PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CẦN GIUỘC
TRƯỜNG TIỂU HỌC PHƯỚC VĨNH ĐÔNG
Đề tài sáng kiến kinh nghiệm
Năm học: 2015 - 2016
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Phước Vĩnh Đông, ngày 06 tháng 4 năm 2016
ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Tên đề tài: “Một số giải pháp giúp học sinh học tốt
dạng giải toán chuyển động đều ở lớp 5”
A) SƠ LƯỢC LÝ LỊCH:
- Ông (bà): Võ Thị Phương Diễm
- Năm sinh: 1987
- Nơi thường trú: Tổ 8 – ấp I – xã Phước Vĩnh Tây – huyện Cần Giuộc –
tỉnh Long An
- Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Phước Vĩnh Đông
- Chức vụ: Tổ trưởng tổ chuyên môn 5
- Nhiệm vụ được phân công: Giáo viên dạy lớp 5A1
B) NỘI DUNG:
1. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU:
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, Tiểu học là bậc học nền tảng. Mỗi
môn học ở Tiểu học đều góp phần không nhỏ vào việc hình thành và phát
triển những cơ sở ban đầu về nhân cách con người Việt Nam. Trong đó, môn
Toán giữ vị trí rất quan trọng trong thực tiễn cuộc sống. Đó là công cụ cần
thiết để học các môn học khác, để nhận thức thế giới xung quanh, để hoạt
động có hiệu quả trong mọi lĩnh vực. Nó phát triển tư duy, trí tuệ, rèn tính
suy luận, khoa học, toàn diện, chính xác, góp phần bước đầu hình thành
phương pháp học tập và làm việc có kế hoạch, khoa học, góp phần giáo dục
tính nhẫn nại, ý chí vượt khó khăn cho bản thân người học.
Từ vị trí và nhiệm vụ vô cùng quan trọng của môn Toán, vấn đề đặt ra
cho người thầy là làm thế nào để giờ dạy – học Toán có hiệu quả cao, học
sinh phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong việc chiếm lĩnh
kiến thức toán học. Là một giáo viên Tiểu học, tôi cũng luôn cố gắng học
Người viết: Võ Thị Phương Diễm
Trang 1
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CẦN GIUỘC
TRƯỜNG TIỂU HỌC PHƯỚC VĨNH ĐÔNG
Đề tài sáng kiến kinh nghiệm
Năm học: 2015 - 2016
hỏi, tìm tòi những phương pháp truyền tải kiến thức đến học sinh một cách
nhẹ nhàng mà hiệu quả nhất, đồng thời có thể phát huy được tính tích cực,
chủ động, sáng tạo của học sinh trong việc chiếm lĩnh tri thức toán học, để
mọi học sinh nhất là những học sinh tiếp thu bài chậm đều nắm và làm được
bài tập.
Đặc biệt là khi giảng dạy về phần giải toán chuyển động đều. Đây là
một trong những nội dung mới, khó, rất phức tạp, phong phú, đa dạng và có
nhiều kiến thức áp dụng vào thực tế cuộc sống. Nhưng thời lượng dành cho
loại toán này nói chung là ít: 3 tiết bài mới, 3 tiết luyện tập sau mỗi bài mới,
3 tiết luyện tập chung. Sau đó, phần ôn tập cuối năm, một số tiết có bài toán
về chuyển động đều đan xen với các nội dung ôn tập khác. Với nội dung
khó, đa dạng và phức tạp như loại toán chuyển động đều mà thời lượng dành
cho ít như vậy nên học sinh không được củng cố và rèn luyện kĩ năng nhiều
chắc chắn không tránh khỏi những vướng mắc, sai lầm khi làm bài.
* Trong hơn bốn năm giảng dạy ở lớp 5, tôi nhận thấy khi học về
phần giải toán chuyển động đều học sinh thường bộc lộ một số hạn chế
sau:
a) Trình độ học sinh không đồng đều, nhất là kĩ năng giải toán, khả
năng tư duy, suy luận của một số học sinh còn rất hạn chế.
b) Không đọc kĩ đề bài, thiếu sự suy nghĩ cặn kẽ về dữ kiện, điều
kiện đưa ra trong bài toán.
Ví dụ: Quãng đường AB dài 25km. Trên đường đi từ A đến B, một
người đi bộ 5km rồi tiếp tục đi ô tô trong nửa giờ thì đến B. Tính vận tốc
của ô tô. (Bài tập 3/140 SGK Toán 5)
Gần 1/3 số học sinh tìm vận tốc bằng phép tính: v = 25 : 0,5 = 50
(km/giờ). Còn đa số học sinh đều nhận ra được:
- Quãng đường người đó đi được bằng ô tô là: 25 – 5 = 20 (km)
- Vận tốc của ô tô là: 20 : 0,5 = 40 (km/giờ)
c) Chưa nắm rõ ý nghĩa vật lí của các đại lượng một cách trọn vẹn.
Cho nên khi giải các bài toán về chuyển động đều các em còn lúng túng ở
khâu chọn phép tính giải, chọn đơn vị đo.
Ví dụ: Một ô tô đi được quãng đường 135km hết 3 giờ. Một xe máy
cũng đi quãng đường đó hết 4 giờ 30 phút. Hỏi mỗi giờ ô tô đi nhiều hơn xe
máy bao nhiêu km? (Bài tập 1/144 SGK Toán 5)
Thật ra, đây chỉ là bài toán yêu cầu học sinh so sánh vận tốc của hai xe
nhưng rất ít và hầu như không học sinh nào nhận ra dù đây là bài toán nằm ở
tiết Luyện tập chung.
Người viết: Võ Thị Phương Diễm
Trang 2
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CẦN GIUỘC
TRƯỜNG TIỂU HỌC PHƯỚC VĨNH ĐÔNG
Đề tài sáng kiến kinh nghiệm
Năm học: 2015 - 2016
d) Tiếp thu bài một cách máy móc, chỉ làm theo mẫu chứ chưa tự
suy nghĩ để tìm cách giải, chưa chú ý đến đơn vị đo của các đại lượng.
Ví dụ: Một con ốc sên bò với vận tốc 12 cm/phút. Hỏi con ốc sên đó
bò được quãng đường 1,08m trong thời gian bao lâu?(Bài tập 2/143 SGK
Toán 5)
Nhiều học sinh đều làm phép tính giải là 1,08 : 12 = 0,09 (phút) nếu
không được giáo viên nhắc nhở, gợi ý trước.
e) Còn nhầm lẫn công thức tính các đại lượng vận tốc, quãng
đường, thời gian.
f) Vốn ngôn ngữ, khả năng diễn đạt còn hạn chế nên nhiều lời giải
và phép tính giải chưa khớp với nhau.
g) Học sinh chưa được rèn luyện giải theo dạng bài nên khả năng
nhận dạng và vận dụng phương pháp giải cho từng dạng bài chưa có, dẫn
đến học sinh lúng túng khi gặp loại toán này.
* Từ thực tế trên, trong năm học 2015 – 2016 này, tôi đã chọn và áp
dụng giải pháp sư phạm: ”Một số giải pháp giúp học sinh học tốt dạng
giải toán chuyển động đều ở lớp 5”.
2. MỤC TIÊU DỰ KIẾN CẦN ĐẠT ĐƯỢC:
* Khi nghiên cứu nội dung này, tôi mong muốn giúp:
- Học sinh cải thiện tình trạng trên và học tốt hơn phần giải toán
chuyển động đều. Cụ thể là:
+ Phải nhớ và nắm được cách giải từng dạng toán ở dạng tường minh
nhất.
+ Phải nắm được các thao tác, từ đó có thể vận dụng một cách linh
hoạt vào việc giải những bài toán có chất lượng phức tạp hơn.
- Phát huy khả năng tư duy linh hoạt và óc sáng tạo của học sinh.
- Bồi dưỡng cho học sinh lòng say mê học Toán.
- Bản thân nâng cao chất lượng dạy – học mảng kiến thức này.
- Khẳng định lại tính hiệu quả và tính khả thi của giải pháp mà cách
đây hai năm tôi đã áp dụng có hiệu quả ở lớp mình phụ trách.
3. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN:
Sau đây là một số giải pháp mà tôi đã thực hiện để giúp học sinh học
tốt phần giải toán chuyển động đều:
3.1. Giúp học sinh nắm được các kiến thức có liên quan:
Người viết: Võ Thị Phương Diễm
Trang 3
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CẦN GIUỘC
TRƯỜNG TIỂU HỌC PHƯỚC VĨNH ĐÔNG
Đề tài sáng kiến kinh nghiệm
Năm học: 2015 - 2016
Đây là một giải pháp mới mà tôi vừa bổ sung và áp dụng trong năm
học này. Để thực hiện tốt việc giải toán về chuyển động đều, học sinh cần
nắm và vận dụng thành thạo các kiến thức sau:
a. Chuyển đổi các đơn vị đo độ dài:
- Học sinh phải ghi nhớ được thứ tự, mối quan hệ giữa các đơn vị đo
độ dài liền kề trong bảng:
km
hm
(ki-lômét)
(héc-tômét)
1km
= 10hm
1hm
= 10dam
= 0,1km
dam
m
dm
(đề-ca-mét)
(mét)
(đề-xi-mét)
1dam
= 10m
=0,1hm
1m
= 10dm
=
0,1dam
1dm
= 10cm
= 0,1m
cm
(xăng-ti-
mm
(mi-li-
mét)
mét)
1cm
= 10mm
= 0,1dm
1mm
= 0,1cm
- Khi chuyển đổi các đơn vị đo độ dài, giáo viên cần lưu ý học sinh:
+ Chữ số hàng đơn vị chính là số đo của đơn vị mà đề bài cho đi kèm.
+ Luôn đặt dấu phẩy vào bên phải số đo của đơn vị cần đổi.
+ Hai đơn vị đo độ dài liền kề hơn kém nhau 10 lần (tức là mỗi lần chỉ
dịch sang đơn vị tiếp liền 1 chữ số).
b. Chuyển đổi các đơn vị đo thời gian:
- Học sinh cũng phải nhớ được mối quan hệ giữa các đơn vị đo thời
gian thông dụng:
1 thế kỉ = 100 năm
1 tuần lễ = 7 ngày
1 năm = 12 tháng
1 ngày = 24 giờ
1 năm = 365 ngày
1 giờ = 60 phút
1 năm nhuận = 366 ngày
1 phút = 60 giây
- Khi chuyển đổi các đơn vị đo thời gian, cần lưu ý học sinh:
+ Khi đổi từ đơn vị lớn sang đơn vị bé, ta thực hiện phép tính nhân còn
ngược lại thì thực hiện phép tính chia.
+ Xác định đúng mối quan hệ giữa 2 đơn vị cần đổi để lựa chọn thừa số
hoặc số chia thích hợp.
c. Cách thực hiện 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia với cả số tự nhiên,
phân số và số thập phân.
* Qua thực tế giảng dạy mảng kiến thức giải toán chuyển động đều trong
nhiều năm, tôi thấy: có những trường hợp học sinh hiểu, nhận dạng được dạng
bài, thực hiện các bước giải hoàn toàn phù hợp, logic nhưng do trong quá trình
tính toán hoặc đổi đơn vị đo có sai sót dẫn đến kết quả toàn bài sai. Điều đó cho
thấy việc ôn tập và thường xuyên củng cố các kiến thức có liên quan ở trên là rất
cần thiết. Bên cạnh những bài tập củng cố, tôi còn linh hoạt tổ chức một số trò
Người viết: Võ Thị Phương Diễm
Trang 4
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CẦN GIUỘC
TRƯỜNG TIỂU HỌC PHƯỚC VĨNH ĐÔNG
Đề tài sáng kiến kinh nghiệm
Năm học: 2015 - 2016
chơi học tập đơn giản như “Tìm nhà cho thỏ”, “Gà mẹ tìm con”, “Đoàn kết”,
“Tìm kho báu”, … để lôi cuốn học sinh hứng thú tham gia vào bài.
3.2. Giúp học sinh nắm vững các ý nghĩa vật lí, công thức tính từng đại
lượng liên quan:
Để làm được điều này thì ngay trên lớp, khi dạy bài mới, tôi đã chú trọng
giúp học sinh hiểu rõ bản chất, ý nghĩa vật lí hoặc hình thành những biểu tượng
đơn giản về từng loại đại lượng; hướng dẫn học sinh tự tìm hiểu kiến thức mới
dựa trên vốn kinh nghiệm của các em thông qua những gợi ý, rồi tôi mới chốt
kiến thức.
a. Vận tốc:
- Vận tốc của một chuyển động cho biết mức độ chuyển động nhanh hay
chậm của chuyển động đó trong một đơn vị thời gian.
Ví dụ: Vận tốc của ô tô là 42,5 km/giờ nghĩa là trung bình mỗi giờ ô tô đi
được 42,5km. Và giáo viên phải giúp học sinh hiểu được theo chiều ngược lại
rằng nếu đề bài hỏi: “Trung bình mỗi giờ ô tô đi được bao nhiêu km?” thì tức là
hỏi vận tốc của ô tô.
- Muốn tính vận tốc ta lấy quãng đường chia cho thời gian đi (v = s : t)
- Giáo viên cần phải nhấn mạnh với học sinh:
+ Cần sử dụng thời gian đi quãng đường đó vì một số trường hợp đề bài
không cho thời gian đi mà cho thời điểm đến và thời điểm khởi hành thì bắt buộc
học sinh phải tìm thời gian đi trước khi tính vận tốc.
+ Đơn vị của vận tốc phụ thuộc vào đơn vị của quãng đường và thời gian.
b. Quãng đường:
- Quãng đường là phần không gian tương đối ngắn được xác định giữa hai
điểm.
Ví dụ: Quãng đường AB dài 45km hay hai thành phố A và B cách nhau
180km, …
- Muốn tính quãng đường ta lấy vận tốc nhân với thời gian đi (s = v x t)
- Cũng giống như vận tốc, giáo viên cần lưu ý học sinh sử dụng thời gian
đi để tính quãng đường.
c. Thời gian:
- Thời gian đi: là khoảng thời gian trong đó diễn ra một chuyển động đều từ
lúc bắt đầu đến lúc kết thúc chuyển động.
- Muốn tính thời gian đi ta lấy quãng đường chia cho vận tốc (t = s : v)
- Thời điểm khởi hành: là lúc bắt đầu xảy ra một chuyển động đều.
- Thời điểm đến: là lúc kết thúc một chuyển động đều.
Người viết: Võ Thị Phương Diễm
Trang 5
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CẦN GIUỘC
TRƯỜNG TIỂU HỌC PHƯỚC VĨNH ĐÔNG
Đề tài sáng kiến kinh nghiệm
Năm học: 2015 - 2016
- Muốn tính thời gian đi ta lấy thời điểm đến trừ thời điểm khởi hành.
Chú ý:
Khi sử dụng các đại lượng trong một hệ thống đơn vị cần lưu ý
học sinh:
- Nếu quãng đường là km, thời gian đi là giờ thì vận tốc là km/giờ.
- Nếu quãng đường là m, thời gian đi là phút (hoặc giây) thì vận tốc là
m/phút (hoặc m/giây).
- Với cùng một vận tốc thì quãng đường tỉ lệ thuận với thời gian đi.
- Trong cùng một thời gian đi thì quãng đường tỉ lệ thuận với vận tốc.
- Trên cùng một quãng đường thì vận tốc và thời gian đi là hai đại lượng
tỉ lệ nghịch.
3.3. Hình thành thói quen giải toán tích cực cho học sinh trong các giờ
học toán:
Trong quá trình hệ thống hóa các bài toán chuyển động đều, tôi thấy để đi
được đến bước dùng công thức cơ bản để tìm đáp số của bài toán, học sinh phải
phân tích, suy luận từ những dữ kiện của bài toán, vận dụng những kiến thức có
sẵn, tháo gỡ mâu thuẫn và các tình huống đặt ra trong bài toán để cuối cùng đưa
bài toán về dạng cơ bản, điển hình. Ở mỗi bài lại có các bước phân tích, tìm tòi
lời giải khác nhau. Điều này đòi hỏi mỗi học sinh phải có khả năng phân tích, suy
luận, xử lí linh hoạt, chính xác các dữ kiện, tình huống bài toán đưa ra. Do đó,
việc hình thành cho học sinh thói quen giải toán tích cực sẽ giúp học sinh lựa
chọn được lời giải, phép tính giải đúng, không giải toán một cách máy móc, rập
khuôn.
Để thực hiện điều này, tôi đã tiến hành theo 5 bước:
Bước 1: Đọc kĩ đề toán:
Giáo viên đọc kĩ đề trước lớp; học sinh đọc thầm lại đề bài để nắm được
nội dung, ý nghĩa của bài toán. Từ đó, rèn cho học sinh thói quen chưa hiểu đề
toán thì chưa tìm được cách giải.
Bước 2: Hướng dẫn học sinh tóm tắt đề toán:
Có 3 dạng tóm tắt: + Tóm tắt bằng lời
+ Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng
+ Tóm tắt bằng sơ đồ cây
Ở lớp, tôi thường hướng dẫn học sinh tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng đối
với nội dung giải toán chuyển động đều vì nó giúp học sinh dễ hình dung và nắm
bắt nội dung bài toán hơn.
Bước 3: Hướng dẫn học sinh tìm cách giải:
Người viết: Võ Thị Phương Diễm
Trang 6
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CẦN GIUỘC
TRƯỜNG TIỂU HỌC PHƯỚC VĨNH ĐÔNG
Đề tài sáng kiến kinh nghiệm
Năm học: 2015 - 2016
Dựa vào tóm tắt, tôi đã giúp học sinh thiết lập mối quan hệ giữa cái đã cho
và cái phải tìm bằng những câu hỏi gợi mở: Muốn trả lời câu hỏi của bài toán thì
cần biết những gì? Cần phải làm những phép tính gì? Trong những điều ấy, cái
gì đã biết, cái gì chưa biết? Muốn tìm cái chưa biết ấy thì lại phải biết cái gì? …,
cứ như thế đi dần đến những điều đã cho trong đề toán. Từ những định hướng
trên, học sinh sẽ suy luận, tính toán để tìm ra con đường đi từ những điều đã cho
đến đáp số của bài toán.
Lưu ý: Việc giáo viên hướng dẫn học sinh tìm cách giải cho các bài toán
là vô cùng quan trọng. Vì nó không chỉ dạy học sinh nắm phương pháp giải, giúp
học sinh tích cực tìm tòi, khám phá ra cách giải cho các bài toán, mà mục đích
quan trọng nhất là dạy học sinh cách học. Cho nên cần phải xác định giáo viên
chỉ là người tổ chức hướng dẫn, định hướng, gợi mở cho học sinh chứ tuyệt đối
không được làm thay học sinh.
Bước 4: Học sinh viết bài giải:
Học sinh có thể trình bày từng phép tính riêng biệt hoặc trình bày dưới
dạng biểu thức gồm vài phép tính.
Bước 5: Học sinh tự kiểm tra, đánh giá kết quả:
Khi giải xong, học sinh cần thử lại xem đáp số tìm được có phù hợp với
điều kiện của bài toán không? Trong một số trường hợp, nên thử xem có cách giải
khác gọn hơn, hay hơn không? Việc làm này sẽ giúp rèn cho học sinh tính cẩn
thận, chu đáo, ý thức trách nhiệm trong công việc và phát huy được khả năng tư
duy, sáng tạo của các em.
3.4. Nhận dạng bài toán và vận dụng cách giải tương ứng:
Sau mỗi bài học, tôi đều củng cố bài bằng cách hướng dẫn các em sắp xếp
các bài toán có cách giải tương tự nhau vào cùng một nhóm để các em dễ dàng
thống kê và ôn tập.
Phần giải toán chuyển động đều trong chương trình lớp 5 hiện nay có
những dạng bài chủ yếu sau:
a) DẠNG 1: Chuyển động đều có một đối tượng chuyển động:
(Giải các bài toán liên quan đến tìm một trong ba đại lượng vận tốc, quãng
đường, thời gian khi biết 2 đại lượng còn lại của một chuyển động đều)
Ở dạng này có 2 mức độ:
Mức độ 1: Mức độ vận dụng công thức (Giải các bài toán đơn có 1
bước tính):
* Công thức vận dụng là:
v=s:t ;
Người viết: Võ Thị Phương Diễm
s=vxt ;
t=s:v
Trang 7
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CẦN GIUỘC
TRƯỜNG TIỂU HỌC PHƯỚC VĨNH ĐÔNG
Đề tài sáng kiến kinh nghiệm
Năm học: 2015 - 2016
Ở dạng này, tôi đã dần hình thành kĩ năng giải toán cho học sinh qua thao
tác hướng dẫn bằng những câu hỏi gợi mở:
- Đề bài cho biết gì, hỏi gì?
- Muốn tìm yếu tố đó ta làm thế nào?
- Đơn vị của yếu tố cần tìm là gì?
Ví dụ: Một ca nô đi với vận tốc 15,2 km/giờ. Tính quãng đường đi được
của ca nô trong 3 giờ. (Bài tập 1/141 SGK Toán 5)
HS dễ dàng tìm được quãng đường bằng phép tính: 15,2 x 3 = 45,6 (km)
Ví dụ: Một người đi xe đạp trong 15 phút với vận tốc 12,6 km/giờ. Tính
quãng đường đi được của người đó. (Bài tập 2/141 SGK Toán 5)
* Giáo viên hướng dẫn tóm tắt đề toán:
s = ?km
t = 15 phút
v = 12,6 km/giờ
- Đề bài cho biết gì, hỏi gì?
- Muốn tính quãng đường đi được của người đó ta làm thế nào?
- Nhìn vào đơn vị vận tốc, theo em, quãng đường và thời gian phải đo
bằng đơn vị gì?
- Trước khi tính quãng đường ta phải làm gì?
Từ những định hướng đó, giúp hình thành cho học sinh kĩ năng giải toán
cần thiết và cần chú ý đến đơn vị của các đại lượng.
* Tìm đại lượng thời gian cũng có thể tiến hành tương tự.
Mức độ 2: Tìm một đại lượng có liên quan trước khi thực hiện
theo yêu cầu đề bài (Giải bài toán hợp có 2 bước tính):
Ở dạng này, đề bài thường cho thời điểm khởi hành, thời điểm đến, vận tốc
(hoặc quãng đường) và yêu cầu tính quãng đường (hoặc vận tốc), học sinh chỉ
cần thực hiện theo 2 bước:
Bước 1: Tìm thời gian một chuyển động đi hết quãng đường
đó (lấy thời điểm đến trừ thời điểm khởi hành)
Bước 2: Tìm vận tốc hoặc quãng đường (theo hướng dẫn ở
mức độ 1, dạng 1)
Ví dụ: Một ô tô đi từ A lúc 7 giờ 30 phút, đến B lúc 12 giờ 15 phút với vận
tốc 46 km/giờ. Tính độ dài quãng đường AB. (Bài tập 2/141 SGK Toán 5)
- Sau khi hướng dẫn tóm tắt bài toán:
Người viết: Võ Thị Phương Diễm
Trang 8
Đề tài sáng kiến kinh nghiệm
Năm học: 2015 - 2016
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CẦN GIUỘC
TRƯỜNG TIỂU HỌC PHƯỚC VĨNH ĐÔNG
s = ?km
A
B
t đến = 12 giờ 15 phút
t khởi hành = 7 giờ 30 phút
v = 46 km/giờ
- Học sinh sẽ giải được bài toán trên theo 2 bước như hướng dẫn:
Thời gian ô tô đi từ A đến B là:
12 giờ 15 phút - 7 giờ 30 phút = 4 giờ 45 phút = 4,75 giờ
Độ dài quãng đường AB là:
46 x 4,75 = 218,5 (km)
Đáp số: 218,5km
b) DẠNG 2: Hai chuyển động ngược chiều gặp nhau, khởi hành cùng
lúc:
Ví dụ: Quãng đường AB dài 180km. Một ô tô đi từ A đến B với vận tốc
54km/giờ, cùng lúc đó một xe máy đi từ B đến A với vận tốc 36 km/giờ. Hỏi kể từ
lúc bắt đầu đi, sau mấy giờ ô tô gặp xe máy? (Bài tập 1(a)/144 SGK Toán 5)
* Giáo viên hướng dẫn tóm tắt:
t gặp nhau = ?giờ
A
180km
v ô tô = 54 km/giờ
B
v xe máy = 36 km/giờ
* Học sinh quan sát sơ đồ và trả lời câu hỏi:
+ Khoảng cách ban đầu giữa 2 xe khi chúng xuất phát cùng lúc là bao
nhiêu km? (180km)
+ Ôtô đi từ đâu đến đâu, với vận tốc là bao nhiêu km/giờ? (từ A đến B, với
vận tốc 54km/giờ)
+ Xe máy đi từ đâu đến đâu, với vận tốc là bao nhiêu km/giờ? (từ B đến A,
với vận tốc 36km/giờ)
+ Trên quãng đường AB có mấy xe cùng chuyển động và chuyển động như
thế nào? (có 2 xe xuất phát cùng lúc, ngược chiều nhau ).
+ Vận tốc của ô tô là 54km/giờ có nghĩa là gì? (nghĩa là trung bình mỗi giờ
ô tô đi được 54km).
+ Vận tốc của xe máy là 36 km/giờ có nghĩa là gì? (nghĩa là trung bình
mỗi giờ xe máy đi được 36km)
Người viết: Võ Thị Phương Diễm
Trang 9
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CẦN GIUỘC
TRƯỜNG TIỂU HỌC PHƯỚC VĨNH ĐÔNG
Đề tài sáng kiến kinh nghiệm
Năm học: 2015 - 2016
+ Sau mỗi giờ, cả ô tô và xe máy đi được bao nhiêu km? (54 + 36 = 90
(km))
+ Tìm thời gian đi để hai xe gặp nhau, ta làm thế nào? (180 : 9 = 2 (giờ))
+ Học sinh trình bày bài giải hoàn chỉnh và kiểm tra đáp số.
c) DẠNG 3: Hai chuyển động cùng chiều đuổi kịp nhau, khởi hành
cùng lúc:
Ví dụ: “Một người đi xe đạp từ B đến C với vận tốc 12 km/giờ, cùng lúc đó
một người đi xe máy từ A cách B là 48km với vận tốc 36 km/giờ và đuổi theo xe
đạp. Hỏi kể từ lúc bắt đầu đi, sau mấy giờ xe máy đuổi kịp xe đạp?” (Bài tập
1(a)/145 SGK Toán 5)
* Giáo viên hướng dẫn tóm tắt:
t đuổi kịp = ?giờ
A
48km
v xe máy = 36 km/giờ
B
C
v xe đạp = 12 km/giờ
* Học sinh nhìn vào sơ đồ và tìm cách giải:
- Khoảng cách ban đầu giữa hai xe khi chúng xuất phát cùng lúc là bao
nhiêu km? (48km)
- Người đi xe đạp đi từ đâu đến đâu, với vận tốc là bao nhiêu km/giờ? (từ B
đến C, vận tốc là 12 km/giờ)
- Người đi xe máy đi từ đâu đến đâu, với vận tốc là bao nhiêu km/giờ? (từ
A đến C, vận tốc là 36 km/giờ).
- Trên quãng đường AC có mấy xe cùng chuyển động và chuyển động như
thế nào? (có 2 xe xuất phát cùng lúc, cùng chiều).
- Vận tốc của người đi xe đạp là 12 km/giờ có nghĩa là gì? (nghĩa là trung
bình mỗi giờ người đi xe đạp đi được 12km).
- Vận tốc của người đi xe máy là 36 km/giờ có nghĩa là gì? (nghĩa là trung
bình mỗi giờ người đi xe máy đi được 36km).
- Sau mỗi giờ, xe máy gần xe đạp bao nhiêu km? (36 – 12 = 24 (km))
- Tìm thời gian đi để xe máy đuổi kịp xe đạp, ta làm thế nào? (48 : 24 = 2
(giờ))
- Học sinh trình bày bài giải và kiểm tra đáp số.
Tóm lại: Sau khi hướng dẫn ví dụ mẫu trong SGK (bài tập 1(a)/144
– dạng 2; bài tập 1(a)/145 – dạng 3), tôi đã hướng dẫn học sinh rút ra các bước để
giải bài toán thuộc hai dạng này như sau:
Bước 1: Xác định các điều kiện cần thiết:
Người viết: Võ Thị Phương Diễm
Trang 10
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CẦN GIUỘC
TRƯỜNG TIỂU HỌC PHƯỚC VĨNH ĐÔNG
Đề tài sáng kiến kinh nghiệm
Năm học: 2015 - 2016
- Xác định hai chuyển động cùng chiều hay ngược chiều;
- Xác định được khoảng cách ban đầu giữa hai chuyển động khi chúng
xuất phát cùng lúc (s);
- Xác định được vận tốc của hai chuyển động (v1, v2 )
Bước 2:
- Tìm tổng vận tốc của hai chuyển động ngược chiều: v1 + v2
- Tìm hiệu vận tốc của hai chuyển động cùng chiều: v2 – v1 (nếu v2 > v1)
Bước 3:
- Tìm thời gian gặp nhau (hai chuyển động ngược chiều):
t gặp nhau =
s
v1 + v 2
- Tìm thời gian đuổi kịp (hai chuyển động cùng chiều):
s
v2 − v1
d) DẠNG 4: Hai chuyển động cùng chiều, đuổi kịp nhau, lệch thời điểm
xuất phát:
Đây thực ra cũng là một dạng “biến thể” của dạng 3 (hai chuyển động cùng
chiều đuổi kịp nhau, khởi hành cùng lúc). Nếu học sinh nắm được cách giải của
các dạng bài cơ bản ở trên và có khả năng tư duy, suy luận tốt sẽ thì sẽ dễ dàng
giải được dạng toán này.
Ví dụ 1: Một người đi xe đạp từ A đến B với vận tốc 12 km/giờ. Sau 3 giờ,
một xe máy cũng đi từ A đến B với vận tốc 36 km/giờ. Hỏi kể từ lúc bắt đầu đi,
sau bao lâu xe máy đuổi kịp xe đạp? (Bài tập 1(b)/146 SGK Toán 5)
* Giáo viên hướng dẫn học sinh tóm tắt bài toán:
v xe đạp = 12 km/giờ
t đuổi kịp =
v xe đạp = 12 km/giờ
t = 3 giờ
A
B
v xe máy = 36 km/giờ
C
t đuổi kịp = ? giờ
+ Học sinh nhìn vào sơ đồ và dễ dàng xác định đây là bài toán dạng 3 (hai
chuyển động cùng chiều, khởi hành cùng lúc).
Người viết: Võ Thị Phương Diễm
Trang 11
Đề tài sáng kiến kinh nghiệm
Năm học: 2015 - 2016
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CẦN GIUỘC
TRƯỜNG TIỂU HỌC PHƯỚC VĨNH ĐÔNG
+ Tìm các điều kiện để giải bài toán dạng này thì thấy còn thiếu khoảng
cách ban đầu của hai xe khi chúng xuất phát cùng lúc. Khoảng cách đó chính là
độ dài quãng đường AC do xe đạp đi được trong 3 giờ.
+ Từ định hướng đó, học sinh sẽ giải được bài toán này như sau:
Khoảng cách ban đầu của hai xe khi chúng xuất phát cùng lúc là:
12 x 3 = 36 (km)
Hiệu vận tốc của hai xe là:
36 – 12 = 24 (km/giờ)
Thời gian đi để xe máy đuổi kịp xe đạp là:
36 : 24 = 1,5 (giờ) = 1 giờ 30 phút
Đáp số: 1 giờ 30 phút
Ví dụ 2: Một xe máy đi từ A lúc 7 giờ với vận tốc 40km/giờ. Đến 7 giờ 30
phút, một ô tô cũng đi từ A đuổi theo xe máy với vận tốc 60km/giờ. Hỏi ô tô đuổi
kịp xe máy lúc mấy giờ? (Bài tập 3/28 BTCC kiến thức và kĩ năng môn Toán 5 –
tập hai – Chương trình của SEQAP)
* Giáo viên hướng dẫn học sinh tóm tắt bài toán:
v xe máy = 40 km/giờ
v xe máy = 40 km/giờ
t1 = 7 giờ
t2 = 7 giờ 30 phút
B
A
v ô tô = 60 km/giờ
C
t2 = 7 giờ 30 phút
t đuổi kịp = ? giờ
+ Nhìn vào sơ đồ, học sinh cũng sẽ xác định được đây là bài toán có dạng
giống dạng 3.
+ Nếu tìm các điều kiện để giải bài toán dạng này thì cũng thấy còn thiếu
khoảng cách ban đầu của hai xe khi chúng xuất phát cùng lúc. Khoảng cách đó
chính là độ dài quãng đường AC do xe máy đi được trong khoảng thời gian từ 7
giờ đến 7 giờ 30 phút.
+ Từ định hướng đó, học sinh lớp tôi đã giải được bài toán này khá tốt như
sau:
Thời gian xe máy đi từ A đến C là:
7 giờ 30 phút – 7 giờ = 30 phút = 0,5 giờ
Khoảng cách ban đầu của hai xe khi chúng xuất phát cùng lúc là:
40 x 0,5 = 20 (km)
Hiệu vận tốc của hai xe là:
Người viết: Võ Thị Phương Diễm
Trang 12
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CẦN GIUỘC
TRƯỜNG TIỂU HỌC PHƯỚC VĨNH ĐÔNG
Đề tài sáng kiến kinh nghiệm
Năm học: 2015 - 2016
60 – 40 = 20 (km/giờ)
Thời gian đi để ô tô đuổi kịp xe máy là:
20 : 20 = 1 (giờ)
Đáp số: 1 giờ
e) DẠNG 5: Chuyển động của thuyền lúc xuôi dòng nước và ngược
dòng nước:
(Đây là nội dung đã được Bộ GD&ĐT giảm tải nhưng tôi cũng xin đề cập
đến vì nội dung này giáo viên có thể dùng để bồi dưỡng cho những học sinh có
năng khiếu Toán học.)
* Để dạy – học tốt nội dung này, tôi đã hướng dẫn để giúp học sinh hiểu
rằng: Nếu dòng nước chảy thì bản thân dòng nước cũng là một chuyển động. Cho
nên khi vật chuyển động trên dòng nước thì dòng nước có ảnh hưởng đến chuyển
động của vật cụ thể:
- Nếu vật chuyển động ngược dòng thì có lực cản của dòng nước.
- Nếu vật chuyển động xuôi dòng thì có thêm vận tốc của dòng nước.
- Vận tốc xuôi dòng = vận tốc của vật + vận tốc dòng nước
- Vận tốc ngược dòng = vận tốc của vật – vận tốc dòng nước
Từ đó, ta suy ra được:
- Vận tốc dòng nước = (vận tốc xuôi dòng – vận tốc ngược dòng) : 2
- Vận tốc của vật = (vận tốc xuôi dòng + vận tốc ngược dòng) : 2
Ví dụ: Một thuyền máy đi xuôi dòng từ bến A đến bến B. Vận tốc của
thuyền máy khi nước lặng là 22,6 km/giờ và vận tốc dòng nước là 2,2 km/giờ. Sau
1giờ 15 phút thì thuyền đến bến B. Tính độ dài quãng sông AB. (Bài tập 4/162
SGK Toán 5)
* Giáo viên hướng dẫn học sinh tóm tắt đề toán:
t = 1 giờ 15 phút
s = ?km
A
B
v dòng nước = 2,2 km/giờ
v thuyền máy = 22,6 km/giờ
* Dựa vào tóm tắt, học tìm cách giải:
- Đề bài yêu cầu tính gì? (Độ dài quãng sông AB)
- Muốn tính độ dài quãng sông AB ta phải biết gì? (vận tốc thuyền máy khi
xuôi dòng và thời gian thuyền máy đi từ bến A đến bến B)
- Vận tốc thuyền máy khi xuôi dòng biết chưa? (Chưa)
Người viết: Võ Thị Phương Diễm
Trang 13
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CẦN GIUỘC
TRƯỜNG TIỂU HỌC PHƯỚC VĨNH ĐÔNG
Đề tài sáng kiến kinh nghiệm
Năm học: 2015 - 2016
- Dựa vào lưu ý: “Nếu vật chuyển động xuôi dòng thì có thêm vận tốc của
dòng nước”. Muốn tìm vận tốc thuyền máy khi xuôi dòng nước ta làm thế nào?
(ta lấy: 22,6 + 2,2 = 24,8 (km/giờ)
- Thời gian thuyền máy đi từ bến A đến bến B biết chưa? (1 giờ 15 phút)
- Muốn tính độ dài quãng sông AB, ta làm thế nào?
Đổi: 1 giờ 15 phút = 1,25 giờ
24,8 x 1,25 = 31(km)
Như vậy, dù bài toán về chuyển động đều đang ở dạng nào thì điều quan
trọng đối với học sinh là phải biết cách tóm tắt đề toán. Nhìn vào tóm tắt xác định
đúng dạng toán để chọn phép tính phù hợp và trình bày bài giải đúng.
Khi giải các bài toán dạng này, cần có cách giải linh hoạt, không áp đặt, để
học sinh lựa chọn cách giải, lời giải và phép tính giải phù hợp với yêu cầu đặt ra
của mỗi bài toán (nhất là khi giải các bài toán có nội dung thực tế). Đặc biệt,
khuyến khích và trân trọng những học sinh cố gắng suy nghĩ, tìm tòi những cách
giải mới, hay và sáng tạo. Bởi vì quá trình tìm tòi những cách giải khác nhau của
bài toán cũng là quá trình rèn luyện trí thông minh, óc sáng tạo và khả năng suy
nghĩ linh hoạt cho học sinh.
3.5. Luyện tập – thực hành:
Để hình thành kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh mà ở đây là kĩ năng
giải các bài toán về chuyển động đều không phải chỉ nói bằng lí thuyết là đủ mà
phải luyện tập thường xuyên. Chính vì vậy, trong từng tiết dạy trên lớp, tôi đều
hướng dẫn chậm và kĩ ở mỗi dạng bài mới trong SGK. Đối với những học sinh
chưa nắm bắt được nội dung bài học ngay trên lớp thì tôi sẽ hướng dẫn lại cho các
em trong giờ ra chơi và các tiết ôn luyện.
Ngoài những nội dung thực hành (2 tiết / tuần) trong quyển Bài tập củng cố
kiến thức và kĩ năng môn Toán (Chương trình đảm bảo chất lượng giáo dục
trường học - SEQAP) nhằm góp phần giúp học sinh đạt được chuẩn kiến thức, kĩ
năng môn Toán một cách vững chắc thì mỗi tuần, lớp tôi còn có thêm 1 tiết
Luyện Toán. Đây là tiết giúp giáo viên ôn tập, giúp đỡ thêm cho những học sinh
còn chưa hoàn thành ở một nội dung Toán học nào đó. Đồng thời, đây cũng là tiết
giúp giáo viên bồi dưỡng cho những học sinh có năng khiếu về Toán. Chính vì
vậy, khi học đến nội dung giải toán chuyển đều, trong mỗi tiết Luyện Toán, tôi
đều giao những bài tập giúp học sinh tự ôn tập và củng cố về dạng bài đang học
cũng như những dạng bài đã học ở tiết trước, phải đảm bảo tính vừa sức nhưng
tăng dần yêu cầu về kĩ năng vận dụng.
Việc kiểm tra bài làm của học sinh được tôi thực hiện đều đặn trong các tiết
dạy (dù quỹ thời gian cho một tiết dạy có hạn). Bởi vì theo tôi, việc làm này sẽ
Người viết: Võ Thị Phương Diễm
Trang 14
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CẦN GIUỘC
TRƯỜNG TIỂU HỌC PHƯỚC VĨNH ĐÔNG
Đề tài sáng kiến kinh nghiệm
Năm học: 2015 - 2016
giúp giáo viên nắm được mức độ tiếp thu bài, mức độ vận dụng của các em để kịp
thời điều chỉnh phương pháp dạy - học, giúp các em dễ hiểu bài hơn. Nếu những
bài tập tôi giao vẫn còn có nhiều học sinh làm sai sót thì tôi sẽ sửa bài, hướng dẫn
lại để học sinh nắm và vận dụng được ở những bài học sau.
* Việc ghi lời nhận xét (theo Thông tư 30 của Bộ Giáo dục và Đào tạo) vào
bài làm của học sinh thật cẩn thận, cụ thể, những lời khen ngợi, động viên, khích
lệ tinh thần kịp thời cũng là cách giúp học sinh tự tin, tự hào, trân trọng bài làm
đúng của mình, giúp những em làm sai không cảm thấy mất tự tin, mặc cảm và
bản thân tự rút kinh nghiệm trong những bài giải sau, cũng như giúp phụ huynh
đánh giá đúng thực chất năng lực học tập của con em mình ở lớp. Qua đó, phụ
huynh sẽ có biện pháp phối hợp với giáo viên nhằm giúp các em đạt được kết quả
tốt nhất khi học giải toán chuyển động đều.
* Bên cạnh đánh giá của thầy đối với trò, giáo viên cũng cần hướng dẫn,
khuyến khích học sinh tham gia đánh giá kết quả học tập của bản thân, của bạn
một cách khách quan, trung thực.
3.6. Trò chơi học tập:
Đối với môn Toán ở Tiểu học, nếu mỗi giáo viên chỉ truyền đạt, giảng giải
theo các tài liệu đã có sẵn trong SGK, trong các sách hướng dẫn và thiết kế bài
dạy một cách rập khuôn, máy móc thì sẽ làm cho học sinh học tập một cách thụ
động. Điều đó sẽ khiến cho việc học tập của các em thật tẻ nhạt, đơn điệu và kết
quả học tập thường không cao. Nó là một trong những nguyên nhân gây cản trở
việc đào tạo các em thành những con người năng động, tự tin, sáng tạo, sẵn sàng
thích ứng với những đổi mới diễn ra hằng ngày. Vì vậy người giáo viên phải gây
được hứng thú học tập cho các em bằng cách lôi cuốn các em tham gia vào các
hoạt động học tập. Trò chơi học tập là một hoạt động mà các em hứng thú nhất.
Hiểu được điều đó nên sau mỗi giờ học toán về chuyển động đều, tôi đều tổ
chức hoạt động củng cố bài cho học sinh bằng những trò chơi học tập thú vị để
củng cố về công thức tính quãng đường, vận tốc, thời gian đi, củng cố kĩ năng
giải các dạng toán cơ bản, chuyển đổi các đơn vị đo thời gian, … như:
- “Tìm nhà cho thỏ” : Học sinh sẽ tìm những chú thỏ có đáp án đúng về
tính vận tốc (hoặc quãng đường, thời gian đi, …), về chuyển đổi các đơn vị đo đại
lượng hoặc về thực hiện các phép tính với số vào ngôi nhà phù hợp có chứa đề
bài phù hợp.
- “Gà mẹ tìm con”: Đưa những chú gà con có đáp án đúng về với gà mẹ
(có mang đề bài tương ứng).
- “Kết bạn”: Lớp được chia thành 2 đội. Một số bạn của mỗi đội sẽ
mang những thẻ từ có chứa đề bài, một số khác sẽ mang thẻ từ có chưa đáp án.
Người viết: Võ Thị Phương Diễm
Trang 15
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CẦN GIUỘC
TRƯỜNG TIỂU HỌC PHƯỚC VĨNH ĐÔNG
Đề tài sáng kiến kinh nghiệm
Năm học: 2015 - 2016
Trong thời gian một bài hát, đội nào có nhiều đôi bạn kết hợp đúng sẽ là đội chiến
thắng. Những ai chưa tìm được người bạn phù hợp với mình sẽ phải thực hiện
theo một “yêu cầu nho nhỏ” của lớp đặt ra.
- “Ai nhanh, ai đúng?”, “Tiếp sức”, “Truyền điện”, …
* Ngoài ra, trong năm học này, tôi đã tổ chức thêm một số hình thức trò
chơi mới lạ để thu hút học sinh hứng thú tham gia vào ngay trong từng hoạt động
học tập. Đó là:
a)
“Tôi là ai?”: Học sinh cũng chơi theo đội. Một học sinh được chọn
của một đội sẽ đọc bất kì một công thức, quy tắc tính hoặc mối quan hệ giữa hai
đại lượng bất kì, chẳng hạn như: “Muốn tìm tôi, bạn phải lấy quãng đường chia
cho vận tốc. Đố bạn biết, tôi là ai?” thì một học sinh được chỉ định của đội bạn
phải trả lời là:”Bạn là thời gian đi.”. Nếu đội bạn trả lời đúng thì được ghi nhận
bằng 1 bông hoa, nếu sai mà đội nhà trả lời được thì bông hoa đó dành cho đội
nhà.
b) Đố vui toán học bằng truyện: Tôi đã thay những động tử của các bài
toán trong SGK bằng những con vật dễ thương như bác Kiến, chú Ong, cô Bướm,
bác Rùa đi dự tiệc bằng ô tô, … đặt trong những tình huống truyện cực kì dễ
thương và ngộ nghĩnh kèm những số liệu đơn giản (học sinh có thể nhẩm tính
được). Mục đích là để rèn cho học sinh khả năng tư duy linh hoạt, nhạy bén, kĩ
năng suy luận, tính toán nhanh khi giải các dạng bài về chuyển động đều.
c) “Đuổi hình bắt chữ”: HS dựa vào nội dung bức tranh để đoán ra đó là
đại lượng gì và nêu quy tắc tìm đại lượng đó. Hoặc dựa vào tình huống trong
tranh (thực ra đó là một dạng tóm tắt bài toán bằng tranh cho sinh động), học sinh
sẽ suy luận, nhẩm tính và thông báo ẩn số của bài toán. Đây là hình thức mà học
sinh lớp tôi hứng thú tham gia nhiều nhất.
Song song đó, tôi cũng luôn tạo điều kiện, động viên và khuyến khích
những học sinh tiếp thu bài chậm, kĩ năng nhẩm tính, giải toán còn hạn chế tham
gia để vừa giúp các em ôn tập, củng cố vừa tạo hứng thú học tập cho các em. Tất
nhiên, thỉnh thoảng cũng cần có những phần thưởng nho nhỏ để động viên, khích
lệ tinh thần học tập của các em. Tuy nhiên, giáo viên cũng không nên quá lạm
dụng vì dễ biến “trò chơi học tập” thành cuộc tranh đua vì giải thưởng thì sẽ
không hay.
4. KẾT QUẢ THU ĐƯỢC:
Kết hợp với nền nếp học tập về giải toán đã được hình thành dần ngay từ
đầu năm học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh nên khi
học về phần giải toán chuyển động đều các em ít bị lúng túng hơn. Qua theo dõi
trong quá trình thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy học sinh nắm chắc kiến thức, hiểu
được bản chất của vấn đề, tiếp thu bài tốt, chất lượng học tập đồng đều hơn. Học
Người viết: Võ Thị Phương Diễm
Trang 16
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CẦN GIUỘC
TRƯỜNG TIỂU HỌC PHƯỚC VĨNH ĐÔNG
Đề tài sáng kiến kinh nghiệm
Năm học: 2015 - 2016
sinh ít mắc sai lầm trong quá trình làm bài, tỉ lệ học sinh làm đúng bài tập được
nâng lên, không có học sinh nào không làm được bài. Học sinh hứng thú hơn khi
học về giải toán chuyển động đều. Điều đó chứng tỏ, những giải pháp mà tôi đã
áp dụng đã thu được kết quả tốt. Cụ thể là:
Thời gian
Đúng hoàn toàn
Tổng số
Giữa HKII
15
Ôn tập
25
cuối năm
Kiểm tra
35
CHKII
Đúng nhưng còn
sai sót
Chỉ đúng được
gần 50%
Đúng dưới 50%
hoặc
sai hoàn toàn
Tổng số
Tỉ lệ
00
00%
Tỉ lệ
39,5%
Tổng số
11
Tỉ lệ
28,9%
Tổng số
12
Tỉ lệ
31,6%
65,8%
11
28,9%
02
5,3%
00
00%
92,1%
02
5,3%
01
2,6%
00
00%
5. PHẠM VI ỨNG DỤNG CỦA CÁC GIẢI PHÁP TRÊN:
Một lần nữa, tôi đã khẳng định được rằng những giải pháp mà tôi đã áp
dụng ở trên thực sự có tính hiệu quả và khả thi cao. Dù biết rằng, trong cuộc
sống, không có gì là hoàn hảo hết. Và những giải pháp tôi đã áp dụng trên đây
chắc chắn cũng chưa phải là giải pháp hay nhất và tốt nhất. Bởi vì để có kết quả
giảng dạy tốt đòi hỏi người giáo viên không chỉ yêu nghề, yêu trẻ, nhiệt tình mà
còn phải có một phương pháp giảng dạy tốt. Có một phương pháp giảng dạy tốt là
một quá trình tìm tòi, học hỏi và tích lũy kiến thức, kinh nhiệm của riêng bản thân
mỗi người. Nhưng sau khi áp dụng các giải pháp trên, tôi nhận thấy học sinh lớp
tôi học tốt hơn hẳn mảng giải toán chuyển động đều so với những năm học trước
mặc dù kĩ năng tính và giải toán của các em ở đầu năm học thì thua xa những
năm học trước.
Với những kết quả đã đạt được, tôi tin rằng, nếu mạnh dạn áp dụng thì các
giải pháp trên hoàn toàn có thể áp dụng được cho tất cả các lớp 5 ở bất kì trường
Tiểu học nào khi giáo viên giảng dạy về phần giải toán chuyển động đều. Điều
quan trọng là giáo viên phải có sự tìm tòi, ham học hỏi, phải sáng tạo, linh hoạt,
khéo léo trong việc vận dụng, phối hợp nhiều phương pháp và hình thức tổ chức
dạy - học khác nhau. Giáo viên cũng cần phải xác định rõ: mình chỉ là người
hướng dẫn, đưa ra phương pháp giúp học sinh học tập còn học sinh phải là
người hoạt động tích cực tìm tòi và lĩnh hội tri thức để biến nó thành vốn quý của
bản thân. Muốn được như vậy, cần phải có sự kiên trì của cả hai phía giáo viên và
học sinh trong suốt quá trình học tập của các em.
Mặt khác, giáo viên cũng cần trang bị cho học sinh một cách có hệ thống
các kiến thức cơ bản về 3 đại lượng: vận tốc, quãng đường, thời gian. Đồng thời,
giáo viên cần biết phân dạng, hệ thống hóa các bài tập theo dạng bài, giúp học
Người viết: Võ Thị Phương Diễm
Trang 17
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CẦN GIUỘC
TRƯỜNG TIỂU HỌC PHƯỚC VĨNH ĐÔNG
Đề tài sáng kiến kinh nghiệm
Năm học: 2015 - 2016
sinh nắm phương pháp giải từng dạng bài từ đơn giản đến phức tạp. Trong mỗi
dạng, cần phân nhỏ từng loại theo mức độ kiến thức tăng dần để khi gặp bài toán
chuyển động đều, học sinh phải tự trả lời được: Bài toán thuộc dạng nào, loại
nào? Vận dụng kiến thức nào để giải?
Giáo viên phải nắm được khả năng của từng học sinh để phân loại các em
theo từng nhóm đối tượng giúp các em phát huy được năng lực cá nhân, đặc biệt
theo dõi, quan tâm, giúp đỡ nhiều đến những em tiếp thu bài chậm, chưa thành
thạo về kĩ năng giải toán giúp các em mạnh dạn, tự tin và cố gắng vươn lên trong
học tập.
Trong mỗi giờ học Toán, giáo viên cần tạo không khí học tập thoải mái,
thân thiện “chơi mà học, học mà vui”; phải lắng nghe, tạo điều kiện để các em
được nói, được trình bày ý kiến, suy nghĩ sáng tạo của mình một cách mạnh dạn,
tự tin; thường xuyên kiểm tra, nhận xét, sửa bài, biểu dương kịp thời học sinh tiến
bộ, đồng thời nghiêm khắc phê bình với những thái độ học tập thiếu trách nhiệm.
Học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp 5 nói riêng còn rất bỡ ngỡ
trước một số thao tác tư duy như so sánh, phân tích, …, khả năng khái quát thấp,
nếu có thì chỉ có thể dựa vào dấu hiệu bên ngoài. Việc rèn cho học sinh khả năng
tư duy độc lập, suy luận logic để tìm ra “ẩn số” của bài toán bằng những câu hỏi
gợi mở phải được tiến hành đồng bộ, thường xuyên ngay từ khi học sinh bắt đầu
làm quen, bắt đầu học về giải toán có lời văn, nhất là học những dạng giải toán cơ
bản ở các lớp dưới. Và một điều quan trọng là phải biết khơi gợi trong các em sự
tò mò, hứng thú học tập, không nản chí trước những khó khăn trước mắt.
Ban giám hiệu nhà trường, tổ khối chuyên môn nên có những buổi sinh
hoạt chuyên đề về cách giải những dạng toán điển hình để giáo viên có điều kiện
được học tập, trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau. Qua đó sẽ góp phần nâng cao chất
lượng, hiệu quả của việc giảng dạy môn Toán trong nhà trường Tiểu học.
Đồng thời, nhà trường và gia đình cần chuẩn bị tốt những phương tiện hỗ
trợ để các em có được sự thoải mái khi học tập.
Vì thời gian có hạn và năng lực nhận thức còn hạn chế nên khó tránh khỏi
những thiếu sót. Tôi cũng rất mong nhận được những đóng góp chân thành của
anh chị em đồng nghiệp và các cấp lãnh đạo để những giải pháp của tôi được
hoàn thiện hơn, giúp học sinh lớp tôi học tốt hơn mảng kiến thức này trong
những năm học tiếp theo.
Thủ trưởng đơn vị xác nhận, đề nghị
(ký, đóng dấu)
Người viết: Võ Thị Phương Diễm
Người viết
(ký, ghi rõ họ tên)
Trang 18
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CẦN GIUỘC
TRƯỜNG TIỂU HỌC PHƯỚC VĨNH ĐÔNG
...............................................................................
Đề tài sáng kiến kinh nghiệm
Năm học: 2015 - 2016
Võ Thị Phương
Diễm
Người viết: Võ Thị Phương Diễm
Trang 19