ro có
thể xảy ra là một bộ phận quan trọng của hệ thống KSNB. Không giống như các
doanh nghiệp, hoạt động BHXH có các rủi ro chủ yếu được ghi nhận ở hoạt động
thu, chi BHXH, BHYT, BHTN. Ngoài các rủi ro xuất phát từ năng lực và đạo đức
nhân viên BHXH, rủi ro thu không đủ theo số phải thu do các đơn vị sử dụng lao
động không cung cấp đầy đủ thông tin của người lao động và tiền lương hiện hưởng
của người lao động đang làm việc trong đơn vị.
Về rủi ro thu BHXH, BHYT, BHTN thường gồm những trường hợp sau:
- Rủi ro thu BHXH, BHYT, BHTN phát sinh khi không thu được BHXH,
BHYT, BHTN từ các đối tượng thuộc diện phải nộp BHXH, BHYT, BHTN nhất là
từ người sử dụng lao động.
- Rủi ro thu BHXH, BHYT, BHTN còn phát sinh trong những trường hợp
không thu đủ và đúng mức phải nộp vào quỹ BHXH, BHYT.
- Rủi ro thu BHXH, BHYT, BHTN còn bao gồm từ việc thu chậm trễ do
người nộp không nộp đúng thời gian quy định.
- Rủi ro nguồn thu BHXH, BHYT bị mất, do người đi thu BHXH, BHYT
nộp không đủ (đại lý thu), biển thủ số tiền đã thu không nộp đủ và kịp thời vào quỹ
theo quy định.
Ngoài ra, hoạt động BHXH còn đứng trước rủi ro về mất cân đối thu-chi các
quỹ BHXH, BHYT, BHTN. Điều này càng đặt ra sự cần thiết của đội ngũ cán bộ

CCVC ngành BHXH để sớm có biện pháp khắc phục trong quá trình phát triển của
ngành nhằm đảm bảo quyền lợi của người lao động khi tham gia BHXH, BHYT.
Ngoài ra, nhìn chung trên thế giới số lượng người tham gia BHXH ngày
càng tăng, việc kiểm soát hoạt động thu không thể tránh những sai sót về thông tin
cá nhân và quá trình tham gia BHXH dẫn đến việc thu không đúng, không đủ và


ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động.
• Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro
* Nguyên nhân khách quan
Các đơn vị, doanh nghiệp không muốn nộp BHXH vì tỷ lệ trích nộp
BHXH mà doanh nghiệp phải nộp sẽ làm tăng chi phí hoạt động của doanh nghiệp.
Một số doanh nghiệp có số lượng lao động ít không muốn tham gia
đóng BHXH, có thể thấy rằng một số lao động hiện nay vẫn chưa hiểu được lợi ích
của việc tham gia BHXH.
Từ nguyên nhân trên cho chúng ta thấy rằng việc tuyên truyền, giải
thích ý nghĩa của việc tham gia BHXH của các cơ quan BHXH rất quan trọng.
* Nguyên nhân chủ quan
Cơ quan BHXH thiếu hoặc chưa ban hành kịp các nguyên tắc riêng, cơ
sở luật pháp riêng thật nghiêm khắc để xử lý việc cố tình nộp không đúng thời hạn
quy định, làm ảnh hưởng đến lợi ích của người lao động.
Ngoài ra, chúng ta cần phải nhận thấy nguyên nhân xuất phát từ đạo
đức của người chịu trách nhiệm quản lý thu BHXH. Nhân viên có thể thông đồng
với các đơn vị nộp BHXH, cho phép họ chậm nộp BHXH để tư lợi.
Kỹ năng làm việc của nhân viên xét duyệt mức đóng BHXH yếu kém,
không cập nhật thông tin khi có sự thay đổi về luật pháp, qui định sẽ không xác
định đúng mức lương làm căn cứ nộp BHXH của từng đối tượng tham gia BHXH.
Số lượng người tham gia BHXH rất đông và ngày càng gia tăng, việc
kiểm soát thông tin của từng cá nhân rất nhiều khó khăn. Khi có sự thay đổi nếu
không cập nhật kịp thời sẽ tính toán không đúng số liệu thu BHXH.

1.3.1.2.Hoạt động chi Bảo hiểm xã hội
Quỹ BHXH ở các nước được sử dụng để chi tiêu vào các nội dung quan
trọng sau: chi trợ cấp BHXH theo chế độ, chi quản lý hành chính, chi cho đầu tư
tăng trưởng quỹ.
Trong ba phần chi thì chi trả cho các chế độ trợ cấp BHXH là lớn nhất,
quan trọng nhất. Các khoản chi quản lý hành chính (QLHC) và chi cho đầu tư là
không cố định phụ thuộc vào quy mô tổ chức, cách quản lý của một hệ thống
BHXH ở từng nước. Chi trả các chế độ BHXH là chi trả theo luật định ở mỗi nước,


×