Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

ĐÀO tạo, bồi DƯỠNG GIÁO VIÊN THỰC TRẠNG và QUAN điểm đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (493.87 KB, 9 trang )

HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIÁO VIÊN
THỰC TRẠNG VÀ QUAN ĐIỂM ĐỔI MỚI
PGS.TS Bùi Văn Quân
Trường ĐH Thủ đô Hà Nội
Tóm tắt: Tinh thần của Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Khóa XI về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế” có tác động trực tiếp đến hệ thống các cơ sở đào tạo giáo
viên mầm non và phổ thông, bởi các cơ sở đào tạo này cung cấp nhân lực chủ đạo để
thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục mần non và phổ thông của nước ta.
Theo đó, đổi mới đào tạo giáo viên, hơn lúc nào hết trở thành vấn đề cấp bách và có
thể xem như khâu đột phá để thực hiện các mục tiêu của đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo.
Trong bối cảnh đổi mới giáo dục và đào tạo hiện nay, cơ cấu mạng lưới và
phương thức đào tạo giáo viên chắc chắn cần phải có sự thay đổi. Những thay đổi
này là đòi hỏi tất yếu của yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo, đồng thời cũng xuất
phát từ những hạn chế của cơ cấu mạng lưới và phương thức đào tạo giáo viên trong
giai đoạn lịch sử vừa qua.
Trên cơ sở một số nhận định, bài viết sẽ đề xuất các đề xuất mang tính định
hướng trong đào tạo, bồi dưỡng giáo viên nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới hiện nay.
Từ khóa: Đào tạo, bồi dưỡng, giáo viên, đổi mới.
1. Mở đầu
Tinh thần của Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XI về
“Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện
đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc
tế” có tác động trực tiếp đến hệ thống các cơ sở đào tạo giáo viên mầm non và phổ thông,
bởi các cơ sở đào tạo này cung cấp nhân lực chủ đạo để thực hiện đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục mần non và phổ thông của nước ta. Theo đó, đổi mới đào tạo giáo viên, hơn
lúc nào hết trở thành vấn đề cấp bách và có thể xem như khâu đột phá để thực hiện các


mục tiêu của đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.

445


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI

Đổi mới đào tạo giáo viên liên quan đến nhiều vấn đề cả ở tầm vĩ mô lẫn vi mô,
cả về phương thức đào tạo lẫn cấu trúc hệ thống đào tạo giáo viên. Trong thời gian
quan, đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này, tiêu biểu hơn cả là công trình
nghiên cứu của Nguyễn Thị Bình với đề tài khoa học độc lập cấp nhà nước “Nghiên
cứu đề xuất các giải pháp cải cách công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên phổ thông”
và chương trình Khoa học giáo dục cấp Bộ “Đổi mới đào tạo giáo viên trong trường
đại học sư phạm đáp ứng yêu cầu giáo dục phổ thông trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại học và hội nhập quốc tế” do Trường Đại học Sư phạm Hà Nội là đơn vị chủ
trì. Tuy nhiên, tiếng nói chung và nhất là những kết quả nghiên cứu của các đề tài này
chưa được chuyển giao và áp dụng có hiệu quả trong thực tiễn đào tạo giáo viên hiện
nay. Điều này cho thấy, cần có sự đánh giá đảm bảo tính hệ thống, khách quan làm cơ
sở cho những ý tưởng hoạch định phương án đổi mới đào tạo giáo viên trong thời gian
tới.
2. Khái quát về hệ thống cơ sở đào tạo và mô hình/phương thức đào tạo
giáo viên hiện nay.
2.1. Về cơ sở đào tạo giáo viên
Tại thời điểm tháng 9 năm 2013 cả nước có 108 cơ sở đào tạo GVMN và
GVPT, bao gồm: 9 trường đại học sư phạm (ĐHSP); 1 trường đại học giáo dục
(ĐHGD); 31 khoa, ngành sư phạm (SP) trong các trường đại học (ĐH) đa ngành; 35
trường cao đẳng sư phạm (CĐSP); 19 khoa, ngành SP trong các trường cao đẳng (CĐ)
đa ngành; 3 trường trung cấp sư phạm (TCSP) và 10 trường trung cấp chuyên nghiệp

(TCCN). Trong đó có 88 cơ sở đào tạo GVMN và GVTH (3 trường TCSP, 7 TCCN,
32 trường CĐSP, 6 trường ĐHSP, 22 khoa/ngành SP của các trường ĐH và 10
khoa/ngành SP trong các trường ĐH); 84 cơ sở đào tạo GVTHCS (36 trường CĐSP, 6
trường ĐHSP, 23 khoa/ngành SP của các trường ĐH và 19 khoa/ngành SP trong các
trường CĐ) và 37 cơ sở đào tạo GVTHPT (6 trường ĐHSP, 1 trường ĐHGD, và 32
khoa/ngành SP của các trường ĐH). Kể từ khi ngành sư phạm được thành lập, các cơ
sở đào tạo giáo viên đã đào tạo cho đất nước hơn 2 triệu GV (hiện có hơn 1 triệu GV
đang làm việc), quy mô đào tạo có thay đổi trong từng thời kỳ, nhưng theo xu hướng
ngày càng mở rộng. Tại thời điểm năm học 2013-2014 tổng quy mô SVĐH và CĐSP
xấp xỉ 430.100, bao gồm hệ đào tạo chính quy: 232.900 (54,2%); hệ vừa làm vừa học:
149.050 (34,6%) và hệ đào tạo từ xa: 48.150 (11,2%); quy mô đào tạo GVTHPT
chiếm 40,2%; GVTHCS: 24,2%; GVMN: 22,2% và GVTH: 13,4%. Đào tạo sau ĐH

446


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

khoảng 9.341 người (bằng khoảng 2,2% quy mô SVĐH và CĐ) với 8.811 học viên cao
học và 530 nghiên cứu sinh tiến sỹ.
Về phương diện phân bố, trừ tỉnh Đắk-Nông, trên địa bàn mỗi tỉnh/thành phố
hiện nay có ít nhất 1 cơ sở đào tạo GV. Vùng miền núi và trung du phía Bắc với 15
tỉnh có 19 cơ sở (1 trường ĐHSP, 8 trường CĐSP, 3 khoa/ngành SP trong ĐH, trường
ĐH, 6 khoa/ngành SP trong trường CĐ và 1 trường TCNN), đào tạo 20,3% số học
sinh, sinh viên SP của cả nước. Địa bàn tỉnh Hòa Bình và Thái Nguyên có 2 cơ sở.
Vùng đồng bằng Sông Hồng với 10 tỉnh và thành phố có 26 cơ sở (4 trường ĐHSP, 1
trường ĐHGD, 8 trường CĐSP, 6 khoa/ngành SP trong trường ĐH, 4 khoa/ngành SP
trong trường CĐ, 2 trường TCSP và 1 trường TCCN), đào tạo 28,0% số học sinh, sinh
viên SP của cả nước. Địa bàn tỉnh Thái Bình, Vĩnh Phúc có 2 cơ sở và TP Hà Nội có
8 cơ sở. Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Nam Trung Bộ với 24 tỉnh và thành phố có

23 cơ sở (2 trường ĐHSP, 6 trường CĐSP, 10 khoa/ngành SP trong trường ĐH, 1
trung tâm đào tạo SP thuộc ĐH, 5 khoa/ngành SP trong trường CĐ và 2 trường
TCCN), đào tạo 24,2% số học sinh, sinh viên SP của cả nước. Địa bàn tỉnh Nghệ An,
Thừa Thiên Huế và Khánh Hòa có 3 cơ sở. Vùng Tây Nguyên với 5 tỉnh có 7 cơ sở (2
khoa/ngành SP trong trường ĐH, 4 trường CĐSP và 1 trường TCSP), đào tạo 4,6% số
học sinh, sinh viên SP của cả nước. Địa bàn tỉnh Đắk-Lắk có 3 cơ sở và Lâm Đồng có
2 cơ sở. Vùng Đông Nam Bộ với 6 tỉnh và thành phố có 18 cơ sở (2 trường ĐHSP, 4
trường CĐSP, 5 khoa/ngành SP trong trường ĐH, 1 khoa/ngành SP trong trường CĐ
và 6 trường TCCN), đào tạo 11,2% số học sinh, sinh viên SP của cả nước. Địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh có 5 cơ sở. Vùng đồng bằng Sông Cửu Long với 13 tỉnh và
thành phố có 14 cơ sở (5 trường CĐSP, 6 khoa/ngành SP trong trường ĐH và 3
khoa/ngành SP trong trường CĐ), đào tạo 11,8% số học sinh, sinh viên SP của cả
nước. Địa bàn thành phố Cần Thơ có 2 cơ sở.
Về phương diện quản lý, cơ quan chủ quản của các cơ sở đào tạo SP gồm có
Bộ Giáo dục và Đào tạo, ủy ban nhân dân các tỉnh/thành phố, Đại học Quốc gia Hà
Nội, các đại học vùng, các trường ĐH và CĐ. Cụ thể: Bộ Giáo dục và Đào tạo quản
lý 5 trường ĐHSP và 3 trường CĐSP; Đại học Quốc gia Hà Nội quản lý 1 Trường
ĐHGD; Các đại học vùng quản lý 3 trường ĐHSP; Ủy ban nhân dân các tỉnh và
thành phố quản lý 35 trường CĐSP; 3 trường TCSP và 10 trường TCCN; Các
trường ĐH, trường CĐ quản lý khoa/ngành SP.
2.2.

Về mô hình/phương thức đào tạo giáo viên

Đào tạo GV đang thực hiện theo 2 mô hình/phương thức:

447


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO


TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI

- Đào tạo song song (theo truyền thống): vừa đào tạo khoa học cơ bản và khoa
học chuyên ngành, vừa đào tạo sư phạm (4 năm đối với ĐH, 3 năm đối với CĐ và
hoặc 2 đói với TCCN). Theo mô hình này, GVMN, GVTH thường được đào tạo dạy
toàn diện; GVTHCS được đào tạo dạy 2 môn và GVTHPT được đào tạo dạy 1 môn .
- Đào tạo nối tiếp (theo 2 giai đoạn): đào tạo khoa học cơ bản và khoa học chuyên
ngành trước, sau đó đào tạo nghề SP. Mô hình này thực hiện với hai hình thức: có định
hướng (công thức 3+1) áp dụng đối với SV thi vào ngành sư phạm và trúng tuyển tại cơ sở
đào tạo ĐHSP và không định hướng (công thức 4+1) áp dụng với SV tốt nghiệp ở các
ngành khác, có nhu cầu được đào tạo nghề SP hoặc người tốt nghiệp cử nhân khoa học,
đã được tuyển làm GV nhưng chưa được qua đào tạo SP.
2.3. Một số nhận định
Trước hết, phải khẳng định hệ thống đào tạo giáo viên của nước ta hiện nay đã
có cống hiến vô cùng to lớn với sự nghiệp phát triển giáo dục mầm non và phổ thông.
Cơ cấu mạng lưới các cơ sở đào tạo giáo viên, nhất là cơ cấu theo địa bàn lãnh thổ
(mỗi tỉnh/thành phố có ít nhất 01 cơ sở đào tạo giáo viên) và phương thức đào tạo giáo
viên truyền thống (đào tạo song song) đã hoàn thành vai trò, sứ mệnh lịch sử của nó.
Trong bối cảnh đổi mới giáo dục và đào tạo hiện nay, cơ cấu mạng lưới và
phương thức đào tạo giáo viên chắc chắn cần phải có sự thay đổi. Những thay đổi này
là đòi hỏi tất yếu của yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo, đồng thời cũng xuất phát từ
những hạn chế của cơ cấu mạng lưới và phương thức đào tạo giáo viên trong giai đoạn
lịch sử vừa qua. Có thể khái quát những hạn chế đó như sau:
- Phát triển mạng lưới cơ sở đào tạo giáo viên chưa thực sự xuất phát từ nhu cầu
phát triển giáo viên
Sự đa dạng trong tổ chức cơ sở đào tạo giáo viên là điều kiện và cũng là nguyên
nhân để gia tăng quy mô đào tạo giáo viên. Tuy nhiên, cần chú ý là, việc tăng quy mô
đào tạo giáo viên không xuất phát trực tiếp từ nhu cầu nhân lực của ngành giáo dục mà
là hệ quả của sự phát triển các cơ sở đào tạo giáo viên.

Theo dự báo, đến năm 2018 số GV mới tốt nghiệp ra trường mỗi năm sẽ
khoảng 90.000; trong đó: GVMN: 29.600; GVTH: 19.200; GVTHCS: 18.700 và
GVTHPT: 23.030. Với tình hình này, cho dù tăng số HS/GV bình quân lên tương
đương các nước công nghiệp phát triển hiện nay , thì tại thời điểm năm 2020 hệ thống
cũng không thể tuyển dụng hết số GV mới tốt nghiệp ra trường, vẫn thừa khoảng
41.000 đối với TH, 12.200 đối với THCS và 16.900 đối với THPT.

448


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

- Mạng lưới cơ sở đào tạo giáo viên phát triển trong tình trạng thiếu ổn định do
nhiều trường CĐSP yếu cả về cơ sở vật chất và đội ngũ giảng viên được nâng cấp lên
ĐH, hoặc đổi tên để mở rộng tuyển sinh đào tạo trình độ ĐH các ngành SP và ngoài
SP
Tính đến tháng 12 năm 2013, đã có 20 trường CĐSP được nâng cấp lên ĐH và
10 trường ĐHSP và CĐSP đổi tên. Các trường nâng cấp hầu hết là các trường CĐSP
địa phương. Nhiều trường nâng cấp trong điều kiện còn thiếu thốn về điều kiện cơ sở
vật chất-kỹ thuật, đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý, giáo trình, tài liệu và sách vở.
Tuy nhiên, ngay sau khi nâng cấp, hoặc mở mã ngành mới, các trường đã tuyển sinh
đào tạo GVPT và các ngành, nghề kinh tế-kỹ thuật trình độ ĐH với quy mô tuyển sinh
tăng rất nhanh qua các năm. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của GDĐH
nói chung, chất lượng đội ngũ GVMN và GVPT nói riêng.
- Chưa có sự phân tầng trong mạng lưới cơ sở đào tạo giáo viên
Ngoài việc xác định 2 trường ĐHSP trọng điểm, các cơ sở đào tạo giáo viên
hiện nay hoàn toàn “bình đẳng” về phương diện đẳng cấp (xét theo trình độ giáo viên
được đào tạo). Tình trạng này khiến cho sự gắn kết giữa các cơ sở đào tạo giáo viên và
phát huy vai trò của cơ sở đào tạo giáo viên có chất lượng trong mạng lưới cơ sở đào
tạo giáo viên bị hạn chế.

- Các cơ sở đào tạo giáo viên chưa gắn kết chặt chẽ với các cơ sở giáo dục mầm
non, phổ thông, chưa chú ý đúng mức đến các điều kiện đảm bảo chất lượng nên phát
triển thiếu bền vững, năng lực cạnh tranh thấp.
Đào tạo giáo viên ở các cơ sở đào tạo giáo viên hiện nay chưa gắn kết chặt chẽ
với thực tiễn giáo dục mầm nom và phổ thông. Do không theo sát với thực tiễn sinh
động của giáo dục mầm non, phổ thông, nên các cơ sở đào tạo giáo viên luôn phải
“chạy theo” những “ canh tân”, “đổi mới” của giáo dục mầm non và phổ thông. Sinh
viên sư phạm sau tốt nghiệp, được tuyển dụng vào làm việc ở các cơ sở giáo dục mầm
non, phổ thông lại phải đi bồi dưỡng về nghiệp vụ.
Hầu hết các cơ sở đào tạo giáo viên ở các thành phố lớn, đặc biệt Hà Nội và
thành phố Hồ Chí Minh thiếu đất xây dựng. Các cơ sở thuộc địa phương quản lý có
diện tích rộng hơn nhưng cơ sở vật chất nghèo nàn. Bình quân diện tích đất cho 1 SV
khoảng dưới 30m2. Thiếu đất nên hầu hết diện tích chỉ để xây dựng khu học tập và mật
độ xây dựng lên đến 50-60%, trong khi tiêu chuẩn hiện hành là 20 đến 25%; Thư viện,
hệ thống thông tin tư liệu, tài liệu, sách tham khảo, phòng thí nghiệm, hạ tầng CNTT,
cơ sở thực tập, thực hành, hệ thống trường thực nghiệm của hầu hết các cơ sở đào tạo

449


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI

SP cả của trung ương và địa phương đều trong tình trạng thiếu, yếu kém và lạc hậu; Tỉ
lệ giảng viên của các cơ sở đào tạo SP là GS, phó GS, trình độ TS và TSKH thấp hơn
so với tỉ lệ chung của GDĐH. Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của giảng viên giữa
các vùng, miền và ngành đào tạo không đồng đều; năng lực ngoại ngữ, CNTT và
phương pháp giảng dạy hạn chế.
- Hầu hết các cơ sở đào tạo giáo viên tập trung chủ yếu vào việc đào tạo mới và

đào tạo nâng cao trình độ, chưa quan tâm đúng mức đến hoạt động đào tạo lại và bồi
dưỡng đội ngũ GV.
Quy mô đào tạo của các trường ĐHSP và CĐSP hiện nay bao gồm các hệ: dài
hạn chính quy, cử tuyển, vừa làm vừa học, đào tạo liên thông (TCSP lên CĐSP, CĐSP
lên ĐHSP và TCSP lên ĐHSP) và bồi dưỡng nghiệp vụ SP (ngắn hạn) cho các đối
tượng đã được tuyển dụng làm GV nhưng chưa qua đào tạo SP. Nói chung các hoạt
động đào tạo này đều là đào tạo mới và đào tạo nâng cao trình độ GV. Công tác đào tạo
lại và bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ thường xuyên cho đội ngũ GV đang làm việc
hầu như còn bỏ trống.
- Công tác quản lý hệ thống, các quy định về tiêu chuẩn, quy trình, chuẩn mực
quản lý hoạt động đào tạo, cũng như công cụ và cơ chế kiểm soát chất lượng đào tạo SP
còn nhiều bất cập
Hiện nay, việc thực thi, điều hành chính sách đào tạo GV và định hướng phát
triển của mỗi cơ sở đào tạo giáo viên phụ thuộc chủ yếu vào sự chỉ đạo trực tiếp của
các cơ quan chủ quản. Do mỗi cơ quan chủ quản có đặc điểm, điều kiện, năng lực, tính
chuyên nghiệp và trình độ nghiên cứu hệ thống quản lý, cũng như các chính sách công
tương ứng của GDĐH nói chung, đào tạo giáo viên nói riêng khác nhau, nên sự chỉ
đạo đối với các cơ sở đào tạo giáo viên thuộc quyền cũng khác nhau. Trong khi đó,
phần lớn các quyết định liên quan đến chính sách đào tạo GV và phát triển trường SP
tập trung ở cấp trung ương. Vì vậy, điều hành chính sách đôi khi thiếu ăn khớp và hiệu
quả chính sách thấp.
- Mô hình/phương thức đào tạo GV chậm được thể chế hóa; các quy định về
tiêu chuẩn, quy trình và chuẩn mực quản lý hoạt động đào tạo của các trường SP vừa
yếu vừa thiếu; công cụ và cơ chế kiểm soát chất lượng đào tạo SP chưa đủ mạnh; chưa
kết nối và phát huy vai trò dẫn dắt của các trường SP đầu ngành, có tiềm năng đối với
toàn bộ hệ thống SP.
3. Một số quan điểm có tính định hướng trong đổi mới đào tạo bồi dưỡng
giáo viên

450



HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

3.1. Xây dựng mạng lưới cơ sở đào tạo và tổ chức mô hình/phương thức đào
tạo giáo viên phải xuất phát từ quan điểm “giáo viên là người lao động nghề nghiệp
chuyên nghiệp”
Quan điểm trên khẳng định tính chuyên nghiệp trong lao động nghề nghiệp của
giáo viên nên đặt ra những tiêu chuẩn xác định cho đào tạo giáo viên và đòi hỏi, người
làm công tác đào tạo ở các cơ sở đào tạo giáo viên phải là những người chuyên nghiệp
trong đào tạo giáo viên.
Trong thời gian tới, cần có những nghiên cứu thực tiễn đề đánh giá chất lượng
của các mô hình/phương thức đào tạo giáo viên hiện nay để có quyết sách về đầu tư
một mô hình/phương thức nào đó là chủ đạo trong đào tạo giáo viên.
3.2.

Thiết kế cơ cấu các cơ sở đào tạo giáo viên phải dựa trên dự báo nhân lực
giáo dục với sự đa dạng các phương án

Hiện nay, do tình trạng thừa giáo viên, số sinh viên sư phạm tốt nghiệp chưa
được tuyển dụng khá lớn nên dư luận xã hội có những bức xúc nhất định. Ngành giáo
dục đã có những biện pháp nhằm điều chỉnh về quy mô đào tạo giáo viên, tuy nhiên
đây là những biện pháp có tính chất tình thế, ứng phó dư luận trong bối cảnh “khủng
hoảng thừa giáo viên”. Việc phát triển quy mô đào tạo giáo viên phải tính đến cả tình
huống của “khủng hoảng thiếu giáo viên”. Do vậy, cần có nguồn nhân lực dự trữ cho
ngành giáo dục bằng việc tạo ra cơ hội cho nhiều sinh viên tốt nghiệp đại học (không
phải sư phạm) có thể trở thành giáo viên trong những bối cảnh cụ thể.
3.3.

Mạng lưới cơ sở đào tạo giáo viên phải được phân tầng


Việc phân tầng các cơ sở đào tạo giáo viên không chỉ giúp định hướng đầu tư
phát triển các cơ sở đào tạo giáo viên phù hợp mà còn giúp cho các cơ sở đào tạo giáo
viên gắn kết chặt chẽ với nhau về phương diện chất lượng đào tạo; đồng thời đáp ứng
yêu cầu kết hợp giữa quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ đối với các cơ sở đào
tạo giáo viên. Bên cạnh đó, phân tầng cơ sở đào tạo giáo viên cũng là cơ sở quan trọng
để việc xác định chức năng, nhiệm vụ của từng loại cơ sở đào tạo giáo viên trong đào
tạo giáo viên theo trình độ và đẳng cấp nghề nghiệp.
3.4.

Xác định rõ quan điểm chấp nhận hay không chấp nhận việc thực hiện nhiệm
vụ đào tạo giáo viên chỉ là một trong những nhiệm vụ của cơ sở đào tạo giáo
viên, kể cả với các trường sư phạm truyền thống

Thực tế cho thấy, nhiệm vụ đào tạo giáo viên đã được thực thi như là
một trong những nhiệm vụ đào tạo của các cơ sở đào tạo giáo viên.

451


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI

Phần lớn các trường CĐSP và ĐHSP hiện nay đã mở các mã ngành đào
tạo ngoài SP như khoa học môi trường, quản trị kinh doanh, tài chính ngân hàng, kế
toán, quản trị văn phòng, công nghệ thông tin, công tác xã hội, tin học ứng dụng, thiết
kế thời trang, quản lý văn hóa, lưu trữ học, khoa học thư viện…Tỷ lệ SVSP trong các
cơ sở SP thu hẹp dần. Năm 2013, quy mô đào tạo SP của Trường ĐH Vinh chỉ khoảng
10,5% (3.587/34.218), Trường ĐH Quy Nhơn khoảng 35,8% (9004/25.144); Trường

ĐH Trà Vinh khoảng 2,7% (510/18.466); Trường ĐH Đà Lạt khoảng 4,1%
(712/17356); Trường CĐSP Tuyên Quang khoảng 49,0% (520/3170), Trường CĐSP
Thái Nguyên khoảng 50% (550/3277), Trường CĐSP Thừa Thiên Huế khoảng 46,1%
(560/3642), Trường CĐSP Ninh Thuận khoảng 39,3% (250/1908)…
3.5.

Các cơ sở đào tạo giáo viên phải là các cơ sở giáo dục khởi xương, đi tiên
phong cho những đổi mới của giáo dục mầm non và phổ thông

Điều này liên quan đến 2 vấn đề: một là, cần xác định lại chức năng của trường
thực hành sư phạm, đặc biệt là trường thực hành sư phạm thuộc cơ sở đào tạo giáo
viên (trường thực hành sư phạm thuộc cơ sở đào tạo giáo viên không thuần túy chỉ là
cơ sở thực hành nghề); hai là, quy trình đào tạo giáo viên phải được thiết kế, tổ chức
gắn chặt với thực tiễn đời sống học đường, đảm bảo mối quan hệ mật thiết giữa đào
tạo và bồi dưỡng theo quan điểm phát triển liên tục nghề nghiệp giáo viên (phát triển
liên tục nghề nghiệp giáo viên là một quá trình bao gồm cả 3 giai đoạn: trước đào tạo
nghề giáo viên, đào tạo nghề giáo viên và lao động nghề nghiệp tại cơ sở giáo dục
mầm non hoặc phổ thông).
4. Kết luận
Từ quan điểm đến hiện thực là một quá trình với khoảng cách khá xa. Hệ thống
cơ sở đào tạo giáo viên trong tương lai nên thiết kế như thế nào, vận hội của các
trường cao đẳng sư phạm sẽ ra sao, mối quan hệ giữa cơ sở đào tạo giáo viên và các cơ
sở giáo dục mầm non, phổ thông được thiết lập và vận hành như thế nào, những điều
kiện đảm bảo của nó là gì .v.v. là những câu hỏi không dễ có lời giải thấu đáo. Nó cần
đến thời gian với sự đầu tư trí tuệ của các nhà sư phạm trong một chương trình nghiên
cứu khoa học có tổ chức với định hướng rất cụ thể.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2011), Kỷ yếu Hội nghị toàn quốc các trường sư
phạm lần thứ 2, Hà Nội.


452


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

[2] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2012), Quy hoạch phát triển nhân lực ngành Giáo
dục và đào tạo đến năm 2020, Hà Nội.
[3] Nguyễn Thị Bình (2013) Nghiên cứu đề xuất các giải pháp cải cách công
tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên phổ thông, Đề tài KHGD cấp Nhà nước, Mã số 012010.
[4] Trường ĐHSP Hà Nội (2015), Đổi mới đào tạo giáo viên trong trường đại
học sư phạm đáp ứng yêu cầu giáo dục phổ thông trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại học và hội nhập quốc tế, Chương trình Khoa học giáo dục cấp Bộ, Hà Nội,

453



×