Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

SKKN dạy từ vựng Tiếng Anh tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 26 trang )

PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài :
Trong xu thế hội nhập, Tiếng Anh đã trở thành ngôn ngữ chung của toàn cầu
để tất cả mọi người trên thế giới có thể thấu hiểu và chia sẻ cùng nhau. Hiện thế
giới có trên 50 quốc gia sử dụng Tiếng Anh là ngôn ngữ chính, gần 80 quốc gia sử
dụng Tiếng Anh là ngôn ngữ thứ hai. Trong tất cả các lĩnh vực từ kinh doanh,
thương mại, truyền thông cho đến du lịch, ngoại giao,...Tiếng Anh đều đóng vai trò
là ngôn ngữ số một. Đối với Việt Nam trong việc hội nhập kinh tế thế giới, nhất là
khi quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra với tốc độ nhanh thì biết Tiếng Anh, giỏi
Tiếng Anh sẽ giúp chúng ta có một ưu thế vượt trội hơn những nước khác trong
khu vực như Lào, Campuchia, và đặc biệt là Trung Quốc. Cùng với sự phát triển
của công nghệ, y học, kỹ thuật và giáo dục… đó là những nơi mà Tiếng Anh đóng
vai trò quan trọng nhất. Đặc biệt đối với một nước đang phát triển như Việt Nam,
Tiếng Anh đã được giảng dạy từ rất sớm. Dạy Tiếng Anh cho trẻ em hiện nay đang
nhận được sự nhiều sự quan tâm của giáo viên dạy Tiếng Anh và các bậc phụ
huynh. Cùng với sự hội nhập của Việt Nam vào nền kinh tế quốc tế, nhu cầu học
Tiếng Anh không còn là một sở thích của một số người có năng khiếu nữa. Việc
học và thông thạo Tiếng Anh như một ngôn ngữ giao tiếp quốc tế thông dụng đã
được xác định là thiết yếu cho mọi lứa tuổi. Vì lẽ đó, Tiếng Anh đã được Bộ Giáo
dục và Đào tạo quyết định đưa vào chương trình học chính khóa từ lớp 3. Quyết
định này đã thể hiện rõ chiến lược trong giáo dục Việt Nam khi chọn Tiếng Anh là
trọng tâm hàng đầu để tiến vào tương lai. Việc đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng tích cực, phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh cũng đã được đưa
vào áp dụng trong các nhà trường. Người học đóng vai trò trung tâm còn giáo viên
chỉ đóng vai trò là người hướng dẫn và là người giúp đỡ các em lĩnh hội kiến thức
một cách hiệu quả hơn. Song song với đó, Bộ Giáo Dục cũng đang tập trung đổi
mới chương trình môn Tiếng Anh ngay từ cấp Tiểu học. Ngày 30/9/2008 Thủ
tướng Chính phủ đã ký quyết định số 1400/QĐ-TTg, phê duyệt Đề án “Dạy và học
ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân” (gọi tắt là đề án ngoại ngữ 2020).
Mục tiêu chung của đề án là “Thực hiện đổi mới toàn diện việc dạy và học ngoại
1




ngữ trong hệ thống giáo dục, trong đó có giáo dục đại học, nhằm đảm bảo đến
năm 2015 đạt được bước tiến rõ rệt về trình độ, năng lực sử dụng ngoại ngữ của
nguồn nhân lực, nhất là đối với một số lĩnh vực ưu tiên…..”. Thể hiện quyết tâm
thực thi Đề án Ngoại ngữ 2020, ngày 8/4/2011 Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
đã ký Quyết định số 1400/QĐ-BGDĐT thành lập Ban Quản lý Đề án “Dạy và học
ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008-2020”. Qua đó ta thấy
rằng Nhà Nước đã có mối quan tâm đáng kể đến chiến lược đào tạo ngoại ngữ cho
thế hệ tương lai của quốc gia.
Dạy học là một công việc có rất nhiều thử thách, cứ mỗi năm trôi qua lại xuất
hiện những thay đổi mới vì thế giới luôn thay đổi từng ngày và giáo viên phải luôn
sẵn sàng tiếp nhận và truyền lại những kiến thức mới cho học sinh của mình. Làm
thế nào để giúp học sinh học tốt môn Tiếng Anh, biết vận dụng và nâng cao khả
năng giao tiếp vẫn còn rất nhiều khó khăn. Để thu hút học sinh chú tâm vào việc
học là vấn đề đòi hỏi người làm giáo dục, các thầy cô tâm huyết với nghề, hội đồng
sư phạm nhà trường quan tâm hàng đầu, luôn nỗ lực đề ra kế hoạch, chương trình,
hình thức, cải tiến phương pháp để dạy và học tốt hơn, nâng cao chất lượng và hiệu
quả giáo dục.
Ở bậc Tiểu học, lượng kiến thức Tiếng Anh của các em chủ yếu xoay quanh
những chủ điểm rất gần gũi, được các em yêu thích và quen thuộc, là những chủ
điểm giới thiệu bản thân, chủ điểm trường lớp bạn bè, chủ điểm gia đình và chủ
điểm khác (thế giới xung quanh các em). Thông qua những chủ điểm này, các em
sẽ tích cóp được một lượng từ vựng và mẫu câu cơ bản tạo tiền đề cho các cấp học
sau. Tuy nhiên Tiếng Anh là một môn học mới ở cấp Tiểu học nên phần lớn các
em học sinh chưa chú tâm vào việc đầu tư cho môn học này, chuẩn bị bài ở nhà
còn rất sơ sài. Đồng thời vẫn có một số lượng không nhỏ học sinh còn chưa học tốt
Tiếng Việt vì vậy việc ghi nhớ từ vựng, vận dụng các mẫu câu Tiếng Anh được
cung cấp ở trường vào việc giao tiếp còn rất nhiều hạn chế và khó khăn. Từ đó,
một số em có tâm lý chán học bộ môn Tiếng Anh. Trong các giờ học, đa số các

em thường thụ động, thiếu sự linh hoạt, ngại việc đọc - nói Tiếng Anh và ít tham
2


gia phát biểu để tìm hiểu bài học. Theo kinh nghiệm bản thân, tôi thấy một thực
trạng là đa số học sinh còn yếu về phương pháp học từ vựng môn Tiếng Anh như:
-Không nắm được số lượng từ vựng nhất định được đề cập trong sách giáo
khoa vì vậy dẫn đến không có đủ lượng từ để giao tiếp.
-Không nắm được từ vựng nên không hiểu được nội dung bài khóa dẫn đến
không thể làm được bài tập đọc hiểu.
-Không nắm được từ vựng nên ngại nói bằng Tiếng Anh trong các giờ học
Tiếng Anh…
Để khắc phục những tình trạng bất cập trên của học sinh, tôi xin nêu ra một
vài phương pháp mà bản thân tôi đã sử dụng trong quá trình giảng dạy, giúp học
sinh đạt kết quả tiến bộ hơn trong học tập. Chính điều này đã thúc đẩy tôi chọn đề
tài “Dạy từ vựng Tiếng Anh tiểu học” với mong muốn góp một phần nhỏ bé vào
việc nâng cao chất lượng dạy và học môn Tiếng Anh ở bậc Tiểu học.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
-Đối tượng nghiên cứu: Các loại từ vựng trong sách giáo khoa Tiếng Anh 3
và Tiếng Anh 4.
-Phạm vi nghiên cứu:
+Học sinh khối 3 – 4 – 5 Trường TH và THCS Mò Ó.
+Thời gian: bắt đầu nghiên cứu từ 10/10/2015 và kết thúc vào ngày
25/03/2016.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu:
a. Mục đích nghiên cứu:
Trong dạy Tiếng Anh, việc giúp học sinh ghi nhớ từ vựng là một hoạt động
không thể thiếu. Việc ghi nhớ từ vựng không chỉ đơn thuần là nhớ nghĩa Tiếng
Việt của từ mà còn là việc giúp các em nghe, phát âm và giao tiếp một cách tự
nhiên, chính xác. Việc tìm ra những cách thức giúp các em học từ vựng, hiểu từ

vựng và nhớ kỹ là nhiệm vụ của mỗi giáo viên. Vì vậy mục đích của nghiên cứu
này chính là đưa ra các phương pháp giúp học sinh ghi nhớ nhanh các từ vựng một
cách dài lâu và hiệu quả.
3


b. Nhiệm vụ nghiên cứu: Đề tài sáng kiến kinh nghiệm của tôi hướng đến các
phương pháp giới thiệu và dạy về từ vựng với những nội dung cơ bản sau đây:
-Tìm hiểu thực trạng việc học từ vựng Tiếng Anh trước khi thực hiện đề tài.
-Công tác chuẩn bị trước khi dạy từ vựng
-Thủ thuật vận dụng các phương pháp dạy từ vựng giúp các em ghi nhớ một
các tự nhiên và lâu dài.
-Thủ thuật giúp học sinh ôn tập, kiểm tra từ vựng.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên
cứu sau đây:
-Phương pháp nghiên cứu tài liệu: tôi đã nghiên cứu nhiều tài liệu liên
quan đến việc dạy từ vựng Tiếng Anh ở cấp Tiểu học để hiểu hơn về tâm lý, nhu
cầu học cũng như các kỹ năng giảng dạy từ vựng Tiếng Anh cho các em. Thông
qua phương pháp này tôi đã thu thập được khá nhiều kiến thức bổ ích cho bài
nghiên cứu của mình.
-Phương pháp quan sát: đối tượng mà tôi quan sát là các học sinh khối 3-4-5.
Phương pháp này giúp tôi phát hiện ra sự thay đổi từng ngày của các em khi học
môn Tiếng Anh. Ví dụ: Ở lớp 4A, Hắc là một em học sinh khá là nhút nhát trong
mọi hoạt động. Mặc dù được xếp ngồi ở bàn đầu nhưng em luôn lơ đãng không
chú ý trong giờ học. Khi tôi dạy từ vựng sử dụng dụng cụ trực quan, phương pháp
này giúp em chú ý hơn một chút. Tôi thay đổi phương pháp dạy từ vựng bằng sử
dụng vật thật hay là lồng ghép dạy từ vựng vào các trò chơi thì em Hắc chú ý hơn
hẳn. Em tham gia sôi nổi, phát biểu nhiều hơn và theo một cách tự nhiên em tự ghi
nhớ được một số lượng từ vựng nhanh và nhớ lâu hơn.

-Phương pháp phỏng vấn: nhờ vào phương pháp này mà tôi đã hiểu rõ được
các em thích hay không thích những hoạt động gì khi học từ vựng Tiếng Anh, từ
đó có kế hoạch thay đổi phương pháp dạy sao cho phù hợp với các em.
4


-Phương pháp thống kê toán học: sau 5 tuần vào năm học, tôi đã làm một
phiếu thống kê về việc “Học từ vựng thông qua các phương pháp” nhằm hiểu rõ
xem các phương pháp dạy từ vựng mà tôi đã sử dụng thì học sinh của mình cảm
thấy thích được dạy từ vựng thông qua phương pháp nào. Từ kết quả mà phiếu
thống kê mang lại tôi có thể hiểu rõ hơn các phương pháp mà mình đã sử dụng ảnh
hưởng như thế nào đến việc học từ vựng của các em. Từ đó tôi có thể thay đổi cách
vận dụng phương pháp giảng dạy của mình sao cho tiết học càng thêm sinh động
và thu hút được nhiều học sinh hơn
-Phương pháp trưng cầu ý kiến: Tôi thường cho học sinh tự đưa ra những ý
kiến cá nhân của các em nhằm xem các em có nhu cầu và nguyện vọng gì trong
việc học từ vựng nhằm phát huy tính tích cực của các em.
-Phương pháp đàm thoại: tôi thường xuyên sử dụng phương pháp này khi học
sinh của mình gặp khó khăn trong việc phát âm hay không hiểu về một vấn đề gì
đó, phương pháp này giúp nắm bắt tình hình học sinh để kịp thời sửa sai hoặc uốn
nắn cho các em.
-Phương pháp đối chiếu, so sánh kết quả của học sinh: phương pháp này giúp
tôi có thể đối chiếu và so sánh chất lượng học tập của học sinh ở các lớp khác nhau
từ đó tôi có thể nhận ra tính hiệu quả của các phương pháp mà tôi đã vận dụng cụ
thể ở từng lớp.
Mỗi phương pháp trên đều mang lại các thông tin hữu ích cho đề tài của tôi.
Trong đó phương pháp chủ đạo là phương pháp quan sát, phương pháp phỏng vấn,
phương pháp thống kê toán học và phương pháp đối chiếu, so sánh kết quả. Còn
những phương pháp khác được dùng như phương pháp bổ trợ.
5. Đóng góp của SKKN:

Học Tiếng Anh và ghi nhớ từ vựng Tiếng Anh đối với các em ở bậc Tiểu
học là một điều khó. Vậy làm sao để các em dễ hiểu, dễ nhớ, hứng thú trong quá
trình học? Qua bài sáng kiến kinh nghiệm này, tôi muốn giới thiệu và đưa ra những
phương pháp giúp học sinh ghi nhớ nhanh các từ vựng, hiểu và vận dụng tốt vốn từ
5


của mình, ghi nhớ từ một cách dài lâu và hiệu quả hơn. Giúp cho các em thêm
hứng thú và say mê với môn học mới mẻ này.
PHẦN 2. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN
CỨU
1. Cơ sở lí luận
Tiếng Anh là một ngôn ngữ thông dụng trên quốc tế và nó đã được đưa vào
chương trình giảng dạy, trở thành một trong những bộ môn chính khoá ở các bậc
học phổ thông. Để dạy tốt môn Tiếng Anh, mỗi một giáo viên đứng lớp luôn phải
thực hiện tốt công tác bồi dưỡng và tự bồi dưỡng thường xuyên, nghiên cứu, vận
dụng các phương pháp dạy học tích cực, khoa học và phù hợp với từng đối tượng
học sinh.
Xuất phát từ mục tiêu của giáo dục hiện nay đang tập trung hướng vào việc
phát triển tính năng động, sáng tạo, tích cực của học sinh trong hoạt động học tập
nhằm tạo khả năng nhận biết và giải quyết vấn đề cho học sinh. Cốt lõi của việc
đổi mới phương pháp dạy học(PPDH) là giúp học sinh hướng tới việc học tập chủ
động, chống lại thói quen học tập thụ động. Chương trình giáo dục phổ thông đã
ban hành kèm theo quyết định số 16/2006/QĐ – BGDĐT ngày 05/05/2006 của Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã nêu: “ Phải phát huy tính tích cực, tự
giác, chủ động, sáng tạo của học sinh , phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm
đối tượng học sinh, điều kiện từng lớp học, bồi dưỡng cho học sinh phương pháp
tự học, khả năng hợp tác, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tế, tác
động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học

sinh.”
Dạy học ngoại ngữ thực chất là hoạt động rèn luyện năng lực giao tiếp dưới
các dạng nghe, nói, đọc, viết. Muốn rèn luyện năng lực giao tiếp cần có môi trường
với những tình huống đa dạng của cuộc sống. Môi trường này chủ yếu do giáo viên
tạo ra dưới dạng những tình huống giao tiếp và học sinh phải tìm cách ứng xử bằng
ngoại ngữ cho phù hợp với tình huống giao tiếp cụ thể. Mục đích cuối cùng của
việc học ngoại ngữ là giao tiếp. Để giao tiếp tốt trước hết đòi hỏi ở học sinh có vốn
6


từ vựng nhất định, vốn từ vựng càng nhiều giúp học sinh càng hiểu ngôn ngữ giao
tiếp nhanh chóng và có hiệu quả. Từ vựng Tiếng Anh là một công cụ, phương tiện
quan trọng nhất trong việc dùng và học Tiếng Anh . Ở bất kỳ một kỹ năng nào của
việc học ngoại ngữ đều phải dùng đến từ vựng.Vì vậy từ vựng Tiếng Anh là nguồn
vốn, là sản phẩm vô giá, là công cụ chính cho người dùng.
Trong một bài học môn học Tiếng Anh, hầu hết tiết học nào cũng có phần
“giới thiệu từ vựng” . Để bài học đạt kết quả cao, học sinh phải nắm rõ cách phát
âm cũng như cách dùng của các từ. Muốn thế giáo viên cần lựa chọn các phương
pháp dạy từ vựng phù hợp với từng loại từ để sao cho học sinh dễ hiểu, dễ nhớ và
dễ sử dụng. Tôi đã cố gắng tìm tòi, nghiên cứu các tài liệu viết về phương pháp
cùng với những trải nghiệm trong quá trình giảng dạy. Tôi đã rút ra được một vài
kinh nghiệm trong việc gây hứng thú cho học sinh học Tiếng Anh qua các giờ dạy
từ vựng ở cấp Tiểu học. Đây là kinh nghiệm mà tôi tâm đắc nhất và tôi đã mạnh
dạn chọn nó để làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm cho mình.
2. Cơ sở thực tiễn:
Vào đầu năm học 2015 - 2016 tôi được phân công dạy môn Tiếng Anh cho
khối 3 là 3 – 4 – 5 ở Trường TH-THCS Mò Ó. Ngành và nhà trường đã tạo điều
kiện thuận lợi cho bản thân tôi được tham gia các lớp chuyên đề đổi mới phương
pháp giảng dạy ở cấp Tiểu học, đi tập huấn, dự các tiết thao giảng chuyên đề,
nghiên cứu, thảo luận việc đổi mới PPDH ở cụm và huyện. Từ đó tôi đã học tập

được những phương pháp dạy học theo hướng đổi mới. Những phương tiện giúp
các em học và rèn luyện cho bộ môn Tiếng Anh không còn là vấn đề nan giải. Điều
kiện trang thiết bị phục vụ cho việc dạy học bộ môn Tiếng Anh khá đầy đủ như:
máy chiếu, đài catset, sách giáo khoa, sách bài tập… Bản thân luôn được sự quan
tâm, giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà trường, của các anh chị em đồng nghiêp.
Tình hình chung học sinh cấp Tiểu học Trường Mò Ó mà tôi trực tiếp giảng
dạy đa số các em chăm học và ngoan. Bên cạnh đó một số cá biệt học sinh vẫn còn
thiếu kiên nhẫn trong học tập, còn chây lười, ỷ lại và mang tính thụ động. Đại đa
số học sinh là con em đồng bào dân tộc thiểu số nên điều kiện tiếp xúc với phương
tiện thông tin còn hạn chế, gia đình phụ huynh cũng chưa có sự quan tâm nhiều
7


đến việc học ngoại ngữ của con. Để thực hiện phương pháp thực nghiệm tôi đã tiến
hành khảo sát vốn từ vựng bộ môn Tiếng Anh đầu năm đối với học sinh 3 khối 34-5 như sau:
-Số học sinh nói đúng: 60%
-Số học sinh viết đúng: 45%
-Học sinh đạt yêu cầu về nghe, nói, đọc, viết: 50%
-Học sinh hứng thú học từ vựng: 65%
-Một số học sinh còn rụt rè trong giao tiếp, vốn từ vựng và cách nhớ từ còn
hạn chế. Một số học sinh chỉ nói theo chứ không viết đúng, học còn trầm, chậm.
Trước tình hình đó tôi đã mạnh dạn thử nghiệm nhiều phương pháp dạy từ
vựng khác nhau với mục đích giúp các em chủ động nhớ từ, vận dụng từ và hứng
thú học từ hơn trong các giờ dạy có từ vựng.
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG VÀ GIẢI PHÁP
Theo phân phối chương trình hiện nay, môn tiếng Anh tiểu học mỗi tuần 04
tiết, mà hầu như tiết nào cũng có từ mới trong bài học và kể cả trong bài tập. Muốn
dạy tốt từ vựng để tiết học sinh động hơn, Giáo viên phải làm tranh ảnh, đồ dùng
để minh hoạ, tạo điều kiện cho các em nhớ từ dễ dàng và hướng sự chú ý của các
em vào chủ đề hay trọng tâm bài học.

Về sự phân bố tiết trong tuần, một buổi các em phải học hai tiết tiếng Anh
liên tiếp, phải tải một số lượng từ rất nhiều. Điều này chắc chắn sẽ gây tâm lý quá
tải cho một số học sinh, gây ảnh hưởng rất nhiều đến tiết học sau.
Về phía học sinh, bên cạnh một số em học hành nghiêm túc, có không ít học
sinh chỉ học hoa loa, không khắc sâu được từ vựng vào trong trí nhớ, không tập
đọc, tập viết thường xuyên, không thuộc nghĩa hai chiều. Đến khi giáo viên yêu
cầu các em sẽ không thành công.
Về phía gia đình học sinh, cũng rất khó khăn trong việc kiểm tra hoặc hướng
dẫn các em tự học ở nhà. Bởi vì vậy là môn ngoại ngữ, không phải phụ huynh nào

8


cũng biết. Đây cũng là vấn đề hết sức khó khăn trong quản lý việc học ở nhà của
học sinh.
Ngoài ra, cách học từ vựng của học sinh cũng là điều đáng được quan tâm,
học sinh thường học từ vựng bằng cách đọc từ bằng tiếng Anh và cố nhớ nghĩa
bằng tiếng Việt, có viết trong tập viết cũng là để đối phó với giáo viên, chứ chưa
có ý thức tự kiểm tra lại mình, để khắc sâu từ mới và vốn từ sẵn có. Vì thế cho nên,
các em rất mau quên và dễ dàng lẫn lộn giữa từ này với từ khác. Do vậy, nhiều học
sinh đâm ra chán học và bỏ quên. Cho nên giáo viên cần chú ý đến tâm lý này của
học sinh.
Vì là giáo viên mới ở trường, môn học này cũng là một môn học mới lạ với
các em nên bước đầu tôi chưa thực sự hiểu tình hình học của học sinh của mình.
Sau khi vào chương trình dạy hết 5 tuần, tôi nhận thấy học sinh có phần gặp nhiều
khó khăn vì vậy tôi cần phải đi sâu vào tìm hiểu các em hơn nữa. Cần phải nắm rõ
được các em muốn gì, các em cần gì và quan trọng hơn là phải nắm rõ được những
phương pháp dạy từ vựng tôi đã áp dụng từ đầu năm đến thời điểm này đối với các
em như thế nào. Phương pháp đó có phù hợp, có khiến các em học từ vựng một
cách nhanh và ghi nhớ lâu hay không. Tôi đã tiến hành một đợt điều tra nhỏ để

thống kê sở thích của học sinh đối với các phương pháp dạy từ vựng ở cả ba khối 3
– 4 – 5 thì có kết quả như sau:
BẢNG THỐNG KÊ
Phương pháp dạy từ vựng Tiếng Anh giúp học sinh hứng thú
1. Sử dụng tranh ảnh

70%

2. Sử dụng vật thật

85%

3. Sử dụng điệu bộ

60%

4. Thông qua tình huống hoặc giải thích

20%

5. Dùng từ đồng nghĩa/ trái nghĩa

35%

6. Dịch nghĩa

25%
9



7. Trò chơi

85%

Bảng thống kê phương pháp dạy từ vựng Tiếng Anh giúp học sinh hứng thú
Từ kết quả của đợt thống kê, tôi đã cố gắng áp dụng những phương pháp dạy
từ vựng mà các em thích thú nhiều hơn trong các tiết dạy từ. Sự thay đổi này khiến
các em rất hứng khởi vừa khiến các em dễ hiểu, nắm được cách đọc và nghĩa của
từ nhanh hơn, biết cách áp dụng từ vừa mới học một cách khoa học, ghi nhớ lâu
dài từ đó.
Qua quá trình nghiên cứu và áp dụng thực tế những phương pháp giảng dạy từ
vựng Tiếng Anh, tôi nhận thấy học sinh của mình đã có nhiều thay đổi tích cực,
tiến bộ. Tôi đã tiến hành các biện pháp sau:
1. Các bước để giới thiệu từ vựng:
Bước 1: Thâm nhập nắm chắc chương trình môn Tiếng Anh lớp 3-4, nghiên
cứu kỹ nội dung từng bài để có kế hoạch làm đồ dùng cho giờ dạy sôi động, hấp
dẫn và lôi cuốn.
Bước 2: Phối hợp với học sinh và duy trì ngôn ngữ giao tiếp với học sinh
bằng cách đặt câu hỏi học sinh trả lời.
Bước 3: Lựa chọn và phân loại từ
Bước 4: Sử dụng các thủ thuật linh hoạt để giới thiệu nghĩa của từ.
Bước 5: Kiểm tra việc hiểu và nắm nghĩa của từ.
Bước 6: Luyện tập từ của học sinh.
Bước 7: Kiểm tra mức độ hiểu biết và nắm được từ của một số học sinh yếu
nếu cần thiết.
2. Các phương pháp để giới thiệu từ vựng:
a. Lựa chọn từ để dạy:
Tiếng Anh là một môn học có tầm quan trọng, nó là công cụ để giao tiếp với
các nước trên thế giới. Muốn giao tiếp tốt chúng ta phải có vốn từ phong phú.
Ở môi trường tiểu học hiện nay, khi nói đến ngữ liệu là chủ yếu nói đến ngữ

pháp và từ vựng, từ vựng và ngữ pháp luôn có mối quan hệ khắng khích với nhau,
luôn được dạy phối hợp để làm rõ nghĩa của nhau. Tuy nhiên dạy và giới thiệu từ
10


vựng là vấn đề cụ thể. Thông thường trong một bài học luôn xuất hiện những từ
mới, song không phải từ mới nào cũng cần đưa vào để dạy. Để chọn từ cần dạy,
giáo viên cần xem xét hai loại từ sau: từ chủ động (active vocabulary) và từ bị
động (passive vocabulary). Chúng ta đều biết cách dạy hai loại từ này khác nhau.
Từ chủ động có liên quan đến bốn kỹ năng (nghe – nói – đọc – viết). Đối với loại
từ này giáo viên cần đầu tư thời gian để giới thiệu và cho học sinh tập nhiều hơn.
Với từ bị động giáo viên chỉ cần dừng ở mức nhận biết, không cần đầu tư thời gian
vào các hoạt động ứng dụng. Giáo viên cần biết lựa chọn và quyết định xem sẽ dạy
từ nào như một từ chủ động và từ nào như một từ bị động. Đối với từ chủ động ta
chỉ cho học sinh biết chữ viết và định nghĩa như từ điển thì chưa đủ, để cho học
sinh biết cách dùng chúng trong giao tiếp, giáo viên cần cho học sinh biết cách
phát âm, không chỉ từ riêng lẻ, mà còn biết phát âm đúng những từ đó trong chuỗi
lời nói, đặc biệt là biết nghĩa của từ.
Số lượng từ cần dạy trong bài tuỳ thuộc vào nội dung bài và trình độ của học
sinh. Không bao giờ dạy tất cả các từ mới, vì sẽ không có đủ thời gian thực hiện
các hoạt động khác. Tuy nhiên, trong một tiết học chỉ nên dạy tối đa là 6 đến 8 từ.
Khi lựa chọn từ để dạy, giáo viên nên xem xét đến hai điều kiện sau:
-Từ đó có cần thiết cho việc hiểu văn bản không ?
-Từ đó có khó so với trình độ học sinh không ?
Nếu từ đó cần thiết cho việc hiểu văn bản và phù hợp với trình độ của học
sinh, thì nó thuộc nhóm từ tích cực, do đó giáo viên phải dạy cho học sinh. Nếu từ
đó cần thiết cho việc hiểu văn bản nhưng khó so với trình độ của học sinh, thì nó
không thuộc nhóm từ tích cực, thì giáo viên nên giải thích rồi cho học sinh hiểu
nghĩa từ đó ngay. Nếu từ đó không cần thiết cho việc hiểu văn bản và cũng không
khó lắm thì giáo viên có thể yêu cầu học sinh đoán.

Với sự đa dạng của từ, tôi đã đầu tư trong việc lựa chọn từ thích hợp, có vai
trò chủ động để hiểu được nội dung chính của bài học. Vì thế trong mỗi tiết dạy tôi
11


chỉ cho các em 5-8 từ chủ động, vì thực tế có bài có đến 10-15-20 từ mới, nếu đưa
ra quá nhiều học sinh sẽ không nhớ nỗi.
b. Các bước tiến hành giới thiệu từ vựng:
Có nhiều phương pháp giới thiệu từ vựng nhưng giới thiệu bằng cách nào cho
phù hợp với từ, với đối tượng để học sinh dễ nhận biết và phát huy được tính tích
cực, tìm tòi, đoán nghĩa của học sinh.
Bước giới thiệu bài, giới thiệu chủ đề: đây là bước khá quan trọng trong việc
dạy từ vựng. Bước này sẽ quyết định sự thành công của tiết học, nó sẽ gợi mở cho
học sinh liên tưởng đến những từ sắp học qua chủ điểm vừa mới được giới thiệu.
Điều quan trọng nhất trong giới thiệu từ mới là phải thực hiện theo trình tự:
nghe, nói, đọc, viết. Luôn bắt đầu từ hoạt động “nghe”. Bởi quá trình học tiếng mẹ
đẻ của chúng ta, bao giờ cũng bắt đầu bằng nghe, bắt chước phát âm rồi mới tới
những hoạt động khác.
-Bước 1: “nghe”, giáo viên cho học sinh nghe từ mới bằng cách đọc mẫu hoặc
mở băng đĩa.
-Bước 2: “nói”, sau khi học sinh đã nghe được ba lần giáo viên mới yêu cầu
học sinh nhắc lại. Khi cho học sinh nhắc lại ,giáo viên cần chú ý cho cả lớp nhắc
lại trước, sau đó mới gọi cá nhân.
-Bước 3: “đọc”, giáo viên viết từ đó lên bảng và cho học sinh nhìn vào đó để
đọc. Cho học sinh đọc cả lớp, rồi đọc cá nhân và sửa lỗi cho học sinh tới một
chừng mực mà giáo viên cho là đạt yêu cầu.
-Bước 4: “viết”, sau khi học sinh đã đọc từ đó một cách chính xác rồi giáo
viên mới yêu cầu học sinh viết từ đó vào vở.
-Bước 5: giáo viên hỏi xem có học sinh nào biết nghĩa của từ đó không và yêu
cầu một học sinh lên bảng viết nghĩa của từ đó bằng tiếng Việt.

c. Các thủ thuật gợi mở giới thiệu từ vựng: Giáo viên có thể dùng một số thủ
thuật gợi mở giới thiệu từ mới như:
12


-Visual (nhìn): Giáo viên chuẩn bị tranh ảnh cho học sinh nhìn và học từ
vựng từ những bức tranh đó, phương pháp này giúp giáo viên ngữ nghĩa hoá từ
một cách nhanh chóng.
Ví dụ: Ở bài Unit 2 – Tiếng Anh 4, khi dạy về quốc tịch các nước tôi đã dùng
tranh để minh họa lá cờ và con người của từng nước để các em có thể dễ dàng hình
dung và ghi nhớ đất nước đó hơn

-Realia (vật thật): Giáo viên sử dụng những dụng cụ trực quan thực tế có
được để giới thiệu từ vựng cho học sinh.
Ví dụ: Ở bài Unit 8 – Tiếng Anh 3: khi dạy về các dụng cụ học tập của học
sinh như bút (pen), bút chì (pencil); thước (ruler); hộp bút (pencil case); cặp sách
(school bag); gọt bút chì (pencil sharpener);… tôi đã sử dụng chính những dụng cụ
học tập của các em để dạy về từ vựng. Vì phần lớn tất cả các em đều có những
dụng cụ này nên khi tôi giới thiệu và gọi tên bằng Tiếng Anh từng đồ vật thì các
em rất thích thú. Nhiều em còn tranh nhau cầm từng đồ vật cụ thể của mình và gọi
tên chúng rất tự nhiên.

13


-Mine (điệu bộ): Thể hiện qua nét mặt, điệu bộ, cử chỉ
Ví dụ: Ở bài Unit 10 – Tiếng Anh 3: khi dạy về các trò chơi như bóng đá
(football), nhảy dây (skip), trốn tìm (hide- and-seek), bịt mắt bắt dê (blind man’s
bluff), bóng bàn (table tennis)…tôi đã thực hiện các hành động về những trò chơi
đó rồi cho học sinh đoán xem đó là trò gì và gọi tên những trò chơi đó bằng Tiếng

Anh. Tôi yêu cầu học sinh lặp lại hành đồng đó và gọi tên trò chơi bằng Tiếng
Anh. Với phương pháp này, học sinh nhớ khá nhanh và rất thích thú khi được bắt
chước theo hành động của các trò chơi. Sử dụng hình thức này tôi đã thể hiện rõ
ràng, tự nhiên giúp học sinh dễ hiểu, dễ nhận biết và rất hứng thú học.

Play badminton (cầu lông)

Play hide-and-seek (chơi trốn tìm)

-Drawing (Vẽ phác họa)
Ví dụ: ở bài Unit 12 – Tiếng Anh 3: khi dạy về các từ vựng về nhà cửa tôi đã
vẽ minh họa lên bảng một ngôi nhà có các phòng, vườn cây, ao nước cụ thể để các
em dễ hình dung và dễ nhớ hơn. Sau đó tôi yêu cầu các em tự vẽ về ngôi nhà của
mình rồi lần lượt gọi lên bảng giới thiệu tranh và tự giới thiệu về ngôi nhà mà các
em đã vẽ.

14


-Synonyon \ antonyon (đồng nghĩa \ trái nghĩa): Giáo viên dùng những từ
đã học rồi để giảng từ đồng nghĩa hoặc trái nghĩa. Một phần giúp học sinh liên
tưởng đến những từ đã học, vừa nắm được nghĩa của từ mới.
Ví dụ:
thấp – cao (short – tall)
mâp - ốm (fat- slim)
nóng – lạnh (hot-cold)
to – nhỏ ( big – small)
-Situation/explanation: Giáo viên sử dụng tình huống (situation) hay giải
thích(explanation) để giới thiệu từ vựng cho học sinh.
Ví dụ: Ở bài Unit 12 – Tiếng Anh 4, tôi đã dùng những từ vựng các em đã

học hoặc dùng một giáo viên cụ thể trong trường để giới thiệu từ vựng mới cho các
em
+a teacher (giáo viên) : Ms. Hien is a…..(teacher).
+a student (học sinh) : You are a ….(student).
+hospital (bệnh viện) : Doctor works in a….(hospital).
-Translation (dịch): Giáo viên dùng những từ tương đương trong tiếng Việt
để giảng nghĩa từ trong tiếng Anh. Giáo viên chỉ sử dụng thủ thuật này khi không
còn cách nào khác, thủ thuật này thường được dùng để dạy từ trừu tượng, hoặc để
giải quyết một số lượng từ nhiều nhưng thời gian không cho phép. Giáo viên gợi ý
học sinh tự dịch từ đó.
Ví dụ: Tôi dùng phương pháp dịch thuật đối với những từ vựng trừu tượng
như: friendly (thân thiện), scary (làm sợ hãi), usually ( thông thường), wonderful
(kỳ diệu)…
-Compound word (từ ghép): Tôi đã giúp học sinh học thêm về những từ mới
khác bắt nguồn từ những từ vựng đơn giản mà các em đã học ở những bài trước.
Để các em hiểu rõ hơn, tôi đã vẽ minh họa những bức hình đơn giản để các em dễ
dàng hình dung và cảm thấy thích thú.
15


 rainbow (cầu vòng)

Ví dụ: rain (mưa) + bow (nơ)
sun ( mặt trời) + flower (hoa)

 sunflower (hoa hướng dương)…

d. Các thủ thuật kiểm tra và củng cố từ vựng:
Chúng ta biết rằng chỉ giới thiệu từ mới thôi không đủ, mà chúng ta còn phải
thực hiện các bước kiểm tra và củng cố. Các thủ thuật kiểm tra và củng cố sẽ

khuyến khích học sinh học tập tích cực và hiệu quả hơn. Trong hoạt động này,
chúng ta có thể sử dụng để kiểm tra từ mới. Sau đây là một vài thủ thuật kiểm tra
từ mới:
-Rub out and remember: Hình thức này đã thực sự giúp học sinh nhớ từ ngay
tại lớp.
-Slap the board: Hình thức này đã giúp học sinh nhận ra từ vựng qua nghe
hiểu và kiểm tra việc hiểu nghĩa từ của học sinh. Học sinh làm việc theo nhóm.
Nhóm nào cũng muốn chiến thắng vì vậy các em hoạt động rất nhanh nhẹn và sôi
nỗi.
-What and Where: Tôi đã gợi ý để học sinh đưa ra được từ vựng rồi viết
chúng vào các vòng tròn lên bảng, lần lượt (đọc-xoá-đọc) và tôi yêu cầu học sinh
phải nhớ được từ và vị trí của nó để lên viết lại. Thoạt đầu một số em yếu còn nhút
nhát nhưng dần về sau nhiều em đã rất mạnh dạn và muốn lên bảng để viết. Hình
thức này đã giúp học sinh ghi nhớ và ôn luyện từ bằng cách viết từ.

16


-Matching words: Tôi yêu cầu học sinh nối nghĩa tiếng Việt với tiếng Anh
hoặc với tranh. Phương pháp này tiết kiệm được thời gian và học sinh rất hào hứng
làm việc, 90% học sinh xung phong lên bảng để nối, kể cả những em rất yếu.
-Guessing pictures (đoán tranh): Phương pháp này đã giúp nhiều học sinh
cùng nói và luyện từ mới một cách có ý nghĩa.
-Bingo: Bằng cách này tôi đã giúp học sinh luyện tập được kỹ năng nghe và
nối âm thanh nghe được với từ đúng. Học sinh thực hành rất sôi nỗi. Thậm chí học
sinh còn đề nghị giáo viên cho làm lại để quyết giành chiến thắng.
-Noughts and croses: Tôi đã dùng hình thức này để kiểm tra việc vận dụng từ
mới trong câu và thực sự gây hứng thú học tập cho học sinh và đạt hiệu quả cao về
học tập từ.
-Jumbled words: Bằng cách kiểm tra này tôi đã giúp học sinh luyện tập viết

đúng chính tả của từ. Học sinh phải sắp xếp được các chữ cái lộn xộn thành một từ
có nghĩa.
-Taboo: Học sinh được ngồi theo nhóm với một chồng thẻ từ mới úp xuống.
Một học sinh lật thẻ lên và cố giải thích, ví dụ… để khiến những bạn khác nhớ ra
từ mới. Học sinh đoán được từ mới ấy sẽ nhận được thẻ đó và bắt đầu một lượt
chơi khác. Cuối buổi học, người chiến thắng là người nhận được nhiều thẻ từ mới
nhất.
-Hot seat: Trò chơi này được tôi sử dụng nhiều để giúp học sinh ôn từ và
khuấy động không khí (warm - up). Lớp học được chia làm hai đội. Mỗi đội cử
một bạn lên bảng, ngồi lên một chiếc ghế quay lưng với cả lớp. Các bạn còn lại
trong đội cố gắng diễn tả từ vựng bằng cách diễn giải, ví dụ… để thi xem ai đoán
ra nhanh hơn.
Vỡi những hình thức kiểm tra trên kết hợp với một số trò chơi tôi đã tổ chức
cho các em, tôi nhận thấy các em hứng thú hơn với việc học từ vựng, ghi nhớ từ
nhanh và lâu hơn, đồng thời cũng rèn luyện kỹ năng viết và sử dụng từ cho các em.
17


Trong quá trình hướng dẫn học sinh học từ, nhớ từ và vận dụng từ tôi luôn
theo dõi thái độ và kết quả của học sinh để có sự điều chỉnh bổ sung cho việc nâng
cao giờ dạy từ vựng. Tôi thường đưa bài tập luyện từ từ dễ đến khó để nâng cao
dần trình độ và kỹ năng sử dụng từ cho các em (đặc biệt là đối tượng khá, giỏi).
Các dạng bài tập tôi thường cho các em làm như sau:
-Gap fill: học sinh điền từ vào chỗ trống để hoàn thiện một câu hoặc một đoạn
văn.
-Choose the best answer: Học sinh chọn đáp án đúng nhất trong các đáp án
gợi ý.
-Put words in the right order: Học sinh sắp xếp các từ xáo trộn thành câu hoàn
chỉnh.
-Listen and choose the best answer: Học sinh lắng nghe một đoạn bang và

chọn đáp án đúng nhất.
Với những bài tập này, một số học sinh khá, giỏi đã thể hiện năng lực, trí tuệ
của mình và các em làm việc rất tích cực, chủ động. Còn những em khác có thể
học hỏi ở bạn khi làm nhóm hoặc thực hiện bài tập nhiều lần để quen với những
dạng bài tập này. Đây phần lớn là những dạng bài được dùng trong đề thi học kỳ
nên khi được làm một cách thường xuyên, các em đều quen dần và không có sự bỡ
ngỡ khi làm bài thi học kỳ.
Phần lớn các em đã phát âm tốt, đọc tốt từ vựng được học. Nhưng bên cạnh
đó vẫn còn một vài em viết từ vựng chưa đúng nét, còn sai nhiều. Vì vậy tôi đã
giúp các em rèn chữ viết bằng cách soạn ra các bài viết in mờ để các em tập viết
chữ. Việc làm này vừa giúp các em rèn được chữ viết, tập viết được những chữ cái
khó như “f”, “w”, “z” vừa giúp nhớ được mặt chữ và cách viết từ vựng đó.

18


CHƯƠNG 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
Mục đích của việc áp dụng những phương pháp dạy từ vựng này là để giúp
học sinh học từ vựng một cách nhanh chóng và ghi nhớ dài lâu, nâng cao chất
lượng việc học từ vựng cho học sinh. Việc giới thiệu từ vựng tuy chiếm lượng thời
gian không nhiều song chúng có vai trò hết sức quan trọng, tạo tiền để cho học
sinh nắm vững và sử dụng ngôn ngữ sau này. Người giáo viên với vai trò của
người hướng dẫn phải sử dụng những kỹ năng sao cho phù hợp trong quá trình giới
thiệu từ vựng để đạt được mục đích mà bài học đề ra. Trong quá trình soạn bài,
nhiệm vụ của người giáo viên phải lựa chọn kỹ năng, kỹ thuật thích hợp, chuẩn bị
kỹ càng cho các lời dẫn gợi mở, các vật dụng cần thiết liên quan đến việc giới
thiệu từ và chọn cách kiểm tra từ sao cho phù hợp gây hứng thú cho học sinh.
Qua việc áp dụng các phương pháp dạy từ mới trong quá trình giảng dạy
Tiếng Anh của trường TH Mò Ó năm học này, tôi nhận thấy có sự chuyển biến rõ
rệt về thái độ học tập cũng như chất lượng của học sinh trong các tiết học Tiếng

Anh. Sự thay đổi đó được thể hiện cụ thể như sau:
-Các tiết học từ vựng trở nên sôi nổi và sinh động hơn.
-Học sinh đã thuộc các từ mới ngay tại lớp học.
-Vốn từ vựng của các em tăng lên rõ rệt.
-Các em học sinh yếu kém có thể sử dụng được từ vựng vào những câu đơn
giản. Những học sinh khá có thể sử dụng từ vựng trong những câu phức tạp hơn.
19


-Các em thích nói Tiếng Anh khi chào hỏi, yêu cầu, nhờ bạn một việc gì đó và
xin phép.
-Hát thành thạo các bài Tiếng Anh trong chương trình.
-Số lượng tham gia xây dựng bài ngày càng tăng từ 60% - lên 85%.
-70% học sinh hiểu bài ngay tại lớp và khả năng thực hành tốt các yêu
cầu của giáo viên.
-Học sinh hăng hái, hứng thú, sôi nổi hơn trong học tập, bài chuẩn bị ở nhà
chu đáo hơn.
-Số học sinh nói đúng: 80%
-Số học sinh viết đúng: 65%
-Học sinh đạt yêu cầu về nghe, nói, đọc, viết: 70%
-Học sinh hứng thú học từ vựng: 80%
Thông qua quá trình nghiên cứu và vận dụng đề tài “Dạy Từ vựng Tiếng Anh
tiểu học” tôi đã rút ra được một số kinh nghiệm sau:
-Để nâng cao chất lượng giảng dạy, giáo viên phải có tâm huyết với
nghề, có trách nhiệm với tiết dạy của mình, quan tâm đến các đối tượng học sinh
và chất lượng giảng dạy thì mới chọn được phương pháp linh hoạt theo hướng đổi
mới phù hợp với học sinh của mình.
-Ngoài ra giáo viên còn có thể khai thác các trang Web hỗ trợ việc học
và dạy môn Tiếng Anh trên trang mạng xã hội. Nguồn tài nguyên công nghệ thông
tin đang ngày một phong phú và rộng khắp, dễ khai thác và khai thác rất nhanh.

Giáo viên muốn dạy tốt môn Tiếng Anh thì cần tận dụng tối đa nguồn tài nguyên
này. Từ thông tin từ vựng, từ hình ảnh sống động đến các phương pháp giảng dạy
có rất nhiều trên Internet, giáo viên có thể vào trang Web “www.tieuhoc.info” là
trang Web có nhiều phương pháp dạy từ vựng Tiếng Anh mới và các phương pháp,
tài liệu dạy Tiếng Anh Tiểu học rất phong phú đa dạng. Giáo viên trong giờ dạy có
thể sự dụng nguồn tư liệu này một cách dễ dàng làm cho bài dạy sinh động lôi
cuốn học sinh hơn. “www.thuvienviolet.com” là diễn đàn dành riêng cho giáo viên
ở tất cả các lĩnh vực không riêng gì môn Tiếng Anh.
20


-Bên cạnh đó có rất nhiều đĩa dạy học Tiếng Anh bằng hình ảnh do người bản
địa kết hợp với người Việt dạy rất phong phú và phù hợp với lứa tuổi Tiểu học. Bộ
đĩa học Tiếng Anh bằng hình ảnh: Fun with English, Go’s go, ABC English for
children. Các bộ phim hoạt hình, các trò chơi hoạt hình bằng Tiếng Anh…Các loại
băng đĩa này khi áp dụng vào việc giảng dạy trẻ học Tiếng Anh rất bổ ích. Sử dụng
nguồn tài nguyên công nghệ thông tin này không những giúp trẻ học tốt môn Tiếng
Anh mà còn giúp trẻ tiếp cận sớm với công nghệ thông tin. Trẻ sẽ sớm biết cách
khai thác nguồn thông tin vô hạn này, khi tiếp cận thông tin không những giáo viên
thích thú trong giảng dạy mà học trò cũng say sưa với việc học. Nhưng cái gì cũng
có hai mặt của nó, hình thức học này rất lôi cuốn trẻ nên giáo viên và các bậc phụ
huynh phải biết cách hướng dẫn và kèm cặp trẻ trong quá trình tiếp cận.
-Cần chuẩn bị kế hoạch bài học chu đáo, chi tiết, tỉ mĩ. Tăng cường sử dụng
đồ dùng dạy học sẵn có hoặc tự làm phong phú, thiết thực, có hiệu quả.
-Sử dụng các phương pháp dạy từ vựng lôi cuốn, tổ chức nhiều trò chơi hay
dạy cho các em những bài hát vui nhộn để tăng cường vốn từ
vựng và rèn luyện cấu trúc câu tạo cho học sinh ham thích môn học. Hệ thống cho
học sinh đầy đủ kiến thức trọng tâm đơn giản, dễ nhớ, dễ sử dụng.
-Khuyến khích học sinh đổi sang Tiếng Anh những điều các em nói bằng
Tiếng Việt đồng thời sử dụng Tiếng Anh thường xuyên hơn ở lớp, hay nhóm

bạn học tập ở nhà.
-Khen thưởng tuyên dương những em có năng khiếu, có tiến bộ và có tham
gia phát biểu. Ngoài ra, cần thường xuyên giúp đỡ động viên các em còn yếu kém
và kịp thời sửa lỗi ngoại ngữ của các em một cách nhẹ nhàng, để các em không bị
mặc cảm, xấu hổ, sợ sai dẫn đến việc ngại nói hoặc lười học.
-Tạo giờ học thoải mái, sinh động, hợp tác tin cậy lẫn nhau giữa thầy và trò
phát huy tốt tính tích cực tư duy của học sinh. Giáo viên nên dùng những thuật ngữ
đơn giản, dễ hiểu trong khi giảng bài.
-Cập nhập thông tin liên quan đến phương pháp giảng dạy Tiếng Anh trong
trường Tiểu học.
21


-Bản thân giáo viên luôn luôn tự học tự rèn, liên hệ trao đổi với đồng nghiệp
những kinh nghiệm trong giảng dạy.
-Thường xuyên sử dụng đồ dùng dạy học, các trang thiết bị trong phòng
Tiếng Anh.
-Thực tế cho thấy, phương pháp giáo dục Tiếng Anh theo khuynh hướng giao
tiếp rất khó áp dụng cho một lớp học có sĩ số đông hoặc cho các em học sinh người
dân tộc. Ngoài việc phải vận dụng có nghệ thuật phương pháp giáo dục như đã nêu
trên, một tiết học muốn thành công còn phải phụ thuộc rất nhiều yếu tố bên ngoài,
trong đó cơ sở vật chất, thiết bị và trình độ học sinh là những yếu tố cơ bản. Muốn
vậy, trước hết giáo viên phải nắm được mục tiêu của tiết học, nội dung tiết học,
phương pháp kiểm tra đánh giá của tiết học. Ngoài ra, giáo viên phải hiểu được
đặc điểm của học sinh xem họ còn thiếu những gì để đạt được mục tiêu của tiết
học. Và để việc giảng dạy Tiếng Anh có hiệu quả hơn, ngoài việc đổi mới chương
trình, phương pháp thì việc cần phải làm ngay là phân loại trình độ Tiếng Anh đầu
vào của học sinh, chia nhỏ lớp theo trình độ, giới hạn sĩ số lớp và phân bổ thời gian
dạy hợp lý.
Sau khi tôi áp dụng những phương pháp dạy từ vựng một cách linh hoạt trong

các tiết học, thật bất ngờ, các em tỏ ra rất háo hức khi được học từ vựng, các em
cởi mở hơn, không còn rụt rè nữa và cũng tham gia bài học tích cực hơn, trong thời
gian gần đây học sinh có nhiều tiến bộ ở môn Tiếng Anh. Tuy kết quả chưa thật
cao nhưng những tiến bộ bước đầu giúp tôi hưng phấn hơn trong công tác. Một
điều thật thú vị là sau giờ học, đôi lúc tôi bắt gặp các em chỉ tay vào một vài vật
dụng hoặc sự vật gì trên đường và gọi tên chúng bằng những từ vựng Tiếng Anh
mà các em đã được học một cách rất vui vẻ và tự nhiên. Qua đó, tôi nhận thấy vốn
từ vựng đã đi sâu vào các em một cách khác nhẹ nhàng và tạo niềm vui hứng khởi
cho các em.
Theo tôi, những phương pháp mà tôi đã áp dụng đã đem lại một hiệu quả nhất
định, giúp học sinh tăng vốn từ cũng những khả năng nhớ lâu lượng từ đó một cách
dễ dàng.
PHẦN 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
22


1. Kết luận:
Là một giáo viên Tiếng Anh Tiểu học tôi luôn trăn trở làm thể nào để dạy cho
học sinh hiểu và nắm chắc kiến thức mà các em không cảm thấy áp lực. Chính vì
vậy tôi thiết nghĩ việc trau dồi phương pháp không phải là của riêng ai mà là vấn
đề chung cho mọi giáo viên. Cùng một vấn đề song người thầy phải làm thế nào để
nó đơn giản nhất, dễ hiểu nhất, gây hứng thú nhất khi truyền đạt cho các em, giúp
các em hiểu và khắc sâu kiến thức. Trong các phương pháp dạy học hay của các
bạn đồng nghiệp mà tôi đã học hỏi và qua thực tiễn dạy học tôi muốn góp phần
công sức nhỏ bé của mình trong phương pháp dạy từ vựng Tiếng Anh ở học sinh
Tiểu học .
Tuy nhiên một phương pháp giáo dục cố định không thể là chìa khoá chung
cho mọi giáo viên mà phải tuỳ thuộc từng hoàn cảnh lớp học, đối tượng học, nội
dung học để mỗi giáo viên cần điều chỉnh các hoạt động giảng dạy hợp lý như nhà
bác học Newton đã từng nói “Những điều ta biết chỉ là giọt nước, những điều chưa

biết đó là đại dương. Trên con đường chiếm lĩnh tri thức thì không có đâu là bến
bờ. Và trên con đường chiếm lĩnh đỉnh cao của tri thức thì mỗi người lại có những
phương pháp khác nhau”. Chúng ta không thể có một phương pháp cụ thể cứng
nhắc áp dụng cho tất cả các đối tượng mà phải phụ thuộc vào trình độ nhận thức,
năng khiếu, sở thích, niềm say mê với môn học mà người dạy và người học chọn
cho mình phương pháp riêng để học tập và giảng dạy. Vì vậy bên cạnh những điều
đã làm được thì tôi nhận thấy đề tài của mình vẫn còn nhiều điểm thiếu sót và cứng
nhắc cần phải được gọt dũa và học hỏi kinh nghiệm thêm. Trên đây là một số kinh
nghiệm nhỏ nhoi mà tôi đã thực hiện và đạt được kết quả khả quan trong thời gian
giảng dạy vừa qua. Tuy chưa tốt lắm nhưng cũng phần nào giúp cho các học sinh
của tôi ngày càng yêu thích và gần gũi với môn học. Rất mong sự đón nhận và
đóng góp ý kiến của đồng nghiệp.
2. Kiến nghị:
*Về phía phụ huynh:
-Cần phải quan tâm và phối hợp với giáo viên để nắm rõ tình hình học ngoại
ngữ của con em.
23


- Trang bị đầy đủ sách giáo khoa và vở bài tập cho con em mình.
*Về phía giáo viên:
-Phải nghiên cứu nhiều phương pháp mới cho tiết học sinh động hơn, thu
hút học sinh hơn.
-Phải thường xuyên học hỏi kinh nghiệm và trang bị kiến thức chuyên môn
vững vàng, tham gia tích cực các buổi tập huấn chuyên môn.
-Thường xuyên dự giờ thăm lớp để rút kinh nghiệm.
-Thường xuyên áp dụng công nghệ thông tin vào tiết dạy.
- Chuẩn bị tốt các dụng cụ trực quan để thu hút các em hơn.
*Về phía ngành và nhà trường:
-Nên hỗ trợ kinh phí cho việc khen thưởng các em vào cuối năm học để kích

thích các em học tập.
-Cần thực hiện những tiết dạy mẫu nhiều hơn để giáo viên tham khảo và học
hỏi.
-Cần nêu ra những vấn đề khó để cùng bàn bạc, thảo luận đưa ra thống nhất
chung cho cả hội đồng môn.
Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân, mặc dù đã cố gắng nhiều nhưng
vì là giáo viên mới ra trường nên kinh nghiệm giảng dạy cũng như viết đề tài sáng
kiến kinh nghiệm còn rất non nớt. Có những điều chưa được như mong muốn của
tôi. Tôi sẽ cố gắng học hỏi hơn nữa qua đồng chí đồng nghiệp. Rất mong hội đồng
Khoa học góp ý, bổ sung cho đề tài của tôi thêm hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cám ơn.
Mò Ó, ngày 26 tháng 03 năm 2016
Người thực hiện

Lê Hồng Nhung

24


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Adamowski, E. (1997), The ESL Songbook. Don Mills, ON: Oxford
University Press.
2.Gfeller, K. (1983), “Musical Mnemonics as an Aid to Retention with
Normal and Learning Disabled Students”, Journal of Music Therapy, 20 (4), 179189.
3.Method of Teaching English Vocabulary
4. Sách giáo khoa Tiếng Anh 3 – Tiếng Anh 4
5. Teaching Grammar and Vocabulary.

25



×