Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

skkn bieän phaùp hoïc toát chöông sinh saûn sinh döôõng moân sinh hoïc lôùp 6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (539.09 KB, 24 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO ĐỨC HÒA
TRƯỜNG THCS AN NINH

------

“BIỆN PHÁP HỌC TỐT CHƯƠNG
SINH SẢN SINH DƯỠNG MÔN SINH
HỌC 6”

Giáo viên: NGUYỄN TẤN CÔNG
Năm học: 2015-2016

1


Phần I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Sinh học là một môn học thuộc lónh vực khoa học tự nhiên, sinh
học nghiên cứu về các vấn đề trong thực tế như: Thực vật, Động vật và
Con người, do đó Sinh học góp phần cung cấp cho học sinh những kiến
thức cơ bản nhưng rất quan trọng để học sinh có thể bước vào cuộc sống
thực tế như:
Thứ nhất là về kiến thức học sinh nắm được một số đặc điểm cơ
bản về hình thái, cấu tạo, họat động sinh lí, đặc điểm sống và sinh sản
của từng sinh vật trong tự nhiên.
Thứ hai là về kỹ năng học sinh được rèn luyện một số kỉ năng
quan trọng của bộ môn như: Quan sát, ghi chép, vẽ hình, làm thí
nghiệm, thực hành,tự học hay hoạt động theo nhóm và khả năng trình
bày trước tập thể…
Thứ ba là rèn luyện cho học sinh những năng lực tư duy như: óc
quan sát, phân tích, so sánh, tổng hợp, khái quát hóa trừu tượng hóa vấn
đề,….Từ đó học sinh có thể vận dụng kiến thức đã học của mình vào


việc giải thích các hiện tượng tự nhiên mà từ trước đến giờ học sinh
không giải thích được.
Thứ tư là bồi dưỡng cho học sinh thế giới quan duy vật biện
chứng, góp phần giáo dục tư tưởng tình cảm, ý thức hành vi bảo vệ môi
trường, lòng yêu quê hương đất nước con người … Từ những nhiệm vụ
quan trọng của bộ môn như trên, đặc biệt với học sinh lớp 6 ở độ tuổi
11-12 năng lực tư duy trừu tượng còn yếu, việc hình thành các khái niệm
dựa trên quan sát cụ thể dẫn đến hình thành các biểu tượng rồi từ đó
mới xây dựng nên khái niệm, cho nên việc nghiên cứu thực vật thuận lợi

2


hơn nhất là việc nghiên cứu những bộ phận riêng biệt của cơ thể thực
vật điển hình là cây xanh có hoa theo từng cơ quan: Cơ quan sinh dưỡng(
Rễ, Thân, Lá ), Cơ quan sinh sản ( Hoa, Quả, Hạt )… Khi nghiên cứu về
sinh sản học sinh bắt đầu làm quen với các khái niệm như: Sinh sản vô
tính, sinh sản hữu tính … Đây là những khái niệm trừu tượng mà học sinh
chỉ tiếp thu được qua hình ảnh, mô hình, sách giáo khoa và lời giảng của
giáo viên nên học sinh tiếp thu kiến thức về sinh sản rất thụ động, đặc
biệt khi học sinh vận dụng vào thực hành các em chưa nắm rõ về lý
thuyết do đó thực hành còn lúng túng, giải thích trên cơ sở khoa học
chưa chính xác không mang tính lôgíc, không áp dụng được với điều
kiện thực tế đòa phương. Hơn nữa khi phát biểu về các khái niệm về sinh
sản học sinh chỉ phát biểu khái niệm theo sách giáo khoa mà đa số các
em không hiểu hết được ý nghóa các khái niệm đó.
Là một giáo viên dạy sinh học ở trường THCS, được phân công
phụ trách dạy môn sinh học lớp 6. Qua nhiều năm giảng dạy tôi nhận
thấy rằng học sinh hiểu rất mơ hồ về chương sinh sản sinh dưỡng, thậm
chí nhiều em không có say mê hứng thú khi học chương này. Để giúp

các em hứng thú trong học tập, khi học lý thuyết xong phải vận dụng
vào thực hành. Từ đó kiến thức trên mới khắc sâu được. Từ những suy
nghó trên tôi đã đúc kết qua nhiều năm giảng dạy sinh học 6 “Biện
pháp học tốt chương sinh sản sinh dưỡng môn sinh học lớp 6”.
Đề tài mà tôi nghiên cứu đã có nhiều tác giả viết thành những
công trình nghiên cứu lớn như: Phương pháp giảng dạy sinh học của
Trần Bá Hoành, Đổi mới dạy học sinh học ở trường THCS của Nguyễn
Quang Vinh … hay đã được rất nhiều đồng nghiệp viết thành những sáng
kiến kinh nghiệm, hoặc nhiều bài báo, tạp chí cũng đã viết nhiều về

3


vấn đề này. Riêng bản thân tôi, tôi đã nghiên cứu và áp dụng vào giảng
dạy ở học sinh lớp 6 trường trung học cơ sở An Ninh năm học 20152016, đạt được một số kết quả khả quan.
Đề tài “Biện pháp học tốt chương sinh sản sinh dưỡng môn
sinh học lớp 6”. có rất nhiều vấn đề. Nhưng ở đây tôi chỉ đề cập đến
các vấn đề cần thiết, phù hợp với tình hình thực tế đòa phương để giúp
học sinh lớp 6 học tốt chương sinh sản sinh dưỡng. Tôi chỉ chú trọng đến
các vấn đề, làm sao tạo cho các em có tinh thần tự giác, lòng say mê
học tập bộ môn, hình thành thói quen học tập khoa học, đặc biệt học
sinh có thể học tập qua tham quan, học tập những kinh nghiệm, mô hình
của nông dân sản xuất giỏi ở đòa phương, chủ yếu về vấn đề tìm hiểu
và nhận biết mẫu vật để giúp các em học sinh trường THCS An Ninh
học tốt chương sinh sản dinh dưỡng tự nhiên.

4


Phần II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

I. THỰC TRẠNG ĐỀ TÀI
Qua nhiều năm giảng dạy môn sinh học lớp 6 ở trường THCS An
Ninh sau khi dạy xong chương sinh sản sinh dưỡng, tôi đã tiến hành
kiểm tra và ghi nhận lại kết quả của các lần kiểm tra của lớp thí điểm ở
những năm gần đây. Kết quả thu được như sau:
Năm học

Lớp

Tổng

số Trung bình trở lên

học sinh

SL

TL

2011-2012 6/1
40
22
55%
2012-2013 6/1
41
25
60,1%
2013-2014 6/1
41
30

73,2%
2014-2015 6/1
42
33
78,6%
Từ những số liệu ở bản trên cho thấy:

Dưới trung bình
SL

TL

18
16
11
9

45%
39,9%
26,8%
21,4%

+ Năm học: 2011-2012 chỉ có 55% học sinh đạt điểm trung bình trở lên
và 45% học sinh đạt điểm dưới trung bình.
+ Năm học: 2012-2013 tỉ lệ học sinh đạt điểm từ trung bình trở lên là
60,1% và tỉ lệ học sinh đạt điểm dưới trung bình là39,9%.
+ Năm học : 2013-2014 tỉ lệ học sinh đạt điểm từ trung bình trở lên là
73,2% và tỉ lệ học sinh đạt điểm dưới trung bình là 26,8%.
+ Năm học : 2014-2015 tỉ lệ học sinh đạt điểm từ trung bình trở lên là
78,6% và tỉ lệ học sinh đạt điểm dưới trung bình là 21,4%

- Như vậy qua nhiều năm giảng dạy với phương pháp đổi mới chưa thật
tốt, còn nhiều hạn chế, kết quả cho thấy tỉ lệ học sinh từ trung bình trở
lên khoảng 55%-75% và tỉ lệ học sinh dưới trung bình cũng khá cao 20%
- 40%.

5


Qua tìm hiểu thực tế khi giảng dạy ở lớp, kết hợp với gia đình và
tìm hiểu ở học sinh tôi đã tìm ra được những nguyên nhân dẫn đến tình
hình trên:
-Nguyên nhân thứ nhất : Do học sinh không có ý thức tự giác
chuẩn bò theo kế hoạch hướng dẫn của giáo viên.
- Nguyên nhân thứ hai: Đa số các em học sinh nhà ở rất xa trường,
con nhà nghèo, ngoài giờ học các em phải phụ giúp gia đình nên các em
không có thời gian chuẩn bò cho môn học.
- Nguyên nhân thứ ba: do các tiết học chưa sinh động phù hợp đặc
điểm tâm lý học sinh đa số học sinh chỉ tiếp thu kiến thức thụ động từ
phía giáo viên, học thuộc bài theo nội dung ghi bài là đủ. . .
- Nguyên nhân thứ tư: học sinh chưa có phương pháp tự học .
- Nguyên nhân thứ năm: Giáo viên chưa có kế họach năm khi
giảng dạy môn sinh học 6.
- Nguyên nhân thứ sáu: Giáo viên yêu cầu học sinh chuẩn bò
nhưng không có kế hoạch kiểm tra, động viên nhắc nhở giúp đỡ học sinh
làm tốt công việc mà giáo viên yêu cầu.
- Nguyên nhân thứ bảy: Giáo viên chưa có vườn sinh học ở trường
nên không thể giảng dạy theo phương pháp thực hành, đặc biệt là không
thể tổ chức cho học sinh thực hành ở tại vườn trường.
-Nguyên nhân thứ tám: khi giảng dạy giáoviên chưa lựa chọn, sử
dụng và kết hợp tốt các phương pháp dạy học.

Trước tình hình nêu trên, là một giáo viên dạy lớp bộ môn sinh,
tôi thấy rằng cần phải có một giải pháp để giúp học sinh đam mê hứng
thú khi học chương sinh sản sinh dưỡng nhằm nâng cao chất lượng dạy
và học môn sinh học lớp 6 ở trường THCS An Ninh.

6


II. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
Sau thời gian giảng dạy học sinh lớp 6 của trường THCS An Ninh
qua các năm tôi đã quan sát, phân tích và tìm ra được một số kinh
nghiệm giúp học sinh học tốt chương sinh sản sinh dưỡng như sau:
1. Lựa chọn, sử dụng và kết hợp tốt các phương pháp dạy học :
khi giảng dạy cho học sinh ở trường có rất nhiều phương pháp đề lựa
chọn, trong đó mỗi phương pháp dạy học đều có những ưu khuyết điểm
riêng của nó như: Nhóm phương pháp dùng lời nguồn thông tin chủ yếu
dẫn tới sự hình thành kiến thức là lời giảng của thầy,câu trả lời của học
sinh, thông tin sách giáokhoa… Nhóm phương pháp trực quan học sinh
tiếp thu những kiến thức chủ yếu bằng các giác quan ( nhìn, nghe, cảm
giác,…) Còn đối với phương pháp thực hành học sinh có thể trực tiếp
thao tác trên các mẫu vật tự nhiên, rồi từ đó các em rút ra được những
kết luận của bài học.
Do đó khi giảng dạy nếu biết lựa chọn, sử dụng và kết hợp tốt các
phương pháp dạy học thì học sinh vừa được quan sát tranh ảnh, mẫu
vật,bàn bạc thảo luận những vấn đề vướng mắc vừa được thực hành thí
nghiệm trên các vật thật….từ đó các em có thể đễ dàng rút ra những kết
luận bài học một cách vững chắc và sâu sắc nhất .
Ví dụ:khi dạy phần 2 chiết cành bài 27 “Sinh sản sinh dưỡng do ngừơi”
Gv: cho học sinh quan sát hình 27.2 kết hợp những thông tin sách giáo
khoa và những kiến thức về thực tế thảo luận trả lời:

1. Chiết cành là gì? Nêu các bước chiết cành?
2. Hãy tiến hành các bứơc chiết cành trên mẩu vật thật?

7


Với những yêu cầu như trên học sinh vừa được trao đổi thảo luận, quan
sát tranh sách giáo khoa, vừa được tiến hành thực hiện chiết cành trên
vật thật từ đó không những giúp các em tiếp thu kiến thức rất tốt mà còn
rất hứng thú khi học bài này sẳn sàng hoàn thành mọi yêu cầu của giáo
viên giao phó.
- Hình ảnh minh họa một số phương pháp học của học sinh

2. Tạo cho các em tinh thần tự giác, lòng say mê học tập bộ
môn:

8


Muốn cho học sinh học tốt môn sinh học nói chung, chương sinh
sản sinh dưỡng nói riêng đòi hỏi học sinh phải có tinh thần tự giác lẫn
lòng đam mê học tập. Trong đó vấn đề quan trọng nhất khi học chương
sinh sản sinh dưỡng là tinh thần tự giác học tập của học sinh,do đó khi
giảng dạy tôi đã thực hiện những vấn đề như sau:
2.1 Khi bắt đầu nhận lớp giảng dạy tôi thông báo cho các em biết
ở chương trình sinh học lớp 6 có một cột điểm thực hành thuộc hệ số 1,
cột điểm thuộc hệ số 1 tôi sẽ ghi nhận sự chuẩn bò của từng học sinh qua
các bài dạy và bài làm thực hành của học sinh
2.2 Lập bảng theo dõi để chấm điểm sự chuẩn bò hoặc thực hành
của học sinh (Mỗi phần một bảng riêng). Đến cuối học kì tôi lấy điểm

trung bình của các lần chuẩn bò và thực hành của học sinh . Lưu ý ở mỗi
tiết dạy hoặc tiết thực hành tôi thường xuyên kiểm tra nhắc nhở, cho
điểm tốt đối với những em chuẩn bò đầy đủ hoặc thực hành chính xác
đồng thời phê bình cho điểm xấu đối với những trường hợp không có sự
chuẩn bò hoặc thực hành không đạt.
STT
1
2
3
4
5
6

Họ và tên
A
B
C
D
E
......

Điểm các lần thực hành
Điểm trung bình
8- 7- 9- 9- 9- 8
(8+7+9+9+9+8) :6 = 8
............
............

............


.............

Từ những lí do và cách làm như trên cùng với việc phân tích cho
học sinh hiểu được lợi ích của việc chuẩn bò mẩu vật, từ đó dần dần sẻ
có ý thức tự giác cao.

9


2.3 Nêu ra nhiều công trình nghiên cứu của các nhà sinh học lớn
và những thành tựu của nó như: Men Đen nghiên cứu ở đậu Hà Lan 12
năm liền, Páp Lốp nghiên cứu sự hình thành và ức chế phản xạ có điều
kiện ở chó … Một số thành tựu khoa học sinh học lớn ở trong nước như:
Nhân giống vô tính hoa Phong Lan ở Đà Lạt, tạo được nhiều giống Lúa
lai …
Từ những ví dụ trên sẽ kích thích được sự tò mò, ham học hỏi,
cuối cùng xây dựng lòng say mê vô hạn đối với môn học của học sinh,
khi học tập chương sinh sản sinh dưỡng.
Ngoài ra trong các tiết dạy tôi thường xuyên liên hệ thực tế để
học sinh tự liên hệ bản thân và đưa ra phương hướng để học sinh có thể
hướng tới tương lai của mình.

3. Dạy cho học sinh phương pháp tự học:
Khi giảng dạy ở trường tôi không chỉ chú trọng vào viêc truyền
thụ kiến thức mà còn chú trọng hơn nữa việc hướng dẫn cho học sinh
phương pháp tự học. Khi tiến hành giảng dạy thực tế tôi đã áp dụng rất
nhiều biện pháp và cuối cùng tôi đã rút ra được các bước để giúp học
sinh tư học tập một cách độc lập như sau:

10



Hướng dẫn học sinh kó năng quan sát phân tích kênh hình, kênh
chữ, số liệu, biểu đồ và kó năng thực hiện các lệnh sách giáo khoa …
Hướng dẫn học sinh cách rút ra kết luận bài học từ những nội
dung đã quan sát thực hiện theo yêu cầu giáo viên hoặc của sách giáo
khoa .
Từ đó, tôi đã áp dụng vào giảng dạy chương sinh sản sinh dưỡng
như sau. Khi dạy phần 1 bài” Sinh sản sinh dưỡng do người ”
Bước 1: Tôi hướng dẫn học sinh quan sát thật kó hình 27.1 so sánh
sự khác nhau giữa hình A và hình B .Sau đó tôi cho học sinh đọc câu hỏi
phần yêu cầu. Như vậy dựa vào hình mà chính các em quan sát ở trên
các em sẽ trả lời được nội dung của phần yêu cầu .
Bước 2: Giáo viên gợi ý cho học sinh nêu những điều kiện cần cho
cành giâm ?(cành giâm như thế nào? đất như thế nào?)
Cuối cùng học sinh sẽ tự trả lời được: Giâm cành là gì? Đó là nội
dung của bài học ở phần 1.
Tương tự như vậy tôi đã tiến hành ở nhiều bài khác nhau và tôi đã
thấy rằng phương pháp này rất hiệu quả, đặc biệt khi áp dụng vào
chương sinh sản sinh dưỡng tôi thấy học sinh có thể trả lời tất cả các
khái niệm như: Thế nào là sinh sản sinh dưỡng ? Thế nào là giâm cành?
Thế nào là chiết cành ? Thế nào là ghép cây ? . . . hơn nữa học sinh có
thể tự nghiên cứu các bài tương tự và tự rút ra bài học cho mình.

11


4. Xây dựng kế hoạch giảng dạy bộ môn Sinh học 6:
Qua nhiều năm giảng dạy sinh học lớp 6 ,tôi đã thấy rằng ở sinh
học lớp 6 cần rất nhiều mẩu vật, dụng cụ, tranh ảnh mô hình… Cho từng

bài học. Trong đó có mẩu vật chỉ chuẩn bò trước 1 ngày ( ví dụ như: các
loại lá, các loại rễ, củ hành, cà chua…). Có mẩu vật chuẩn bò trước 2-3
ngày (ví dụ như: Hạt nẩy mầm, vận chuyển các chất trong thân, …). Khi
dạy chương sinh sản sinh dưỡng tôi phải chuẩn bò trước 2-3 tuần để có
mẩu vật dạy ghép cây, cành chiết, cành giâm… Do đó tôi đã suy nghó và
xây dựng cho mình một kế hoạch giảng dạy như sau:
Số

Tên bài dạy

Loại kiến thức của bài dạy

Mẩu vật cần chuẩn bò

tiết

Phần
chuẩn bò
Bài kiến

Bài ôn

Bài thực

Trong bài

cho bài sau

thức mới


tập

hành

học

(Bài kế
tiếp và các

1

Đặc điểm cơ

Cây đậu,hòn

bài sau)
h.2.1 Đại

thể sống

đá,con gà…

diện một số

x

sinh
vật,bảng
phụ trang 7


2

Nhiệm vụ của

3

sinh học
………………….

10

cấu tạo miền
hút của rễ

x
…………….
x

…………

………………..

……………
Tranh 10.1

……………
H.17.2 Thí

lát cắt ngang nghiệm bóc
của miền


vỏ cây của

12


15

hút và 10.2

bạn Tuấn

Tế bào lông

trang 55

hút
Tranh

Hình 17.1

15.1,bảng

Thí nghiệm

phụ trang 49

với hoa

Cấu tạo trong


Tranh 20.3

Hồng
chuẩn bò

phiến lá

Trạng thái

cây ghép,

Cấu tạo trong
thân non

20

x

của lỗ khí và cành chiết,
x

………

………………………….

………………

…………….


……………….

20.4 sơ đồ

cành giâm

cấu tạo

cho bài

phiến lá

27”sinh sản

trang 65và

sinh dưỡng

66 sgk
…………………..

tự nhiên”
……………….

Từ kế hoạch giảng dạy bộ môn sinh học 6 như trên, tôi thấy rằng
nó rất hữu hiệu. Khi soạn bài chỉ cần mở kế hoạch ra tôi đã xác đònh
được bài này là loại bài thuộc kiến thức nào, cần dụng cụ gì và mẩu vật
gì,đặc biệt trong thời gian này phải chuẩn bò cho bài sau những gì ? (vì
có mẩu vật chuẩn bò trong thời gian ngắn, có mẩu vật chuẩn bò trong thời
gian dài). Như vậy khi giảng dạy chương sinh sản sinh dưỡng thì tôi có

thể chuẩn bò cành chiết, cành giâm, cây ghép từ trước khi tôi còn dạy
bài “Đặc điểm bên ngoài của lá” mà không bò động về thời gian, hơn
nữa khi dạy chương sinh sản sinh dưỡng sẽ tạo được niềm đam mê, lòng
tin tưởng của học sinh vào mức độ chính xác khoa hoc của bộ môn và
học sinh càng hứng thú khi học chương này.

13


5. Hình thành thói quen cách học “khoa học”, vận dụng lý thuyết để
giải thích hiện tượng tự nhiên.
Ngay từ đầu năm học khi tôi nhận lớp tôi đã chủ động liên hệ giáo
viên của lớp trước để rút kinh nghiệm về việc học tập môn tự nhiên xã
hội của học sinh. Sau đó khi giảng dạy tôi tổ chức nhiều hình thức học
tập theo phương pháp giảng dạy mới góp phần xóa đi thói quen học thụ
động, chỉ ghi bài khi giáo viên đọc chép, sau đó về nhà học thuộc lòng
bài theo lời dặn dò của giáo viên… Còn với phương pháp mới học sinh
sẽ hoạt động theo nhóm hoặc cá nhân các em được đặt vấn đề tham gia
giải quyết vấn đề, bàn luận, nhận xét rồi tự bản thân rút ra kết luận bài
học, tạo cho các em khả năng tự học và sau này có khả năng tự học suốt
đời .
Ngoài ra khi giảng dạy tôi đặc biệt chú ý đến loại kiến thức có
liên quan đến hiện tượng tự nhiên, đây là kiến thức mà những người đi
trước đã đúc kết được mà học sinh chỉ thừa hưởng và vận dụng do đó khi
giảng dạy giáo viên phải áp dụng nó trên một hiện tượng tự nhiên thực
sự để học sinh tham khảo và tiếp tục giải thích các hiện tượng khác mà
không cần sự hướng dẫn của giáoviên .
Ví dụ: Khi dạy bài 27 “Sinh sản sinh dưỡng do người” phần hai :
Chiết cành .
Giáo viên: Cho học sinh thảo luận 5 phút trả lời các câu hỏi.

1. Chiết cành là gì? cho ví dụ những cây có thể chiết cành?
2. Nêu phương pháp chiết cành ?
3. Vì sao mép vỏ phía trên mới ra rễ ?

14


Học sinh: Thảo luận theo nhóm trả lời. Sau đó đó tôi gợi mỡ để
học sinh tự trả lời được lợi ích của việc trồng cây bằng cành chiết so với
trồng cây bằng hạt.
Khi học sinh trả lời những câu hỏi đó chính xác đã xây dựng lòng
tự tin và hình thành nhân cách học sinh.
6. Hướng dẫn học sinh nắm vững lý thuyết và vận dụng lý thuyết để
thực hành:
Lý thuyết được đúc kết từ thực tiễn. Thực tiễn kiểm chứng lại lý
thuyết như vậy lý thuyết và thực tiễn là hai mặt tồn tại song song hỗ trợ
nhau. Do đó khi giảng dạy giáo viên phải truyền thụ cho học sinh nắm
vững được lý thuyết, trình tự, cách thực hiện trên lý thuyết và ý nghóa
của những việc làm đó, ưu khuyết điểm của biện pháp đó.
Sau đó giáo viên có thể kiểm tra lý thuyết bằng nhiều hình thức
như: Hỏi đáp, chọn câu đúng,điền từ, giải thích … để học sinh nắm vững
lý thuyết đã học.
Ví dụ 1: Khi dạy phần một bài 27 “Sinh sản sinh dưỡng do người”.
Giáo viên: Có thể đặt câu hỏi củõng cố:
1. Cành giâm được phải đảm bảo những điều kiện nào ?
2. Cho ví dụ những cành giâm được ?
3. Nêu cách giâm cành .
Học sinh: Học sinh trả lời được tức là đã nắm được lý thuyết của
giâm cành và khi thực hành sẽ thực hành đúng, chính xác.


15


Ví dụ 2 : Khi dạy phần ba ghép cây bài 27 “Sinh sản sinh dưỡng
do người”.
Giáo viên : Hãy quan sát hình trên và sắp xếp các câu đảo trộn
thành chu trình của ghép cây : Gồm bốn bước
a. Cắt lấy mắt ghép.
b. Rạch vẽ gốc ghép.
c. Buộc dây để giữ mắt ghép .
d. Luồn mắt ghép vào vết rạch.
Khi học sinh sắp xếp được trình tự quá trình ghép cây trên, các em
phải suy nghó và chính trong quá trình sắp xếp các em sẽ nắm vững lý
thuyết và có thể hình dung được quá trình thực hành thực sự .
7. Kiểm tra đánh giá theo hướng tích cực hoá hoatï động học
tập của học sinh.
Khi giảng dạy kiểm tra đánh giá là một khâu rất quan trọng vì nó
thu nhận được những tín hiệu phản hồi, phát hiện ra những thiếu sót của

16


học sinh, khiếm khuyết của giáo viên về mặt kiến thức và việc vận
dụng các phương pháp dạy học. Trên thực tế có nhiều hình thức kiểm tra
đánh giá như: Trắc nghiệm, ghép câu, điền khuyết, điền vào sơ đồ câm,
bài tập thực hành, vận dụng… Do đó khi kiểm tra đánh giá cần lựa chọn
nội dung và hình thức sao cho vừa có thể đánh giá chính xác năng lực
học sinh vừa có thể giúp học sinh có năng lực tự đánh giá bản thân hay
đánh giá lẫn nhau khi học, tạo điều kiện cho học sinh được bộc lộ ý kiến
khi tham gia thảo luận .từ đó các em luôn hoàn thiện được mình và có

tinh thần học tập cao nhất.Việc đánh giá học sinh không chỉ đánh giá ở
cuối tiết học mà cần đánh giá trong suốt quá trình học cụ thể như khi
gỉang dạy tôi đã nghiên cứu và đưa ra những bước khi kiểm tra đánh giá
như sau:
Bước 1: Nêu vấn đề giải quyết
Bước 2: Học sinh tự nghiên cứu, thảo luận (căn cứ vào thông tin
SGK,tranh ảnh, mô hình, kiến thức thực tế…)
Bước 3 : Đại diện nhóm, cá nhân trả lời – nhận xét chéo của học
sinh
Bước 4: Gv cho học sinh đối chiếu với đáp án của GV nhận xét.
Bước 5: GV nhận xét so sánh – động viên học sinh
Từ những công việc trên, khi áp dụng vào giảng dạy tôi thấy học
sinh rấttích cực trong học tập, khi trả lời các câu hỏi có tư duy sáng tạo,
tự dánh giá bản thân trước khi trả lời câu hỏi …với những câu trả lời
đúng tạo sự hứng thú cho học sinh học tập tốt hơn
8. Tổ chức cho học sinh thực hành ở trường (góc sinh học):
Trong quá trình giảng dạy tôi đã nghiên cứu và xin ý kiến Ban
giám hiệu, Công đoàn trường cho phép tôi sử dụng mảnh đất nhỏ cạnh

17


trường khoản 16 mét vuông để làm vườn sinh học. Vườn sinh học có ý
nghóa rất quan trọng đối với bộ môn sinh học: Nó là kết quả việc sưu
tầm của học sinh qua từng bài học, là nơi học sinh tiến hành học bài
mới, thí nghiệm thực hành, tham quan ….
Khi giảng dạy chương sinh sản sinh dưỡng học sinh nắm vững
được lý thuyết ở lớp qua một số vật mẫu: Cành mì, cành chiết (ổi, mận)
….Nhưng ghép cây thì học sinh không thể nào chuẩn bò được. Do đó khi
dạy mục này ở trong lớp tôi chỉ có thể minh họa trên tranh hoặc trên vật

mẫu cây nhưng không có tính thực tế, không thuyết phục học sinh. Khi
giảng dạy chương này tôi đã tổ chức cho học sinh thực hành ngay sau
tiết học:
Đầu tiên tôi sẽ chia nhóm học sinh: Phân công nhiệm vụ và công
việc phải làm .
Học sinh :Mỗi nhóm giâm một cành, chọn một cây để chiết, chọn
một một cây để ghép sau đó các nhóm các nhóm ghi lại bảng tên của
lớp mình ở vườn sinh học.
Giáo viên : Sẽ làm nhiệm vụ nhắc nhở sửa chữa và cuối cùng sẽ
chấm điểm, so sánh chung cho cả lớp sau đó ghi điểm vào cột điểm
thực hành ở học kì I.

18


9. Tham quan mô hình chiết cành, ghép cây ở đòa phương:
Ngoài việc giảng dạy bộ môn sinh họclớp 6 tôi còn nhận thêm
một nhòêm vụ nữa là chủ nhiệm lớp. Có lần tôi đến thăm gia đình học
sinh, tôi quan sát thấy nhà của Bác Tám ở ấp An thủy có trồng rất nhiều
cây mãng cầu gai người ta thường gọi là mãng cầu sim, tôi thấy trái rất
to có quả nặng khoảng 3-4 kg, hỏi ra mới biết đó là cây ghép giữa gốc
bình bát với mắt ghép của cây mãng cầu, vì thế quả rất to, hiệu quả kinh
tế cao so với trồng bằng hạt. Ngoài ra bác còn trồng xoài cốc hay còn
gọi là xoài cà lâm sau đó bác ghép với mắt xoài cát Hòa Lộc cho ra
nhiều nhánh xoài cát Hòa Lộc thật tươi tốt trên thân và cành xoài cốc để
tận dụng sức sống tốt thích nghi điều kiện môi trường, khả năng tạo
nhiều quả của xòai cốc . . . từ những yếu tố đó từ gốc xoài cốc cho nhiều
quả mỗi quả xoài cát Hòa lộc rất to mỗi quả to từ 0,5 - 1 kg. Từ những
gì tôi quan sát được tôi điều vận dụng vào giảng dạy để khẳng đònh cho
các em một lần nữa những việc làm của bác nông dân đó cũng đi từ lý

thuyết như các em đã học. Khi giảng dạy tôi không chỉ dừng lại ở lý
thuyết mà tôi hướng dẫn cho các em thực hành trên cây thật, thì hiệu
quả trên 70% các em làm được .Các em rất phấn khởi báo cáo với tôi là
việc làm của các em đã thành công .

19


Phần III : KẾT QUẢ
Qua nghiên cứu và thực hiện đề tài, tôi đã nhận thấy các em học
sinh lớp 6 Trường THCS An Ninh, học và thực hành chương sinh sản
sinh dưỡng có sự chuyển biến rõ rệt. Lý thuyết các em nắm chắc chắn,
thực hành thành thạo, đồng thời những việc giáo viên yêu cầu thực hành
đa số đều thành công. Kết quả học tập xong chương sinh sản sinh dưỡng
qua bài kiểm tra và thực hành các em ở lớp thí điểm đạt được kết quả
như sau:

Năm học

Lớp

2015 -2016 6/1

Tổng

số Trung bình trở lên

Dưới trung bình

học sinh


SL

TL

SL

TL

43

42

97,7%

2

2,3%

Điều này khẳng đònh lại một lần nữa học môn Sinh học ngoài việc
học lý thuyết phải có thực hành. Chính việc tự bản thân các em thực
hành được áp dụng lý thuyết vào thực tế thì các em sẽ tin tưởng hơn, sẽ
say mê hơn trong học tập, nhất là thành công của các em đã khẳng
đònh: Lý thuyết các em học không phải là lý thuyết suông.

20


Phần IV: KẾT LUẬN
Qua nhiều năm giảng dạy bộ môn sinh học lớp 6, bản thân tôi

nhận thấy được vai trò quan trọng của giáo viên bộ môn sinh trong việc
giảng dạy và gây hứng thú học tâp của học sinh. Muốn cho công tác
giảng dạy chương sinh sản sinh dưỡng ở sinh học lớp 6 đạt hiệu quả giáo
viên cần thực hiện một số biện pháp sau:
Ngay từ đầu năm học khi nhận lớp tôi thông báo cách lấy điểm
thực hành hệ số một để học sinh chuẩn bò tốt đồng thời tạo nên tinh thần
tự giác cho việc học môn sinh sau này.
Sau đó tôi liên hệ giáo viên chủ nhiệm lớp 5 để tìm hiểu thói quen
học tập môn tự nhiên xã hội, từ đó tôi dần dần hình thành cho học sinh
cách học khoa học phù hợp bộ môn. Sau khi hình thành cách học khoa
học phù hợp với bộ môn. Tôi tổ chức các tiết dạy phù hợp sinh động và
hướng dẫn học sinh học và nắm vững lý thuyết để có khả năng vận dụng
thực hành.
Tiếp theo tôi sẽ tổ chức cho học sinh các buổi thực hành trong giờ
học hoặc ngoại khóa. Thứ nhất để kiểm tra kiến thức học sinh, thứ hai
xây dựng lòng tin, kích thích sự say mê hứng thú học tập của học sinh
khi học chương sinh sản sinh dưỡng.
Một phương pháp hữu hiệu nữa là tôi liên hệ với một số gia đình ở
đòa phương hoặc nơi sản xuất cây giống bằng phương pháp: Chiết cành,
ghép cây, … sau đó tôi tổ chức cho các em tham quan học hỏi.
Trên đây là một số biện pháp giúp học sinh học tốt khi học
chương sinh sản sinh dưỡng môn sinh học lớp 6 mà tôi đã áp dụng đối
với học sinh lớp 6 của trường THCS An Ninh và thu được kết quả rất

21


khả quan. Tôi thiết nghó rằng những kinh nghiệm này có thể là tài liệu
tham khảo hữu ích cho các đồng nghiệp.
Tuy nhiên muốn thực hiện tốt điều này tôi rất cần sự quan tâm ủng hộ

của Ban giám hiệu nhà trường, Công đoàn, chính quyền đòa phương cho
phép tôi tạo nên vườn sinh học và đưa ra một số yêu cầu của bộ môn.
Một vấn đề quan trọng nữa đó là cần sự giúp đỡ của phụ huynh học sinh
để các em có thể học tập ngoại khóa, có thời gian chuẩn bò và học tập
bộ môn tốt hơn.
An Ninh Tây, ngày 25 tháng 02 năm 2016
Người viết

Nguyễn Tấn Công

22


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Bá Hoành: Đại cương giảng dạy sinh học.
2. Trần Bá Hoành: Hỏi và đáp thực vật học.
3. Hoàng Thò Sản: Giải phẫu hình thái học thực vật.
4. Nguyễn Quang Vinh: Đổi mới dạy học sinh học ở trường Trung học cơ
sở.
5. Tiến só Bùi Văn Sơm: Hướng dẫn cán bộ quản lí trường học và giáo
viên viết sáng kiến kinh nghiệm.
6.Tài liệu bồi dưỡng thay sách giáo khoa lớp 6, 7, 8, 9
7.Giáo sư Trần Kiều: Đổi mơi phương pháp dạy học ở trường THCS

23


MỤC LỤC
Trang
Phần I. Lý do chọn đề tài


1-3

Phần II. Nội dung nghiên cứu
I. Thực trạng đề tài

4–5

II. Giải pháp thực hiện
1. Lựa chọn, sử dụng và kết hợp tót các phương pháp dạy học

6-7

2. Tạo cho các em tinh thần tự giác, lòng say mê học tập bơ mơn 7 – 8
3. Dạy cho học sinh phương pháp tự học

8–9

4. Xây dựng kế hoạch dạy cụ thể

10 – 11

5. Hình thành thói quen học khoa học

12 - 13

6. Hướng dẫn học sinh vận dụng lý thuyết vào thực hành

13 - 14


7. Kiểm tra đánh giá theo hướng tích cực hóa hoạt động học sinh 14 - 15
8. Tổ chức cho học sinh thực hành ở trường

15 – 16

9. Tham quan mơ hình chiết cành, ghép cây ở địa phương

16

Phần III. Kết quả

17

Phần IV. Kết luận

18 - 19

24



×