Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG đào tạo GIÁO VIÊN PHỔ THÔNG tại TRƯỜNG đại học HỒNG đức THANH hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (523.14 KB, 11 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN PHỔ THÔNG
TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC THANH HÓA

TS. Hoàng Nam
Trường đại học Hồng Đức – Thanh Hóa
Tóm tắt: Nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ giáo viên cho các trường phổ
thông là nhiệm vụ cấp thiết của các trường đại học sư phạm và ngoài sư phạm trong
giai đoạn hiện nay. Người giáo viên trong thời kỳ hiện đại không chỉ thực hiện chức
năng dạy học, giáo dục mà còn là một nhà khoa học, nhà văn hoá, nhà đạo đức, nhà
hoạt động xã hội. Bài viết nghiên cứu về vai trò của trường đại học địa phương trong
việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên các trường phổ thông và giải pháp nâng cao
chất lượng đội ngũ giáo viên phổ thông ở Thanh Hóa hiện nay, đáp ứng yêu cầu về đổi
mới, căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
Từ khóa: nâng cao chất lượng, đào tạo giáo viên, đại học địa phương, yêu cầu đổi mới.
Abstract: Training teachers for high schools is an urgent task of pedagogical
universities and other universities as well at the present time. The teacher not only
performs the functions of teaching and educating, but also plays the role of a scientist,
a cultural, a ethical and a social activist . The research studies the role of the local
universities in training and fostering teachers for high schools and finds the solution to
improve the quality of high school teachers in Thanh Hoa province, meeting the
demands of radical innovation, comprehensive reform of education and training .
Key words: improve the quality, training teachers, local universities, the
demands of reform.
1. Đặt vấn đề
Công tác đào tạo đội ngũ giáo viên cho các trường phổ thông trong tỉnh Thanh
Hóa là nhiệm vụ không chỉ của trường đại học Hồng Đức mà còn của các trường đại
học sư phạm và các trường đại học khác trong cả nước. Việc tuyển dụng giáo viên cho


các trường phổ thông trong tỉnh được thực hiện theo quy trình và cách tính điểm theo
quy định của Bộ Nội vụ. Sinh viên tốt nghiệp trường đại học Hồng Đức được xét bình
đẳng như sinh viên tốt nghiệp ở các trường đại học khác.
Hiện nay, việc đào tạo giáo viên phổ thông đang là một thách thức lớn đối với
các trường đại học sư phạm, các khoa đào tạo sư phạm bởi vì nhu cầu tuyển dụng giáo

370


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

viên phổ thông hàng năm rất ít; số lượng học sinh khá, giỏi ở các trường THPT đăng
ký dự thi, xét tuyển và các ngành sư phạm ngày càng ít. Bên cạnh đó chất lượng đào
tạo phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, như chất lượng tuyển sinh đầu vào; nội dung
chương trình đào tạo; phương pháp giảng dạy, thi kiểm tra đánh giá; đội ngũ giảng
viên thực hiện chương trình; quy trình tổ chức, quản lý đào tạo; các điều kiện phục vụ
đào tạo, phòng thí nghiệm, thực hành, thực tập;… Bởi vậy, việc đổi mới đào tạo giáo
viên (GV) trong các trường đại học trở thành một đòi hỏi cấp thiết. Bởi vì, chiếc “máy
cái” sư phạm hiện thời đã và đang bộc lộ nhiều bất cập trước tiến trình của công cuộc
đổi mới giáo dục cả về triết lý đào đạo cũng như nội dung chương trình đào tạo.
Bài viết này, chúng tôi nghiên cứu về vai trò của trường đại học địa phương
trong việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên các trường phổ thông và giải pháp nâng
cao chất lượng đội ngũ giáo viên phổ thông ở Thanh Hóa hiện nay, đáp ứng yêu cầu đổi
mới giáo dục theo tinh thần Nghị quyết 29 của BCH Trung ương Đảng khóa XI về về
đổi mới, căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên phổ thông hiện
nay
Hiện nay, cả nước có 15 trường đại học sư phạm và 144 trường có ngành sư
phạm, hàng năm các trường đại học sư phạm, các khoa sư phạm tuyển sinh hàng chục,

hàng trăm chỉ tiêu đào tạo giáo viên cho mỗi ngành đào tạo.
Thực tế cho thấy hầu như các tỉnh, thành phố trong cả nước đều có trường đào
tạo giáo viên (GV) từ bậc tiểu học đến bậc THPT. Những năm gần đây, các trường này
không ngừng mở rộng, phát triển cả về quy mô, số lượng lẫn hình thức đào tạo, số sinh
viên tốt nghiệp ra trường có nhu cầu làm việc trong ngành giáo dục ngày càng đông
thêm. Thế nhưng, ở hầu hết các địa phương, các trường phổ thông đều đang trong tình
trạng bão hòa, thậm chí dư thừa GV. Ở nhiều tỉnh, thành phố nhu cầu tuyển dụng giáo
viên đã chững lại nhưng các trường ĐH, CĐ sư phạm địa phương và khu vực hiện nay
vẫn tiếp tục tuyển sinh với số lượng chỉ tiêu khá lớn khiến sinh viên ngành này ra
trường đối diện với nguy cơ không tìm được việc làm đúng với ngành đào tạo.
Trên thực tế, Bộ GD&ĐT đang giảm chỉ tiêu đào tạo ngành sư phạm. Các
trường đại học sư phạm hoặc các khoa đào tạo sư phạm của các trường đại học trên cả
nước giảm từ 5% đến 10% chỉ tiêu đào tạo giáo viên, nhưng vẫn chưa có sự kết nối
giữa “cung” và “cầu’, giữa các trường đại học (nơi đào tạo) và các trường phổ thông
(nơi sử dụng GV).

371


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI

Theo số liệu thống kê của Bộ GD-ĐT, đến thời điểm hiện nay, cả nước đang
thừa (khoảng 35.000) GV bậc THCS và THPT. Ở không ít trường phổ thông đang có
tình trạng số GV dạy không đủ tiết chuẩn, phải điều động làm những việc không đúng
chuyên môn. Theo quy định, mỗi tuần GV THCS và THPT giảng dạy và kiêm nhiệm
là 17 - 19 tiết, nhưng thực tế hiện nay, hầu hết GV ở khu vực đồng bằng không đạt
chuẩn này, thậm chí có GV chỉ dạy 5 - 7 tiết/tuần. Nhu cầu cần GV ở các trường mỗi
năm ít dần, số học sinh ở các bậc học hàng năm giảm dần, trong khi đó số lượng giáo

sinh ra trường lại không giảm theo tỷ lệ tương ứng. Chỉ tính ở góc độ đào tạo GV của
các trường sư phạm, cũng đã cho thấy sự bất tương xứng này.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, số học sinh (HS) phổ thông từ tiểu học
đến THPT trong những năm qua có xu hướng giảm dần. Số lượng này tăng ở mức cao
nhất là năm học 2001 - 2002 với 17,87 triệu HS. Đến năm học 2010 - 2011 chỉ còn
14,79 triệu, sau đó tiếp tục giảm: 14,78 (2011 - 2012), 14,74 triệu (2012 - 2013).
Trong khi đó, số lượng GV trực tiếp giảng dạy lại tăng dần. Từ hơn 492.000 người
năm học 1995 - 1996 đến hơn 847.000 người năm học 2012 - 2013. Năm học 2013 2014, số HS là 14,9 triệu, với 855.000 GV. Tuy nhiên, dù số lượng HS có tăng trở lại
chút ít nhưng vẫn giảm mạnh gần 3 triệu so với năm học 2001 - 2002 (năm có số
lượng HS nhiều nhất), trong khi đó, cùng thời gian, số lượng GV đã liên tục tăng thêm
đến 161.000 người.
Ở Thanh Hóa hiện nay có 02 trường đại học có đào tạo giáo viên phổ thông:
trường đại học Hồng Đức và trường đại học Văn hóa, Thể thao, Du lịch (đào tạo giáo
viên ngành nhạc, họa); mỗi ngành đào tạo giáo viên hàng năm tuyển sinh khoảng từ 40
chỉ tiêu trở lên, trong đó có những ngành tuyển sinh hàng trăm chỉ tiêu, như ngành học
Giáo dục Mầm non.
Quan hệ giữa “cung” và “cầu”, giữa cơ sở đào tạo đại học với đơn vị tuyển
dụng chưa được gắn bó mật thiết, quan hệ hữu cơ với nhau. Cơ sở đào tạo đại học cho
địa phương chưa có số liệu về nhu cầu giáo viên phổ thông các cấp, ngành đào tạo, số
lượng cần trong từng giai đoạn, bởi vậy việc xác định chỉ tiêu tuyển sinh các ngành
đào tạo giáo viên chủ yếu dựa theo nhu cầu người học và điều kiện đội ngũ giảng viên
của nhà trường. Việc kết nối giữa trường đại học Hồng Đức - nơi đào tạo giáo viên và
nơi có nhu cầu tuyển dụng GV hầu như chưa có gì, do vậy giữa đào tạo và sử dụng vẫn
còn khoảng cách lớn.
Hàng năm, nhà trường xây dựng chỉ tiêu tuyển sinh các ngành đào tạo sư phạm,
sở GD&ĐT xem xét, phối hợp với sở Kế hoạch và đầu tư, sở Tài chính trình Chủ tịch

372



HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

UBND tỉnh quyết định chỉ tiêu tuyển sinh của nhà trường (kể cả khối sư phạm và
ngoài sư phạm).
Khi chưa thực hiện thi tuyển sinh theo “Ba chung” của Bộ GD&ĐT, hàng năm
nhà trường có nhiều học sinh khá giỏi tham gia dự thi vào trường, nhất là các ngành
đào tạo sư phạm, một số ngành có điểm chuẩn cao, trên 21.0 điểm (ví dụ đại học sư
phạm Toán,…), nên chất lượng sinh viên đầu ra rất tốt, được sở giáo dục và đào tạo
Thanh Hóa, các trường THPT trong tỉnh tiếp nhận đánh giá cao về năng lực chuyên
môn, nghiệp vụ, nhiều người giữ các cương vị như hiệu trưởng, phó hiệu trưởng, Tổ
trưởng chuyên môn hoặc là nhân tố chính trong việc dạy ôn, luyện thi chọn học sinh
giỏi của nhà trường. Tuy nhiên từ khi thực hiện “ba chung” theo quy định của Bộ
GD&ĐT, số lượng thí sinh đăng ký xét tuyển vào các ngành sư phạm giảm nhiều, có
ngành không tuyển đủ chỉ tiêu (như ngành ĐHSP các môn Lịch sử, Hóa học, Vật lý,
…), chất lượng thí sinh đầu vào giảm mạnh, một số ngành phải tuyển sinh từ điểm sàn,
bởi vậy chất lượng sinh viên tốt nghiệp đầu ra giảm sút, ảnh hưởng chung đến chất
lượng đào tạo trong nhà trường.
Trước yêu cầu của hội nhập quốc tế và thực hiện Nghị quyết 29 về đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, trường đại học Hồng Đức đã tập trung đầu tư một
số giải pháp để nâng cao chất lượng đào tạo, xây dựng đề án đào tạo trọng điểm chất
lượng cao đối với ngành đào tạo đại học sư phạm Toán học, bởi vậy số lượng, chất
lượng thí sinh đầu vào tăng, điểm chuẩn tuyển sinh cũng cao hơn so với những năm
trước đây. Nhà trường đã tập trung điều chỉnh chương trình đào tạo giáo viên và xây
dựng giải pháp để nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên, đảm bảo đạt chuẩn đầu ra
của ngành đào tạo.
Trong những năm trước đây, nhà trường đã xây dựng Đề án mở trường thực
hành (trước hết là trường THPT sau đó sẽ mở rộng ra đối với cả THCS) làm cơ sở thực
hành, thực tập và là nơi thực nghiệm đổi mới phương pháp giảng dạy, triển khai ứng
dụng các đề tài nghiên cứu khoa học thuộc lĩnh vực khoa học giáo dục và hình thành
các lớp chất lượng cao, song vẫn chưa được thành lập. Sinh viên sư phạm của nhà

trường đang thực hành, thực tập tại các trường phổ thông trong tỉnh, tuy nhiên việc
phối hợp trong việc triển khai thực tập, rèn nghề cho sinh viên sư phạm giữa nhà
trường với sở GD&ĐT còn nhiều bất cập.
Đối với công tác tuyển dụng giáo viên: Trong vài năm nay, Thanh Hóa hầu như
không tuyển giáo viên phổ thông. Mỗi năm chỉ tuyển một số giáo viên cho đối tượng
là người dân tộc, nhưng số lượng người nộp hồ sơ nhiều gấp vài ba chục lần. Tuy

373


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI

nhiên, hiện nay nhà trường vẫn chưa thông tin cụ thể về tình hình thừa, thiếu giáo viên
ở các trường phổ thông trong tỉnh, mới chỉ biết rằng giáo viên ở các trường phổ thông
đang dư thừa. Nhà trường đào tạo giáo viên theo khả năng của trường và theo nguyện
vọng của người học, chứ không đào tạo theo nhu cầu tuyển dụng thực tế. Đó chính là
lý do khiến cung luôn vượt cầu, sinh viên tốt nghiệp ra trường dư thừa, thất nghiệp.
2.2. Thực trạng về chương trình đào tạo GV trong các trường đại học sư
phạm, các khoa đào tạo giáo viên hiện nay.
Theo chương trình khung của Bộ GD&ĐT (2006), cấu trúc chương trình đào
tạo GV được quy định cụ thể về khối lượng kiến thức cho tất cả các ngành học trước
đây là 210 đơn vị học trình và được thiết kế trong thời gian đào tạo là 4 năm. Sau
khi chuyển đổi sang học chế tín chỉ (với tổng số lượng là 120-140 TC), chương trình
đào tạo sư phạm vẫn bộc lộ khá nhiều bất cập. Qua sự nghiên cứu của nhiều chuyên
gia giáo dục thì chương trình khung giáo dục đại học khối ngành sư phạm của Việt
Nam hiện nay có một số tồn tại: Một là, tỷ lệ thời gian đào tạo dành cho các khối kiến
thức chưa hợp lý, có đến gần một nửa thời gian học các môn đại cương và các môn
khoa học chính trị. Do vậy, kiến thức mà sinh viên tiếp thu được không sâu. Khối kiến

thức NVSP còn ít nên việc rèn các kỹ năng nghề nghiệp cho SV như: Kỹ năng giao
tiếp, diễn đạt, thuyết trình, làm việc nhóm, tư duy phê phán, giải quyết vấn đề…còn
hạn chế. Thời gian dành cho kiến thức sư phạm chỉ chiếm từ 16 - 18%, trong đó, thực
tập sư phạm chỉ chiếm 10 đvht/210 đvht. Hai là, các chuyên ngành đào tạo trong
trường sư phạm hầu như cùng chung một khối kiến thức giáo dục đại cương là bất
hợp lý. Thực tế khảo sát cho thấy, 14 ngành sư phạm đào tạo giáo viên THPT ở một
trường đại học sư phạm đều có các môn đại cương như nhau. Ba là, chương trình đào
tạo giáo viên còn nhiều hạn chế, thời gian thực tập còn ít, chỉ có 8-10 tuần đi thực tập
và cũng chỉ giới hạn ở một số tiết nhất định tại trường phổ thông. Bốn là, chương trình
đào tạo GV phổ thông vẫn còn nặng nề về kiến thức hàn lâm, chưa chú trọng phát triển
năng lực của SV, chưa đề cập đến năng lực dạy học tích hợp và phân hóa trong giảng
dạy; Sinh viên chưa được trang bị một cách hợp lí các kỹ năng về giáo dục toàn diện,
nhất là về kỹ năng nghề nghiệp, về tham vấn học đường, về các tổ chức hoạt động trải
nghiệm,…. Năm là, nội dung các học phần Tâm lí học, Giáo dục học vẫn nặng về lí
thuyết và có tính chất hàn lâm, chưa thực sự gắn kết và bắt kịp với sự biến đổi ngày
càng phức tạp ở thực tế phổ thông. SV chưa được “tắm mình” trong các tình huống cụ
thể trong dạy học và GD ở trường phổ thông. Bởi vậy, SV cảm thấy ít gắn bó với môn
học này và mang tâm lí học đối phó. Kết quả là, nhiều SV ra trường bị hẫng hụt và hết

374


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

sức lúng túng trước những tình huống mà họ gặp phải ở trên lớp. Sáu là, các học phần
về phương pháp dạy học bộ môn tuy đã cố gắng trang bị cho SV nắm vững hệ thống
các phương pháp DH và cập nhật những vấn đề đổi mới về phương pháp giảng dạy ở
phổ thông, song vẫn còn khoảng cách khá xa giữa lí thuyết và thực tiễn, giữa đào tạo ở
trường sư phạm với thực tế giảng dạy ở nhà trường phổ thông. Nhiều SV khi thực tập
SP rất ngỡ ngàng, lúng túng trước những yêu cầu của GV hướng dẫn (như cách lập kế

hoạch dạy học, thiết kế giáo án; trình bày bài giảng, sử dụng các phương tiện, đồ dùng
trực quan, tổ chức các hoạt động DH-GD ngoài giờ lên lớp,…).
Nếu cho rằng phẩm chất của nhà giáo là: kiến thức chuyên môn, năng lực sư
phạm và lòng yêu nghề, thì các trường sư phạm hiện nay chủ yếu mới làm được một
phần của yếu tố đầu (kiến thức chuyên môn) mà chưa chú trọng tới năng lực sư phạm
(hay nghiệp vụ sư phạm). Bởi vậy, nhiều sinh viên đi thực tập sư phạm gặp rất nhiều
khó khăn, lúng túng và khi ra trường chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn của phổ
thông.
3. Một số giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên phổ thông ở Thanh
Hóa nói chung, trường đại học Hồng Đức nói riêng
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn đánh giá cao vai trò của đội ngũ giáo viên
trong xã hội mới, coi họ là lớp người vẻ vang của đất nước, vì nếu “ không có thầy
giáo thì không có giáo dục”. Từ đó Người cũng chỉ rõ: vấn đề then chốt, quyết định
chất lượng giáo dục là phải xây dựng được một đội ngũ đông đảo những người làm
công tác giáo dục yêu nghề, yêu trường, hết lòng thương yêu, chăm sóc, giáo dục học
sinh… .
Trong bài viết này chúng tôi muốn đề cập 7 giải pháp nâng cao chất lượng đào
tạo giáo viên phổ thông ở Thanh Hóa nói chung, trường đại học Hồng Đức nói riêng,
đó là:
Một là, Đối với sở Giáo dục và Đào tạo Thanh Hóa: Cần rà soát lại hệ thống
các trường phổ thông trong tỉnh (từ tiểu học đến THPT), số lượng lớp, số lượng học
sinh của từng khối trong từng trường, dự báo nhu cầu học sinh ở các cấp trong các
năm tiếp theo để sắp xếp lại mạng lưới, hệ thống các trường phổ thông trong tỉnh (có
thể ghép trường Tiểu học vào THCS hoặc cả với THPT,…), để có kế hoạch bố trí sắp
xếp lại đội ngũ giáo viên theo từng môn, theo từng trường cho phù hợp;
Rà soát lại đội ngũ giáo viên ở các trường phổ thông trong tỉnh, ngành đào tạo,
trình độ đào tạo để có kế hoạch bố trí, sắp xếp, luân chuyển, đào tạo lại, tuyển dụng
mới cho phù hợp với yêu cầu mới;

375



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI

Xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên đáp ứng yêu cầu đổi
mới về giáo dục và đào tạo; hàng năm tham mưu cho tỉnh trong việc xác định chỉ tiêu
tuyển sinh các ngành đào tạo giáo viên: số lượng, ngành đào tạo,… và tổ chức đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ giáo viên phổ thông để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ
cho giáo viên phổ thông đáp ứng yêu cầu mới.
Hai là, Đối với trường Đại học Hồng Đức: Cần phải xác định lại mục tiêu, nội
dung, chương trình đào tạo giáo viên phổ thông.
Quán triệt quan điểm mới của UNESCO: “thầy giáo phải được đào tạo để trở thành
những nhà giáo dục nhiều hơn là những chuyên gia truyền đạt kiến thức”. Bởi vậy, quan
điểm chung là quan tâm đến sự thay đổi có tính chất bản chất trong phương án đào tạo
giáo viên: i) Thay đổi việc đào tạo giáo viên dạy 1 môn sang đào tạo giáo viên dạy những
môn tích hợp; ii) Thay đổi việc đào tạo trang bị kiến thức sang trọng tâm đào tạo năng lực
sư phạm, trong đó chú ý: các năng lực chẩn đoán, thiết kế, tổ chức, thực hiện, giám sát
đánh giá và giải quyết vấn đề nẩy sinh trong thực tiễn dạy học và giáo dục; iii) Thay đổi
phương pháp dạy sang đào tạo cách dạy phương pháp học.
Đào tạo giáo viên phải gắn kết với nội dung chương trình giáo dục phổ thông
mới. Ở khâu đào tạo, vấn đề chương trình là yếu tố quyết định đến việc hình thành
năng lực cơ bản, nền tảng cho người giáo viên. Do vậy, khâu thiết kế xây dựng chương
trình đào tạo giáo viên phải được chuẩn bị trước. Trong giai đoạn đến năm 2020,
chương trình đào tạo giáo viên cần tập trung vào mục tiêu: i) Hình thành năng lực
chuyển hoá tri thức khoa học thành tri thức dạy học, phương pháp khoa học thành
phương pháp dạy học cho người tốt nghiệp. Mục tiêu đào tạo chuyên gia giáo dục phải
được coi trọng hàng đầu, đào tạo năng lực giáo viên giảng dạy các nội dung tích hợp là
chiến lược trong giai đoạn tới; ii) Tại các cơ sở đào tạo giáo viên cho các vùng miền,

cần xây dựng chương trình đào tạo giáo viên riêng; chương trình bồi dưỡng giáo viên
dựa trên kết quả nghiên cứu nhu cầu của địa phương và theo định hướng của trường
đại học, viện nghiên cứu.
Chương trình đào tạo giáo viên phải được thiết kế hướng vào sự thay đổi vai trò
của giáo viên trong xã hội hiện nay. Theo quan niệm mới, GV hiện nay phải trở thành:
1) Nhà giáo dục, nghĩa là GV không chỉ có vai trò giảng dạy, truyền thụ kiến thức mà
là nhà GD chuyên nghiệp, thực hiện sứ mệnh cải tạo xã hội và phát triển toàn diện HS
bằng năng lực tư duy và năng lực hành động để HS không ngừng phát triển nhận thức, trí
tuệ, sức khoẻ, những xúc cảm và kĩ năng cần thiết, cơ bản của con người; 2) Nhà
nghiên cứu, GV phải là người canh tân và nghiên cứu trong giáo dục chứ không đơn

376


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

thuần là người truyền tải chương trình giáo dục. Do đó, GV phải có vai trò là người
nghiên cứu và giải quyết những vấn đề của thực tiễn GD. Nói cách khác, GV là người lao
động sáng tạo, xây dựng và phát triển những kiến thức mới trên cơ sở quan sát, phân tích,
suy ngẫm và tổng kết những kinh nghiệm từ thực tiễn GD và hoạt động nghề nghiệp của
bản thân để GD học sinh; 3)Người học; 4) Nhà văn hóa- xã hội.
Trước yêu cầu đổi mới của giáo dục phổ thông, trường đại học Hồng Đức cần
phải xác định lại mục tiêu đào tạo theo hướng coi trọng hơn nữa mặt giáo dục chính trị
tư tưởng, rèn luyện các phẩm chất cơ bản của người giáo viên, mặt khác, nâng cao hơn
nữa năng lực nghề nghiệp cho sinh viên. “ Hệ thống đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ thầy
giáo cũng phải đổi mới nhằm tăng cường hiệu quả nghiệp vụ, thực sự là dạy nghề,
nâng cao tay nghề và tiềm lực nghề cho những người hành nghề”. Xây dựng một cách
tường minh hệ thống kiến thức mà người giáo viên tương lai cần chiếm lĩnh trong suốt
quá trình đào tạo. Tuỳ theo mục tiêu đào tạo giáo viên cụ thể ở từng bậc học, cấp học,
môn học mà xác định được hệ thống kiến thức cơ bản cả về lý thuyết và thực hành.

Đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy học, phương pháp thi kiểm tra đánh giá:
Tương ứng với sự chuyển biến về mục tiêu, nội dung giáo dục- đào tạo giáo viên, cần
có đổi mới và chuyển biến kịp thời về PPDH các môn học. Nghị quyết Hội nghị lần
thứ II Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khoá VIII chỉ rõ: “ Đổi mới
mạnh mẽ phương pháp giáo dục - đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn
luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học, từng bước áp dụng các phương pháp
tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, bảo đảm điều kiện và thời gian
tự học, tự nghiên cứu cho sinh viên”. Các nhà nghiên cứu đã xác định ba hướng chính
đổi mới PPDH ở trường sư phạm hiện nay là: PPDH cần phát huy cao độ tính tích cực,
độc lập, phát triển tư duy sáng tạo cho sinh viên; bồi dưỡng năng lực tự học, tự nghiên
cứu; rèn luyện kỹ năng thực hành, kỹ năng nghề nghiệp cho sinh viên, chuyển biến từ
kiểu dạy học “lấy giáo viên làm trung tâm”sang “ lấy người học làm trung tâm”. Tăng
cường PPDH tích cực để phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của người học. Bên
cạnh đó cần phải đổi mới phương pháp thi kiểm tra, đánh giá theo hướng phát huy
tính chủ động, sáng tạo của người học, chú trọng kỹ năng thực hành, tư duy sáng tạo
của sinh viên.
Ba là, Sở GD&ĐT cần phối hợp với trường đại học Hồng Đức xây dựng kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng giáo viên phổ thông ở một số lĩnh vực.
Để đáp ứng nhu cầu đổi mới và nâng cao toàn diện chất lượng giáo dục phổ
thông trong bối cảnh Việt Nam gia nhập cộng đồng kinh tế ASEAN 2015, việc cải tiến

377


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI

đào tạo đội ngũ giáo viên vững về chuyên môn là một giải pháp đột phá trong “Chiến
lược phát triển giáo dục Việt Nam giai đoạn 2011-2020” của Bộ GD-ĐT.

Công tác đào tạo lại và bồi dưỡng giáo viên cần tuân theo các định hướng lớn
sau đây: Đào tạo lại để chuẩn hoá trình độ cho số giáo viên các cấp chưa đạt trình độ
chuẩn đào tạo theo quy định của Luật giáo dục. Từng bước đào tạo đội ngũ giáo viên
cốt cán, giáo viên giỏi của các cấp học có trình độ đào tạo trên chuẩn. Tiếp tục thực
hiện chương trình bồi dưỡng thường xuyên gắn liền với bồi dưỡng giáo viên phục vụ
yêu cầu đổi mới chương trình giáo dục phổ thông. Trước mắt là bồi dưỡng giáo viên
dạy thí điểm, tiếp đến là dạy đại trà chương trình và sách giáo khoa các lớp cải cách.
Đổi mới phương thức học tập của giáo viên trong các chương trình đào tạo lại và bồi
dưỡng theo hướng tập trung vào hoạt động của giáo viên với phương châm lấy tự học,
tự bồi dưỡng là chính, “ biến quá trình bồi dưỡng thành quá trình tự bồi dưỡng”. Tổ
chức, hướng dẫn cho giáo viên tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập với sự trợ
giúp của tài liệu và phương tiện nghe nhìn, luôn phát hiện, tìm tòi, không cứng nhắc,
gò bó rập khuôn theo những gì đã có trong tài liệu. Tập trung bồi dưỡng về
PPDH phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo của học sinh. Tăng cường và có biện
pháp đặc biệt để đào tạo bồi dưỡng các loại hình giáo viên còn thiếu ở các cấp học như
thể dục, mỹ thuật, âm nhạc, tin học... Đưa các nội dung giáo dục mang tính xã hội như
phòng chống ma tuý, môi trường, dân số, giới tính... vào chương trình đào tạo và bồi
dưỡng giáo viên. Xây dựng, tổ chức đội ngũ chuyên gia làm công tác đào tạo lại, bồi
dưỡng.
Bốn là, Đối với các cấp Đảng, chính quyền: Phải coi việc đào tạo giáo viên là
trách nhiệm của nhà nước và phải bằng chính sách đầu tư nguồn vốn chủ yếu từ nhà
nước để nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo, hoàn thiện hệ thống quản lý của nhà
trường.
Trước hết phải có cơ chế và quy định việc tuyển sinh ngành sư phạm chặt chẽ,
có chính sách để tuyển chọn những học sinh có năng lực; tuyển chọn giáo viên khắt
khe hơn, chú ý dến việc kiểm tra năng lực chuyên môn và động cơ nghề nghiệp. Cần
có quan điểm đầu tư chiến lược đối với công tác đào tạo giáo viên, đặc biệt là giáo dục
vùng khó khăn, chậm phát triển trong giai đoạn hiện nay.
Năm là, Đối với UBND tỉnh và Bộ Giáo dục và đào tạo cần tổ chức lại hệ
thống các trường, các khoa có đào tạo sư phạm và Quy hoạch lại mạng lưới trường sư

phạm.

378


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

Bộ GD&ĐT, UBND tỉnh cần phải quy hoạch lại hệ thống mạng lưới các trường
đại học sư phạm, các khoa sư phạm và xây dựng bộ tiêu chí, tiêu chuẩn tuyển sinh đào
tạo giáo viên để nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên trong cả nước, cũng như ở Thanh
Hóa. Cần phải khảo sát đồng bộ, đánh giá được thực trạng đầu vào lẫn đầu ra của sinh
viên sư phạm, đồng thời dự báo cho được từng bậc học, từng cấp học và nhu cầu tuyển
dụng. “Dự báo ít nhất là đến 2020, nếu dài hơn càng tốt. Phải quy hoạch mạng lưới các
trường đào tạo giáo viên, xác định các trường sư phạm trọng điểm, cần giảm mạnh chỉ
tiêu đầu vào sư phạm, các trường sư phạm trọng điểm cũng phải giảm mạnh chỉ tiêu
tuyển sinh, xác định nhiệm vụ đào tạo lại và đào tạo thay thế.
Sáu là, định kỳ 2-3 năm/lần cần tổ chức hội nghị giữa các trường/khoa đào
tạo sư phạm với sở GD&ĐT và UBND tỉnh để xác định các vấn đề về dạy học ở
trường phổ thông, xác định nhu cầu nguồn lực đào tạo, năng lực giáo viên và các điều
kiện khác.
Bảy là, Phát triển hệ thống trường thực hành trực thuộc các trường đại hoc,
các khoa đào tạo sư phạm để vừa là nơi thực hiện nhiệm vụ giáo dục, đào tạo học sinh
phổ thông các cấp, vừa là nơi phục vụ công tác đào tạo nghiệp vụ sư phạm và phát
triển khoa học giáo dục. Hệ thống trường thực hành có vai trò quan trọng trong việc
góp phần thực hiện mục tiêu, chương trình đào tạo, nâng cao chất lượng đào tạo cho
các trường ĐHSP.
4. Kết luận
Hiện nay, trường đại học địa phương đóng một vai trò quan trọng trong việc
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên phổ thông cho địa phương, vì vậy việc phối hợp
với các sở, ngành, cấp chính quyền trong việc xác định chỉ tiêu tuyển sinh, ngành đào

tạo, đối tượng tuyển sinh và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, phục vụ sự nghiệp
phát triển kinh tế-xã hội và hội nhập thế giới là một yêu cầu cấp thiết. Trường đại học,
các khoa sư phạm của trường đại học cần phải đổi mới, thực hiện đồng bộ các giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo giáo viên đáp ứng yêu cầu đổi mới
và hội nhập quốc tế về giáo dục và đào tạo.
Trước xu thế đổi mới của thế giới- thời đại của khoa học- công nghệ hiện đại,
đất nước đang bước vào giai đoạn phát triển mới- một xã hội công nghiệp, hiện đại,
văn minh, công bằng, thì vai trò, nhiệm vụ của nhà trường, của người giáo viên đã có
sự thay đổi cơ bản. Người giáo viên không chỉ thực hiện chức năng dạy học, giáo dục
mà còn là một nhà khoa học, nhà văn hoá, nhà đạo đức, nhà hoạt động xã hội.... Muốn
có một đội ngũ giáo viên như vậy, cần “phát triển đội ngũ nhà giáo”, trong đó đổi mới

379


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI

công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục phải được xem là
một trong những nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đinh Quang Báo (2014),“Giải pháp đổi mới chương trình đào tạo giáo viên
trình độ đại học theo học chế tín chỉ” Đề tài NCKH cấp Bộ, MS B2011 – 17 – CT03.
Ngọc Hà, Chương trình đại học cần bớt trừu tượng. Báo Tuổi trẻ Online
. 01/11/2013 06:55 GMT+7
Thùy Linh, Giáo viên phổ thông khó đổi mới - lỗi từ đào tạo sư phạm . Đài
VOH, Đài tiếng nói nhân dân TP.HCM.06:32 09/06/2015.
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009), Phát triển chương trình đào tạo giáo viên THPT
đáp ứng chuẩn nghề nghiệp giáo viên Trung học, Tài liệu hội thảo – tập huấn: Phát triển

chương trình đào tạo, bồi dưỡng giáo viên THPT theo chuẩn nghề nghiệp giáo viên Trung
học, tháng 9/2013.
Đề án đổi mới chương trình đào tạo GV THCS, THPT của trường ĐHSP Hà
Nội. Tháng 3/2015.

380



×