Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

thu hoạch đánh giá kiểm định chất lượng giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.99 KB, 20 trang )

Con ngời có vai trò quyết định đối với mọi quá trình phát triển kinh tế xã
hội. Trong lĩnh vực kinh tế và sản xuất, V.I. Lênin đã khẳng định, lực lợng sản
xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là ngời lao động. Vâng
đúng vậy; t tởng con ngời là trung tâm cuộc sống và ngày nay gọi là trung tâm
của sự phát triển gắn liền với lịch sử văn hoá, văn minh nhân loại. Con ngời đợc coi là chủ đề của lịch sử, của mọi giá trị, mọi nền văn minh. Trong quá
trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn quan tâm đến việc phát
triển toàn diện con ngời Việt Nam. Đây là vấn đề trung tâm của mọi đờng lối
chiến lợc, sách lợc của Đảng và đợc xác định là nguồn gốc, động lực của sự
phát triển toàn diện đất nớc. Quan điểm đó, không chỉ dừng lại ở t tởng chỉ
đạo mà còn là chủ trơng chiến lợc, là sự bảo đảm cho tơng lai, tiền đồ của dân
tộc. Cơng lĩnh xây dựng đất nớc trong thời kỳ quá độ lên CNXH chỉ rõ:
Nguồn lực lớn nhất, quý báu nhất của chúng ta là tiềm lực con ngời Việt
Nam, trong đó có tiềm lực trí tuệ và mọi chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh
phúc con ngời là động lực lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân
trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội 1. Để thực hiện chủ trơng chiến lợc
đó, một trong những giải pháp quan trọng hàng đầu đợc Đảng xác định là phải
phát triển giáo dục; bởi chỉ có phát triển giáo dục mới tạo ra nguồn nhân lực
có chất lợng cao đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
- yếu tố cơ bản nhất thúc đẩy đất nớc phát triển nhanh và bền vững.
Hơn 60 năm qua, kể từ khi Nhà nớc Việt Nam Dân chủ cộng hoà ra đời,
Đảng ta đã đa ra nhiều quan điểm, chủ trơng chiến lợc để chỉ đạo phát triển
nền giáo dục Việt Nam. Các quan điểm, chủ trơng đó đợc thể hiện ở hầu hết
các văn kiện thông qua các kỳ Đại hội cũng nh các Hội nghị của Đảng bàn về
công tác giáo dục, đào tạo: Hội nghị Trung ơng 4 khoá (VII), Hội nghị Trung
1

ng Céng sn Vit Nam, Cng lnh xy dùng Êt níc trong thêi kú qu é ln ch ngha x héi, Nxb Sù tht, H, 1991, tr. 13.


ơng 2 (khoá VIII), Đại hội Đảng lần thứ IX; Đại hội X; trong Hiến pháp và Cơng lĩnh xây dựng đất nớc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt
là các quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục của Đảng trong những năm tới


đây: Đợc thể hiện rõ nhất trong Chiến lợc phát triển giáo dục 2001-2010. Đây
là sự phản ánh đầy đủ, tập trung t tởng, đờng lối, chủ trơng phát triển giáo dục
của Đảng, nhằm đa hoạt động quốc sách hàng đầu này vào đúng vị trí của nó
để đào tạo nguồn nhân lực tốt nhất cho thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và
những năm phát triển tiếp theo.
Trên cơ sở đánh giá những thành tựu đã đạt đợc, chỉ ra những hạn chế, yếu
kém của sự nghiệp giáo dục, đào tạo trong những năm qua; Đồng thời nhận
định tình hình quốc tế và trong nớc có những thời cơ và thách thức đối với giáo
dục nớc ta trong vài thập kỷ tới đây. Chiến lợc phát triển giáo dục 2001-2010 đã
chỉ rõ những quan điểm cơ bản chỉ đạo phát triển giáo dục ở nớc ta, đó là:
1. Giáo dục là quốc sách hàng đầu.
Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam và nhiều nớc trên thế giới đã đặt giáo dục
vào vị trí quốc sách hàng đầu. Con ngời đợc giáo dục và biết tự giáo dục đợc
coi là nhân tố quan trọng nhất, vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát
triển bền vững của xã hội. Giáo dục đang trở thành một bộ phận đặc biệt của
cấu trúc hạ tầng xã hội, là tiền đề quan trọng cho sự phát triển của tất cả các
lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, quốc phòng và an ninh; bởi lẽ, con ngời đợc
giáo dục tốt và biết tự giáo dục từ xa mới có khả năng giải quyết một cách sáng
tạo và có hiệu quả tất cả những vấn đề do sự phát triển xã hội đặt ra. Tầm quan
trọng đặc biệt của giáo dục thể hiện ở vai trò là động lực phát triển kinh tế - xã
hội của nó. Một nền kinh tế - xã hội muốn có sức mạnh để phát triển cần phải
tạo ra đợc trình độ trí tuệ ngang tầm thời đại và nguồn chất xám cũng nh nhân
lực kỹ thuật đủ để luôn đổi mới sản xuất, nâng cao năng xuất lao động, phát


triển các hoạt động dịch vụ, nâng cấp các hoạt động văn hoá, tinh thần v v, điều
này phụ thuộc vào giáo dục.
Tác động của giáo dục đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ngày càng trở nên
mạnh mẽ, giáo dục thực sự là một bộ phận đặc biệt của cơ sở hạ tầng, là tiền đề
cho sự phát triển của tất cả các lĩnh vực xã hội nh chính trị, kinh tế, văn hoá, an

ninh, quốc phòng, đồng thời tạo ra sức mạnh bên trong to lớn thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển. Ngợc lại, các lĩnh vực kinh tế - xã hội cũng có tác động, ảnh
hởng to lớn đến giáo dục. có thể nói rằng, giáo dục vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời sự phát triển kinh tế - xã hội
cũng là mục tiêu và tạo ra sức mạnh cho giáo dục.
Đảng và Nhà nớc ta đã xác định giáo dục là quốc sách hàng đầu, luôn luôn
dành sự quan tâm và tạo điều kiện để phát triển giáo dục. Dân tộc ta có truyền
thống yêu nớc, lao động cần cù, thông minh và tinh thần hiếu học. Đảng và
Chính phủ ta đang phát huy những đặc điểm này để xây dựng một nền giáo dục
Việt Nam tiên tiến, hiện đại, hớng tới một xã hội học tập nhằm đáp ứng nhu cầu
đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao phẩm chất toàn diện của con ngời Việt nam
trong thời đại mới, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Nhiều chính sách phát triển gioá
dục đã đợc xây dựng và thực hiện, trong đó có chính sách mở rộng hợp tác quốc
tế trong lĩnh vực giáo dục đào tạo nhằm khai thác nguồn lực của các nớc tiên
tiến phục vụ cho sự nghiệp giáo dục nớc nhà.
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang là một xu thế phát triển
khách quan, trong đó vừa diễn ra quá trình hợp tác để phát triển, đồng thời vừa
là quá trình cạnh tranh gay gắt giữa các nớc. Sự đua tranh quyết liệt trên nhiều
lĩnh vực giữa các quốc gia, yêu cầu và điều kiện ra nhập hoạt động trong một số
tổ chức quốc tế nh: Tổ chức thơng mại thế giới ( VVTO) đã và đang đặt ra cho


các nớc đang phát triển, trong đó có nớc ta, những cơ hội và thách thức mới về
chất lợng nguồn nhân lực để nâng cao năng xuất lao động, chất lợng hàng hoá dịch vụ, năng lực cạnh tranh.
Cuộc cách mạng khoa học- công nghệ đã và đang tiếp tục diễn ra, với những bớc tiến nhảy vọt mang tính đột phá. thế giới đã và đang chuyển từ kỷ nguyên
công nghiệp sang kỷ nguyên thông tin và phát triển nền kinh tế tri thức. Khoa
học công nghệ trở thành lực lợng sản xuất trực tiếp có tác động tới tất cả các
lĩnh vực, làm biến đổi nhanh chóng, sâu sắc đời sống vật chất và tinh thần của
xã hội. Khoảng cách giữa các phát minh khoa học công nghệ và áp dụng vào
thực tiễn ngày càng thu hẹp lại; kho tàng kiến thức của nhân loại ngày càng đa
dạng, phong phú. Thông tin và tri thức trở thành nguồn lực chủ yếu cho phát

triển, là lợi thế cạnh tranh của các nớc.
Đổi mới giáo dục đang diễn ra trên quy mô toàn cầu, tạo nên những thay đổi
sâu sắc từ triết lý, quan niệm, giá trị giáo dục đến xây dựng hệ thống, xác định
mục tiêu, nội dung, phơng pháp giáo dục. Nhà trờng từ chỗ khép kín, kinh viện
( xa rời thục tế) chuyển sang mở cửa, đối thoại với xã hội, gắn bó chặt chẽ với
nhu cầu của phát triển xã hội, với nghiên cứu khoa học công nghệ và ứng dụng.
Nhà giáo thay vì đơn thuần truyền thụ tri thức, chuyển sang vai trò hớng dẫn
cho ngời học phơng pháp t duy, hình thành năng lực hành động, khả năng thu
nhận xử lý, sử dụng thông tin, sáng tạo tri thức mới. giáo dục không chỉ là kiến
trúc thợng tầng, mà còn là cơ sở hạ tầng xã hội đóng vai trò chủ yếu trong việc
phát triển con ngời và góp phần quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế xã
hội .Đầu t cho giáo dục từ chỗ đợc xem đơn thuần chỉ là phúc lợi xã hội,
chuyển sang loại hình đầu t cho phát triển.


Trong bối cảnh đó, tất cả các quốc gia ( từ những nớc phát triển đến những nớc
đang phát triển ) đều nhận thức đợc vai trò vị trí hàng đầu của giáo dục, đều
phải đổi mới giáo dục để có thể đáp ứng một cách năng động hơn, hiệu quả
hơn, trực tiếp hơn những nhu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội đất nớc và
hội nhập quốc tế.
Đại hội lần thứ X của Đảng đã tiếp tục khẳng định: Trên cơ sở nắm vững hai
nhiệm vụ chiến lợc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc; trong thời gian từ nay
đến năm 2010 đa nớc ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nớc ta
cơ bản trở thành một nớc công nghiệp. Con đờng CNH, HĐH của nớc ta cần và
có thể rút ngắn thời gian so với các nớc đi trớc, vừa có những bớc tuần tự, vừa
có những bớc nhảy vọt. Cùng với khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo phải
thực sự là quốc sách hàng đầu. Phát triển nguồn nhân lực là nhiệm vụ hàng đầu,
là khâu đột phá trong chiến lợc phát triển kinh tế xã hội và chiến lợc phát triển
giáo dục đào tạo ở nớc ta trong thời kỳ CNH, HĐH.

ở nớc ta, sự nghiệp CNH,HĐH đợc tiến hành trong điều kiện phát triển nhiều
loại hình sản xuất, dịch vụ làm cho thị trờng lao động đợc mở rộng, loại hình
nhân lực trở nên đa dạng, nhu cầu học tập tăng lên; mặt khác cũng làm thay đổi
quan niệm về giá trị, ảnh hởng đến việc xác định động cơ học tập, lựa chọn
ngành nghề, đồng thời cũng ảnh hởng đến các quan hệ trong nhà trờng và ngoài
xã hội. Cơ chế thị trờng cũng tạo ra sự phân hoá giàu nghèo, góp phần tăng
thêm cách biệt về cơ hội và điều kiện học tập giữa các tầng lớp dân c. Mặc dầu
đã đạt đợc nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế xã hội, song về cơ bản nớc ta


vẫn là một nớc nghèo đang phát triển, cơ cấu kinh tế chậm chuyển đổi, sức
cạnh tranh cha cao, lao động trình độ thấp và d thừa, thu nhập quốc dân GDP
trên đầu ngời còn thấp, các nguồn nhân lực đầu t cho giáo dục còn hạn chế. Vì
thế, việc hội nhập quốc tế cũng là một cách để chúng ta huy động nguồn nhân
lực của các nớc và các tổ chức quốc tế vào phát triển nền giáo dục nớc nhà. Xã
hội tạo điều kiện cho giáo dục phát triển, đồng thời cũng đòi hỏi giáo dục phải
đáp ứng những nhu cầu của xã hội ; phải kịp thời điều chỉnh cơ cấu và quy mô,
nâng cao hiệu quả giáo dục để đáp ứng nhanh nhu cầu nhân lực của nền kinh tế
thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa. Để đi tắt đón đầu từ một nớc kém phát
triển, vai trò của giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ lại càng có tính quyết
định.
Giáo dục là quốc sách hàng đầu, đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng đã
đợc khẳng định nhiều lần trong nhiều năm qua. Về mặt thuật ngữ, lần đầu tiên
tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, Đảng ta đã khẳng định: Phát triển giáo
dục và đào tạo cùng với khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu. Kể từ đó
đến nay quan điểm này luôn đợc nhấn mạnh lại một cách mạnh mẽ và từng bớc
đợc triển khai thực hiện trong toàn xã hội một cách cụ thể hơn. Tuy nhiên,
chúng ta cũng nhận thấy rằng không phải chỉ từ khi giáo dục đợc khẳng định là
quốc sách hàng đầu thì sự nghiệp giáo dục của chúng ta mới đợc coi trọng.
Ngay sau khi nớc Việt nam dân chủ cộng hoà ra đời, ngày 08/09/1945 Chủ tịch

Hồ Chí Minh đã ký ba sắc lệnh quan trọng: số17/sl; số 19/sl; số 20/sl để chỉ đạo
sự nghiệp giáo dục đào tạo của dân tộc ta. Ngời cho rằng: Một dân tộc dốt là
một dân tộc yếu, vì vậy, muốn dân tộc ta đợc khoẻ mạnh lên, trớc hết chúng ta
phải làm cho mọi ngời dân tộc Việt nam trở thành những ngời cờng tráng cả về
thể chất và tinh thần; phải làm cho ai cũng đợc học hành. Chính vì vậy mà trong


những điều kiện cực kỳ khó khăn, phức tạp của những năm đầu tiên dới chính
quyền cách mạng, cùng với việc chống mù chữ, Đảng và chính phủ đã có chủ
trơng cải tổ và xây dựng toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân. Cũng kể từ đó,
Đảng thờng xuyên có những quan điểm chỉ đạo sự nghiệp giáo dục phù hợp với
tình hình, nhiệm vụ của cách mạng. Hội nghị lần thứ t Ban chấp hành Trung ơng Đảng khoá ( VII ) cho rằng: Giáo dục và đào tạo phải đợc tiếp tục khẳng
định là quốc sách hàng đầu, là động lực thúc đẩy, là điều kiện cơ bản đảm bảo
cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Phải coi đầu t cho giáo dục là một hớng chính của đầu t phát triển. Mục tiêu của
giáo dục là phát triển con ngời, nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dỡng nhân tài, đào tạo những con ngời có kiến thức văn hoá, khoa học, có kỹ
năng nghề nghiệpĐáp ứng sự phát triển của các quá trình phát triển kinh tế- xã
hội. Phát triển giáo dục là biện pháp tốt nhất để phát huy và làm trờng tồn
những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và làm phong phú thêm những
tinh hoa văn hoá của nhân loại, là điều kiện tốt nhất để sản sinh và vun trồng
nhiều nhân tài, làm giàu thêm nguyên khí quốc gia, là bí quyết thành công, là
biện pháp hữu hiệu để đi tắt đón đầu trong sự nghiệp CNH,HĐH.
Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ơng Đảng khoá VIII đã khẳng
định: Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục là nhằm xây dựng những con
ngời và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cờng xây dựng và bảo vệ Tổ quốclàm chủ
tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có t duy sáng tạo, có năng lực thực
hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức và kỷ luật, có sức khoẻ, là
những ngời thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa hồng vừa chuyên nh lời
căn dặn của Bác Hồ.



Kế thừa những t tởng của Nghị quyết Trung ơng hai (khoá VIII) và
những t tởng trớc đó về công tác giáo dục đào tạo của Đảng. Đại hội Đảng lần
thứ IX đã chỉ rõ: Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực
quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá; là điều kiện để
phát huy nghuồn lực của con ngời- yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trởng kinh tế nhanh và bền vững. Thực tế, trong xã hội vẫn tồn tại những cách
hiểu, cách suy nghĩ cha đúng về giáo dục đào tạo. Nhiều ngời vẫn cho rằng giáo
dục là chính sách phúc lợi xã hội, mọi ngời đều có quyền hởng thụ.Coi giáo dục
là quốc sách hàng đầu, tức là giáo dục phải đợc u tiên nhất; phải bao cấp cho nó
nhiều nhất; tất cả giành cho giáo dục. Cách hiểu nh trên chúng ta thấy có phần
đúng nhng cha đủ. Cố Thủ tớng Phạm Văn Đồng, ngời đã giành nhiều công sức
chăm lo cho nền giáo dục nớc nhà đã chỉ ra rằng: Coi giáo dục là quốc sách
hàng đầu tức là mọi ngời đợc hởng thụ sự giáo dục mà nói phỏng theo ý của
Bác Hồ Ai ai cũng đợc học hành. Không chỉ hởng thụ mà mọi ngời phải cống
hiến, có trách nhiệm cống hiến và cống hiến tất cả những gì mình có thể cho
giáo dục, làm cho giáo dục thực sự là quốc sách hàng đầu. Vốn là dân tộc có
truyền thống hiếu học và ham học, nhân dân ta mong muốn, đòi hỏi một cách
thiết tha quyền đợc giáo dục; giáo dục phải đợc đặt ở vị trí hàng đầu tức là vị
trí hàng thứ nhất, giáo dục phải đợc u tiên hàng đầu trong mọi chính sách
quốc gia, phải đi trớc một bớc làm đòn bẩy thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã
hội và con ngời; phải quan tâm tăng tỷ trọng ngân sách cho giáo dục và chính
sách phát triển giáo dục đúng đắn.
Coi giáo dục là quốc sách hàng đầu còn đợc thể hiện ở chính sách phát
triển giáo dục, coi giáo dục là bộ phận hữu cơ quan trọng trong chiến lợc phát
triển kinh tế xã hội. Chính sách phát triển giáo dục không nằm ngoài, không
tách khỏi chiến lợc phát triển kinh tế - xã hội. Đây là cách nhận thức mới


trong những năm gần đây, trong chiến lợc phát triển kinh tế xã hội đợc thể

hiện qua các kỳ đại hội Đảng ta đều gắn chính sách giáo dục đào tạo với các
chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Nói cách khác, trong đờng lối phát triển
kinh tế xã hội đảng ta đều xác định chính sách phát triển giáo dục đào tạo.
Nhận thấy giáo dục có vai trò và tác dụng vô cùng quan trọng đối với
sự hng thịnh của dân tộc, sự hng thịnh về chính trị, về kinh tế, về văn hoá, về
xã hội, về cuộc sống... (1) Vì vậy, đầu t cho giáo dục đợc coi là đầu cho sự phát
triển, đầu t cho giáo dục là đầu t cho tơng lai, tiền đồ của dân tộc. Giáo dục đợc xem là một bộ phận cấu trúc đặc biệt của hạ tầng cơ sở. Đúng nh Joy Singh
đã nói: Giáo dục phải là ở hàng đầu và đóng vai trò chủ chốt trong phát triển
xã hội tơng lai.
Nh trên đã phân tích, nếu coi giáo dục là một bộ phận của thợng tầng
kiến trúc và mang tính chất phúc lợi thì cha đủ. Cần phải hiểu lại là, giáo dục
có nội dung nằm trong thợng tầng kiến trúc, đó là những giá trị đợc kết tinh
trong văn hoá trở thành nội dung giáo dục. Nhng mọi nền tảng của nó, những
cơ sở và hoạt động của nó phải là một bộ phận của cơ cấu hạ tầng. Chính vì
vậy nói đầu t cho giáo dục cũng là đầu t cho mọt mặt phát triển kinh tế nào đó.
Hội nghị Trung ơng bốn (khoá VII) đã chỉ ra: nhiều năm trớc đây đầu t cho
giáo dục chủ yếu đợc coi là đầu t cho phúc lợi xã hội. Ngày nay đầu t cho giáo
dục là đầu t để phát triển. Cần xem đây là một chu trình quan trọng sản xuất
sức lao động với sản phẩm là con ngời có đạo đức, sức khoẻ, thẩm mĩ và trí
tuệ làm phát triển mạnh mẽ các lĩnh vực đầu t có lợi nhất, mang lại lợi nhuận
cao nhất. Đây là kinh nghiệm, là bí quyết thành công của các quốc gia phát
triển và ngày nay hầu hết các nớc trên thế giới rất quan tâm đến vấn đề này.
Khẳng định giáo dục là quốc sách hàng đầu còn bởi, giáo dục là điều
kiện tốt nhất để phát huy nguồn lực con ngời nguồn của cải nội sinh - nguồn
lực con ngời là nguồn lực của mọi nguồn lực. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh
(1)

Phạm Văn Đồng, Về vấn đề giáo dục, đào tạo, Nxb Chính trị Quốc gia.H, 1999, tr.13



đã dạy: Muốn có chủ nghĩa xã hội, trớc hết phải có con ngời xã hội chủ
nghĩa. Điều đó có nghĩa rằng coi con ngời là trung tâm của đờng lối kinh tế,
chính trị, xã hội và phát triển con ngời một cách toàn diện là nhân tố hàng đầu
đi trớc một bớc, là mục tiêu và động lực cho phát triển xã hội phát triển dân
tộc.
Ngày nay, chúng ta đang trong quá trình đẩy mạnh sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc, thực hiện mục tiêu dân giàu, nớc mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh. Điều này cũng có nghĩa là, giáo dục phải
có chính sách phát triển toàn diện con ngời tạo tiêu đề quan trọng để đẩy
mạnh công nghiệp hoá hiện đại hóa. Đảng ta xác định sự nghiệp giáo dục, đào
tạo hiện nay phải thực hiện tốt phơng châm giáo dục toàn diện con ngời Việt
nam; đồng thời phải góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dỡng
nhân tài. Chúng ta thực hiện chủ trơng giáo dục không chỉ đào tạo con ngời có
trình độ và tay nghề điêu luyện trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất mà
đó còn là những ngời có t duy linh hoạt, sáng tạo và có kỷ luật. Đó là xu thế
của thời đại thế kỷ XXI là thế kỷ của kỹ thuật và nhân văn(2)
Trong thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX, xuất hiện một nền kinh tế mới
của thời đại thông tin, đó là kinh tế tri thức. Sự xuất hiện của nền kinh tế mới
này làm cho ngời ta càng nhìn thấy rõ hơn trí tuệ của con ngời kết tinh trong
đó. Trong nền kinh tế tri thức, nguồn lực con ngời là yếu tố chủ yếu cạnh
tranh trong thị trờng, u thế về tri thức ở mỗi quốc gia sẽ dần dần thay thế về
vốn, nguồn nguyên liệu và công nhân rẻ. Khi đó các nớc chậm phát triển thiếu
vốn, thiếu tri thức tiên tiến sẽ ngày càng tụt hậu hơn so với các nớc phát triển.
Để nhanh chóng rút ngắn khoảng cách tụt hậu, các nớc đang phát triển cần
sớm có một chiến lợc đúng đắn để phát triển nguồn lực con ngời có trí tuệ cao.
Để giải quyết đợc vấn đề đó phải không ngừng phát triển giáo dục, xem giáo
Phạm Minh Hạc, phát triển giáo dục, phát triển con ngời phục vụ phát trỉen xã hội kinh tế, Nxb Khoa học
xã hội, H.1996, Tr 230
(2)



dục nhiệm vụ trọng đại của đất nớc ta trong những năm tới đây mà trớc mắt là
những năm đầu thế kỷ XXI.
Dự báo về thế kỷ XXI, các nhà khoa học cho rằng cuộc chạy đua để
phát triển giáo dục là quan trọng nhất trong cuộc chạy đua phát triển đất nớc
hiện nay của các quốc gia trên thế giới. Sự phát triển kinh tế đợc bắt đầu từ
chạy đua về giáo dục. Chính vì vậy mà những năm gần đây rất nhiều các cuộc
hội thảo về phát triển giáo dục đợc tổ chức với mong muốn tập trung chú ý
nhiều hơn nữa đến phát triển nguồn nhân lực bậc cao cho xã hội. ở nớc ta quá
trình đổi mới phát triển giáo dục cũng đang diễn ra theo hớng này. Đây là một
trong những vấn đề đợc xem là khâu đột phá để phát triển đất nớc. Nhiều cuộc
hội thảo bàn về nâng cao chất lợng giáo dục đại học tổ chức là bớc thiết thực
quán triệt quan điểm chỉ đạo này của Đảng.
2. Quan điểm về xây dựng nền giáo dục có tính nhân dân, dân tộc,
khoa học, hiện đại, theo định hớng xã hội chủ nghĩa
Ngay sau khi giành đợc chính quyền cách mạng, Đảng và Bác Hồ đã có
chủ trơng xây dựng nền giáo dục Việt Nam, có tính nhân dân, dân tộc, khoa
học và hiện đại. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng chúng ta phải xây dựng một
nền giáo dục hoàn toàn Việt nam. Đó là một nền giáo dục mà Ai cũng đợc học
hành, mọi ngời từ già đến trẻ, từ đồng bằng đến miền núi, từ nông thôn đến
thành thị ai cũng có cơ hội đợc học tập, đợc hởng quyền bình đẳng trong giáo
dục để phát triển, có khả năng cống hiến đợc nhiều nhất cho đất nớc. Thực
hiện chủ trơng của Đảng trong nhiều năm qua chúng ta đã phát triển nhiều
loại hình đào tạo cho nhiều đối tợng tạo cơ hội cho mọi ngời dân đều đợc hởng nhiều cơ hội giáo dục. Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và t
tởng Hồ Chí Minh về tính dân tộc trong giáo dục, trong các văn kiện, trong
luật Giáo dục cũng nh trong chiến lợc phát triển giáo dục 2001-2010 Đảng ta
đều khẳng định chúng ta xây dựng nền giáo dục vừa kết hợp chặt chẽ yếu tố


khoa học, hiện đại với yếu tố dân tộc. Tức là, trên cơ sở kế thừa, tiếp thu tinh

hoa văn hoá trí tuệ nhân loại; chúng ta lựa chọn nội dung ấy cho phù hợp với
bản sắc dân tộc Việt Nam. Ngày nay là gắn phát triển vào giáo dục trong điều
kiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đang diễn ra một cách mạnh mẽ với đấu
tranh giải phóng dân tộc và chăm lo xây dựng, phát triển sức mạnh dân tộc
trong tơng lai. Giáo dục con ngời Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức,
tri thức sức khoẻ và thẩm mỹ, phát triển đợc năng lực của cá nhân. Để đáp ứng
nguồn nhân lực trong điều kiện kinh tế thị trờng gắn với đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hóa; giáo dục phải đào tạo những con ngời lao động có
kỹ năng nghề nghiệp, năng động sáng tạo, trung thành với lý tởng độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc
Ngay từ khi ra đời Đảng đã xác định: chúng ta xây dựng Nhà nớc Việt
Nam đi theo con đờng xã hội chủ nghĩa; lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền
tảng t tởng. Cuối thế kỷ XX, khi chủ nghĩa xã hội ở một số nớc lâm vào khủng
hoảng và thoái trào. Kẻ thù đẩy mạnh sự chống phá vào nền tảng t tởng của
Đảng ta là chủ nghĩa Mác-Lênin và t tởng Hồ Chí Minh. Đề phòng khuynh hớng, phi chính trị hoá trong giáo dục, đào tạo; Đảng ta khẳng định: chúng ta
xây dựng nền giáo dục theo định hớng xã hội chủ nghĩa, lấy chủ nghĩa MácLênin và t tởng Hồ Chí Minh làm nền tảng t tởng. Thực hiện công bằng trong
giáo dục, tạo cơ hội bình đẳng để ai cũng đợc học hành; có những chính sách
khuyến khích để ngời học giỏi phát triển đợc tài năng.
3. Quan điểm phát triển giáo dục phải gắn với nhu cầu phát triển
kinh tế - xã hội, tiến hành khoa học công nghệ, củng cố quốc phòng an
ninh


Xuất phát từ nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao
động sản xuất, lý luận gắn liền với thực tiễn; giáo dục nhà trờng kết hợp với
giáo dục gia đình và xã hội.Trên cơ sở kế thừa và phát triển các kỳ Đại hội trớc, Đại hội X chỉ rõ: Đổi mới hệ thống giáo dục đại học và sau đại học, gắn
đào tạo với sử dụng, trực tiếp phục vụ chuyển đổi cơ cấu lao động, phát triển
nhanh nguồn nhân lực chất lợng cao, nhất là chuyên gia đầu ngành. Chú trọng
phát hiện, bồi dỡng, trọng dụng nhân tài; nhanh chóng xây dựng cơ cấu nguồn

nhân lực hợp lý về ngành nghề, trình độ đào tạo, dân tộc, vùng miền; có cơ
chế và chính sách gắn kết có hiệu quả trờng đại học với cơ sở nghiên cứu khoa
học và doanh nghiệp để chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa học và công
nghệ vào sản xuất kinh doanh. Xây dựng một số trờng đại học trọng điểm đạt
trình độ khu vực và quốc tế .(1)
Phát triển giáo dục gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội vừa là yêu
cầu của việc kế thừa các quan điểm xây dựng nền giáo dục cách mạng, vừa là
đòi hỏi của việc nâng cao hiệu quả giáo dục phục vụ sảng xuất, đời sống.
Quan điểm chỉ đạo này nhằm đảm bảo quan hệ hữu cơ giữa giáo dục với tăng
trởng kinh tế và tiếởng bộ xã hội nói chung. Quan điểm này đòi hỏi giáo dục
phải thể hiện là bộ phận cấu thành trong chiến lợc phát triển kinh tế - xã hội.
Có trách nhiệm chuẩn bị trớc về nhân lực (yếu tố quan trọng nhất) đáp ứng các
nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Phát triển giáo dục phải bảo đảm sự cân
đối giữa các ngành nghề, trình độ, giữa các vùng lãnh thổ... Nhà trờng phải
chú ý giáo dục ý thức, khả năng lao động, thực hành cho đối tợng giáo dục
trong quá trình đào tạo. Quan trọng hơn là phải làm cho những điều đợc học ở
nhà trờng phải gắn với nghề nghiệp và cuộc sống tơng lai. Đặc biệt coi trọng
kết quả cuối cùng của ngời học là đạo đức và tay nghề. Chúng ta phải làm cho
toàn bộ nền giáo dục thích ứng với nhu cầu và đòi hỏi của sự phát triển kinh tế
Đảng cộng sản Việt Nam, văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb CTQG, H.2006,
Tr.96-97.
(1)


- xã hội đất nớc, giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển giáo dục theo kế
hoạch và theo yêu cầu của thị trờng lao động. Giáo dục nhằm mục đích cuối
cùng là phải tạo ra nguồn nhân lực có chất lợng cao, có ảnh hởng tích cực đến
phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống của nhân dân. Giáo dục đồng
thời phải là động lực thúc đẩy đất nớc phát triển nhanh và bền vững, thực hiện
mục tiêu dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.

Phát triển giáo dục phải dựa trên nền tảng tinh thần văn hoá dân tộc,
thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, góp phần củng cố thế trận toàn dân;
an ninh nhân dân. Thực hiện nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp
với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trờng kết
hợp với giáo dục gia đình và xã hội. Đẩy mạnh và nâng cao chất lợng chơng
trình giáo dục quốc phòng trong đông đảo các tầng lớp nhân dân. Luôn chú
trọng giáo dục góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lợc là xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Trong phát triển giáo dục, hiện nay có một số nớc phát triển đang rất
quan tâm đến mô hình gắn đào tạo nhà trờng với hoạt động nghiên cứu khoa
học và cơ sở sản xuất kinh doanh; thực hiện nhất thể hoá trong giáo dục. Đây
là một mô hình giáo dục có nhiều u điểm mà ta đã và đang lựa chọn, kế thừa
để vận dụng cho phù hợp với nền giáo dục Việt Nam.
Phát triển giáo dục gắn với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội là quan
điểm chỉ đạo nhất quán đợc Đảng ta quan tâm ngay từ khi xây dựng nền giáo
dục mới Việt Nam. Đây là một trong những quan điểm cơ bản, có tính nguyên
tắc trong thực hiện nguyên lý giáo dục của Đảng. Ngày nay, trong sự phát
triển mạnh mẽ của thông tin, của cuộc cách mạng khoa học công nghệ đòi hỏi
giáo dục phải nhanh chóng nắm bắt định hớng cho việc đa những thành tự của
khoa học công nghệ hiện đại vào các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.


4. Quan điểm giáo dục là sự nghiệp của Đảng, Nhà nớc và của toàn
dân.
Đây là quan điểm thể hiện sự huy động sức mạnh của toàn dân tham gia
vào sự nghiệp giáo dục; tiến tới xây dựng một xã hội học tập, tạo điều kiện
cho mọi ngời, ở mọi lứa tuổi, mọi trình độ đợc học tập thờng xuyên, học tập
suốt đời.
Để huy động đợc sức mạnh của toàn dân tộc tham gia và sự nghiệp giáo
dục trớc hết cần tăng cờng sức mạnh lãnh đạo của tổ chức đảng các cấp. Căn

cứ vào nghị quyết của cấp trên về giáo dục, các tổ chức đảng cấp dới cần xây
dựng nghị quyết của cấp mình về phát triển giáo dục ở địa phơng, phải nhanh
chóng đa nghị quyết của Đảng về giáo dục vào cuộc sống. Chăm lo xây dựng
các tổ chức đảng vững mạnh, thật sự là hạt nhân lãnh đạo các nhiệm vụ nói
chung và nhiệm vụ giáo dục ở cấp mình.
Đặc biệt quan tâm lãnh đạo công tác quy hoạch trờng, lớp; xây dựng
đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý nhà trờng; công khai, dân chủ bàn bạc và
và tổ chức thực hiện các quy định của cấp trên và của địa phơng về sử dụng
ngân sách và huy động sự đóng góp của nhân dân cho giáo dục.
Nhà nớc giữ vai trò chủ đạo trong phát triển sự nghiệp giáo dục, nhà nớc khuyến khích mọi đóng góp, mọi sáng kiến của xã hội cho giáo dục, coi
giáo dục là sự nghiệp của toàn dân. Các tổ chức xã hội có trách nhiệm tham
gia đóng góp xây dựng và phát triển nền giáo dục. Mặt khác động viên mọi
ngời tham gia học tập, đẩy mạnh phong trào học tập trong nhân dân.
Trên cơ sở đẩy mạnh việc đa dạng hóa các loại hình giáo dục, hoàn
thiện mô hình các loại hình trờng học phù hợp với hoàn cảnh nớc ta. Kết hợp
giáo dục nhà trờng, gia đình và xã hội, xây dựng môi trờng giáo dục lành
mạnh tạo cơ hội học tạp tốt nhất cho mọi tầng lớp nhân dân có nhu cầu.


Trong nhiều năm qua chúng ta đã và đang tích cực quán triệt và vận
dụng quan điểm của Đảng vào phát triển nền giáo dục Việt Nam. Bên cạch
những thành tựu đã đạt đợc là rất to lớn thì cũng còn có những hạn chế, yếu
kém nhất định.
Cả trong nhận thức cũng nh trong hành động, chúng ta coi giáo dục cha
phải là hàng thứ nhất và cũng cha phải là đi trớc một bớc trong khi hởng thụ
thì đòi hỏi, còn ngời có quyền thì ít khi nhớ đến (3). ở nớc ta do tốc độ phát
triển dân số quá nhanh (chỉ số tăng hàng năm trên 1,8%) đã đa đến về nhiều
mặt: thiết lập trong đội ngũ những ngời giảng dạy, những ngời lãnh đạo và
quản lý, thiếu cơ sở vật chất (trờng, lớp, phơng tiện...), kinh phí cho giáo dục
quá hạn hẹp(4)

Trong một thời gian dài, do ta quan niệm giáo dục là một bộ phận của
kiến thức thợng tầng, mang tính phúc lợi xã hội, phản ánh tính nhân đạo và
nhân văn của xã hội ta nên giáo dục chậm phát triển. Cũng do sự nhận thức
không đầy đủ này mà ta đầu t cho giáo dục còn hạn chế, cha gắn chính sách
phát triển giáo dục với phát triển kinh tế - xã hội.
Một trong những nguyên nhân mà chất lợng nền giáo dục của chúng ta
thấp hơn một số nớc trong khu vực và trên thế giới là chúng ta cha tích cực
chạy đua để nâng cao chất lợng giáo dục. Theo đánh giá của một chuyên gia
trong ngành giáo dục nớc ta là chúng ta đã đầu t cho giáo dục theo kiểu dự án.
Trong giáo dục, đào tạo; chúng ta giữ đợc định hớng xã hội chủ nghĩa
nhng so với các nớc phát triển thì ta có sự tụt hậu hơn cả về nội dung, nhất là
phơng pháp giáo dục. Điều này cũng có nghĩa là tính hiện đại trong nền giáo
dục của chúng ta còn lạc hậu hơn so với thế giới và khu vực.
Thực trạng việc phát triển giáo dục gắn với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội ở nớc ta những năm qua còn rất nhiều vấn đề đáng đợc quan tâm: cơ
, Phạm Văn Đồng, Về vấn đề giáo dục- đào tạo, Nxb Chính trị quốc gia, H1999, tr13

(3 4)
(


cấu đào tạo bậc đại học, ngành học còn bất hợp lý, một số ngành bung ra đào
tạo một cách tự phát: kinh tế, luật... Trình độ đào tạo mất cân đối, cơ cấu về
trình độ là 1-1,5-3,5 (1 đại học, 1,5 trung học chuyên nghiệp, 3,5 sơ cấp),
trong khi đó với trình độ sản xuất ở nớc ta, theo kinh nghiệm của các nớc
trong khu vực, thờng là 1-4-10 hoặc 1-5-20(5) . Sự bất hợp lý về cơ cấu vùng,
miền khắc phục chậm (tính đến năm 2002 , bình quân cả nớc có 120 sinh
viên/một vạn dân)...
Tóm lại, những hạn chế, bất cập trên đây cần phải đợc khắc phục trong
thời gian tới đây. Bốn quan điểm cơ bản đợc thể hiện trong chiến lợc giáo dục
2001-2010 là những định hớng cơ bản, quan trọng nhằm khắc phục những hạn

chế, yếu kém; phát triển giáo dục, đào tạo ở nớc ta trong những năm tới đáp
ứng yêu cầu đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá và nâng cao
chất lợng giáo dục của chúng ta ngang tầm với các nớc trong khu vực và trên
thế giới.
* ý nghĩa của vấn đề với công tác giáo dục- đào tạo ở nhà trờng
quân sự
Là một bộ phận của hệ thống giáo dục quốc dân, dới sự lãnh đạo của
Đảng; trong quá trình xây dựng và trởng thành của quân đội nói chung và
công tác giáo dục, đào tạo ở các nhà trờng quân đội nói riêng luôn quán triệt
và bám sát các quan điểm chỉ đạo của Đảng.Thực hiện Nghị quyết
93/ĐUCSTW và các Nghị quyết, chỉ thị của ĐUQSTW, Bộ quốc phòng, công
tác giáo dục, đào tạo và xây dựng nhà trờng quân đội đã phát triển đúng đờng
lối, chủ trơng của đảng, phù hợp với tính đặc thù của hoạt động quân sự, quốc
phòng có tiến bộ về nhiều mặt: cơ bản đạt đợc mục tiêu, yêu cầu về số lợng ,
từng bớc nâng cao chất lợng đào tạo đội ngũ cán bộ, hạ sỹ quan, nhân viên
(5)

Sđd, tr40


chuyên môn kỹ thuật, góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lợng tổng
hợp và sức mạnh chiến đấu của quân đội ta..
Quán triệt các quan điểm chỉ đạo của Đảng công tác giáo dục, đào tạo
trong quân đội đã đạt đợc một số thành tựu đáng kể:
Đã ban hành đợc hệ thống quy chế giáo dục đào tạo chơng trình hành
động thực hiện nghị quyết Trung ơng 2 khoá VIII. Ban hành hàng trăm loại
văn bản triển khai thực hiện, cụ thể hoá quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục
của Đảng.
Đào tạo đợc một số lợng lớn cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật
đáp ứng cho nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; hoà nhập với sự phát triển

của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc.
Tích cực đổi mới nội dung, chơng trình, phơng pháp đào tạo; nghiên
cứu vận dụng nhiều phơng pháp dạy học mới phát huy tính tích cực của ngời
học. Nội dung dạy học vừa đảm bảo khoa học và hiện đại, đồng thời phù hợp
với đờng lối quốc phòng và xây dựng lực lợng vũ trang nhân dân Việt nam.
Việc quy hoạch, đào tạo và sử dụng đợc coi trọng và quan tâm đúng
mức. Đã huy động đợc sức mạnh của các lực lợng tham gia vào quá trình giáo
dục, đào tạo cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật.
Tuy nhiên, so với yêu cầu nhiệm vụ của tình hình mới, công tác giáo
dục đào tạo ở các trờng quân sự còn bộc lộ một số tồn tại, khuyết điểm:
Đầu t cho công tác đào tạo mới đáp ứng đợc một phần nhu cầu và quan
điểm giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu. Cơ sở vật chất kỹ thuật mới cơ
bản đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ, quy mô trình độ bậc đại học, cấp học. So
với yêu cầu phát triển giáo dục đào tạo hiện nay và những năm tiếp theo thì
vẫn còn gặp nhiều khó khăn, nhất là các học viện, nhà trờng phải thực hiện
tiêu chí đảm bảo chất lợng đào tạo của Nhà nớc. Đầu t xây cơ bản cho các học
viện, nhà trờng mới đạt 37% so với nhu cầu


Điều kiện làm việc, học tập, sinh hoạt ở các nhà trờng còn nhiều khó
khăn: vũ khí, trang bị lạc hậu hơn với ở đơn vị, thiếu về số lợng, chất lợng
thấp; các trung tâm huấn luyện thực hành cha đợc đầu t đúng mức, ảnh hởng
trực tiếp đến rèn luyện thực hành cho học viên.
Hệ thống nhà trờng quân đội còn khép kín, Phơng pháp đào tạo còn
giản đơn, nặng về truyền thụ lý thuyết, nguồn thông tin khoa học hạn hẹp.
Đội ngũ nhà giáo còn thiếu về số lợng, tỷ lệ đạt chuẩn còn thấp, chế độ
u đãi, chính sách khuyến khích đối với nhà giáo chậm đợc bổ sung, sửa đổi...
Những hạn chế trên đây có cả những nguyên nhân chủ quan và khách
quan; một trong những nguyên nhân quan trọng là chúng ta cha quán triệt và
cụ thể hoá các quan điểm giáo dục của Đảng vào các nhà trờng quân đội. Trớc

yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới; tiếp tục quán triệt sâu sắc hơn nữa sự
chỉ đạo của Đảng về giáo dục. Công tác giáo dục, đào tạo trong các nhà trờng
quân đội cần tập trung vào một số nội dung cơ bản sau.
Trớc hết phải coi nhiệm vụ phát triển giáo dục đào tạo là một trong
những nhiệm vụ trọng tâm, quan tâm hàng đầu của cấp uỷ và chỉ huy các cấp
trong quân đội, tập đầu t và huy động ngân sách, nguồn lực con ngời, trang
thiết bị và có chính sách phù hợp để giáo dục đào tạo phát triển trớc một bớc.
Phát triển giáo dục- đào tạo đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội, củng
cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc và tham gia có hiệu quả vào sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nớc. Tham gia đào tạo nguồn lực cho các quá
trình phát triển xã hội.
Gắn lý luận với thực tiễn, kết hợp bồi dỡng kiến thức, năng lực t duy với
rèn luyện năng lực thực hành, chú trọng truyền thụ kinh nghiệm chiến dấu và
giáo dục truyền thống. Từng bớc hiện đại hoá nội dung và phơng pháp giáo
dục; kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo tại nhà trờng với bồi dỡng tại đơn vị; đào
tạo với sử dụng.


Hệ thống nhà trờng quân đội là một bộ phận của hệ thống nhà trờng
quốc gia, phù hợp với đặc thù giáo dục- đào tạo quân sự. Phát huy thế mạnh
của quân đội tham gia phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và huy động
tiềm lực của Nhà nớc phục vụ giáo dục- đào tạo quân sự.
Xây dựng hệ thống nhà trờng ổn định, có đủ các yếu tố bảo đảm chất lợng theo hớng chuẩn hoá, hiện đại hoá, phù hợp với tổ chức quân đội và khoa
học giáo dục. Xây dựng, phát triển quy mô, cơ cấu trình độ, vùng miền và
ngành nghề đào tạo hợp lý, phù hợp với đặc điểm và nhiệm vụ hoạt động của
các đơn vị quân , binh chủng.
Ưu tiên gửi học viên đi đào tạo ở nớc ngoài theo những ngành kỹ thuật
quốc phòng ở các nớc tiên tiến, đặc biệt là các ngành công nghệ cao trong
quân sự.




×