Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

skkn “ một số biện pháp hạn chế học sinh bỏ học ở trường tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.2 KB, 21 trang )

Đề tài: “Một số biện pháp hạn chế học sinh bỏ học ở Trường Tiểu học”
Nhận xét đánh giá của Hội Đồng KHGD Trường:
- Tác dụng của SKKN :……………………………………………………....
- Tính thực tiễn, sư phạm khoa học:…………………………………............
- Hiệu quả :……………………………………
- Xếp loại :…………………………………….
Bình Hoà Đông, ngày ………/………/
2016
CT.HĐKHGD

Nhận xét đánh giá của Hội Đồng KHGD Phòng GD – ĐT:
- Tác dụng của SKKN :……………………………………………………….
- Tính thực tiễn, sư phạm khoa học:………………………………………......
- Hiệu quả :……………………………………
- Xếp loại :……………………………………
Mộc Hóa , ngày ………/………/ 2016
CT.HĐKHGD

Nhận xét đánh giá của Hội Đồng KHGD Sở GD – ĐT:
- Tác dụng của SKKN :……………………………………………………….
- Tính thực tiễn, sư phạm khoa học:………………………………………......
- Hiệu quả :……………………………………
- Xếp loại :……………………………………
Long An, ngày ………./………./ 2016
CT.HĐKHGD

Người thực hiện: Hồ Ái Quốc

Trang: 1



Đề tài: “Một số biện pháp hạn chế học sinh bỏ học ở Trường Tiểu học”
MỤC LỤC
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. Đặt vấn đề
2. Mục đích đề tài
3. Lịch sử đề tài
4. Phạm vi đề tài

Trang 3
Trang 5
Trang 6
Trang 6

II. NỘI DUNG CÔNG VIỆC ĐÃ LÀM
1. Thực trạng đề tài
2. Nội dung cần giải quyết
3. Biện pháp giải quyết
4. Kết quả, chuyển biến của đối tượng

Trang 7
Trang 10
Trang 10
Trang 18

III. KẾT LUẬN
1. Tóm tắt giải pháp
2. Phạm vi đối tượng áp dụng
3. Kiến nghị với các cấp về điều kiện thực hiện

Người thực hiện: Hồ Ái Quốc


Trang 19
Trang 20
Trang 20

Trang: 2


Đề tài: “Một số biện pháp hạn chế học sinh bỏ học ở Trường Tiểu học”
PHẦN I
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. ĐẶT VẤN ĐỀ:
- Giáo dục tiểu học là bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân, có
nhiệm vụ xây dựng và phát triển tình cảm, đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ và thể chất
của trẻ em, nhằm hình thành cơ sở ban đầu cho sự phát triển toàn diện nhân cách
con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Giáo dục tiểu học phải bảo đảm cho học sinh nắm vững các kỹ năng nói,
đọc, viết, tính toán, có những hiểu biết cần thiết về thiên nhiên, xã hội và con
người; có lòng nhân ái, hiếu thảo với ông bà, cha mẹ, yêu quý anh chị em; kính
trọng thầy giáo, cô giáo, lễ phép với người lớn tuổi; giúp đỡ bạn bè, các em nhỏ;
yêu lao động, có kỷ luật; có nếp sống văn hoá; có thói quen rèn luyện thân thể và
giữ gìn vệ sinh; yêu quê hương đất nước, yêu hòa bình.
- Giáo dục tiểu học là bậc học bắt buộc, không phải trả học phí. Giáo dục tiểu học
được thực hiện trong 5 năm, từ lớp1 đến lớp 5. Tuổi học sinh vào học lớp một là sáu tuổi.
Mọi trẻ em bình thường từ 6 đến 14 tuổi đều có quyền và nghĩa vụ học tập để đạt trình độ
giáo dục phổ cập tiểu học. Ngoài ra, trẻ khuyết tật cũng được hưởng quyền được học tập
hòa nhập với các trẻ bình thường khác trong cùng môi trường học tập ở tiểu học.
- Tổ chức điều tra nắm bắt số liệu, huy động trẻ ra lớp, rà soát, cập nhật, thống kê,
lập báo cáo kết quả và nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục tiểu học là một trong những
nhiệm vụ quan trọng trong nhà trường. Vì vậy đòi hỏi người giáo viên phổ cập phải có kế

hoạch khoa học, cụ thể, rõ ràng, thì công tác PCGDTH mới đạt kết quả.
- Trong những năm gần đây đã có nhiều chính sách xã hội hỗ trợ cho việc
phát triển giáo dục đặc biệt là công tác phổ cập giáo dục tiểu học. Chính vì thế
công tác phổ cập giáo dục tiểu học hiện nay trên cả nước đạt kết quả cao và tương
đối đồng bộ.
- Mục tiêu nhiệm vụ của trường tiểu học là huy động tất cả học sinh trong độ
tuổi được đến trường đầy đủ, xây dựng xã hội học tập có chất lượng đảm bảo, nền
tảng kiến thức vững chắc để các em học cao hơn, muốn làm được điều đó những
người làm công tác giáo dục phải quan tâm đến nhiều mặt như chất lượng đào tạo
của học sinh, chất lượng đội ngũ, hệ thống cơ sở vật đảm bảo phục vụ cho công tác
dạy- học và coi đây là một thước đo chuẩn mực để đánh giá chất lượng giáo dục
của nhà trường.
- Thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, trước yêu
cầu phát triển sự nghiệp giáo dục nói chung và giáo dục tiểu học nói riêng nhằm
đáp ứng nhu cầu phát triển nguồn nhân lực trong những năm tiếp theo. Việc duy trì
và nâng cao kết quả phổ cập giáo dục tiểu học là yêu cầu quan trọng và cấp thiết
trong giai đoạn hiện nay, vì có nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục tiểu học
chính là nâng cao chất lượng giáo dục.Trong những năm qua xã Bình Hòa Đông đã
được công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 3. Tuy nhiên tôi nhận
thấy nếu sau khi được công nhận đạt chuẩn mà chúng ta chủ quan, không có kế
hoạch cụ thể để duy trì bền vững kết quả đó thì dễ dẫn đến sẽ không duy trì được
kết quả phổ cập giáo dục tiểu học mà có nguy cơ rớt chuẩn.
Người thực hiện: Hồ Ái Quốc

Trang: 3


Đề tài: “Một số biện pháp hạn chế học sinh bỏ học ở Trường Tiểu học”
- Trong thời đại hiện nay, thời đại mà khoa học kỹ thuật và công nghệ phát
triển. Cùng với công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế đã đặt ra cho

ngành giáo dục nhiều cơ hội mới nhưng cũng nhiều thách thức mới, đòi hỏi ngành
giáo dục phải đào tạo cho xã hội những con người có trình độ văn hóa, có trình độ
tư duy và có phẩm chất đạo đức để phù hợp với sự phát triển của đất nước và thế
giới, đáp ứng yêu cầu của công cuộc “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.
- Thực trạng chung của ngành giáo dục huyện nhà nói chung và trường tiểu
học Bình Hòa Đông nói riêng là: Nhận thức của học sinh còn rất hạn chế và một
vấn đề hết sức nóng nữa đó là tình trạng học sinh chán học, nghỉ học thường xuyên
và có nguy cơ bỏ học đang dần tăng lên. Tình trạng trên sẽ ảnh hưởng lớn đến việc
dạy và học, đặc biệt là vấn đề tiếp thu kiến thức của học sinh cũng sẽ bị gián đoạn,
tạo ra những lỗ hổng kiến thức, thiếu tính hệ thống.
- Vấn đề học sinh bỏ học ngày càng có chiều hướng gia tăng khiến cho
ngành giáo dục và nhất là những giáo viên tâm huyết với nghề phải trăn trở và suy
ngẫm. Thực chất, tỷ lệ học sinh bỏ học gia tăng không những sẽ ảnh hưởng đến
hiệu quả đào tạo chung của ngành, chất lượng giáo dục của nhà trường mà cũng
ảnh hưởng đến sự phát triển trình độ nhân lực của xã hội. Một số câu hỏi được đặt
ra ở đây: Nếu nghỉ học quá sớm tương lai của các em sẽ đi về đâu? Các em sẽ làm
được những gì khi các em còn là những thanh, thiếu niên còn trong tuổi vị thành
niên? Bỏ học có thể một số em trở thành những đứa trẻ khôn ngoan, trong số đó có
em lại vướng vào tệ nạn xã hội, hoặc bị lạm dụng sức lao động… Chính vì thế
trong những năm gần đây, không chỉ riêng trường tiểu học Bình Hòa Đông – Mộc
Hóa mà chủ trương chung của cả nước về thực hiện chương trình phổ cập giáo dục
kết hợp với vận động phổ cập giáo dục cho các bậc học để có hướng giúp các em
hoàn thiện trình độ văn hóa của mình, giúp các em đứng vững trong cuộc sống vốn
rất phát triển và ngày càng phát triển.
- Nhận thức được tầm quan trọng của việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao
trình độ nhận thức của học sinh theo xu hướng phát triển để theo kịp thời đại thì:
Hạn chế học sinh bỏ học là bài toán cần sớm có lời giải đáp đối với ngành giáo dục
nói chung và những giáo viên trực tiếp dạy lớp nói riêng. Là giáo viên đã có 18
năm công tác và đã có 12 năm trực tiếp làm công tác phổ cập bản thân tôi luôn đặt
ra cho mình một câu hỏi: Làm thế nào để hạn chế tình trạng học sinh bỏ học? Điều

đó đã thôi thúc tôi đăng ký đề tài “ Một số biện pháp hạn chế học sinh bỏ học ở
trường Tiểu học”. Với hy vọng là góp một phần nhỏ bé vào công cuộc đổi mới
của ngành giáo dục nói chung và của ngành giáo dục huyện nhà Mộc Hóa nói
riêng.
“Gia đình văn hóa là gia đình không có con em bỏ học”
- Khẩu hiệu mà xã Bình Hòa Đông dùng để tuyên truyền trong công tác
phòng, chống bỏ học và đi đến không còn học sinh bỏ học của xã nhà, đó cũng là
mục tiêu cần đạt trong chương trình hành động của nhà trường trong những năm
gần đây và trong quá trình vận dụng Nghị định 20/NĐ-CP ngày 24 tháng 3 năm
2014 của Thủ tướng Chính Phủ về Phổ cập giáo dục, xóa mù chữ. Như vậy để đạt
chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học nhất thiết phải giảm tỉ lệ, tiến tới không còn học
sinh lưu ban, bỏ học, đảm bảo tỉ lệ 100% học sinh hoàn thành chương trình giáo
dục tiểu học.
Người thực hiện: Hồ Ái Quốc

Trang: 4


Đề tài: “Một số biện pháp hạn chế học sinh bỏ học ở Trường Tiểu học”
- Xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, mục tiêu
cần đạt được là ‘‘Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài” cho thế
hệ tương lai. Đó chính là điều tôi muốn chia sẽ, trao đổi và học tập kinh nghiệm từ
các đồng nghiệp để đạt được hiệu quả cao nhất?.
- Với thực trạng trường Tiểu học Bình Hòa Đông trong những năm qua là
một trong những đơn vị còn tỉ lệ học sinh bỏ học. Số liệu thống kê 03 năm bỏ học
trước khi thực hiện đề tài:
Năm học
2012 - 2013
2013 - 2014
2014 - 2015


Tổng số HS
454
454
437

Bỏ học
03
03
01

Tỉ lệ
0,66%
0,66%
0,22%

- Xã Bình Hòa Đông không phải là xã khó khăn về kinh tế như một số xã
khác, mặt khác xã có địa thế thuận lợi, đường giao thông được mở rộng, có tiềm
năng phát triển kinh tế. Đó là những điều kiện thuận lợi cho việc phát triển giáo
dục, thế nhưng còn hiện tượng học sinh bỏ học. Điều này làm ảnh hưởng đến quá
trình thực hiện nhiệm vụ chung của nhà trường, ảnh hưởng đến tiến trình thực hiện
phổ cập giáo dục.
- Trăn trở trước một thực trạng là làm thế nào để giảm tỉ lệ học sinh bỏ học hàng
năm xuống thấp... đi đến không còn học sinh bỏ học nhằm nâng cao tỷ lệ đạt chuẩn phổ
cập giáo dục của địa phương một cách bền vững. Tôi đã mạnh dạn nghiên cứu đề tài:
“Một số biện pháp hạn chế học sinh bỏ học ở trường Tiểu học”.
2. MỤC ĐÍCH ĐỀ TÀI:
- Bậc tiểu học có vị trí nền móng trong hệ thống giáo dục quốc dân. Nhà
trường tiểu học là nơi đặt viên gạch đầu tiên trong việc xây dựng nhân cách cho
học sinh, giúp học sinh được phát triển một cách toàn diện.

- Phổ cập giáo dục tiểu học là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, nhằm
góp phần nâng cao dân trí, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Mọi trẻ em trong
độ tuổi đi học của cấp học đều có quyền được học tập, giao tiếp trong môi trường
thân thiện, yêu thương; được gia đình và toàn xã hội chăm lo, tạo điều kiện thuận
lợi để các em thực hiện nhiệm vụ học tập và nhất là đội ngũ giáo viên làm công tác
giáo dục trong trường tiểu học đóng vai trò hết sức quan trọng góp phần thực hiện
mục tiêu giáo dục.
- Giáo dục tiểu học là điều kiện cơ bản để nâng cao dân trí, là cơ sở ban đầu
hết sức quan trọng cho việc đào tạo trẻ em trở thành công dân tốt của đất nước.
Giáo dục tiểu học nước ta đã và đang thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học đối với
tất cả trẻ em trong độ tuổi từ 6 đến 14 tuổi theo Nghị định 20/ 2014/NĐ-CP ngày
24 tháng 03 năm 2014 của Thủ Tướng Chính Phủ. Chính vì vậy, những người làm
công tác giáo dục luôn quan tâm đến việc duy trì sĩ số học sinh, duy trì thành tựu
PCGDTH, mà trước hết là nâng cao chất lượng giáo dục hằng năm.
- Với vai trò là một giáo viên phổ cập nên trong quá trình công tác, bản thân
tôi đã không ngừng tham mưu, đề xuất ý kiến với các cấp lãnh đạo của địa phương
Người thực hiện: Hồ Ái Quốc

Trang: 5


Đề tài: “Một số biện pháp hạn chế học sinh bỏ học ở Trường Tiểu học”
và Ban giám hiệu của nhà trường để thực hiện tốt các chỉ tiêu và kế hoạch về công
tác phổ cập giáo dục đã đề ra. Qua đó tôi đã đúc kết được những kinh nghiệm của
bản thân nhằm tìm ra những giải pháp, biện pháp để hạn chế học sinh bỏ học ở bậc
tiểu học. Mục đích của đề tài là hạn chế học sinh bỏ học nhằm nâng cao tỷ lệ đạt chuẩn
phổ cập giáo dục tiểu học.
3. LỊCH SỬ ĐỀ TÀI:
Đề tài : “Một số biện pháp hạn chế học sinh bỏ học ở trường Tiểu học”
được hình thành chủ yếu qua kinh nghiệm nhiều năm công tác phổ cập của bản thân,

với nỗi trăn trở là làm thế nào đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học theo sự chỉ đạo của
cấp trên và theo kế hoạch đề ra của nhà trường.
- Trường tiểu học Bình Hòa Đông trong những năm qua đã thực hiện tốt
nhiệm vụ giáo dục đồng thời làm tốt công tác tham mưu với chính quyền trong
công tác phổ cập. Cụ thể, đội ngũ giáo viên của trường thường xuyên không ngừng
học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trường có nhiều giáo viên có
trình độ trên chuẩn, năng nổ sáng tạo trong công việc, có nhiều giáo viên đạt giáo
viên dạy giỏi các cấp. Trường luôn được sự đồng tình ủng hộ của các cấp, các
ngành và phụ huynh học sinh nên công tác xã hội hóa giáo dục được đẩy mạnh,
mạng lưới trường lớp và hệ thống sân chơi bãi tập đầy đủ tạo điều kiện cho học
sinh được học tập và vui chơi được đảm bảo. Trong những năm qua nhà trường
luôn đạt Phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 3.
- Tuy nhiên để giữ vững Phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 3 và phấn đấu
duy trì kết quả phổ cập giáo dục tiểu học còn gặp nhiều khó khăn. Do dân cư trên
địa thường xuyên thay đổi học sinh chuyển đi, chuyển đến hằng năm còn nhiều,
một số gia đình do điều kiện kinh tế còn khó khăn mãi làm ăn nên chưa quan tâm
đến chất lượng học tập của con em, còn giao phó cho thầy, cô giáo trên lớp là
chính. Chất lượng giáo dục của trường có tăng nhưng tăng chưa ổn định. Cơ sở vật
chất hằng năm của trường có tu bổ, sửa sang mua sắm nhưng vẫn chưa đáp ứng để
học sinh được học 10 buổi/tuần, hệ thống nhà đa chức năng và các phòng hỗ trợ
kỹ thuật khác chưa có. Công tác điều tra, cập nhật dữ liệu hằng năm vẫn còn nhiều
bất cập…
- Như vậy ta có thể hiểu phổ cập tiểu học là huy động số lượng học sinh
trong độ tuổi đến trường phải đảm bảo chất lượng dạy – học để học sinh đạt một
trình độ nhất định.
4. PHẠM VI CỦA ĐỀ TÀI:
Đề tài này được hình thành qua đúc kết kinh nghiệm của bản thân nên chủ
yếu tập trung tìm ra một số giải pháp, biện pháp hạn chế học sinh bỏ học ở trường
Tiểu học. Đề tài bắt đầu thực hiện ngay từ năm học 2012-2013 và những năm sau,
có thể áp dụng trong phạm vi học sinh tiểu học ở các địa bàn vùng sâu, nhất là địa

bàn nơi tôi đang công tác.

Người thực hiện: Hồ Ái Quốc

Trang: 6


Đề tài: “Một số biện pháp hạn chế học sinh bỏ học ở Trường Tiểu học”
PHẦN II
NỘI DUNG CÔNG VIỆC ĐÃ LÀM
1. THỰC TRẠNG ĐỀ TÀI:
- Xã Bình Hòa Đông là một xã anh hùng trong hai cuộc kháng chiến chống
Pháp và chống Mĩ, được tách ra từ xã Bình Hòa từ năm 1977. Xã Bình Hòa Đông
nằm về phía tây bắc của Huyện Mộc Hóa, cách trung tâm Huyện khoảng 6 km. Xã
có tổng diện tích tự nhiên là 3228,36 ha, được phân chia thành 4 ấp: ấp 1, ấp 2, ấp
3 và ấp 4. Toàn xã có 1.130 hộ với 4054 nhân khẩu, mật độ dân số 125 người/km 2
và phân bố không đồng đều. Phía đông giáp xã Bình Phong Thạnh, phía tây giáp
xã Bình Hòa Trung, phía nam giáp Sông Vàm Cỏ Tây, xã Tân Thành và phía bắc
giáp xã Bình Thạnh. Trên địa bàn xã có 1 trường Mẫu giáo, 1 trường Tiểu học và 1
trường Trung học cơ sở. Và là xã thuộc vùng Đồng tháp mười nên hàng năm xã
Bình Hòa Đông đều có nước lũ tràn về nên phần nào cũng ảnh hưởng đến đời
sống, sinh hoạt và học tập của của các em.
- Bình Hòa Đông là một xã thuần nông, đa số các hộ dân trong xã sống
bằng nghề sản xuất nông nghiệp. Trường Tiểu học được đặt tại trung tâm xã, tháng
12/2014 trường đã được công nhận: “ Trường Chuẩn Quốc gia mức độ I”, năm học
2015-2016 trường có 19 lớp với 442 học sinh (Trong đó có 02 học sinh khuyết tật
hòa nhập). Tổng số cán bộ, giáo viên và nhân viên là 35 đồng chí. Có 57,60% học
sinh trong nhà trường học 10 buổi/tuần ở điểm Ấp 1 và 43,40% học sinh học 5
buổi/tuần ở điểm Ấp 3 và điểm Kênh Xáng.
- Nhà trường luôn nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của các cấp lãnh

đạo từ xã đến huyện. Đội ngũ cán bộ, giáo viên nhiệt tình, có kinh nghiệm trong
quản lí và dạy học. Trong những năm học gần đây nhà trường có nhiều giáo viên
trẻ đạt trình độ đào tạo trên chuẩn, năng nổ, sáng tạo trong công tác. Được sự đồng
tình ủng hộ của đông đảo quần chúng nhân dân, công tác xã hội hóa được đẩy
mạnh, tích cực góp phần thuận lợi cho phát triển giáo dục.
- Kết quả PCGDTH trong những năm qua của trường được công nhận đạt
chuẩn PCGDTH mức độ 3.
- Xã có đường tỉnh lộ 817 chạy qua với chiều dài 5,2 km, được nhựa hóa từ
cầu Ba Hồng Minh đến cầu Bình Hòa Đông, và chưa được nhựa hóa từ cầu Bình
Hòa Đông đến cầu Cái Dứa, lộ được trãi sỏi xanh và là tuyến đường huyết mạch
nối liền với 2 xã trong huyện là xã Bình Hòa Trung và xã Bình Phong Thạnh,
thuận tiện cho việc giao lưu, trao đổi hàng hóa với bên ngoài để phát triển kinh tế xã hội. Mật độ dân số thưa, mật bằng dân trí còn thấp, công việc của người dân chủ
yếu là nghề nông, kinh tế mỗi gia đình còn khó khăn. Bên cạnh đó vẫn còn có một vài
bộ phận gia đình thuộc diện hộ nghèo, gia đình khó khăn rãi đều ở các ấp. Cha mẹ các
em phải đầu tắt, mặt tối ngoài đồng, không có thời gian để quan tâm đến việc học hành
của các em. Bản thân các em còn nhỏ thiếu động lực học tập, đôi khi các em còn phải
phụ giúp cha mẹ làm những công việc ngoài đồng. Mặt khác, sự phối kết hợp các ban,
ngành, đoàn thể chưa đồng bộ, chưa thật sự quan tâm đến giáo dục, chỉ nghĩ đơn giản
đây là công việc, là trách nhiệm của nhà trường và của ngành giáo dục.
* Nguyên nhân dẫn đến học sinh bỏ học:
Người thực hiện: Hồ Ái Quốc

Trang: 7


Đề tài: “Một số biện pháp hạn chế học sinh bỏ học ở Trường Tiểu học”
+ Nguyên nhân chủ quan:
- Học sinh chưa ý thức được vai trò và trách nhiệm của mình trong việc học
tập nên chưa tích cực học tập, các em chưa hình dung được vai trò của việc học
trong tương lai. Khi đã nghỉ học thì việc tiếp thu kiến thức sẽ không có hệ thống

dẫn đến kiến thức bị hổng từ đó nảy sinh tư tưởng chán nản, không muốn đi học.
- Một số học sinh do xa trường , điều kiện đi lại khó khăn nên vào những
ngày thời tiết xấu và không được gia đình nhắc nhở các em thường nghỉ học. Qua
những nguyên nhân trên , chúng ta thấy phần lớn học sinh nghỉ học là do thiếu
nhận thức về trách nhiệm trong việc học tập, gia đình khó khăn, bản thân lười học
đưa đến học yếu nên chán học và bỏ học. Chính vì vậy, muốn ngăn chặn tình trạng
học sinh bỏ học có hiệu quả, chúng ta cần phải tìm ra một số giải pháp cụ thể, thiết
thực và phù hợp.
- Một bộ phận giáo viên chưa làm tốt nhiệm vụ giáo dục của mình. Mặt
khác, giáo viên chưa bình tĩnh, khéo léo, tìm hiểu nguyên nhân và tìm các biện
pháp tâm lý để hạn chế tình trạng bỏ học các em. Đối với những trường hợp vi
phạm lần đầu ta nên dùng lời lẽ khuyên răn, phân tích sự có hại khi các em vi
phạm đi học chưa đều,. Song song, ta tìm cho em đó một người bạn tốt, học lực
thuộc loại khá, giỏi kết thành đôi bạn học tập nhằm giúp em học sinh đó trong soạn
bài, làm bài tập. Trường hợp ngoại lệ nếu biện pháp giáo dục từ trường không có
hiệu quả thì ta phải phối hợp chặt chẽ với phụ huynh. Và sự cộng tác không thể
thiếu là hợp tác với giáo viên chuyên chia nhóm học tập, để cho giáo viên hiểu
từng hoàn cảnh của mỗi em vì ngoài việc truyền kiến thức, người giáo viên cần
nghiên cứu, tìm ra cách dạy phù hợp cho từng đối tượng học sinh yếu, trung bình,
khá, giỏi…. Đặc biệt là chúng ta phải sử dụng các phương pháp giảng dạy dễ hiểu
nhất, tạo cho các em sự hứng khởi, say mê cho các em thông qua các cách dẫn dắt
từ thật dễ đến khó và có thể lồng ghép những trò chơi có thưởng. Tôi nghĩ rằng với
cách làm đó sẽ lôi cuốn các em. Từ đó, các em nhận ra được việc học rất hữu ích
và cần thiết cho bản thân và gia đình. Vì ngoài việc làm giàu cho kiến thức của
mình, các em sẽ vui hơn khi được cô khen, thầy thưởng.
* Nguyên nhân khách quan:
+ Về phía gia đình:
- Kinh tế gia đình các em còn nhiều khó khăn, đời sống từng hộ gia đình vẫn
chưa thoát khỏi tình trạng thiếu thốn. Một số bậc phu huynh do trình độ văn hóa
thấp nên chưa hiểu được trách nhiệm của mình trong việc cùng phối kết hợp với

nhà trường để giáo dục con cái và còn yêu cầu con cái phải nghỉ học để giúp gia
đình trong thời gian thu hoạch mùa vụ.
- Hầu hết các gia đình các em chưa nhận thức rõ tầm quan trọng của việc
học tập nên chưa nhắc nhở các em học và làm bài ở nhà. Một số ít phụ huynh còn
có tư tưởng “ Học cũng chẳng để làm gì, chỉ cần biết đọc biết viết là đủ,…” Do đó
không tạo được động cơ học tập cho các em.
- Do nội bộ của một số gia đình thường xảy ra xung đột (chủ yếu do kinh tế)
nên đã ly dị hoặc bỏ địa phương đi làm xa, đã làm chi phối tư tưởng của các em.
- Một bộ phận không nhỏ phụ huynh học sinh thuộc diện hộ nghèo của xã,
điều kiện kinh tế gia đình còn ở mức thu nhập thấp, chỉ trông vào cây lúa, phần lớn
quỹ thời gian dành cho việc đồng áng, ít có thời gian quan tâm đến việc học tập
Người thực hiện: Hồ Ái Quốc

Trang: 8


Đề tài: “Một số biện pháp hạn chế học sinh bỏ học ở Trường Tiểu học”
của con em, chưa xác định rõ mục đích học tập của con em mình ngay từ các lớp
đầu cấp. Các em có học tập tốt hay không, có thực sự đến trường hay không, tiếp
thu kiến thức như thế nào… không là mối bận tâm của phụ huynh. Vì thế hiện
tượng bỏ học của học sinh là điều không sao tránh khỏi.
+ Về phía nhà trường:
- Ban giám hiệu cùng với giáo viên chủ nhiệm chưa thường xuyên đến thăm
hỏi, động viên và chia sẻ những gia đình học sinh có hoàn cảnh khó khăn.
- Việc phối hợp giữa hai lực lượng giáo dục: gia đình và nhà trường còn hạn
chế là một trong những nguyên nhân dẫn đến nguy cơ học sinh bỏ học.
- Đội ngũ giáo viên: Đời sống giáo viên vẫn còn nhiều khó khăn, việc quan
tâm đến giảng dạy giáo dục đôi lúc còn hạn chế. Phải thừa nhận rằng còn một bộ
phận giáo viên còn thiếu kinh nghiệm giáo dục, đặc biệt là phương pháp giáo dục
còn nặng về khiển trách, chưa tìm hiểu kĩ đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi học sinh.

Trong quá trình dạy học, giáo viên chưa thật sự quan tâm sâu sát đến những em có
học lực yếu, dẫn đến tình trạng các em ngồi bên lề giờ học. Chưa sáng tạo trong
việc cải tiến phương pháp dạy học để truyền thụ kiến thức, gây ức chế cho học
sinh, làm lớp học thụ động, không kích thích được khả năng sáng tạo của học sinh,
không lôi cuốn các em vào các giờ học, gây nhàm chán dẫn đến hiệu quả giảng dạy
không cao, tiếp thu bài kém. Mặt khác, giáo viên chưa lập cho học sinh kế hoạch,
phương pháp tự học để ràng buộc, giữ chân học sinh ở nhà. Đó cũng là những
nguyên nhân dẫn đến nguy cơ học sinh bỏ học.
+ Về mặt xã hội:
- Chính quyền địa phương chưa có biện pháp ngăn ngừa và xử lý nghiêm
khắc những gia đình tự ý cho con em bỏ học. Chưa có chế độ khen thưởng những
gia đình có con em chăm ngoan, học giỏi qua các buổi họp ấp, họp xã.
- Chưa linh hoạt trong việc tuyên truyền vận động phụ huynh học sinh để có
nhận thức đúng đắn về vai trò trách nhiệm của cha mẹ đối với việc học tập của con
em mình.
- Sự quan tâm và phối kết hợp chưa chặc chẽ của chính quyền địa phương
dẫn đến hiện tượng tảo hôn trong lứa tuổi học sinh, dẫn đến các em mặc cảm bỏ
học.
- Do nước ta đang trong thời kì hội nhập kinh tế thị trường nên môi trường
sống của học sinh đã tiêm nhiễm nhiều tệ nạn xã hội đáng lo ngại. Những điều mà
các em được giáo huấn ở gia đình và nhà trường thì nghịch lý với những điều mà
các em đã nhìn thấy ngoài xã hội. Những tệ nạn xã hội đã len lõi khắp nơi, luôn
ảnh hưởng trực tiếp đến các em, nếu nhà trường, gia đình và xã hội lơ là, buông
lỏng quản lí.
- Xác định rõ những nguyên nhân dẫn đến hiện tượng học sinh bỏ học nên
đầu năm học 2015 - 2016 với vai trò là giáo viên phổ cập, bản thân tôi nhận thức
cần phải có những giải pháp, biện pháp để cùng với nhà trường, địa phương, phụ
huynh học sinh tham gia quản lý, giáo dục giúp các em có ý thức phấn đấu vươn
lên để hạn chế học sinh bỏ học trong nhà trường.


Người thực hiện: Hồ Ái Quốc

Trang: 9


Đề tài: “Một số biện pháp hạn chế học sinh bỏ học ở Trường Tiểu học”
2. NỘI DUNG CẦN GIẢI QUYẾT:
Từ thực tiễn đã nêu trên, để hạn chế học sinh bỏ học, bản thân cần tập trung
giải quyết các nội dung sau:
* Thực hiện tốt nhiệm vụ năm học.
* Thực hiện công tác chuyên môn của người giáo viên phổ cập.
* Kết hợp tốt 3 môi trường giáo dục: nhà trường, gia đình và xã hội.
3. BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT:
3.1. Thực hiện tốt nhiệm vụ năm học:
3.1.1. Thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị về
tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, củng
cố kết quả các lĩnh vực chống tiêu cực và khắc phục bệnh thành tích trong giáo
dục, thực hiện tốt cuộc vận động "Mỗi thầy giáo, cô giáo là một tấm gương đạo
đức, tự học và sáng tạo", tập trung các nhiệm vụ:
- Thực hiện tốt các quy định về đạo đức nhà giáo, coi trọng việc rèn luyện
phẩm chất, lối sống, lương tâm nghề nghiệp; tạo cơ hội, động viên, khuyến khích
giáo viên, cán bộ quản lí giáo dục học tập và sáng tạo; ngăn ngừa và đấu tranh kiên
quyết với các biểu hiện vi phạm pháp luật và đạo đức nhà giáo. Triệt để chống các
hành vi xúc phạm đến nhân phẩm, thân thể học sinh và bạo lực học đường.
- Thực hiện nghiêm túc: Chỉ thị số 2325/CT-BGDĐT ngày 28/6/2013 về
việc chấn chỉnh tình trạng dạy học trước chương trình lớp 1, công văn số
1354/SGDĐT-GDTH ngày 18/7/2013, Quyết định số 58/2012/QĐ-UBND ngày
19/10/2012 của UBND tỉnh Long An về việc ban hành Quy định dạy thêm, học
thêm trên địa bàn tỉnh Long An và các văn bản hướng dẫn của Sở GD&ĐT.
- Thực hiện các biện pháp giảm tỉ lệ học sinh yếu, học sinh bỏ học, bàn giao

chất lượng giáo dục, không để học sinh ngồi sai lớp; tổ chức hoạt động nhằm phát
hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi;
3.1.2. Tiếp tục thực hiện sáng tạo các nội dung của phong trào thi đua “Xây
dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”.
- Giáo dục đạo đức, kĩ năng sống cho học sinh thông qua các môn học, hoạt
động giáo dục và xây dựng quy tắc ứng xử văn hoá. Nhà trường chủ động phối hợp
với gia đình và cộng đồng cùng tham gia chăm sóc giáo dục đạo đức và kĩ năng
sống cho học sinh. Tổ chức hội thi, giao lưu tìm hiểu về truyền thống, lịch sử văn
hoá địa phương, tuyên truyền về biển đảo quê hương, để giáo dục lòng tự hào về
truyền thống văn hoá của địa phương góp phần giáo dục giá trị sống và kĩ năng
sống cho học sinh. Làm sao tạo cho học sinh gắn bó với nhà trường, xem nhà trường
là ngôi nhà thứ hai của mình.
- Đẩy mạnh phong trào xây dựng trường, lớp xanh - sạch - đẹp; nhà vệ sinh
sạch sẽ cho học sinh và giáo viên. Thực hiện tốt vệ sinh trường học, có biện pháp
xử lý, đốt rác hàng ngày. Với mô hình ” Tiếng trống nhặt rác” phân công các lớp
hàng ngày quét dọn sân trường sạch sẽ nhằm làm trong lành môi trường học đường
để đảm bảo sức khoẻ cho học sinh.
- Thực hiện tốt nội dung cuộc vận động “Kỹ cương tình thương trách nhiệm”.
Người giáo viên cần nêu cao trách nhiệm lao động sư phạm. Xem học sinh là nhân vật
trọng tâm, là chủ thể giáo dục, thương yêu và tôn trọng nhân cách học sinh, gần gũi
Người thực hiện: Hồ Ái Quốc

Trang: 10


Đề tài: “Một số biện pháp hạn chế học sinh bỏ học ở Trường Tiểu học”
nắm vững hoàn cảnh từng học sinh để giáo dục, tạo điều kiện cho học sinh có phương
hướng và xác định tốt động cơ rèn luyện và học tập.
- Tổ chức các hoạt động vui chơi, giải trí tích cực, các hoạt động văn nghệ,
thể dục thể thao, trò chơi dân gian, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, ngoại

khóa phù hợp với điều kiện cụ thể của nhà trường và địa phương. Hướng dẫn học
sinh tự quản, chủ động tự tổ chức, điều khiển các hoạt động tập thể và hoạt động
giáo dục ngoài giờ lên lớp. Tăng cường giáo dục thể chất, rèn luyện sức khỏe cho
học sinh, thông qua tập thể dục buổi sáng, tập thể dục giữa giờ hướng các em vào
các hoạt động có ích giúp các em có ý thức gắn bó, coi trường lớp là nơi gửi gắm
yêu thương, yêu mến bạn bè, tạo mối liên kết chặt chẽ giúp hạn chế được học sinh
có ý định bỏ học.
- Tổ chức cho học sinh toàn trường hát Quốc ca trong Lễ chào cờ đầu tuần.
Đổi mới hình thức tiết chào cờ đầu tuần thêm sinh động như tổ chức trò chơi tập
thể, xây dựng mô hình "Mỗi tuần một câu chuyện” kể về gương hiếu học, người tốt
việc tốt, các anh hùng lịch sử, danh nhân văn hóa, tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh qua đó giáo dục học sinh ý thức học tập và noi theo.
- Tổ chức "Tuần làm quen" đầu năm học mới đối với lớp 1 nhằm giúp học
sinh thích nghi với môi trường học tập mới và cảm thấy vui thích khi được đi học.
- Tổ chức lễ ra trường trang trọng, tạo dấu ấn sâu sắc cho học sinh hoàn
thành chương trình giáo dục tiểu học trước khi ra trường.
3.1.3. Thực hiện tốt công tác y tế trường học và các quy định vệ sinh phòng
bệnh truyền nhiễm trong nhà trường, hướng dẫn và nhắc nhở học sinh thực hiện
đúng quy trình rửa tay hàng ngày. Phối hợp y tế xã tuyên truyền phòng chống các
bệnh và tổ chức khám sức khỏe định kỳ cho học sinh.
3.2. Thực hiện công tác chuyên môn của người giáo viên phổ cập:
3.2.1. Về công tác tham mưu:
- Hàng năm, tôi tham mưu với Ban Giám Hiệu và Ủy ban nhân xã kiện toàn
Ban chỉ đạo phổ cập giáo dục , phân công trách nhiệm cụ thể từng thành viên, phát
huy tốt vai trò các thành viên trong Ban chỉ đạo. Tham mưu Ban chỉ đạo phổ cập
xã triển khai, quán triệt sâu rộng các văn bản chỉ đạo về công tác phổ cập giáo dục,
đặc biệt là các nội dung của Nghị định số 20/2014/ NĐ-CP ngày 24 tháng 3 năm
2014 của Thủ Tướng Chính Phủ về Phổ cập giáo dục, xóa mù chữ. Giáo viên phổ
cập của nhà trường phải luôn luôn nhại bén và có kế hoạch tập huấn về công tác
phổ cập, hướng dẫn lại nghiệp vụ điều tra cũng như công tác nhập dữ liệu cho các

trường để có kỹ năng tốt hơn về công tác phổ cập.
- Hàng tuần tham mưu Ban chỉ đạo phổ cập xã và tham gia họp giao ban
cùng với các thành viên của Đảng ủy, Ủy ban và các ban ngành, đoàn thể của xã để
kịp thời phản ánh hay đề xuất kiến nghị trong quá trình thực hiện công tác phổ cập
giáo dục nói chung, phổ cập giáo dục tiểu học nói riêng.
- Ngoài ra tôi cũng thường xuyên tham mưu với Ban chỉ đạo xã tuyên truyền
sâu rộng về nhiệm vụ phổ cập giáo dục đến mọi tầng lớp nhân dân, các ban ngành,
đoàn thể trên địa bàn để họ hiểu và cùng hỗ trợ tạo điều kiện cho các em đến
trường.
Người thực hiện: Hồ Ái Quốc

Trang: 11


Đề tài: “Một số biện pháp hạn chế học sinh bỏ học ở Trường Tiểu học”
3.2.2. Xác định đúng trọng tâm các mục tiêu và thực hiện tốt các nội
dung cơ bản của công tác PCGDTH theo Nghị định 20/2014 của Thủ Tướng
Chính Phủ:
* Thực hiện tốt công tác huy động và tuyển sinh:
- Xã Bình Hòa Đông là một xã có điều kiện kinh tế tương đối ổn định, xã hội
phát triển, công tác huy động trẻ đến trường trong những năm qua không gặp khó
khăn, hàng năm huy động 100% trẻ trong độ tuổi thuộc đối tượng phải phổ cập đến
trường. Do đó, để nâng cao chất lượng phổ cập, nhà trường luôn quan tâm tới công
tác huy động, vận động trẻ khuyết tật, trẻ có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn trên địa
bàn xã đến trường... Nhà trường phân công các thành viên trong Ban chỉ đạo kết
hợp với các ban, ngành, đoàn thể trong Ban chỉ đạo ấp thực hiện có hiệu quả việc
theo dõi trẻ phải phổ cập; phối hợp với Hội cha mẹ học sinh, Đoàn thanh niên, Hội
phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Mặt trận,... quan tâm, giúp đỡ trẻ em có hoàn cảnh
khó khăn được tới trường.
- Để chuẩn bị khai giảng năm học mới tôi tham mưu các cấp lãnh đạo, kết

hợp với các ban ngành, đoàn thể thực hiện tốt “Ngày toàn dân đưa trẻ đến trường”,
lập thông báo phát trên trạm truyền thanh các ấp, xã. Tham mưu Ủy ban xã, kết
hợp với các ban ấp gửi thư mời nhập học đến tận gia đình các em, nhằm giúp các
bậc phụ huynh học sinh biết và kịp thời đưa con em đến đăng kí nhập học đúng
thời gian qui định. Việc nắm đối tượng học sinh lớp một, tôi còn tham khảo ý kiến
của phụ huynh, cho các em học ở điểm trường nào để việc ra lớp đạt kết quả.
Những em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, không có điều kiện đến trường tôi còn
tham mưu Ban chỉ đạo xã, ấp để có hướng giúp đỡ đối tượng này. Song song đó tôi
còn kết hợp với các ban ấp gửi thư mời nhập học cho tất cả những em đã bỏ học ở
những năm trước và tạo điều kiện cho các em tiếp tục đến trường. Nếu có trường
hợp học sinh chưa đăng kí nhập học hoặc chưa đến lớp đúng thời gian qui định, tôi
còn kết hợp với các ban ấp đến tận gia đình để vận động các em ra lớp. Ngoài việc
điều tra đối tượng ra lớp một, tôi cần nắm chắc các đối tượng lưu ban của các năm
học trước để vận động các em ra lớp trở lại đạt 100%.
* Tập trung các giải pháp duy trì số lượng học sinh, nâng cao chất lượng
dạy học và hiệu quả đào tạo:
- Trong nhiều năm qua, trường Tiểu học Bình Hòa Đông luôn thực hiện tốt
công tác duy trì sĩ số học sinh, đây là điều kiện thuận lợi để nhà trường tập trung
nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục. Là giáo viên phụ trách công tác phổ cập
trong nhà trường, tôi đã tham mưu BGH nhà trường, chỉ đạo giáo viên thực hiện
tốt việc bám sát “chuẩn kiến thức, kỹ năng” các môn học trong các tiết dạy để nâng
cao chất lượng dạy - học. Bằng việc tổ chức thực hiện đa dạng các hoạt động giáo
dục chính khóa, ngoại khóa, với việc thực hiện dạy học 2 buổi/ngày, toàn bộ học
sinh từ lớp 3 đến lớp 5 được học ngoại ngữ, chất lượng giáo dục toàn diện của nhà
trường tiếp tục được khẳng định. Đặc biệt những năm gần đây, nhà trường thực
hiện nghiêm túc quy trình bàn giao học sinh, kiểm tra, đánh giá chất lượng cuối
năm với các giải pháp sáng tạo. Do đó, chất lượng giáo dục phản ánh một cách
thực chất, hiệu quả giáo dục hàng năm đạt 95% trở lên.
- Xuất phát từ nhận thức đó, tôi luôn quan tâm đến công tác PCGDTH, quan
tâm đến việc tổ chức dạy học theo điều kiện hoàn cảnh của trường mình; đặc biệt

Người thực hiện: Hồ Ái Quốc

Trang: 12


Đề tài: “Một số biện pháp hạn chế học sinh bỏ học ở Trường Tiểu học”
là không vì “bệnh thành tích” mà chạy theo số lượng. Tôi luôn coi trọng công tác
vận động, tuyên truyền.
* Thực hiện tốt công tác quản lí số liệu và quản lí hồ sơ PCGDTH:
- Công tác phổ cập là một việc làm liên tục có tính kế thừa không phải việc
làm mang tính thời vụ. Vì vậy đòi hỏi người phụ trách công tác phổ cập phải có
tính sáng tạo, khoa học thì mới đạt được hiệu quả cao. Các trường lập danh sách
học sinh của trường mình theo từng ấp cụ thể chính xác gửi về bộ phận phổ cập để
lấy. Các nhóm điều tra của các trường sau khi điều tra xong các ấp của mình phụ
trách, dựa vào danh sách học sinh của các trường gửi về thì có trách nhiệm đối
chiếu lại cho đúng và trùng khớp các thông tin với nhau, nếu trường nào làm sai thì
phải tự kiểm tra và tìm cho bằng được lỗi của trường mình sai sót. Bằng cách làm
đó thì trường nào cũng có trách nhiệm về nhiệm vụ của mình và tự chịu trách
nhiệm trước BCĐ phổ cập. Mặt khác sẽ kiểm tra và quản lý được đối tượng học
sinh đang học của 4 cấp từ bậc mầm non đến bậc Tiểu học, bậc Trung học cơ sở và
bậc Trung học một cách chính xác và đồng bộ.
- Để thực hiện tốt công tác quản lí số liệu trẻ phải phổ cập trong địa bàn và
lập hồ sơ lưu trữ có giá trị lâu dài, nhiệm vụ đầu tiên người làm công tác phổ cập là
phải có kế hoạch tổng điều tra sau 5 năm và điều tra bổ sung hằng năm để nắm
chắc số liệu cần tập trung huy động ra lớp đồng thời làm căn cứ cho việc lập kế
hoạch phát triển giáo dục theo từng giai đoạn cụ thể. Kế hoạch phải rõ người, rõ
việc, rõ thời gian hoàn thành gắn với nội dung thi đua của từng cá nhân và tập thể.
- Trong quá trình điều tra, yêu cầu GV điều tra phải phối hợp chặt chẽ với ủy
ban nhân dân xã, trưởng ban dân số ấp để nắm được tổng số hộ phải điều tra, đặc
điểm sinh hoạt của nhân dân ấp đó. Trong quá trình điều tra tuyệt đối không dừng

lại ở chỗ chỉ đến nhà trưởng ấp hoặc cộng tác viên dân số để lấy số liệu mà phải
đến từng hộ dân để điều tra, nắm bắt thông tin của trẻ, có như vậy việc ghi chép
mới chính xác, cập nhật thông tin kịp thời theo yêu cầu của việc điều tra.
- Việc ghi chép phiếu điều tra hộ gia đình cần ghi đầy đủ không bỏ qua cột
nào và tất cả biểu hiện về ghi chép của trẻ đều có căn cứ minh chứng, sắp xếp số
phiếu theo vị trí đặc điểm của mỗi hộ để thuận lợi nhất cho việc điều tra và tránh
sai sót, bởi sai sót bất cứ thông tin nào cũng gặp khó khăn trong quá trình cập nhật
số liệu, báo cáo thống kê và huy động ra lớp.
- Để thực hiện tốt công tác thống kê, theo dõi và xử lý số liệu tôi đã sử dụng
phần mềm phổ cập giáo dục theo mẫu của Bộ giáo dục, với phần mềm này những
người phụ trách công tác phổ cập sẽ dễ dàng thống kê, tìm kiếm cũng như theo dõi
và báo cáo số liệu phổ cập.
- Qua quá trình điều tra, giáo viên cần cập nhật những thay đổi về số liệu, rà
soát kĩ trước khi nhập, điều chỉnh số liệu trong phần mềm, mọi báo cáo, thống kê,
số liệu sẽ được lấy từ phần mềm.
- Mỗi năm học, trước khi nghỉ hè, tổ chức điều tra bổ sung; trước khi bước
vào năm học mới, rà soát kết quả điều tra bổ sung, đối chiếu giữa danh sách và sổ
điều tra; chú ý hơn đến trẻ 6 tuổi và các đối tượng có nguy cơ bỏ học giữa chừng
cũng như HS lưu ban, HS khuyết tật học hòa nhập, HS có hoàn cảnh khó khăn,…
để huy động 100% trẻ phải phổ cập ra lớp.
Người thực hiện: Hồ Ái Quốc

Trang: 13


Đề tài: “Một số biện pháp hạn chế học sinh bỏ học ở Trường Tiểu học”
- Đối với công tác thống kê số liệu của nhà trường tôi luôn theo dõi sát sao
số HS chuyển đi, chuyển đến, số HS lưu ban hằng năm có sổ theo dõi diễn biến số
lượng HS hằng năm, sổ theo dõi HS chuyển đi, chuyển đến cập nhật thời gian đi,
đến; lớp lưu ban của HS cũng như trẻ trong địa bàn quản lí. Từ đó làm căn cứ để

ghi vào sổ đăng bộ của nhà trường. (Ghi đầy đủ theo yêu cầu của sổ vì thiếu thông
tin nào cũng làm khó khăn cho quá trình kiểm tra, đối chiếu, ghi nhận kết quả của
các nhà quản lí.)
- Mỗi năm học, trước khi bước vào năm học mới, rà soát kết quả điều tra bổ
sung, đối chiếu giữa danh sách và sổ điều tra; tuyển sinh các cháu 6 tuổi của
Trường Mẫu giáo vào lớp 1, đối chiếu số trẻ 6 tuổi để huy động 100% trẻ PC ra
lớp. Khi cần thiết nhờ đến chính quyền địa phương, các hội đoàn thể để giúp đỡ và
huy động các em ra lớp.
- Riêng sổ theo dõi phổ cập cần ghi rõ nơi ở từ ấp, xã huyện, tỉnh; sổ đăng bộ phải
ghi chép đầy đủ thông tin của từng trẻ đã đến trường. Các loại sổ này luôn luôn được
BGH kiểm tra và kí, đóng dấu nhà trường hằng năm; riêng sổ theo dõi phổ cập phải được
BCĐ xã kiểm tra và kí vào tháng 9 hằng năm trước khi lên thống kê.
- Bản thân tôi là người chịu trách nhiệm chính từ khâu tổ chức huy động trẻ
ra lớp đến khâu thống kê, cập nhật số liệu, tìm minh chứng có sự cộng tác của GV,
nhân viên và sự chỉ đạo, theo dõi, giám sát của Hiệu trưởng.
- Tổ chức điều tra chu đáo, phân công trách nhiệm rõ ràng, dưới sự quan tâm sâu
sát của Hiệu trưởng, nhiều năm qua đơn vị tôi huy động đạt 100% trẻ trong diện phải
phổ cập ra lớp và không phải mất nhiều công sức cho công tác này.
3.3. Kết hợp tốt 3 môi trường giáo dục:
3.3.1. Về phía gia đình:
- Thường xuyên kết hợp với Ban ấp, Đoàn Thanh Niên, Hội phụ nữ, …
tuyên truyền cho cha mẹ học sinh biết “Học là con đường duy nhất để xóa đói
giảm nghèo”. Làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục, đặc biệt quan tâm đến những
học sinh thuộc gia đình khó khăn, học sinh mồ côi, học sinh có đạo đức chưa tốt để
cùng giáo viên, Ban giám hiệu nhà trường trực tiếp phối hợp vận động từng gia
đình để có phương pháp quản lý tốt học sinh. Đến từng hộ gia đình có con em nghỉ
học nhiều có nguy cơ dẫn đến bỏ học, để tìm hiểu tâm tư nguyện vọng, tình hình
kinh tế gia đình, từ đó đưa ra những biện pháp khắc phục phù hợp với tình hình
thực tế của từng hộ gia đình, nhằm mục đích cuối cùng là đưa các em trở lại lớp.
- Tham mưu Hội phụ nữ xã liên hệ với ngân hàng chính sách huyện cho các

chị em phụ nữ nghèo vay vốn, cải thiện mô hình kinh tế gia đình, tận dụng đất sẵn
có bỏ trống, tranh thủ thời gian nhàn rỗi góp phần xóa đói giảm nghèo, tạo công ăn
việc làm tại chỗ, phòng chống tình trạng học sinh bỏ học đi theo gia đình làm ăn xa
phải bỏ học.
- Thường xuyên liên hệ với phụ huynh học sinh để báo cáo kết quả học tập
của các em (nhất là học sinh yếu có nguy cơ bỏ học). Trao đổi với phụ huynh học
sinh đưa ra giải pháp tốt nhất để giúp các em trở lại lớp (vận động gia đình, hỗ trợ
vật chất . . . ).
- Các bậc phụ huynh phải thường xuyên kiểm tra tập vở của con em mình để
xem các em có chép bài đầy đủ không? Làm bài như thế nào?… Phụ huynh đôi khi
cũng nên vào trường thăm con mình đột xuất, giữa các tiết học để kiểm tra và
Người thực hiện: Hồ Ái Quốc

Trang: 14


Đề tài: “Một số biện pháp hạn chế học sinh bỏ học ở Trường Tiểu học”
thường xuyên liên lạc với giáo viên chủ nhiệm để biết rõ việc học của con em
mình. Khi có giấy mời họp, phụ huynh nên sắp xếp và dành thời gian đến gặp nhà
trường. Ngoài ra, cũng nên xem kỹ phiếu theo dõi học tập của con mình hàng
tháng, ký tên và nên có ý kiến đề xuất với giáo viên chủ nhiệm. Khi các em thấy
giữa gia đình và giáo viên có sự hợp tác chặt chẽ thì việc cúp tiết, bỏ học sẽ không
còn xảy ra nữa.
3.3.2.Về phía nhà trường:
3.3.2.1. Thực hiện tốt công tác tham mưu, chỉ đạo:
- Hằng năm nhà trường có kế hoạch tham mưu với Đảng ủy, chính quyền địa
phương và Ban chỉ đạo phổ cập của xã kiện toàn Ban chỉ đạo Phổ cập. Từ đó phân
công trách nhiệm cụ thể cho từng thành viên về nhiệm vụ phổ cập giáo dục để
nâng cao hiệu quả nhiệm vụ được giao.
- Tham gia các cuộc họp Ban chỉ đạo phổ cập xã để triển khai kế hoạch phổ

cập chung của toàn xã trong đó bao gồm Phổ cập giáo dục giáo dục tiểu học cho
nhà trường để các thành viên nắm bắt.
- Tham mưu Ban chỉ đạo phổ cập xã h kiểm tra tổng kết, đánh giá việc thực
hiện phổ cập trong một năm. Khen thưởng kịp thời nhằm động viên các cá nhân và
tập thể làm tốt công tác phổ cập, đồng thời có biện pháp xử lý chấn chỉnh những
cá nhân và tập thể còn thực hiện chưa tốt phần nhiệm vụ của mình.
3.3.2.2. Bồi dưỡng nhận thức tư tưởng chính trị cho đội ngũ giáo viên:
- Nhận thức là tiền đề của hoạt động, có nhận thức đúng mới có hành động
đúng đó là cơ sở để hướng tới kết quả hoàn thiện.
- Thường xuyên tuyên truyền, phổ biến cho đội ngũ giáo viên về tầm quan
trọng của công tác Phổ cập giáo dục nói chung và Phổ cập giáo dục tiểu học trong
nhà trường nói riêng. Giải thích cho mọi thành viên trong nhà trường hiểu công tác
phổ cập là của toàn hội đồng nhà trường và của toàn xã hội. Một hội đồng thực
hiện hai nhiệm vụ; không phải nhiệm vụ của mình đến trường là giảng dạy mà
ngoài ra còn phải tham gia tích cực các công việc khác khi cần thiết đặc biệt là
công tác phổ cập. Mặt khác, khi phân công tổ trưởng phụ trách công tác điều tra và
nhập dữ liệu tôi thường phân công cho đội ngũ đảng viên gánh vác, để trong quá
trình thực hiện họ có trách nhiệm đôn đốc, kiểm tra các thành viên trong nhóm của
mình làm việc có hiệu quả hơn.
3.3.2.3. Thực hiện tốt công tác huy động và tuyển sinh:
- Đây là một nhiệm vụ trọng tâm của công tác giáo dục. Vì vậy hằng năm
nhà trường luôn quan tâm tới công tác huy động học sinh trong độ tuổi ra lớp, vận
động trẻ khuyết tật, trẻ có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn trên địa bàn xã đến trường.
Để làm tốt điều đó nhà trường đã thường xuyên phối kết hợp với các ban ngành,
đoàn thể trong các ấp trên địa bàn tuyên truyền sâu rộng "Ngày toàn dân đưa trẻ
đến trường" để cho phụ huynh nắm bắt. Những trường hợp nào chưa ra lớp nhà
trường đã phân công giáo viên và kết hợp với cán bộ trong ấp đến tận nhà động
viên phụ huynh cho con em ra lớp. Với cách làm như vậy trong những năm vừa
qua trường chúng tôi huy động 100% học sinh trong độ tuổi ra lớp kể cả học sinh
khuyết tật.

- Song song với với việc huy động thì nhà trường cũng thường xuyên quan
tâm duy trì số lượng học sinh trên lớp. Chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm có nhiều biện
Người thực hiện: Hồ Ái Quốc

Trang: 15


Đề tài: “Một số biện pháp hạn chế học sinh bỏ học ở Trường Tiểu học”
pháp tốt trong công tác chủ nhiệm đặc biệt là duy tốt số lượng học sinh của lớp
mình phụ trách để hạn chế tối đa học sinh bỏ học giữa chừng trong độ tuổi đến
trường.
3.3.2.4. Nâng cao chất lượng đội ngũ và nâng cao chất lượng dạy và học:
- Hằng năm nhà trường luôn chú trọng đội ngũ giáo viên đồng bộ về cơ cấu,
đảm bảo về chất lượng như trình độ chuẩn hóa và trên chuẩn. Bố trí và sử dụng
đội ngũ giáo vên phù hợp với chuyên môn và sở trường cũng như điều kiện gia
đình của bản thân từng đồng chí để giáo viên an tâm công tác thực hiện tốt nhiệm
vụ được giao. Động viên và tạo điều kiện cho cán bộ, giáo viên của trường tham
gia tự học các lớp bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn và nghiệp vụ để thực
hiện nâng chuẩn.
- Nhà trường thường xuyên tổ chức bồi dưỡng chuyên môn và năng lực sư
phạm cho giáo viên, chú trọng các chuyên đề nâng cao chất lượng dạy và học.
Tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng lấy học sinh làm trung tâm,
phát huy tính chủ động tích cực sáng tạo của học sinh trong học tập. Thường xuyên
rèn kỹ năng, tự học, tự nghiên cứu cho học sinh. Làm tốt công tác phụ đạo học sinh
yếu, bồi dưỡng học sinh giỏi nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, hạn chế tối đa học
sinh lưu ban, bỏ học.
- Nhà trường luôn tạo điều kiện để giáo viên chủ động trong việc thực hiện
kế hoạch giảng dạy học sinh của lớp mình chủ nhiệm. Từ đó giáo viên cũng sẽ tự
tin hơn trong quá trình cụ thể hóa chương trình, chủ động trong việc giảng dạy
chương trình, chuẩn kiến thức kỹ năng.

3.3.2.5. Đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục, xây dựng hệ thống cơ sở
vật chất trong nhà trường đáp ứng yêu cầu giáo dục:
- Về công tác xã hội hóa giáo dục được nhà trường luôn coi trọng nhằm đáp
ứng được yêu cầu về đảm bảo cho mọi trẻ em đều được đến trường, được học tập
trong môi trường gần gũi, trong lành và dân chủ; nhà trường là nơi trẻ em thực sự
yêu thích, các em được yêu thương, chăm sóc và giáo dục phù hợp với tâm sinh lí
lứa tuổi, người cán bộ quản lí phải làm tốt công tác xã hội hoá giáo dục, tích cực
làm tốt công tác tham mưu cho các cấp lãnh đạo Đảng và chính quyền địa phương
ở xã, huyện để kêu gọi sự chung tay góp sức của toàn xã hội, của các cấp, các
ngành qua sự giúp đỡ, chỉ đạo của Phòng giáo dục.
- Sự quan tâm không chỉ dừng lại ở chủ trương mà bằng việc làm cụ thể, đưa
Nghị quyết vào cuộc sống. Có như vậy mới tạo niềm tin trong nhân dân, trường
mới đủ cơ sở vật chất như phòng học, các phòng chức năng, phòng làm việc,
phòng thư viện,… nói chung đủ các nhu cầu thiết yếu như các tiêu chuẩn về chuẩn
PCGDTH mức độ 3; giúp giáo viên thực hiện nhiệm vụ đổi mới phương pháp dạy
học của mình. Bởi đổi mới phương pháp dạy học trên cơ sở đổi mới nội dung
chương trình, sách giáo khoa. Ngoài ra còn phải có điều kiện về cơ sở vật chất
tương ứng. Chẳng hạn muốn thực hiện bài dạy bằng giáo án điện tử, trường phải có
máy chiếu, có laptop; muốn giáo viên, học sinh có đủ tài liệu tham khảo thư viện
trường phải đảm bảo số lượng sách và các loại sách phải đa dạng, phong phú.
- Vai trò của Hội khuyến học và các đoàn thể đã có tác động khá lớn đối với
công tác PCGDTH. Bất cứ trường học nào cũng sẽ có một bộ phận không nhỏ học
sinh nghèo, học sinh không nơi nương tựa, học sinh khuyết tật, học sinh có bệnh
Người thực hiện: Hồ Ái Quốc

Trang: 16


Đề tài: “Một số biện pháp hạn chế học sinh bỏ học ở Trường Tiểu học”
hiểm nghèo hoặc học sinh có hoàn cành khó khăn. Làm sao để học sinh nằm trong

những hoàn cảnh trên vẫn có điều kiện đê tiếp tục đến trường, đó là một vấn đề
trăn trở đối với những người làm công tác quản lý, làm công tác giáo dục. Tập thể
nhà trường trong những năm qua đã làm tốt công tác nhân đạo từ thiện đối với
những em có hoàn cảnh như trên để các em vơi bớt những khó khăn trong cuộc
sống tạo điều kiện các em tự tin vượt lên trong học tập. Bằng cách nhà trường cùng
các đoàn thể trong trường thường xuyên phát động nhiều đợt quyên góp trong năm
học để giúp đỡ học sinh có hoàn cảnh không may mắn vẫn được đi học. Nhà
trường đã có sự phối hợp với các đoàn thể địa phương, tổ chức quyên góp, tặng
sách vở, quần áo, dụng cụ học tập cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn; việc trao
học bổng, tặng quà cho học sinh nghèo, học sinh vượt khó học giỏi… được địa
phương, tập thể, cá nhân, các tổ chức xã hội quan tâm, góp phần nâng cao chất
lượng PCGDTH trên địa bàn xã. Trong năm 2015 số tiền xã hội hóa ủng hộ nhà
trường là 43 triệu đồng, riêng bản thân tôi đã thực hiện mô hình học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí minh; đảng viên với mô hình nuôi heo đất tặng mẹ
Việt Nam anh hùng Lâm Thị Rảnh của xã vào dịp tết với số tiển là 1 triệu đồng từ
năm 2013 đến nay.
3.3.2.6. Theo dõi, cập nhật, quản lý hệ thống hồ sơ phổ cập của trường
đầy đủ, chính xác khoa học:
- Để đảm bảo số lượng trẻ trong diện phổ cập theo dõi một cách chính xác
trên hệ thống hồ sơ sổ sách thì từ phiếu điều tra, sổ phổ cập, số đăng bộ, danh sách
học sinh đang học hằng năm, sổ chuyển đi, chuyển đến, tất cả các thông tin số liệu
phải đảm bảo đầy đủ, chính xác trùng khớp nhau. Hằng năm cập nhật tổng hợp các
thông tin lên lớp, ở lại, chuyển đi, chuyển đến kịp thời vào sổ phổ cập và sổ đăng
bộ.
- Hằng năm nhà trường phải có một số theo dõi riêng số học sinh trong địa
bàn theo học các nơi khác và học sinh ngoài địa bàn học tại trường, học sinh
khuyết tật,... Nếu làm tốt các khâu đó thì việc thống kê số liệu trên các biểu mẫu sẽ
thuận lợi hơn nhiều. Cập nhật thường xuyên các thông tin liên quan đến phổ cập
vào hồ sơ đầy đủ và các loại hồ sơ phải được lưu giữ cẩn thận và lâu dài.
3.3.3. Về phía xã hội:

- Đảng ủy, HĐND, UBND, trước hết với hội đồng giáo dục xã tuyên truyền
để nâng cao nhận thức của mọi thành viên trong xã hội về vị trí vai trò của giáo
dục để từ đó họ tự giác, tự nguyện chăm lo việc học tập của con em. Thông qua hội
đồng giáo dục xã, tham mưu xây dựng quỹ khuyến học, khuyến tài giúp đỡ học
sinh có hoàn cảnh khó khăn để các em có điều kiện học tập. Tuyên truyền vận
động tổ chức, cá nhân chăm lo xây dựng quỹ để khen thưởng học sinh giỏi, giúp
đỡ học sinh yếu kém, học sinh có hoàn cảnh khó khăn có đủ điều kiện tham gia
học tập tại trường.
- Cấp Ủy Đảng ,Uỷ ban xã vận động các tổ chức, cá nhân hỗ trợ các em có
nguy cơ bỏ học vì hoàn cảnh kinh tế. Tăng cường công tác tuyên truyền trong các
tầng lớp nhân dân, các bậc cha mẹ học sinh tạo điều kiện tốt nhất cho việc học của
con em, không để học sinh bỏ học.

Người thực hiện: Hồ Ái Quốc

Trang: 17


Đề tài: “Một số biện pháp hạn chế học sinh bỏ học ở Trường Tiểu học”
- Ủy ban nhân dân xã - Hội khuyến học - Ban giám Hiệu mở các lớp chuyên
đề hội thảo để tìm các giải pháp, biện pháp ngăn chặn tình trạng học sinh bỏ học
trên địa bàn xã.
4. KẾT QUẢ, CHUYỂN BIẾN CỦA ĐỐI TƯỢNG:
Từ khi áp dụng đề tài (năm học 2012 - 2013), nhờ vận dụng các giải pháp,
biện pháp ngăn chặn, hạn chế học sinh bỏ học nêu trên cùng với sự nỗ lực của bản
thân và tập thể sư phạm nhà trường với sự kết hợp của 3 môi trường giáo dục đã
đạt được kết quả như sau:
Năm học

Tổng số HS


Bỏ học

Tỉ lệ

2015 - 2016

442

01

0,22%

Và như vậy, sau khi áp dụng đề tài đến thời điểm tháng 4 năm 2016 trường
Tiểu học Bình Hòa Đông có 01 em tên Nguyễn Nhật Huy học sinh lớp 1A 1 hộ
khẩu xã Bình Hòa Đông đã bỏ địa phương theo mẹ đi làm xa do cha, mẹ bất hòa
nên đã ly dị do đó em không thể ra lớp học được.

Người thực hiện: Hồ Ái Quốc

Trang: 18


Đề tài: “Một số biện pháp hạn chế học sinh bỏ học ở Trường Tiểu học”
PHẦN III
KẾT LUẬN
1. TÓM TẮT GIẢI PHÁP
a. Giải pháp:
- Vấn đề học sinh bỏ học không chỉ là mối quan tâm của xã Bình Hòa Đông
mà cũng là mối quan tâm của toàn huyện. Vì thế, bản thân tôi là một giáo viên phổ

cập, điều tôi mong muốn là làm như thế nào tất cả trẻ em trong độ tuổi đi học đều
được cắp sách đến trường và cũng đồng nghĩa để góp phần đạt chuẩn phổ cập giáo
dục tiểu học. Cho nên, khi chọn đề tài: “Một số biện pháp hạn chế học sinh bỏ
học ở trường Tiểu học”, bản thân đúc kết một số giải pháp sau:
- Vấn đề học sinh bỏ học là nhiệm vụ trọng tâm của nhà trường, nên việc
tuyên truyền, vận động đóng vai trò hết sức quan trọng. Công tác tham mưu Ban
chỉ đạo xã, ấp và Ban giám hiệu nhà trường cần phải được thực hiện thường xuyên
và liên tục, việc tổ chức điều tra, rà soát, thống kê, cập nhật từng độ tuổi để có kế
hoạch huy động kịp thời số học sinh lưu ban, bỏ học trở lại lớp. Sự phối kết hợp
với các ban ngành, đoàn thể và giáo viên trong việc tuyên truyền, vận động học
sinh ra lớp phổ thông, phổ cập cần phải được thực hiện một cách đồng bộ.
- Thường xuyên quan tâm đến các hoạt động của học sinh. Giáo viên cần
phải sắp xếp để có nhiều thời gian hơn nữa gặp gỡ, trao đổi với lớp để nắm bắt tình
hình học sinh của lớp từ đó sẽ có những thông tin về việc nghỉ học, nguy cơ bỏ học
của học sinh để có thể tìm ra biện pháp kịp thời ngăn chặn việc bỏ học của các em.
Sự quan tâm thường xuyên của người giáo viên chính là một biện pháp tinh thần
hết sức quan trọng để hạn chế nguy cơ bỏ học của học sinh một cách tốt nhất.
- Mối quan hệ chặt chẽ giữa Ban giám hiệu trong nhà trường với giáo viên
sẽ là một trong những biện pháp quan trọng nhằm góp phần duy trì sĩ số học sinh.
Khi có dấu hiệu học sinh nghỉ học thường xuyên hay bỏ học giữa chừng người
giáo viên nên báo ngay cho Ban giám hiệu để có hướng xử lý kịp thời và tìm ra
nguyên nhân, biện pháp thích hợp tốt nhất để ngăn ngừa học sinh bỏ học, vận động
học sinh trở lại lớp.
- Phát huy hơn nữa vai trò của Hội đồng giáo dục, Hội phụ huynh học sinh để
nâng cao nhận thức của toàn dân về tầm quan trọng của việc học tập.
Thường
xuyên liên lạc với các bậc phụ huynh học sinh sẽ giúp cho giáo viên nắm bắt rõ
hơn về thời gian biểu của các học sinh cũng như các thói quen, sở thích và tính
cách của từng học sinh. Một khi hiểu rõ học sinh thì giáo viên sẽ có nhiều giải
pháp tốt hơn để giúp học sinh chuyên cần hơn trong việc học tập. Khi có học sinh

bỏ học giáo viên cần gặp trực tiếp phụ huynh để trao đổi các thông tin, cùng nhau
tìm các giải pháp phối hợp tốt hơn đưa học sinh trở lại trường. Học sinh sẽ trở nên
chuyên cần, tích cực học tập hơn nếu sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình chặt
chẽ hơn. Đối với những phụ huynh học sinh tích cực quan tâm đến tình hình học
tập của con em mình sẽ tích cực ủng hộ nhà trường trong công tác duy trì sĩ số học
sinh, góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục.
- Thường xuyên tổ chức các hoạt động tập thể, các hoạt động văn hóa văn
nghệ, thể dục thể thao cho học sinh. Qua các hoạt động này cho thấy các em đến
trường không những được học tập văn hóa mà còn được vui chơi.
Người thực hiện: Hồ Ái Quốc

Trang: 19


Đề tài: “Một số biện pháp hạn chế học sinh bỏ học ở Trường Tiểu học”
- Làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục, nhằm hỗ trợ công tác giáo dục và tạo
sự đồng thuận, gắn kết ba môi trường giáo dục.
- Vận động học sinh bỏ học trở lại trường là một công tác không thể thiếu
trong nhà trường nhằm góp phần duy trì sĩ số học sinh gắn kết với kế hoạch trường
đạt chuẩn quốc gia.
b. Bài học kinh nghiệm:
Qua quá trình thực hiện đề tài, bản thân rút ra được những bài học kinh
nghiệm sau:
- Công tác tham mưu, phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương phải kịp
thời, thường xuyên.
- Phát huy tốt ba môi trường giáo dục: Gia đình – Nhà trường – Xã hội.
- Làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục.
- Giáo viên phải là chỗ dựa tinh thần vững chắc của học sinh, tạo cho các em
một môi trường học tập thật sinh động, làm sao cho học sinh cảm thấy trường học là
ngôi nhà thứ hai của các em. Giáo viên phải có tình yêu thương và tận tình giúp đỡ các

em. Luôn phải kiên trì, tận tâm, tận lực và phải tâm niệm rằng: “Tất cả vì học sinh thân
yêu”. Một điều quan trọng nhất là sự nhiệt tình giảng dạy của các thầy cô giáo. Những
bài giảng của thầy cô cần phải tạo cho các em tâm lí muốn học và thích đến lớp hơn.
Thầy, cô giáo không những truyền thụ kiến thức mà còn phải dạy các em cách làm
người. Vì vậy với giáo viên không chỉ có chuyên môn tốt mà còn phải kiên trì, hiểu tâm
lí học sinh và tận tụy với nghề. Nếu yêu cầu ở các em quá cao hay phương pháp không
phù hợp có thể khiến các em có tâm lí “sợ học” bởi vậy bài giảng phải luôn vừa sức
với học sinh nhưng kiến thức vẫn đủ và sinh động, lí thú, từ đó học sinh mới đi học đều.
- Thường xuyên tổ chức các hoạt động tập thể, các hoạt động văn hóa văn nghệ,
thể dục, thể thao cho học sinh. Qua các hoạt động này cho thấy các em đến trường
không những đến để học mà đến trường là vừa được học, vừa được chơi.
- Việc vận động học sinh ra lớp phải có sự phối, kết hợp của Ban chỉ đạo ấp,
đại diện phụ huynh học sinh và giáo viên chủ nhiệm. Tổ chức đi như vậy vừa tạo
ra bầu không khí, động lực làm cho phụ huynh, học sinh thấy sự quan tâm đến việc
học của học sinh không chỉ có thầy, cô giáo mà còn có các ban, ngành cũng đều
quan tâm.
- Đề tài trên đây đã đưa ra những cơ sở lý luận, thực trạng, nguyên nhân và
những giải pháp của việc vận động học sinh bỏ học ra lớp và duy trì sĩ số học sinh
để đảm bảo chuyên cần nhằm đáp ứng tốt cho công tác phổ cập giáo dục và xây
dựng xã hội học tập trong địa bàn với đặc thù của trường tiểu học Bình Hòa Đông.
2. PHẠM VI, ĐỐI TƯỢNG ÁP DỤNG
Đề tài: “Một số biện pháp hạn chế học sinh bỏ học ở trường Tiểu học”
đã áp dụng cho học sinh tiểu học ở xã Bình Hoà Đông và cũng có thể áp dụng các
biện pháp này cho các xã vùng sâu.
3. KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI CÁC CẤP LÃNH ĐẠO
- Đề nghị các cấp lãnh đạo, chính quyền địa phương quản lý tốt các điểm vui
chơi giải trí, chống không để thâm nhập tới học sinh làm ảnh hưởng không tốt cho
việc giáo dục học sinh.
Người thực hiện: Hồ Ái Quốc


Trang: 20


Đề tài: “Một số biện pháp hạn chế học sinh bỏ học ở Trường Tiểu học”
- Các cấp lãnh đạo của địa phương cần quan tâm hơn nữa trong việc phối kết
hợp của 3 môi trường giáo dục nhất là công tác phòng và chống học sinh lưu ban,
bỏ học để công tác phổ cập của địa phương đạt kết quả tốt hơn.
- Cần có sự vào cuộc một cách nghiêm túc, quyết liệt của các cơ quan chức
năng trong công tác quản lý nhân khẩu, hộ khẩu, công tác thống kê,...
Trên đây tôi đã trình bày những kinh nghiệm của bản thân về “Một số biện
pháp hạn chế học sinh bỏ học ở trường Tiểu học”. Đây là sáng kiến kinh
nghiệm do bản thân tôi nghiên cứu và viết, không sao chép nội dung của người
khác. Kính mong các cấp lãnh đạo và bạn bè đồng nghiệp bổ sung và đóng góp ý
kiến để nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả và chất lượng của công tác phổ cập giáo
dục.
Bình Hòa Đông, ngày 14 tháng 04 năm 2016
Người thực hiện

Hồ Ái Quốc

Người thực hiện: Hồ Ái Quốc

Trang: 21



×