Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

sáng kiến kinh nghiệm một số kinh nghiệm giúp giáo viên dạy tốt phần đọc hiểu môn tiếng anh 7

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.06 KB, 24 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Đổi mới phương pháp dạy học trong giảng dạy môn Tiếng Anh ngày
càng trở nên là một yêu cầu cấp thiết. Trọng tâm đổi mới phương pháp giáo
dục hiện nay là học sinh giữ vai trò trung tâm, chuyển vai trò thụ động tiếp thu
kiến thức của học sinh sang vai trò chủ động. Một trong những yếu tố quan
trọng để giáo viên tiến hành các giờ dạy thành công, giúp học sinh nắm được
lượng kiến thức cơ bản của một tiết học, các kĩ năng cần tập trung phát triển
trong một tiết học đó là xác định đúng mục đích yêu cầu của bài giảng.
Nghe, nói, đọc, viết được Tiếng Anh một cách thành thạo sẽ giúp chúng
ta dễ dàng tiếp cận với tin học, khoa học công nghệ và sẽ rất thuận lợi trong
việc giao tiếp. Đặc biệt, phân môn đọc hiểu là một trong những kỹ năng cơ
bản được chú trọng trong quá trình dạy và học ngoại ngữ. Vì vậy, nếu học sinh
có khả năng đọc hiểu Tiếng Anh tốt thì các em có thể đọc hiểu được sách, báo,
tài liệu bằng Tiếng Anh với những nội dung phù hợp trình độ và lứa tuổi của
học sinh; giúp học sinh có điều kiện thu nhận thông tin, nâng cao trình độ
Tiếng Anh, và có thể hiểu biết thêm về xã hội. Trong một tiết dạy đọc hiểu
giáo viên không chỉ đơn thuần giúp học sinh hiểu được ngữ liệu trong mỗi
đoạn văn mà còn phải biết vận dụng một cách linh hoạt các thủ thuật, sao cho
phù hợp với nội dung cụ thể của từng bài để gây hứng thú cho học sinh và tạo
ra những hoạt động luyện tập giúp học sinh thực hành tốt hơn. Tuy nhiên phần
lớn học sinh rất ngại luyện tập, nguyên nhân là do Tiếng Anh hoàn toàn khác
với tiếng mẹ đẻ, khó học, khó nhớ; đọc bằng tiếng mẹ đẻ dễ hơn đọc bằng
tiếng nước ngoài. Vì thế, học sinh không gặp khó khăn trong việc hiểu nội
dung bài. Còn khi đọc bằng tiếng nước ngoài nhất định học sinh sẽ gặp phải
những từ và cấu trúc ngữ pháp mới. Đọc bằng tiếng Anh còn khó hơn nhiều

1


do sự khác nhau giữa chữ viết và cách phát âm. Hơn nữa cuộc sống người dân


còn khó khăn, họ thiếu quan tâm đến việc học tập của các em ở trường cũng
như ở nhà, vốn từ vựng của các em quá ít vì các em lười học từ vựng, chuẩn bị
bài ở nhà quá sơ sài, các em lạm dụng sách hướng dẫn học tốt dẫn đến việc
lười tư duy, học đối phó, nhất là những học sinh yếu kém vì sợ nói sai nên các
em rất ngại phát biểu làm ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả học bộ môn
Tiếng Anh, đôi khi bị khống chế đến kết quả học tập chung của các em.
Một trong những hạn chế là việc dạy và học phần đọc hiểu ở chương trình
Tiếng Anh lớp 7. Đa số học sinh trả lời câu hỏi và làm bài tập một cách máy
móc, rập khuôn theo sách giáo khoa. Khi soạn giảng nhiều giáo viên yêu cầu
học sinh còn chung chung trong tiết dạy đọc hiểu, điều này không thể chấp
nhận vì mỗi tiết dạy có một nội dung kiến thức khác nhau. Giáo viên còn bỏ
qua việc lưu ý giúp học sinh nắm được chức năng ngôn ngữ của từng cấu trúc
câu. Vì vậy, khi các em làm bài kiểm tra hay làm bài thi ở phần đọc hiểu, các
em gặp một số bài khoá nội dung không có trong sách giáo khoa thì các em
không biết cách làm hoặc làm bài đạt điểm không cao. Nguyên nhân làm hạn
chế kĩ năng học tiết đọc hiểu trong chương trình Tiếng Anh lớp 7 là do đâu?
Bên cạnh đó, phương pháp dạy của giáo viên chưa xác định được mục đích,
yêu cầu của bài giảng. Tức là đầu giờ học giáo viên sẽ dạy gì cho học sinh và
cuối giờ học học sinh sẽ hiểu biết được gì? Để đáp ứng được yêu cầu thực tế,
mỗi giáo viên cần phải tìm cho mình một phương pháp dạy học tối ưu, phù
hợp với từng đối tượng thực tế của học sinh để đạt kết quả cao mới là vấn đề,
là mục đích của mỗi giáo viên đang đứng lớp phải trăn trở, phải suy nghĩ.
Nhằm góp phần nâng cao hiệu quả tiết dạy, tôi đã tìm tòi phương pháp giảng
dạy và tích lũy được một số kinh nghiệm nhằm tháo gỡ đi hạn chế trên. Đó là

2


lý do tôi chọn đề tài “Một số kinh nghiệm giúp giáo viên dạy tốt phần đọc
hiểu môn Tiếng Anh 7”.

II. LỊCH SỬ ĐỀ TÀI
Năm học 2014-2015, tôi đã áp dụng giải pháp giúp giáo viên dạy tốt phần
đọc hiểu môn Tiếng Anh lớp 7 để viết thành đề tài SKKN. Nhưng do khả
năng, thời gian nghiên cứu nên tôi chỉ nghiên cứu nội dung trên ở phạm vi là
một giải pháp trong các giải pháp để nâng cao chất lượng môn Tiếng Anh ở
trường THCS. Với sáng kiến này - năm học 2015-2016, tôi viết thành đề tài
riêng, đồng thời để làm rõ hơn đề tài tôi đã bổ sung thêm cách tổ chức và dạy
kĩ năng đọc hiểu để học sinh nắm vững kiến thức.
III. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đề tài mà tôi nghiên cứu nhằm để phát triển kĩ năng đọc hiểu, nhằm giúp
cho học sinh phong phú thêm vốn từ và vốn kiến thức, giúp cho các em biết
cách tự học để nắm vững và sử dụng Tiếng Anh trong học tập và dùng trong
đời sống. Qua thực tế giảng dạy, đề tài này tôi áp dụng cho học sinh khối lớp 7
tại trường Trung học cơ sở Thị Trấn Tân Thạnh; và cũng có thể áp dụng cho
các trường trung học cơ sở thuộc vùng đồng Tháp Mười của tỉnh Long An.
Tôi nhận thấy kĩ năng đọc hiểu môn Tiếng Anh của học sinh mình còn hạn
chế, nên tôi mạnh dạn nghiên cứu vấn đề này để giúp các em học tốt tiết đọc
hiểu hơn.
IV. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này là nhằm tìm hiểu tầm quan trọng
của kĩ năng đọc hiểu Tiếng Anh. Từ đó, giúp giáo viên dạy kĩ năng đọc hiểu
Tiếng Anh ở trường Trung học cơ sở được cải tiến, phương pháp giảng dạy
theo hướng tích cực phù hợp với từng bài, từng đối tượng học sinh .

3


PHẦN NỘI DUNG
I. THỰC TRẠNG ĐỀ TÀI
Qua các năm dạy Tiếng Anh 7, tôi gặp rất nhiều khó khăn trong việc giảng

dạy tiết đọc hiểu. Đầu năm học 2015-2016, tôi đã tiến hành khảo sát kĩ năng
đọc hiểu của học sinh ở bài kiểm tra một tiết ở các lớp tôi phụ trách và kết quả
đạt được như sau:
Lớp Sĩ số

Giỏi

Khá

Trung bình

Yếu

SL

TL(%) SL

TL(%) SL

TL(%) SL TL(%)

7A2 37

10

27,02

10

27,02


6

16,21

11

29,75

7A3 37

7

18,91

10

27,02

8

21,62

12

32,55

7A4 35

12

34,28
7
20
8
22,85
10
Bảng 1: Kết quả khảo sát đầu năm học 2015-2016

22,87

Qua số liệu thống kê cho thấy: số lượng học sinh giỏi, khá chiếm 54,04 %;
số lượng học sinh trung bình, yếu chiếm 45,96%. Cho nên chất lượng học tập
của các em chưa cao, không đồng đều.
* Nguyên nhân của tình hình trên là do:
- Các em chưa có ý thức tự học, không chuẩn bị bài trước ở nhà hoặc chuẩn
bị sơ sài dẫn đến khả năng tiếp thu bài của các em còn hạn chế.
- Các em chưa nắm vững kiến thức ở lớp dưới (từ vựng, cấu trúc câu…).
Các em ít học từ vựng và luôn nghĩ Tiếng Anh khó học mà dễ quên làm các
em chán nản, không thích học.
- Chưa có kỹ năng để làm các dạng bài tập đọc hiểu.
- Cha mẹ không quan tâm đến việc học của con em mình.

4


- Bên cạnh đó các em lười học từ vựng; vì luôn nghĩ môn Tiếng Anh khó
học, khó nhớ, học xong đó rồi lại quên đó làm cho các em chán nản, không
thích học môn Tiếng Anh.
* Ngoài ra, giáo viên cũng góp phần không nhỏ vào những nguyên nhân
trên là do:

- Chưa hướng dẫn các em học bài kỹ bài cũ ở nhà và chuẩn bị bài mới thật
tốt.
- Chưa phân loại học sinh yếu kém và khá giỏi để có phương pháp phụ đạo
và bồi dưỡng.
- Giáo viên chưa đầu tư vào phương pháp đặc trưng của bộ môn .
Hơn thế nữa, trong quá trình giảng dạy giáo viên cũng phạm phải những lỗi
nhỏ. Tuy không đáng kể nhưng nó cũng góp phần làm giảm hiệu quả tiết dạy.
+ Giọng giáo viên chưa đảm bảo chuẩn tiết tấu, trọng âm, ngữ điệu nên
không thu hút được sự chú ý lắng nghe của học sinh.
+ Trên lớp thời gian có hạn, giáo viên không thể sửa hết lỗi phát âm của
từng học sinh.
Vấn đề được đặt ra là làm thế nào để tạo không khí học tập sôi nổi, tránh
những tiết học buồn chán, tạo thế chủ động và tự tin cho học sinh bằng các
hoạt động vui tươi, gần gũi và cụ thể, khuyến khích và khơi dậy ở học sinh
khả năng tham gia vào bài học trên lớp một cách tích cực nhất.
* Để giúp học sinh học tốt phần này bản thân tôi là giáo viên trực tiếp
đứng lớp tôi cần thấy mình phải giải quyết một số vấn đề sau:
+ Bước chuẩn bị của giáo viên :
- Xác định mục tiêu tiết dạy, điều học sinh đạt được sau tiết dạy.

5


- Lựa chọn phương pháp thủ thuật thích hợp nhất là áp dụng vào tiết
dạy.
- Giáo án, đồ dùng dạy học cần thiết.
Ngoài ra giáo viên cần phải quan tâm những điều sau :
- Đối tượng học sinh, điểm mạnh, điểm yếu, vốn kiến thức và kĩ năng
đã có.
- Sử dụng thành thạo các thủ thuật dạy học cũng như các phương tiện

trực quan và các phương tiện dạy học sẽ dùng vào bài.
- Các dạng bài tập theo trình tự từ dễ đến khó, những bài tập, câu hỏi
nào dành cho học sinh yếu, bài nào dành cho học sinh trung bình, khá, giỏi
- Phân bố thời gian hợp lý cho tiết dạy.
+ Bước chuẩn bị của học sinh :
- Các em phải học thuộc bài cũ.
- Bên cạnh đó các em cũng phải soạn trước từ vựng và chép vào tập bài
soạn mỗi từ 5 lần để cho các em quen trước mặt chữ, tập phát âm từ vựng ở
nhà. Ngoài việc trả lời các câu hỏi trong sách giáo khoa, các em còn phải tự
soạn một số câu hỏi và trả lời theo nội dung của bài mà tôi đã hướng dẫn ở tiết
chuẩn bị ở nhà. Trong tiết dạy đọc hiểu, vai trò của người giáo viên chỉ là hỗ
trợ, gợi ý hướng ra yêu cầu và kiểm tra, còn học sinh phải tự học, chủ động
nắm bắt nội dung. Tiết học có thể tiến hành theo ba giai đoạn sau :
+ Trước khi đọc ( Pre- reading )
+ Trong khi đọc ( While - reading )
+ Sau khi đọc ( Post - reading )

6


II. CÁC GIẢI PHÁP
Đọc là một kĩ năng quan trọng nhất, cần thiết trong việc dạy và học ngôn
ngữ ở trường Trung học cơ sở. Trong lớp, học sinh đọc để lấy thông tin, để
kiểm tra lại các dữ kiện để tìm ra câu trả lời cho những câu hỏi hoặc làm sáng
tỏ một số vấn đề nào đó nếu không đọc được thì học sinh sẽ khó tiếp thu và
ghi nhớ những dữ kiện thông tin lâu dài.
Trong cuộc sống hàng ngày, học sinh lưu trữ những quan trọng qua việc
dạy chữ viết, từ việc học theo sách vở trong trường đến việc đọc những thông
tin nhắn qua quảng cáo, tiếp thị hướng dẫn sử dụng thông tin máy móc. Dạy
đọc có nghĩa là người dạy phải làm thế nào để đưa người học nhận ra ý nghĩa

và nội dung của thông tin.
Việc dạy đọc thành thạo một câu hoặc một bài văn Tiếng Anh là một việc
khó đối với nhiều giáo viên, đối tượng học sinh của chúng ta không đồng đều
vì từ Tiếng Anh không thể đánh vần như Tiếng Việt.
Ngoài ra, tôi đưa ra những hoạt động đọc thường được tổ chức nhằm cũng
cố những hoạt động rèn luyện trước đó như các hoạt động nghe nói.
Việc dạy đọc ở trong lớp theo phương pháp cũ thường mang tính ép buộc vì
giáo viên thường ra bài tập để học sinh thực hiện để việc dạy đọc có hiệu quả
và mang tính giao tiếp hơn giáo viên cần phải chuẩn bị tốt bài dạy áp dụng
ngay vào việc thực hành các bài học cần phải chuẩn xác về ngôn ngữ, phong
phú và đa dạng về thể loại có nội dung liên quan và làm phong phú thêm về
kinh nghiệm sống của học sinh, gây hứng thú để việc đọc không bị nhàm
chán. Lời hướng dẫn thực hiện các bài tập đọc cần chú ý nhấn mạnh hướng
dẫn các kỹ thuật đọc và thảo luận mở rộng đề tài của bài đọc. Trong một tiết
học môn đọc hiểu, học sinh đọc để tìm lấy thông tin, để kiểm tra lại các dữ

7


kiện, tìm ra câu trả lời cho những câu hỏi hoặc làm sáng tỏ một số vấn đề nào
đó .
Dựa vào chất lượng học tập môn Tiếng Anh nói chung và tình hình học tập
tiết đọc hiểu nói riêng, tôi đã tìm ra các biện pháp để giải quyết các nội dung
trên như sau:
1. Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài tốt ở nhà:
Để giúp học sinh tiếp thu bài mới một cách dễ dàng thì khâu chuẩn bị bài ở
nhà là hết sức quan trọng. Sau mỗi tiết học giáo viên phải hướng dẫn cho học
sinh thật kỹ những việc cần làm ở nhà và yêu cầu các em ghi vào vở bài tập
chuẩn bị ở nhà; nhờ đó học sinh biết cách học bài cũ và chuẩn bị bài mới như
thế nào.

* Đối với bài vừa học, học sinh cần:
+ Học từ mới: đọc lại từ, chú ý phát âm chính xác, học thuộc nghĩa và cách
viết từ đó. Việc ôn lại từ là rất cần thiết, giúp học sinh ghi nhớ từ lâu hơn.
+ Học thuộc cấu trúc, cho vài ví dụ với cấu trúc đó.
+ Đọc lại bài, chú ý các từ vựng và cấu trúc mới vừa học.
+ Làm nhiều bài tập để ôn lại cấu trúc và mở rộng vốn từ.
* Đối với bài mới và đặc biệt là bài đọc hiểu lượng từ nhiều, vì vậy học
sinh cần:
+ Đọc kỹ bài mới, xác định ý chính của bài.
+ Soạn trước các từ mới (ghi cụ thể từ loại), hoặc những từ đã học mà quên
nghĩa thì tra lại trong tự điển. Các em vào tập bài soạn mỗi từ năm lần để các
em quen trước mặt chữ và tập phát âm ở nhà.
+ Chuẩn bị trước các bài tập trong sách giáo khoa.
Nếu học sinh chuẩn bị tốt các hoạt động trên thì các em sẽ cảm thấy tự tin
khi vào bài mới và tích cực tham gia các hoạt động trong suốt tiết học.

8


2. Làm tốt giai đoạn chuẩn bị (Pre-reading)
2.1. Giới thiệu chủ điểm
Trong lớp có nhiều đối tượng học sinh nên tôi phải suy nghĩ cách dẫn dắt
học sinh vào bài một cách nhẹ nhàng. Tôi giới thiệu tổng quát về nội dung bài
bằng cách sử dụng các dữ kiện có liên quan đến nội dung của bài để học sinh
dễ hiểu và dễ tiếp cận thông tin của bài. Ở phần này, tôi nêu vài câu hỏi gợi
mở, các câu hỏi này thể hiện cấu trúc cơ bản của bài đọc và là phương tiện để
giúp các em quan tâm đến chủ đề sắp được học và đọc, từ đó chuyển sang đọc
một bài khoá một cách tự nhiên.
Ví dụ: Unit 1 Back to school .A2 (page 11 )
Để dạy nội dung bài học này, tôi lần lượt đặt một số câu hỏi giúp học sinh

đoán được nội dung bài học.
a/ What’s your name ?
b/ Where are you from ?
c/ Who are you staying with ?
Tôi có thể dùng tranh để giới thiệu bài khoá theo chủ điểm hoặc tình
huống của bài.
Ví dụ: Unit 2. Personal information. B6 (page 26)
Các em quan sát tranh trang 26 và trả lời câu hỏi:
a/ Who is she?
b/ What is she doing?
Khi tiến hành phần này, tôi phải luôn quan tâm đến tâm lý lứa tuổi và sở
thích của học sinh để đưa ra những thủ thuật phù hợp. Đồng thời, tôi chú ý
thay đổi hình thức mở bài để gây hứng thú cho các em.

9


2.2. Giới thiệu từ vựng
Thông thường trong một bài học luôn luôn xuất hiện từ mới, song không
phải từ nào cũng cần đưa vào để dạy và dạy như nhau. Để lựa chọn từ cần
xem xét những từ học sinh hiểu, nhận biết được qua tranh thì ta đầu tư thời
gian và luyện tập khác hơn so với những từ khác. Với từ bị động, tôi có thể
khuyến khích học sinh tự tìm hiểu nghĩa từ (ví dụ tra tự điển) hoặc đoán từ
qua ngữ cảnh. Trong quá trình tìm hiểu bài, tôi có thể giải thích nghĩa và cho
các em ghi viết chì để đỡ mất thời gian.
Ở đây, tôi dùng một số thủ thuật để làm rõ nghĩa của từ như sau:
- Dùng trực quan như: tranh, hình ảnh, vật thật, cử chỉ điệu bộ.
- Dùng ngôn ngữ đã học:
+ Định nghĩa, miêu tả.
+ Dùng từ đồng nghĩa, trái nghĩa.

+ Dựa vào qui tắc hình thành từ, tạo từ.
+ Tạo tình huống.
+ Đoán nghĩa của từ trong ngữ cảnh
- Có thể tôi hướng dẫn các em dịch sang tiếng mẹ đẻ.
Ví dụ 1: Unit 3 At home. A 1 (page 29,30)
Nội dung từ vựng của bài này đa số là các vật dụng trong gia đình như: a
sink, a tub, a shower, a washing machine, a dryer, a refrigerator,… giáo viên
có thể dùng tranh để hướng dẫn các em học và đoán nghĩa của những từ vựng
trên một cách dễ hiểu.
Ví dụ 2: Unit 5 .Work and play. A1 (page 51)
Ở bài này, tôi cần dạy những từ mới như sau:
a computer (dùng vật thật )
a map (dùng vật thật )

10


experiment (tạo tình huống)
Khi giới thiệu ngữ liệu mới, cần làm rõ ba yếu tố cơ bản của ngôn ngữ là:
Form, Meaning, Use. Khi giới thiệu từ mới, nếu chỉ cho biết chữ viết và định
nghĩa như ở từ điển thì chưa đảm bảo cho học sinh dùng chúng trong giao
tiếp, học sinh còn phải biết cách phát âm. Đối với những từ khó đọc tôi ghi ký
âm và dấu nhấn giúp học sinh phát âm chính xác. Sau khi làm rõ nghĩa và
cách sử dụng từ, tôi kiểm tra mức độ tiếp thu của các em.
Có ít nhất năm cách kiểm tra từ vựng, đó là:
Rub out and remember.
Slap the board.
What and where.
Matching.
Bingo.

Sau khi học sinh nắm được từ vựng, tôi cho các em nghe bài đọc một lần hoặc
hai lần, gọi một số em khác đọc lại tại lớp, chú ý sửa lỗi phát âm. Tiếp theo,
tôi giúp các em hiểu ý nghĩa những cụm từ khó đồng thời giới thiệu cấu trúc
ngữ pháp mới xuất hiện trong bài (nếu có). Tôi giới thiệu sơ lược cấu trúc ngữ
pháp giúp học sinh hiểu được nội dung bài; đến tiết Language focus học sinh
sẽ được luyện tập kĩ cấu trúc ngữ pháp đó.
Ví dụ 1: Unit 2 PERSONAL INFORMATION. A 3 (page 20)
Ở bài này có xuất hiện cấu trúc câu mới, tôi viết câu có chứa cấu trúc mới (thì
tương lai) lên bảng và giải thích cấu trúc cho học sinh hiểu, ngoài ra tôi có thể
cho học sinh áp dụng cấu trúc đó và gọi học sinh cho thêm ví dụ khác .
I will call you tomorrow .
V.inf
Ví dụ 2: Unit 9 AT HOME AND AWAY. A2 (page 87)

11


Tôi viết câu chứa cấu trúc mới lên bảng, gạch dưới động từ và giúp học sinh
nhận ra cấu trúc mới (dùng thì quá khứ đơn)
Liz and her parents went to Tri Nguyen Aquarium in Nha Trang
V-2
Nếu ta làm tốt giai đoạn chuẩn bị thì học sinh vào phần đọc được dể dàng hơn.
Nhưng nếu có một phương pháp tối ưu cho từng dạng bài thì mức độ tiếp thu
và hiểu bài của học sinh sẽ cao hơn. Chính vì thế, chọn bài tập cho giai đoạn
While-reading rất quan trọng.
3. Chọn bài tập phù hợp cho phần đọc hiểu (While-reading )
Phần lớn những bài đọc dài tôi cho các em đọc thầm, tuy nhiên, tôi cần
phải nói rằng chuẩn bị bài dạy trước khi lên lớp là điều quan trọng nhất và có
thể thay đổi theo một số cách như sau :
- Đối với những lớp mới bắt đầu học, tôi đọc mẫu cả lớp đọc theo lặp lại

từng câu.
- Ở những lớp có trình độ thấp ngoài việc lặp lại theo tôi, các em có thể
nghe băng đọc qua một vài lần để làm quen với các giọng đọc của người bản
ngữ.
- Tôi đọc cả đoạn văn.
- Cả lớp đọc đồng thanh cả đoạn theo tôi .
Ngoài ra, tôi có thể chia lớp làm nhiều nhóm hai người hoặc nhiều người. Mỗi
nhóm chuẩn bị một đoạn sau đó một đại diện của một nhóm sẽ đọc một đoạn.
Trong trường hợp bài đọc là một đoạn hội thoại, nhóm sẽ phân vai và chuẩn
bị. Trong khi dạy đọc tôi xen kẽ một số câu hỏi nhằm hướng dẫn học sinh đọc
hiểu nội dung thông tin của bài đồng thời cũng có thể biết được chất lượng
học tập của học sinh mình phụ trách từ đó tôi giải thích thêm về các chi tiết

12


còn chưa rõ. Vì vậy, nội dung các câu hỏi cần phải hướng đến sự chú ý của các
em đến những ý tưởng chính trong bài và giúp các em hiểu nghĩa của bài đọc.
Tôi không đặt các câu hỏi quá dài và quá khó để đánh đố học sinh mà nên nêu
các câu hỏi ngắn gọn vì mục đích là để giúp học sinh hiểu bài. Tôi khuyến
khích và tổ chức sao cho cả lớp cùng tham gia hoạt động trả lời các câu hỏi.
Sau đó hướng dẫn học sinh trả lời các câu đúng sai.
Trong giai đoạn này, tôi có thể tổ chức lớp thành nhiều hoạt động theo nhóm
từ 2 học sinh trở lên thảo luận câu trả lời bằng cách này tất cả mọi người trong
lớp phải tham gia hoạt động trả lời. Bằng cách này, tất cả các em học sinh
trong lớp phải tham gia hoạt động trả lời và hoạt động này sẽ có cơ hội làm
việc chung giúp đỡ lẫn nhau.
Hình thức viết câu trả lời sẽ giúp học sinh có nhiều thì giờ để suy nghĩ, để
tổ chức và kiểm tra, dùng từ có hiệu quả trong một lớp có đông học sinh hay
không nhưng hình thức này rất mất nhiều thời gian hơn. Tôi khuyến khích học

sinh viết những câu trả lời ngắn vì mục đích của bài tập này chỉ nhằm kiểm tra
mức độ hiểu bài đọc. Trong quá trình này hoạt động được tổ chức nhằm giúp
học sinh rèn luyện kĩ năng đọc hiểu, bên cạnh đó một số kĩ năng học khác
được kết hợp trong kĩ năng đọc hiểu. Các loại bài tập đọc hiểu đòi hỏi học
sinh sử dụng các kĩ năng đọc khác nhau như đoán từ trong ngữ cảnh, đọc lấy ý
chính, đọc lướt, đọc lấy thông tin cần thiết, đọc hiểu.
Ví dụ: Unit 11. Keep fit, stay healthy. B4 (page 112)
Tôi yêu cầu học sinh đọc lướt để lấy ý chính của bài.
Đa số sau mỗi bài đọc đều có bài tập trả lời câu hỏi, nhưng không phải tất cả
các em đều hiểu và trả lời được. Chính vì lý do đó trước khi cho học sinh trả
lời câu hỏi, tôi đã áp dụng các dạng bài tập sau:
* Dùng dạng Multiple Choice.

13


Đây là dạng bài tập đơn giản nhất, phù hợp cho học sinh yếu. Đa số học sinh
đều tích cực đọc kỹ bài để chọn đáp án đúng nhất.
Ví dụ: Unit 9 AT HOME AND AWAY. B3 (Page 93)
Sau khi học sinh nắm ý chính, học sinh đọc lại bài để làm bài tập này. Hoạt
động này có thể tổ chức cho học sinh làm việc cá nhân hoặc theo cặp.
1/ Hoa watched Mrs.Mai . . . ..her dress.
a. to make

b.making

c. make

d.made


2/ . . . . .learned how to use a sewing machine.
a. Lan

b. Hoa

c.Mai

d. Tuan

c. cushion

d.a hat

3/ Hoa made a . . . . . . first.
a. dress

b. skirt

4/ Now ,Hoa wears the things she . . . . . .
a. makes

b.make

c.made

d.was made

Kết quả: học sinh dễ dàng nắm được thông tin và chọn đáp án đúng.
1c


2b

3c

4A

*Dùng câu hỏi Yes-No.
Tôi hỏi học sinh một vài câu hỏi nhằm định hướng rõ hơn cho học sinh về nội
dung bài đọc.
Ví dụ: Unit 5 Work and play. B1 (page 56)
1.Does the bell ring at nine ?
2. Are students happy and excited ?
3. Are they eating and drinking ?
4. Are the boys skipping ?
5. Is the yard quiet ?
* Dùng dạng True / False.

14


Đây là bài tập rất thông dụng khi dạy kĩ năng đọc hiểu. Đa số giáo viên Tiếng
Anh thường sử dụng loại bài này. Tôi chuẩn bị sẵn một số câu dạng đúng sai,
học sinh đọc kĩ và đối chiếu với nội dung bài đọc. Nếu câu sai, tôi yêu cầu học
sinh tìm chỗ sai và sữa lại cho đúng. Tôi yêu cầu học sinh làm việc theo cặp
và qui định thời gian cụ thể. Phương pháp này giúp học sinh hiểu rõ nội dung
bài học một cách dễ dàng.
Ví dụ: Unit 9 At home and away. B3 (page 93)
QUESTIONS
a) Hoa learned how to use a sewing machine
b) She made a skirt first.

c) Next, Hoa made a skirt.
d) The skirt looked very pretty.
e) Finally, the skirt didn’t fit.

TRUE

FALSE

Kết quả:
QUESTIONS
a)
b)
c)
d)
e)

TRUE
X

FALSE CORRECTION
X

She made a cushion first

X

Finally ,the skirt fitted very well

X
X


* Trả lời câu hỏi (Answer the questions)
Khi trả lời câu hỏi học sinh cần phân biệt hai dạng câu hỏi: Yes-No Questions
và Wh-questions, đồng thời cần chú ý thì của động từ.
Nếu tôi hướng dẫn học sinh làm tốt các dạng bài tập trên thì đến phần câu hỏi
học sinh có thể trả lời câu hỏi một cách dễ dàng. Tôi có thể tổ chức hoạt động
này theo cặp hoặc nhóm.
Ví dụ : Unit 9 : At home and away .B 3 (page 93)

15


Học sinh dựa vào phần câu hỏi True /False và bài tập 1 (trang 93) để trả lời
câu hỏi nội dung trong bài.
Ở giai đoạn đọc hiểu, tôi cần chú ý cho học sinh giải quyết các bài tập theo
trình tự từ đơn giản đến khó. Đối với một bài tập tôi: ra hiệu lệnh - thời gian mục đích làm gì?. Tôi còn phải chú ý xem các cặp, nhóm có làm việc tích cực
không?
Sau khi hiểu thấu đáo nội dung bài, thì bước tiếp theo (post-reading) học
sinh thực hiện tốt, đó cũng chính là mục đích khi dạy ngoại ngữ cần đạt được.
* Dùng dạng Gap fill :
- Tôi viết lên bảng phụ một đoạn văn ngắn hay một số câu còn để vài
khoảng trống. Khoảng trống có thể từ vựng hay ngữ pháp hay cũng có thể là
phối hợp. Đoạn văn còn nhiều khoảng trống thì bài tập càng khó. Đối với học
sinh yếu, tôi có thể cho trước những từ cần điền.
- Tôi cho học sinh làm việc cá nhân, sau đó so sánh với bạn cùng cặp,
hoặc trong nhóm.
- Sau đó tôi gọi các em lên bảng điền vào chỗ trống và sửa sai cho các
em.
Ví dụ: Unit 12 B1. page 119
Ba went to the………….because he was …………..The doctor…….Ba

some questions. Ba said he…….some……last night. The doctor said he
must……….the spinach …………..can be dirty. The dirt can ………people
sick. ……..gave Ba some……to make him feel better.
Answer:

16


Ba went to the doctor because he was sick.The doctor asked Ba some
questions. Ba said he had some spinach last night. The doctor said he must
wash the spinach. Vegetables can be dirty. The dirt can make people sick.
Doctor gave Ba some medicine to make him feel better.
4. Tổ chức các hoạt động nhằm khắc sâu kiến thức và mở rộng nội dung
bài đọc (Post-reading):
Ở giai đoạn này các em có thể:
- Luyện tập hỏi đáp một cách tự do.
- Hỏi và trả lời một số câu hỏi liên quan đến thực tế cuộc sống, bản thân
của các em.
- Tham gia trò chơi.
Ví dụ: Unit 9 At home and away. A2 (page 87)
Học sinh thảo luận theo nhóm hỏi và trả lời về việc đi du lịch.
a/ Do you like traveling ?
b/ Which places do you want to visit ?
c/ Have you ever been to Nha Trang ?
d/ Are there a lot of beaches in Nha Trang?
Tôi tổ chức trò chơi “ Lucky numbers”. Khi đó, tôi chia lớp thành 2 đội thi.
Các đội lần lượt chọn ô số để trả lời câu hỏi. Các thành viên trong đội cổ vũ
cho đội mình tạo không khí sôi nổi khi tham gia cuộc thi.
Ví dụ: Unit 9 At home and away. B3 (page 93)
1. Lucky number

2. Answer True or False: Lan learned how to use a sewing machine .
a. True

b. False

3. Choose the correct answer. What did Hoa made first?
a. a skirt

b. a cushion

c. a dress

d.a hat

17


4. What did she make next?
5. Lucky number
6. What was the problem?
7. How did it finally?
8. Lucky number
Trò chơi này giúp học sinh ôn lại cấu trúc, từ vựng và cả nội dung bài đọc.
* Ngoài ra, đối với lớp học khá - giỏi tôi cho các em kể lại nội dung bài đọc
vừa học (Retell the content of the text) :
Tôi có thể khuyến khích học sinh nói hoặc viết tóm tắt đoạn văn hoặc
cả bài đọc. Lúc đầu tôi có thể hướng dẫn học sinh làm tóm tắt bằng cách cho
học sinh trả lời một loạt các câu hỏi nối tiếp nhau về nội dung để các câu trả
lời có thể làm thành dàn bài gồm những ý chính của đoạn văn. Hoặc có thể
viết những từ cốt lõi của đoạn văn lên bảng để học sinh theo đó nói hoặc viết

bản tóm tắt.
Với các hoạt động luyện tập trên tôi nhận thấy học sinh thích học tiết
đọc hiểu hơn, tích cực tham gia xây dựng bài hơn, hiểi bài rõ hơn. Kết quả học
sinh có thể tái tạo hoặc kể lại được nội dung bài.
Ví dụ: Unit 14 A 3. page 142
Các em hoc xong bài đọc nói về ti vi ở Việt Nam. Tôi có thể yêu cầu
các em trả lời một số câu hỏi lien quan đến Ti vi.
- Did many people have TV thirty years ago?
- Where did they watch TV for a long time?
- …………………………………….

18


Dựa vào những thông tin tôi hỏi các em, các em có thể kể lại câu chuyện
nói về Ti Vi.
III. KẾT QUẢ
Qua học kì một của năm học 2015-2016, tôi thực hiện các biện pháp nêu
trên, kết quả các bài kiểm tra về phần đọc hiểu như sau:
Lớp Sĩ số

Giỏi

Khá

Trung bình

Yếu

SL


TL(%) SL

TL(%) SL

TL(%) SL TL(%)

7A2 37

15

40,54

13

35,13

8

21,62

1

2,71

7A3 37

11

29,72


17

45,94

7

18,91

2

5,43

16
45,71
9
25,71
9
25,71
1
Bảng 2: Kết quả học kì một năm học 2015- 2016.

2,87

7A4 35

Từ những số liệu trên cho thấy là các em có tiến bộ hơn so với trước, cụ thể là:
Việc áp dụng phương pháp dạy kĩ năng đọc như đã từng áp dụng vào thực
tế giảng dạy thì kết qủa đạt cao hơn nhiều so với lúc tôi chưa cải tiến phương
pháp dạy đều đó đã thúc đẩy tôi không ngừng phấn đấu để đạt được kết quả

cao hơn nữa cùng với việc áp dụng phương pháp này vào các tiết dạy cụ thể.
Nói tóm lại, để thành công trong giờ dạy Tiếng Anh nói chung và dạy kĩ
năng đọc nói riêng, đòi hỏi người giáo viên phải biết kết hợp hài hoà, khéo léo
giữa các bước lên lớp với với lượng kiến thức trong sách giáo khoa.
Để làm cho giờ dạy thêm sinh động, ngoài những phương pháp giảng dạy cụ
thể tôi còn sử dụng các bức tranh minh hoạ, các giáo cụ trực quan và bằng các
bài tập thực tế. Nên triệt để vận dụng các bài tập tạo cơ hội cho học sinh có
thể hiểu bài một cách dễ dàng.

19


Ngoài ra, để gây hứng thú học tập cho học sinh, tôi kể các mẫu chuyện liên
quan đến bài học gợi mở cho học sinh những nội dung chính trước khi đọc
bài.
Những kết quả nêu trên bước đầu cho thấy những biện pháp để giúp học
sinh học tốt tiết đọc hiểu môn Tiếng Anh 7 có kết quả. Nhưng bản thân tôi còn
phải tiếp tục xem xét, học hỏi kinh nghiệm của các bạn đồng nghiệp trong
huyện cũng như các bạn ngoài huyện.

PHẦN KẾT LUẬN
I. KẾT LUẬN VÀ PHẠM VI ÁP DỤNG
Sau một thời gian băn khoăn trăn trở với phương pháp mình đã chọn, liệu
học sinh có hiểu bài tốt không? Bằng việc kiểm tra đánh giá chất lượng học
sinh tôi đã thu được kết quả khả quan hơn nhiều so với chất lượng trước khi
áp dụng phương pháp mới. Để thực hiện thành công đề tài “Một số biện pháp

20



giúp giáo viên dạy tốt phần đọc hiểu môn Tiếng Anh lớp 7”. Tôi thực hiện
các bước sau:
- Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài tốt ở nhà.
- Làm tốt giai đoạn chuẩn bị (pre-reading) để học sinh có thể làm tốt phần
(While-reading )
- Chọn bài tập phù hợp cho phần đọc (While-reading )
- Khuyến khích học sinh học từ vựng để mở rộng vốn từ.
- Chú ý nhiều đến đối tượng học sinh yếu.
- Tổ chức làm việc theo cặp, nhóm.
Việc soạn các bài tập phải phong phú, đa dạng, đủ các cấp độ tạo điều kiện
cho mọi đối tượng đều có thể tham gia luyện tập trong từng tiết học.
Tạo cho học sinh có thói quen luyện tập tự do, tổ chức các trò chơi để tạo
hứng thú học tập cho học sinh.
Tôi cố gắng duy trì phương pháp đã nêu trên và không ngừng học hỏi, trao
đổi với đồng nghiệp để đưa giờ dạy hiệu quả lên cao hơn. Trong đề tài này, tôi
đã cố gắng khai thác và tìm hiểu phương pháp dạy kĩ năng đọc ở trường Trung
học cơ sở từ đó đi sâu vào phân tích nguyên nhân, yếu tố ảnh hưởng đến
phương pháp dạy đọc từ đó tìm ra biện pháp cụ thể để từ đó đưa ra các
phương pháp cụ thể với từng đối tượng học sinh. Vì thời gian và tài liệu tham
khảo có hạn, nên trong đề tài này còn có nhiều hạn chế mà tôi chưa phân tích
hết. Rất mong nhận được sự góp ý chân thành của đồng nghiệp và của nhà
trường .
Nói tóm lại, để thành công trong giờ dạy Tiếng Anh nói chung và dạy kĩ
năng đọc hiểu nói riêng, đòi hỏi giáo viên phải biết kết hợp hài hoà, khéo léo
giữa các bước lên lớp. Để làm cho giờ dạy thêm sinh động, ngoài những
phương pháp giảng dạy cụ thể giáo viên nên sử dụng các bức tranh minh hoạ,

21



các giáo cụ trực quan và các bài tập thực tế. Nên triệt để vận dụng các bài tập
tạo cơ hội cho học sinh hiểu bài một cách dễ dàng.
Đề tài này áp dụng vào các tiết dạy đọc hiểu cho học sinh khối 7 của các
trường Trung học cơ sở thuộc khu vực Đồng Tháp Mười của tỉnh Long An.
II. KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT
Cần trang bị thêm tranh ảnh, phòng nghe nhìn để giới thiệu bài đọc giúp
học sinh hứng thú khi vào bài. Với một số bài đọc hiểu có nội dung của một
câu chuyện nên phối hợp dùng tranh (tranh truyện) để giới thiệu nội dung
cũng như củng cố bài.
Trên đây là một vài ý kiến của bản thân với bộ môn mà mình phụ trách.
Rất mong sự đóng góp chân thành của đồng nghiệp và hội đồng khoa học giáo
dục các cấp để bản thân tôi có được những kinh nghiệm nhằm nâng cao chất
lượng và phương pháp giảng dạy ngày càng hiệu quả hơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Bùi Văn Sơm: “Hướng dẫn cán bộ quản lý trường học và giáo
viên viết sáng kiến kinh nghiệm” .Nhà xuất bản tổng hợp TPHCM.
2. Nguyễn Thế Dương: “ Basic grammar and graded exercises in
English”.
3. Phan Hà: “Bí quyết luyện đọc Tiếng Anh”. Nhà xuất bản giáo dục.

22


4. Minh Lộc –Khánh Quỳnh: “Học tốt ngữ pháp Tiếng Anh”. Nhà xuất
bản giáo dục.
5. Nguyễn Văn Lợi-Nguyễn Hạnh Dung-Đặng Văn Hùng

- Thân


Trọng Liên Nhân: “Sách giáo khoa Tiếng Anh 7”. Nhà xuất bản giáo
dục.

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Trang 1

II. LỊCH SỬ ĐỀ TÀI

Trang 2

III. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

Trang 2

IV. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

Trang 3

23


PHẦN NỘI DUNG
I.THỰC TRẠNG ĐỀ TÀI

Trang 4

II. CÁC GIẢI PHÁP


Trang 5

III. KẾT QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

Trang 16

PHẦN KẾT LUẬN
I.KẾT LUẬN VÀ PHẠM VI ÁP DỤNG

Trang 18

II. KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT

Trang 19

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Trang 20

24



×