Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

Nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn tại Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam chi nhánh Cửa Bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (430.23 KB, 84 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thế giới, kinh tế Việt Nam cũng đang
trên con đường đổi mới và hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Trong công cuộc công
nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, để phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế thì
việc ra đời và phát triển của hệ thống NHTM đóng vai trò hết sức quan trọng.
NHTM với chức năng là trung gian tiền tệ, tài chính đã trở thành kênh dẫn vốn hiệu
quả giữa nhà tiết kiệm và nhà đầu tư, tập trung được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân
cư để tập trung cho các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội.
Là một trong những hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng, không thể
phủ nhận vai trò to lớn của tín dụng trung và dài hạn trong việc ổn định và thúc đẩy
sự phát triển kinh tế. Hoạt động tín dụng trung và dài hạn hiệu quả không chỉ có
mang lại lợi ích cho ngân hàng mà nó còn mang lại lợi ích to lớn cho từng cá nhân,
từng doanh nghiệp và cả nền kinh tế nói chung. Nhưng muốn hoạt động hiệu quả thì
vấn đề chất lượng tín dụng trung và dài hạn phải được quan tâm hàng đầu. Vì vậy mỗi
ngân hàng đều cần phải có sự quan tâm đúng mức, có những chính sách hợp lý, đúng
đắn nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn, để hoạt động tín dụng của
ngân hàng thực sự hiệu quả mang lại lợi ích cho ngân hàng và toàn xã hội.
Qua một thời gian thực tập tại Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam chi
nhánh Cửa Bắc, nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động tín dụng trung, dài hạn
em đã lựa chọn đề tài “Nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn tại Ngân hàng
TMCP Kỹ thương Việt Nam chi nhánh Cửa Bắc” làm đề tài nghiên cứu của mình.
Ngoài lời mở đầu, kết luận, đề tài của em gồm 3 chương:
Chương 1: Chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại NHTM
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng TMCP
Kỹ thương Việt Nam chi nhánh Cửa Bắc
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn tại Ngân hàng
TMCP Kỹ thương Việt Nam chi nhánh Cửa Bắc

1



CHƯƠNG 1
CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG, DÀI HẠN TẠI NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.Khái quát về ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm về ngân hàng thương mại
NHTM là một trong những tổ chức tài chính quan trọng đối với nền kinh tế
nói chung và đối với mỗi cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp nói riêng. Một quốc gia
có hệ thống ngân hàng mạnh thì cả nền kinh tế sẽ mạnh, còn nếu ngân hàng yếu
hay chỉ cần một ngân hàng đổ vỡ thì cả nền kinh tế sẽ lâm vào khủng hoảng và
thậm chí là sụp đổ cả hệ thống ngân hàng.
Để tìm hiểu về NHTM ta có thể tìm hiểu qua định nghĩa về nó. Trong thực tế
hiện nay có rất nhiều các TCTD phi ngân hàng (như công ty tài chính, công ty cho
thuê tài chính, chứng khoán, bảo hiểm, các quỹ,..) đang ngày càng phát triển, mở
rộng sang các lĩnh vực dịch vụ ngân hàng. Và ngược lại, các ngân hàng cũng đang
mở rộng phạm vi cung cấp sản phẩm, dịch vụ về bất động sản, bảo hiểm, chứng
khoán, đầu tư,… Do đó các yếu tố để định nghĩa về NHTM như định nghĩa qua
chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò của chúng thực hiện trong nền kinh tế là ngày
càng thay đổi. Chính vì vậy trên thực tế có rất nhiều định nghĩa về NHTM:
Ở Mỹ: NHTM là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ tài
chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính.
Ở Pháp: NHTM là những công ty, cơ sở thường xuyên nhận của công chúng
dưới hình thức ký thác hay một hình thức khác số tiền mà họ dùng cho chính họ
vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính.
Ở Việt Nam thì:
- Theo Pháp lệnh Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính năm
1990 của Hội đồng Nhà nước: “NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà nghiệp vụ
thường xuyên và chủ yếu là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả,
sử dụng số tiền đó để cho vay; chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”.

2



- Theo Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam: “NHTM là loại hình ngân hàng
được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác
theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận’. Trong luật cũng quy định:
“Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số
các nghiệp vụ sau: nhận tiền gửi, cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài
khoản”.
Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau, nhưng NHTM được hiểu một cách
chung nhất như sau: NHTM là một doanh nghiệp đặc biệt, kinh doanh trên lĩnh vực
tiền tệ với hoạt động thường xuyên là huy động vốn, cho vay, chiết khấu, bảo lãnh,
cung cấp phương tiện thanh toán và là tổ chức tài chính trung gian cung cấp danh
mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất.
1.1.2. Các hoạt động cơ bản của NHTM
Hoạt động của ngân hàng nhằm cung cấp các dịch vụ cho các cá nhân, tổ
chức trong nền kinh tế. Do đó nó rất đa dạng và phong phú trên rất nhiều lĩnh vực
để nhằm đáp ứng nhu cầu của toàn xã hội.
1.1.2.1. Hoạt động huy động vốn
Đây là nghiệp vụ cơ bản, quan trọng nhất, ảnh hưởng quan trọng tới chất
lượng hoạt động của ngân hàng. Các hình thức huy động vốn cũng như các nguồn
huy động vốn ngày càng phong phú, đa dạng như:
- Huy động các nguồn tiền gửi: tiền gửi thanh toán, tiền gửi có kỳ hạn của
doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và tiền gửi tiết kiệm của dân cư.
- Các khoản đi vay: vay từ dân cư, từ các tổ chức kinh tế và các tổ chức tín
dụng khác. Đặc biệt có thể vay NHNN, vay trên thị trường liên ngân hàng hoặc các
thị trường vốn trong và ngoài nước.
- Tiền nhận ủy thác đầu tư, tiền góp vốn liên doanh, liên kết.
- Phát hành giấy tờ có giá như kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi,…
Nhìn chung có nhiều nguồn và phương thức để các ngân hàng có thể huy
động được vốn. Song cần cân nhắc khi lựa chọn để có một cơ cấu vốn hợp lý để

đảm bảo hiệu quả của từng đồng vốn, không nên lãng phí gây tổn thất cho ngân
hàng.
3


1.1.2.2. Hoạt động sử dụng vốn
Đây là nghiệp vụ trực tiếp mang lại lợi nhuận cho ngân hàng, hoạt động sử
dụng vốn của ngân hàng có hiệu quả sẽ nâng cao uy tín của ngân hàng, quyết định
kết quả kinh doanh và năng lực cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường. Hoạt
động này bao gồm hoạt động tín dụng và đầu tư.
• Hoạt động tín dụng:
NHTM được cấp tín dụng cho các tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho
vay, chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá, bảo lãnh, cho thuê tài chính và
các hình thức khác theo quy định của NHNN. Trong đó, hoạt động cho vay là hoạt
động quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn nhất.
- Cho vay: NHTM được cho các cá nhân, tổ chức vay vốn dưới các hình
thức:
+ Cho vay ngắn hạn: nhằm đáp ứng nhu cầu vốn lưu động cho sản xuất, kinh
doanh hay cho nhu cầu tiêu dùng của cá nhân và hộ gia đình.
+ Cho vay trung, dài hạn: để tài trợ cho các dự án phát triển sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ hay đầu tư tài sản cố định, xây dựng cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật
nhằm phục vụ cuộc sống.
- Bảo lãnh: là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ
khách hàng của mình. NHTM thường bảo lãnh cho khách hàng của mình vay vốn,
bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh đấu thầu và các hình
thức bảo lãnh ngân hàng khác bằng uy tín và khả năng tài chính của mình. Trong
những năm gần đây, nghiệp vụ bảo lãnh ngày càng đa dạng và phát triển mạnh. Tuy
nhiên, mức bảo lãnh đối với khách hàng và tổng mức bảo lãnh của cả một NHTM
không được vượt quá tỷ lệ so với vốn tự có của NHTM đó.
- Chiết khấu: NHTM được chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá

ngắn hạn khác đối với các tổ chức, cá nhân và có thể tái chiết khấu các thương
phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn đối với các TCTD khác.
- Cho thuê tài chính: NHTM được phép hoạt động cho thuê tài chính nhưng
phải được thành lập công ty cho thuê tài chính riêng. Việc thành lập, tổ chức và
phương thức hoạt động của công ty cho thuê tài chính thực hiện theo Nghị định của

4


Chính phủ về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính.
• Hoạt động đầu tư:
Đi đôi với sự phát triển của xã hội là sự xuất hiện của hàng loạt những nhu
cầu khác nhau. Với tư cách là một chủ thể hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ, đòi hỏi
ngân hàng phải luôn nắm bắt được thông tin, đa dạng các nghiệp vụ để cung cấp
đầy đủ, kịp thời nguồn vốn đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế. Do đó ngoài hoạt
động chủ yếu là cho vay ra, các NHTM cũng đầu tư vốn vào việc mua chứng khoán
(của chính phủ, của chính quyền, địa phương, doanh nghiệp) và góp vốn vào các
doanh nghiệp, các công ty. Lợi nhuận của các chứng khoán này thường ổn định, tuy
nhiên với thời hạn dài và đòi hỏi phải có sự cân nhắc tính toán kỹ lưỡng để tránh
những rủi ro. Bên cạnh đó, NHTM còn đầu tư vào trang thiết bị tài sản cố định
phục vụ cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng, nâng cao chất lượng phục vụ cho
khách hàng.
1.1.2.3. Hoạt động dịch vụ trung gian tài chính khác
• Mua bán ngoại tệ
Đây là một trong những loại dịch vụ đầu tiên được thực hiện, ngân hàng sẽ
đứng ra mua bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ. Với
một nền kinh tế mở đang phát triển, các hoạt động ngoại thương ngày càng đa dạng
thì yêu cầu trao đổi, mua bán ngoại tệ ngày càng tăng đòi hỏi ngân hàng phải có
những chính sách thích hợp. Nhưng đây là loại hoạt động có mức độ rủi ro cao và
yêu cầu trình độ chuyên môn cao, do vậy chỉ các ngân hàng lớn với nhiều kinh

nghiệm mới có khả năng để thực hiện.
• Cung cấp các dịch vụ ủy thác và tư vấn
Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính, các ngân hàng có rất nhiều chuyên gia
về quản lý tài chính vì thế có nhiều cá nhân và doanh nghiệp nhờ ngân hàng quản
lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ mình. Dịch vụ ủy thác phát triển rất
cao: Dịch vụ ủy thác vay hộ, ủy thác đầu tư... Ngân hàng cũng sẵn sàng tư vấn về
đầu tư, quản lý tài chính, thành lập, mua bán, sáp nhập doanh nghiệp,... để nhằm
giảm rủi ro cho khách hàng.
• Cho thuê thiết bị trung và dài hạn

5


Dịch vụ của ngân hàng được mở rộng hơn nữa khi ngân hàng cho khách hàng
thuê các máy móc, thiết bị cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua. Đây là một loại
hình kinh doanh mới của ngân hàng trong đó các doanh nghiệp nếu không có đủ khả
năng tài chính để mua sắm thiết bị thì ngân hàng sẽ mua thiết bị rồi cho các doanh
nghiệp thuê. Do đó cho thuê của ngân hàng cũng có nhiều điểm giống với cho vay nên
được xếp vào tín dụng trung và dài nhưng có ưu điểm là nếu sau thời hạn thuê khách
hàng có thể thuê tiếp hoặc mua lại với giá ưu đãi, nên hiện nay dịch vụ này đang ngày
càng phát triển.
• Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán
Hình thức thanh toán qua ngân hàng đã mở đầu cho việc thanh toán không
dùng tiền mặt. Dịch vụ này có rất nhiều tiện ích: an toàn, nhanh chóng, chính xác,
giảm chi phí,… góp phần rút ngắn thời gian giao dịch và càng khuyến khích họ gửi
tiền vào ngân hàng để nhờ ngân hàng thanh toán hộ. Từ đó hình thành nên một dịch
vụ mới rất quan trọng: tài khoản tiền gửi thanh toán, đây cũng được xem là một
trong những bước quan trọng nhất của công nghệ ngân hàng. Cùng với sự bùng nổ
của công nghệ thông tin, hình thức thanh toán liên ngân hàng cũng phát triển mạnh,
thông dụng hơn và có nhiều thể thức thanh toán mới xuất hiện: ủy nhiệm chi, nhờ

thu, thanh toán bằng thẻ,...
• Dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán
Thị trường chứmg khoán là hình thức phát triển cao của thị trường tài chính,
tham gia vào đó đòi hỏi người đầu tư phải có trình độ chuyên môn và phải dự tính
được những rủi ro lớn tiềm ẩn của chứng khoán. Điều này không phải ai cũng có và
ai cũng đáp ứng đủ vì thế các ngân hàng trong quá trình phấn đấu để cung cấp đủ
các dịch vụ tài chính để thỏa mãn mọi nhu cầu của khách hàng đã bắt đầu bán các
dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ
phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác. Một số ngân hàng còn tổ chức ra công
ty chứng khoán hoặc công ty môi giới chứng khoán để cung cấp dịch vụ môi giới.
• Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm
Ngày nay, các ngân hàng thường liên doanh với công ty bảo hiểm hoặc tổ
chức công ty bảo hiểm con để cung cấp các dịch vụ tiết kiệm gắn với bảo hiểm như
tiết kiệm an sinh, tiết kiệm hưu trí,… Điều đó đảm bảo việc hoàn trả trong trường
6


hợp khách hàng bị chết, bị tàn phế hay gặp rủi ro trong hoạt động dẫn đến mất khả
năng thanh toán.
• Quản lý Ngân quỹ
Các cá nhân và doanh nghiệp muốn nâng cao mức lợi nhuận mà vẫn đảm
bảo độ an toàn cao nhất cho mình thì họ thường nhờ các ngân hàng – đã có kinh
nghiệm lâu năm trong việc quản lý ngân quỹ và khả năng trong việc thu ngân sách
để quản lý ngân quỹ hộ mình. Trong đó, ngân hàng đồng ý quản lý việc thu chi cho
một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời của
các khách hàng vào các chứng khoán sinh lời và tín dụng ngắn hạn để mang lại lợi
nhuận cao hơn và quản lý rủi ro cho khách hàng.
• Tài trợ các hoạt động của chính phủ
Với khả năng tích tụ và tập trung một khối lượng lớn tiền vốn, các ngân hàng
sẽ đáp ứng được nhu cầu chi tiêu lớn và cấp bách của mình nên Chính phủ các

nước đều muốn tiếp cận với các khoản cho vay của ngân hàng. Ngày nay, Chính
phủ có quyền cấp giấy phép hoạt động và thực hiện kiểm soát hoạt động của ngân
hàng nên khi đó các ngân hàng phải cam kết thực hiện ở một mức độ nào đó cho
những chính sách của Chính phủ và tài trợ cho Chính phủ (mua trái phiếu Chính
phủ với một tỷ lệ nhất định hoặc cho vay ưu đãi đối với các doanh nghiệp của
Chính phủ).
• Bảo quản tài sản hộ
Các ngân hàng còn cung cấp các dịch vụ giữ hộ vàng, giấy tờ có giá và
những tài sản khác của khách hàng trong két với nguyên tắc an toàn, bí mật và
thuận tiện. Dịch vụ này còn phát triển cùng với những dịch vụ khác như mua bán
hộ các giấy tờ có giá cho khách, thanh toán lãi hoặc cổ tức hộ,…
Như vậy, ngày nay cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường có sự
quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các ngân hàng ngày càng
cung cấp nhiều hơn các dịch vụ về tài chính đáp ứng cho nhu cầu đang ngày càng
tăng của khách hàng. Nhiều loại hình mới có chất lượng hơn được cung cấp đã giúp
cho ngân hàng tạo sự thuận tiện trong giao dịch cho khách hàng, nâng cao sức cạnh
tranh giữa các ngân hàng và các tổ chức tài chính khác đồng thời tăng thu nhập cho
chính ngân hàng.
7


1.1.3. Chức năng của NHTM
Trong sự phát triển của nền kinh tế - xã hội thì ngân hàng là một yếu tố cơ
bản không thể thiếu, là động lực cho sự phát triển kinh tế bởi các chức năng cơ bản
của nó là: trung gian tài chính, tạo phương tiện thanh toán và trung gian thanh toán
• Trung gian tài chính
Ngân hàng với chức năng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động
chủ yếu, thường xuyên là chuyển tiết kiệm thành đầu tư, chính là cầu nối giữa
những nhà tiết kiệm và đầu tư trong nền kinh tế. Thu nhâp gia tăng chính là động
lực tạo ra mối quan hệ tài chính giữa hai nhóm. Mà mối quan hệ tài chính này có

thể là quan hệ trực tiếp dưới hình thức tín dụng hoặc quan hệ cấp phát, hùn vốn và
cũng có thể là quan hệ gián tiếp nếu quan hệ trực tiếp bị nhiều giới hạn do không
phù hợp với quy mô, thời gian, không gian,… Do đó quan hệ gián tiếp có sự tham
gia của các trung gian tài chính và ở đây là NHTM với sự chuyên môn hóa họ có
thể giảm chi phí giao dịch xuống, làm tăng thu nhập cho người tiết kiệm và từ đó
khuyến khích gia tăng tiết kiệm, đồng thời giảm phí tổn tín dụng cho người đầu tư
và khuyến khích đầu tư.
Điều kiện khiến các quan hệ tài chính gián tiếp trở nên ưu việt hơn so với
quan hệ trực tiếp là do yếu tố thông tin trên thị trường. Việc không nắm bắt được
thông tin hay thông tin không đầy đủ và năng lực phân tích thông tin không tốt
được gọi là tình trạng “thông tin không cân xứng”. Điều này làm giảm tính hiệu
quả của thị trường tuy nhiên ngân hàng với hệ thống thông tin đầy đủ, trình độ
chuyên môn cao, kinh nghiệm đánh giá các công cụ tài chính và khả năng lựa chọn
các công cụ với những yếu tố rủi ro – lợi nhuận hấp dẫn nhất đã giúp nâng cao chất
lượng các mối quan hệ tài chính, sử dụng các kỹ thuật nghiệp vụ để hạn chế, phân
tán rủi ro và giảm chi phí giao dịch.
• Tạo phương tiện thanh toán
Trong điều kiện phát triển thanh toán qua ngân hàng, các khách hàng nhận
thấy nếu có được số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán, họ có thể thanh toán qua
ngân hàng để có được hàng hóa và các dịch vụ theo yêu cầu mà lại an toàn, nhanh
chóng và thuận tiện.
Đặc biệt, với những khoản tiền gửi của khách hàng thì quá trình tạo tiền của
8


NHTM được thực hiện thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán trong hệ thống
ngân hàng, và được đặt trong mối liên hệ chặt chẽ với hệ thống NHTW của mỗi
nước. Đó chính là khả năng biến một khoản tiền gửi ban đầu tại một ngân hàng đầu
tiên nhận tiền gửi trở thành một khoản tiền lớn hơn gấp nhiều lần khi thực hiện các
nghiệp vụ tín dụng và nghiệp vụ thanh toán qua nhiều ngân hàng. Khi ngân hàng

cho khách hàng vay tiền thì số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng
sẽ tăng lên vì thế khách hàng có thể dùng để mua hàng hóa, dịch vụ. Hơn nữa, toàn
hệ thống ngân hàng cũng tạo phương tiện thanh toán khi các khoản tiền gửi được
mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở cho vay. Trong khi không
một ngân hàng riêng lẻ nào có thể cho vay lớn hơn dự trữ dư thừa thì toàn bộ hệ
thống ngân hàng có thể tạo ra khối lượng tiền gửi (tạo phương tiện thanh toán) gấp
bội thông qua hoạt động cho vay (tạo tín dụng).
• Trung gian thanh toán
Hiện nay tại hầu hết các quốc gia NHTM đã trở thành trung gian thanh toán
lớn nhất. Ngân hàng đã thay mặt khách hàng thực hiện việc thanh toán, chi trả giá
trị hàng hóa, dịch vụ hay thu hộ tiền cho khách hàng. Để việc thanh toán được an
toàn, nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân hàng đã đưa ra cho khách
hàng rất nhiều hình thức thanh toán như: séc, ủy nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ,…
cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi
khách hàng cần.
Các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua NHTW
hoặc thông qua các trung gian thanh toán. Nhiều hình thức thanh toán được chuẩn
hóa đã góp phần tạo tính thống nhất trong thanh toán, không chỉ giữa các ngân
hàng trong một quốc gia, một khu vực mà còn thống nhất giữa các ngân hàng trên
toàn thế giới. Các trung tâm thanh toán không chỉ trong phạm vi quốc gia mà vươn
ra tầm quốc tế được thiết lập đã làm tăng hiệu quả của thanh toán qua ngân hàng,
biến ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán quan trọng nhất và có hiệu quả, phục
vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu.
1.2.Hoạt động tín dụng trung, dài hạn tại NHTM
1.2.1. Khái niệm về hoạt động tín dụng trung, dài hạn tại NHTM
“Tín dụng” được hiểu là sự vay mượn, là một phạm trù phản ánh mối quan

9



hệ kinh tế, trong đó các tổ chức hay các cá nhân chuyển nhượng tạm thời quyền sử
dụng một lượng giá trị dưới hình thức hiện vật hay tiền tệ cho một tổ chức hoặc cá
nhân khác với những ràng buộc nhất định như lãi suất, thời gian hoàn trả hay cách
thức vay mượn và thu hồi.
Tín dụng ngân hàng có thể phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau. Một
trong các tiêu thức phân loại phổ biến mà ngân hàng thường sử dụng khi phân tích
và đánh giá là phân theo thời gian tín dụng. Theo đó, tín dụng ngân hàng được phân
thành tín dụng ngắn hạn và tín dụng trung, dài hạn.
Về định nghĩa thì: “Hoạt động tín dụng trung, dài hạn tại NHTM là hoạt
động ngân hàng cung cấp cho khách hàng các khoản vốn vay trung, dài hạn nhằm
thực hiện các dự án phát triển sản xuất kinh doanh, phục vụ đời sống”. Trong đó,
tín dụng trung hạn là khoản tín dụng có thời hạn từ 1 – 5 năm, loại hình tín dụng
này thường được dùng để cung cấp, mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ
thuật, mở rộng và xây dựng những công trình nhỏ có thời hạn thu hồi vốn nhanh.
Còn tín dụng dài hạn là khoản tín dụng có thời hạn trên 5 năm, thường được dùng
để cấp vốn cho xây dựng cơ bản như đầu tư, xây dựng các nhà máy, xí nghiệp mới,
các công trình thuộc cơ sở hạ tầng, cải tiến và mở rộng sản xuất, kinh doanh,…
Tùy theo pháp luật của từng quốc gia, từng thời kỳ mà có những quy định
khác nhau về tín dụng trung, dài hạn. Theo quy định hiện hành của NHNN Việt
Nam thì thời hạn của tín dụng trung, dài hạn được xác định là những khoản cho vay
trên 1 năm. Chúng được hoàn trả bằng những khoản trả gốc và lãi vay theo thời
gian trong kỳ hạn của khoản vay và được bảo đảm bằng tài sản thế chấp, cầm cố.
1.2.2. Mục tiêu của tín dụng trung, dài hạn tại NHTM
Các khoản tín dụng trung, dài hạn có đặc điểm khối lượng lớn, lãi suất cao,
thời gian dài, do vậy nó là hoạt động có tính chiến lược của ngân hàng, mang lại lợi
nhuận chủ yếu cho ngân hàng từ đó giúp ngân hàng ngày càng phát triển. Bên cạnh
khoản lợi nhuận hấp dẫn, tín dụng trung, dài hạn còn là vũ khí cạnh tranh rất có
hiệu quả giữa các ngân hàng với nhau. Trong môi trường cạnh tranh gay gắt, các
ngân hàng bắt buộc phải không ngừng vận động, đa dạng hóa hoạt động huy động,
cho vay,… đa dạng hóa khách hàng nếu muốn đứng vững và phát triển trên thị

trường. Tín dụng trung, dài hạn chính là công cụ hiệu quả để lôi kéo khách hàng
mới và giữ chân được các khách hàng truyền thống.
10


Khi xác định mở rộng cho vay trung, dài hạn, các ngân hàng không chỉ nhìn
vào lợi ích trước mắt mà còn phải nhìn vào lợi ích lâu dài hơn đó là mở rộng tín
dụng trung, dài hạn để đẩy mạnh cho vay ngắn hạn. Vì các doanh nghiệp sau khi
vay vốn trung, dài hạn của ngân hàng để trang bị máy móc, thiết bị hay xây dựng
nhà xưởng thì năng lực sản xuất sẽ tăng lên, khi đó doanh nghiệp lại cần có nhiều
nguồn vốn lưu động hơn để đáp ứng cho sản xuất. Lúc này, doanh nghiệp sẽ ưu tiên
tìm đến các ngân hàng đã đầu tư cho họ trước tiên vì hai bên đã có những hiểu biết
nhất định về nhau, ngân hàng đã nắm được tình hình tài chính và các khoản thu chi
của doanh nghiệp nên các giao dịch sẽ nhanh chóng và tiện lợi hơn.
Tín dụng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế và đặc biệt hoạt động tín
dụng trung, dài hạn nếu có hiệu quả sẽ có tác động tới mọi lĩnh vực kinh tế - chính
trị - xã hội. Đầu tư tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng theo trọng điểm của
ngành và trong nội bộ từng ngành sẽ góp phần chuyển dịch cơ cấu đầu tư, cơ cấu
kinh tế hợp lý, phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn làm tiền đề cho sự ổn
định và phát triển kinh tế. Mục tiêu của hoạt động tín dụng trung, dài hạn theo
chiều sâu, đầu tư vào xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật vững chắc cho nền kinh tế
phát triển lâu dài, đổi mới thiết bị, cải tiến công nghệ nhằm nâng cao năng lực sản
xuất, chất lượng sản phẩm đã góp phần mở rộng sản xuất sản phẩm thay thế hàng
nhập, tăng cường kim ngạch xuất khẩu, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh
nghiệp trong cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Tất cả các kết quả đó góp phần tiết
kiệm chi ngoại tệ, tăng thu ngoại tệ, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và tăng dự
trữ ngoại hối quốc gia.
Ngoài ra, tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng còn góp phần phát triển
khoa học công nghệ, tạo công ăn việc làm, ổn định lạm phát, nâng cao đời sống dân
cư, phát triển lực lượng lao động, giúp nền kinh tế tăng trưởng ổn định theo những

chủ trương đã đề ra.
Vì vậy, với mục tiêu trên thì việc nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn
là nhiệm vụ có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển của mỗi ngân hàng nói riêng và
với toàn bộ nền kinh tế của quốc gia nói chung. Đối với Việt Nam hiện nay, vấn đề
này là hết sức cần thiết vì nhu cầu vốn cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước là rất lớn trong khi quá trình sử dụng vốn lại có rất nhiều bất cập, hiệu quả
thấp, gây thất thoát lãng phí một lượng vốn đáng kể.
11


1.2.3. Các hình thức tín dụng trung, dài hạn tại NHTM
• Tín dụng theo dự án đầu tư
Đây là hình thức tín dụng trung, dài hạn chủ yếu của các NHTM Việt
Nam hiện nay. Để cấp loại tín dụng này, ngân hàng cần dựa trên cơ sở dự án,
sau khi đã xem xét khẳng định tính hiệu quả, tính khả thi của dự án. Do vậy,
công việc của ngân hàng không chỉ đơn thuần là cho vay mà còn phải thẩm
định dự án trên các chỉ tiêu về kinh tế, kỹ thuật, xã hội như: chi phí sản xuất,
giá thành thị trường tiêu thụ, quy trình công nghệ, hiệu quả tài chính, tác động
đến môi trường, xã hội,…Bởi vì việc ra quyết định cấp một khoản tín dụng sẽ
ràng buộc ngân hàng với người vay một khoảng thời gian khá dài từ 3 đến 5
năm nhiều hơn tùy theo từng dự án nên cần phải nghiên cứu, xem xét một cách
nghiêm túc và kỹ càng các rủi ro có thể xảy ra.
Dựa vào lĩnh vực tài trợ mà ta có thể chia tín dụng theo dự án đầu tư
thành hai loại phổ biến là: hình thức tín dụng trung, dài hạn nhằm cải tạo, khôi
phục, thay thế, mở rộng tài sản cố định và hình thức tín dụng trung, dài hạn
nhằm để đầu tư xây dựng dự án mới, đổi mới, cải tiến kỹ thuật, ứng dụng khoa
học công nghệ để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Nếu căn cứ vào
hình thức cho vay, ta sẽ chia tín dụng theo dự án đầu tư thành hai hình thức là:
tín dụng hợp vốn (Cho vay đồng tài trợ) và tín dụng trực tiếp.
- Tín dụng hợp vốn (Cho vay đồng tài trợ): là quá trình cho vay của một

nhóm tổ chức (từ 2 tổ chức tín dụng trở lên) cho một dự án và do một tổ chức
làm đầu mối, phối hợp với các bên đồng tài trợ để thực hiện, nhằm nâng cao
năng lực và hiệu quả trong hoạt động sản xuất của doanh nghiệp và tổ chức tín
dụng.
- Tín dụng trực tiếp: Đây là hình thức tín dụng trung, dài hạn phổ biến nhất
trong nền kinh tế thị trường hiện nay. NHTM sẽ tiến hành mọi hoạt động và tự chịu
trách nhiệm đối với từng dự án đầu tư của khách hàng mà họ đã lựa chọn để tài trợ.
Do đó việc lựa chọn dự án tốt để tài trợ là yếu tố quan trọng và quyết định nhất của
hình thức tín dụng này.
• Cho thuê tài chính
Cho thuê tài chính chính là một hoạt động tín dụng trung, dài hạn trên cơ sở
12


hợp đồng cho thuê tài sản để sử dụng chuyên môn giữa bên cho thuê là tổ chức tín
dụng với khách hàng thuê.
Bên cho thuê – ngân hàng: cam kết mua máy móc, thiết bị, phương tiện vận
chuyển và các bất động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm quyền sở hữu
các tài sản thuê trong suốt quá trình thuê. Điều này giúp ngân hàng đa dạng hóa
việc sử dụng vốn, mở rộng đối tượng khách hàng, tăng thêm sản phẩm ngân hàng,
giảm mức độ rủi ro so với cấp tín dụng hoặc bảo lãnh, đảm bảo sử dụng đúng đắn
số vốn tài trợ và tỷ lệ sử dụng vốn cao.
Bên thuê – khách hàng: không phải bỏ ngay một số tiền lớn để mua sắm tài
sản nhưng vẫn có thể sử dụng, có thể tiếp nhận được công nghệ tiên tiến đồng thời
hạn chế được sự lỗi thời nhanh chóng của thiết bị. Người đi thuê có nghĩa vụ thanh
toán tiền thuê đầy đủ trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thỏa thuận và không
được hủy bỏ hợp đồng thuê trước thời hạn đã cam kết. Khi kết thúc thời hạn thuê,
bên thuê được chuyển quyền sở hữu, mua lại hoặc tiếp tục thuê lại tài sản đó theo
các điều kiện đã được thỏa thuận trong hợp đồng.
• Bảo lãnh ngân hàng

Bảo lãnh ngân hàng chính là việc ngân hàng cam kết sẽ thanh toán cho bên
thụ hưởng của hợp đồng khoản đền bù số tiền trong phạm vi được nêu rõ trong giấy
bảo lãnh nếu bên đối tác không thực hiện được trách nhiệm của mình trong hợp
đồng. Hoạt động bảo lãnh của ngân hàng giúp khách hàng giảm thiểu rủi ro, khách
hàng không phải thanh toán ngay cho bên đối tác mà khoản tiền này có thể được trả
dần vì đã có sự bảo lãnh của ngân hàng, giúp doanh nghiệp tăng tài sản lưu động
hiện có.
Lợi ích trực tiếp của bảo lãnh đối với ngân hàng là sự đóng góp của phí bảo
lãnh vào lợi nhuận của ngân hàng. Một ưu điểm trong bảo lãnh là ngân hàng không
phải xuất vốn ra ngay do vậy chưa phải sử dụng vốn của mình, không phải trả chi
phí huy động vốn và không phải mất chi phí cơ hội cho mục đích kinh doanh khác.
Ngoài ra thực hiện bảo lãnh ngân hàng một mặt đáp ứng nhu cầu và gắn bó hơn với
khách hàng truyền thống, mặt khác thu hút được những khách hàng mới. Điều này
làm lợi cho ngân hàng không chỉ về mặt thu phí bảo lãnh làm tăng lợi nhuận mà
còn thúc đẩy các hoạt động khác của ngân hàng như huy động vốn, thanh toán và

13


tín dụng phát triển.
1.2.4. Chính sách tín dụng trung, dài hạn tại NHTM
1.2.4.1 Các tiêu chuẩn chung trong chính sách tín dụng
• Điều kiện vay vốn
Các ngân hàng đều có một tiêu chuẩn riêng đối với khách hàng của mình để
cung cấp các khoản tín dụng trung, dài hạn nhưng vẫn có những tiêu chuẩn chung
mà hầu hết các ngân hàng đều áp dụng khi xem xét cho vay đối với khách hàng:
- Có năng lực pháp lý dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm
dân sự theo quy định của pháp luật Việt Nam, đối với khách hàng là các tổ chức, cá
nhân Việt Nam. Đối với khách hàng là các tổ chức, cá nhân nước ngoài phải có
năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật

nước mà tổ chức đó có quốc tịch hoặc cá nhân đó là công dân.
- Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp và phù hợp với định hướng hoạt động
tín dụng của ngân hàng.
- Có dự án đầu tư hoặc phương án kinh doanh khả thi, có hiệu quả hoặc có
phương án phục vụ đời sống khả thi phù hợp với quy định của pháp luật.
- Có khả năng tài chính đủ đảm bảo thực hiện phương án kinh doanh,
phương thức phục vụ đời sống và đủ trả nợ trong thời hạn cam kết.
- Khách hàng phải có đủ tài sản bảo đảm hoặc có một phần tài sản bảo đảm,
hay có một hình thức đảm bảo nào khác cho quan hệ tín dụng với ngân hàng, phù
hợp với quy định về tài sản bảo đảm của ngân hàng.
• Thời hạn cho vay
Như định nghĩa, thời hạn của các khoản tín dụng trung, dài hạn là trên 1 năm
và được xác định căn cứ vào yêu cầu, khả năng trả vốn của dự án đầu tư và tính
chất nguồn vốn của ngân hàng.
Thời hạn cho vay được tính từ khi bên vay nhận được khoản vốn đầu tiên
cho đến khi trả hết nợ. Thời hạn cho vay bao gồm thời gian ân hạn (nếu có) và thời
gian trả nợ. Trong đó, thời gian ân hạn được tính tương ứng với thời gian xây dựng
công trình, thời gian lắp đặt máy móc,thiết bị và sản xuất thử sản phẩm còn thời

14


gian trả nợ được xác định tùy vào đặc điểm sản xuất kinh doanh của mỗi đơn vị
vay, vào khả năng thu nhập của bên vay mà hai bên thoả thuận kỳ hạn trả nợ và số
tiền trả nợ trong từng kỳ.
• Lãi suất cho vay
Về cơ bản, lãi suất cho vay trung, dài hạn thường cao hơn lãi suất cho vay
ngắn hạn do các khoản vay trung, dài hạn có khối lượng lớn và thời hạn dài hơn
nên phải chịu rủi ro lớn hơn. Lãi suất cho vay còn được xác định tuỳ vào dự án,
ngành nghề, lĩnh vực đầu tư, chính sách tín dụng của ngân hàng cũng như sự thoả

thuận giữa ngân hàng và khách hàng.
Lãi suất cho vay có thể được tính theo lãi suất cố định hoặc lãi suất biến đổi.
Lãi suất cố định là lãi suất giữ nguyên không thay đổi trong suốt thời kỳ thực hiện
hợp đồng. Lãi suất biến đổi là lãi suất có thể thay đổi lên xuống trong thời hạn vay
theo sự biến động của lạm phát. Trong cho vay trung, dài hạn, phần lớn các ngân
hàng sử dụng lãi suất biến đổi để tránh rủi ro cho cả ngân hàng và người vay khi lãi
suất trên thị trường có sự biến động.
• Hạn mức tín dụng
Hạn mức tín dụng là mức dư nợ cho vay tối đa được duy trì trong một
khoảng thời gian nhất định mà ngân hàng có thể cung cấp cho một khách hàng theo
thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố như:
- Quy định của NHNN, mục tiêu của chính sách tiền tệ Nhà nước đề ra trong
từng thời kỳ.
- Bản thân các NHTM: khối lượng nguồn vốn huy động được của ngân hàng
càng lớn thì hạn mức tín dụng mà ngân hàng có thể cung cấp cho từng khách hàng
càng nhiều. Chính sách tín dụng của NHTM trong từng thời kỳ và đối với mỗi dự
án khác nhau cũng khác nhau.
- Nhu cầu vay vốn của người vay, tình hình tài chính và uy tín của người vay
cũng ảnh hưởng trực tiếp tới hạn mức tín dụng
- Sự ổn định hay bất ổn của nền kinh tế: khi nền kinh tế bất ổn thì rủi ro trên
thị trường sẽ cao lên, hoạt động của doanh nghiệp trở nên khó khăn hơn. Do vậy
khả năng thu hồi vốn của ngân hàng sẽ xấu đi vì vậy hạn mức tín dụng có thể thấp

15


hơn.
1.2.4.2.

Tiêu chuẩn về tài sản bảo đảm


Một trong các điều kiện quan trọng để NHTM cho vay là người vay phải có
tài sản bảo đảm. Bảo đảm có thể chia làm hai loại: đảm bảo đối vật và đảm bảo đối
nhân.
• Đảm bảo đối vật: là hình thức đảm bảo tín dụng mà trong đó ngân hàng
đóng vai trò là chủ nợ được thừa hưởng một số quyền hạn nhất định đối với tài sản
của khách hàng nhằm làm căn cứ để thu hồi nợ trong trường hợp khách hàng không
trả được nợ đúng như cam kết. Đó là nguồn trả nợ thứ hai khi nguồn trả nợ thứ nhất
không được đảm bảo.
Có hai hình thức đảm bảo đối vật chính là: thế chấp và cầm cố.
- Thế chấp là hình thức người đi vay sẽ chuyển dịch quyền lợi về tài sản
sang cho chủ nợ với mục đích làm đảm bảo cho món nợ hoặc miễn trừ một nghĩa
vụ. Người đi vay được gọi là bên thế chấp và người cho vay được gọi là bên được
thế chấp. Trong trường hợp thế chấp tài sản, người thế chấp vẫn nắm giữ tài sản thế
chấp.
- Cầm cố là hình thức giao nộp tài sản hoặc các chứng từ chứng nhận quyền
sở hữu tài sản của người đi vay cho người cho vay để thực hiện một nghĩa vụ.
Nghĩa vụ cầm cố trong quan hệ tín dụng là trong trường hợp người đi vay không
thanh toán nợ đúng hạn theo hợp đồng thì ngân hàng có quyền bán tài sản cầm cố
và được ưu tiên thu nợ trước các chủ nợ khác.
• Đảm bảo đối nhân: là sự cam kết của một hoặc nhiều người về việc trả nợ
ngân hàng thay cho khách hàng vay vốn khi người này không trả hoặc không có
khả năng trả nợ. Trong đảm bảo đối nhân có ba chủ thể liên quan với nhau là người
đi vay, ngân hàng và người bảo lãnh. Người bảo lãnh phải có đủ năng lực bảo lãnh
theo quy định của pháp luật như: phải là người đại diện hợp pháp của pháp nhân,
phải có đủ năng lực tài chính, có uy tín,...
1.2.4.3. Thẩm định dự án
Thẩm định dự án là khâu rất quan trọng trong quy trình cấp tín dụng vì nó
liên quan đến việc ngân hàng có đồng ý cấp tín dụng hay không và đánh giá chất


16


lượng của khoản tín dụng đó có tốt hay không. Khi tiến hành thẩm định hồ sơ vay
vốn của khách hàng, ngân hàng cần chú ý thẩm định hai nội dung: thẩm định chủ
đầu tư và thẩm định dự án đầu tư.
• Thẩm định chủ đầu tư
Mục đích chính của việc thẩm định chủ đầu tư là xem xét xem chủ đầu tư có
nguyện vọng cũng như khả năng trả nợ cho ngân hàng hay không, nói cách khác là
để thẩm định xem chủ đầu tư có nhu cầu vay vốn thực sự, tránh trường hợp khách
sử dụng vốn sai mục đích như đã cam kết. Khi thẩm định chủ đầu tư, ngân hàng
cần xem xét các vấn đề như tư cách pháp nhân, uy tín, năng lực,… của chủ đầu tư.
• Thẩm định dự án đầu tư
Sau khi tiến hành thẩm định chủ đầu tư, ngân hàng tiến hành thẩm định dự án
đầu tư. Khi thẩm định dự án đầu tư, ngân hàng phải xem xét dự án trên các phương
diện: thẩm định trên phương diện thị trường (khả năng tiêu thụ sản phẩm, khả năng
cạnh tranh trên thị trường,...) và thẩm định tài chính dự án đầu tư xem dự án có hiệu
quả về mặt tài chính hay không, phân tích các trường hợp tốt, xấu có thể xảy ra đối với
dự án.
1.2.5 Quy trình tín dụng trung, dài hạn tại NHTM
Quy trình tín dụng là tổng hợp các nguyên tắc, quy định của ngân hàng trong
việc cấp tín dụng cho khách hàng. Đó là quá trình đồng bộ, có tính chất liên hoàn,
theo trình tự nhất định và có quan hệ chặt chẽ, gắn bó với nhau. Quy trình tín dụng
thường có 6 bước là: lập hồ sơ tín dụng, phân tích tín dụng, quyết định tín dụng,
giải ngân, giám sát và thu nợ, thanh lý khi hợp đồng tín dụng kết thúc.
1.2.5.1 Lập hồ sơ tín dụng:
Bước 1: Ngân hàng tiếp nhận, hướng dẫn khách hàng về điều kiện tín dụng và hồ
sơ vay vốn
Hồ sơ xin vay của khách hàng bao gồm:
- Đơn xin vay vốn;

- Tài liệu chứng minh năng lực pháp lý của khách hàng bao gồm: giấy đăng
ký kinh doanh, giấy đăng ký thành lập doanh nghiệp, con dấu, mã số thuế, quyết
định bổ nhiệm giám đốc,…
17


- Tài liệu thuyết minh vay vốn: hồ sơ năng lực tài chính như các báo cáo tài
chính, hồ sơ đảm bảo, giấy chứng nhận tài sản bảo đảm,…
- Phương án sản xuất kinh doanh, phương án trả nợ, phương án dự phòng,…
Bước 2: Kiểm tra hồ sơ và mục đích vay vốn:
Cán bộ tín dụng sẽ kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của các giấy tờ văn bản
trong danh mục hồ sơ pháp lý và kiểm tra tính xác thực của hồ sơ vay vốn. Đặc biệt
quan tâm đến các báo cáo kết quả kinh doanh dự tính cho dòng đời dự án và
phương án sản xuất kinh doanh/ dự án đầu tư, khả năng vay trả, nguồn trả. Ngoài
ra, kiểm tra sự phù hợp về ngành nghề ghi trong đăng ký kinh doanh với ngành
nghề kinh doanh hiện tại của khách hàng vay và phù hợp với phương án dự kiến
đầu tư; ngành nghề kinh doanh phải là ngành nghề được phép hoạt động, xu hướng
phát triển của ngành trong tương lai.
Kiểm tra mục đích vay vốn: Kiểm tra xem mục đích vay vốn của phương án
đầu tư có phù hợp với đăng ký kinh doanh và kiểm tra tính hợp pháp của mục đích
vay vốn (đối chiếu nhu cầu xin vay với danh mục những hàng hóa cấm lưu thông,
dịch vụ thương mại cấm thực hiện theo quy định của Chính phủ).
1.2.5.2 Phân tích tín dụng
Phân tích tín dụng là phân tích khả năng hiện tại và tương lai của khách hàng
về sử dụng vốn tín dụng cũng như khả năng hoàn trả vốn vay cho ngân hàng. Mục
tiêu của việc này là dự báo những tình huống rủi ro có thể xảy ra đối với ngân hàng
và tiên lượng khả năng kiểm soát của ngân hàng về các loại rủi ro đó, dự kiến các
biện pháp phòng ngừa và hạn chế những thiệt hại có thể xảy ra. Thông thường
trong quá trình phân tích, ngân hàng thực hiện theo quy trình:
Bước 1: Tìm hiểu về khách hàng vay vốn: Cán bộ tín dụng phải đi thực tế tại gia

đình và nơi sản xuất kinh doanh của khách hàng để tìm hiểu thêm thông tin về:
- Mục đích vay vốn của khách hàng.
- Những nguồn thu nhập thường xuyên của khách hàng.
- Tình trạng nhà xưởng, máy móc thiết bị, cơ sở vật chất, kỹ thuật, quy trình
công nghệ hiện có của khách hàng.
- Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng.
18


- Đánh giá tài sản bảo đảm nợ vay.
- Tìm hiểu về phương án sản xuất kinh doanh của dự án: đi thực tế tìm hiểu
về giá cả, tình hình cung cầu trên thị trường đối với sản phẩm của phương án sản
xuất kinh doanh; tìm hiểu về các nhà cung cấp thiết bị, nguyên vật liệu đầu vào, về
thị trường tiêu thụ sản phẩm,…
Bước 2: Kiểm tra, xác minh thông tin về khách hàng: Quá trình này được thực hiện
qua các nguồn sau:
- Hồ sơ vay vốn trước đây của khách hàng.
- Thông qua Trung tâm thông tin tín dụng.
- Các bạn hàng, đối tác làm ăn, bao gồm các nhà cung cấp nguyên vật liệu,
thiết bị và những khách hàng tiêu thụ sản phẩm.
- Các cơ quan quản lý trực tiếp khách hàng xin vay (cơ quan nơi khách hàng
làm việc, các cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương).
Bước 3: Phân tích đánh giá năng lực tài chính: Kiểm tra tính chính xác của các báo
cáo kết quả sản xuất kinh doanh sau đó tiến hàng phân tích, đánh giá tình hình hoạt
động và khả năng tài chính của khách hàng.
Bước 4: Đánh giá tình hình quan hệ với ngân hàng:
• Quan hệ tín dụng của khách hàng với chi nhánh cho vay, các chi nhánh
khác trong hệ thống và với các tổ chức tín dụng, ngân hàng khác qua các chỉ tiêu
như:
- Dư nợ trung, dài hạn đến thời điểm gần nhất (bao gồm cả nợ quá hạn).

- Mục đích vay vốn của các khoản vay
- Doanh số cho vay, thu nợ
- Số dư bảo lãnh.
- Mức độ tín nhiệm.
• Quan hệ tiền gửi tại ngân hàng cho vay và tại các tổ chức tín dụng khác
qua các chỉ tiêu như: Số dư tiền gửi bình quân và Doanh số tiền gửi, tỷ trọng so với
doanh thu.

19


Bước 5: Thẩm định phương án vay vốn và dự án đầu tư: Đây được coi là một khâu
quan trọng trong quá trình cấp tín dụng. Thực chất đây là quá trình dùng một số kỹ
thuật phân tích, đánh giá toàn bộ các vấn đề, các thông tin được trình bày trong dự
án theo một số tiêu chuẩn kinh tế kỹ thuật và theo một trình tự hợp lý, chặt chẽ
nhằm rút ra những kết luận về tính khả thi, hiệu quả về mặt tài chính của phương án
sản xuất kinh doanh, khả năng trả nợ và những rủi ro có thể xảy ra để phục vụ cho
việc ra quyết định cho vay hoặc từ chối cho vay. Từ đó làm cơ sở tham gia góp ý,
tư vấn cho khách hàng vay, tạo tiền đề để đảm bảo hiệu quả cho vay, thu được nợ
gốc đúng hạn và hạn chế, phòng ngừa rủi ro.
Bước6:Thẩm định các biện pháp bảo đảm tiền vay: Cán bộ tín dụng phải xuống tận
nơi xem xét, đánh giá, thẩm định giá trị của tài sản đảm bảo, giấy tờ hợp lệ, không
có tranh chấp. Cán bộ tín dụng hoặc cán bộ thẩm định làm thủ tục để đảm bảo tài
sản thẩm định có thể bảo đảm cho khoản vay.
1.2.5.3 Quyết định tín dụng:
Ra quyết định tín dụng là một bước cực kỳ khó khăn và quan trọng vì đây là
bước then chốt trong hoạt động ngân hàng. Rủi ro mà ngân hàng có thể gặp phải là
giải ngân nhầm cho khách hàng không có khả năng trả nợ, giải ngân lượng thừa
hoặc thiếu với số tiền cần thiết của doanh nghiệp. Hoặc rủi ro là từ chối tín dụng
với các trường hợp có khả năng trả nợ đúng hạn.

Các bước phê duyệt khoản vay bao gồm:
- Sau khi nghiên cứu, thẩm định các điều kiện vay vốn, căn cứ vào nhu cầu
vay vốn của khách hàng, khả năng cung cấp vốn của ngân hàng, giá trị tài sản bảo
đảm cho vốn vay hoặc khả năng tài chính của bên bảo lãnh vốn vay để xác định
mức cho vay.
Tổng số tiền cho vay tối đa= Nhu cầu đầu tư – Các nguồn khác tham gia tài trợ
- Hoàn chỉnh các thủ tục khác và ký kết hợp đồng tín dụng.
1.2.5.4 Giải ngân:
Là nghiệp vụ cấp tiền cho khách hàng trên cơ sở mức tín dụng đã cam kết
theo hợp đồng. Giải ngân phải đảm bảo nguyên tắc vận động của tín dụng và phải
gắn với sự vận động của hàng hóa. Việc giải ngân phải được thực hiện theo tiến độ

20


của dự án đầu tư của khách hàng vay vốn và phải căn cứ vào các nhu cầu chi trả
thực tế và mức cho vay đã được thông báo. Việc giải ngân có thể được thực hiện
bằng nhiều cách như: chuyển vào tài khoản của khách hàng thụ hưởng, bằng tiền
mặt, ngân phiếu cho chủ đầu tư, chuyển vào tài khoản của ban quản lý dự án,…
1.2.5.5 Giám sát quá trình sử dụng vốn
Giai đoạn giám sát tín dụng được tiếp nối với mục tiêu theo dõi, đánh giá
mức độ chấp hành tín dụng của khách hàng và kịp thời có các biện pháp xử lý thích
hợp.
- Cán bộ tín dụng mở sổ theo dõi các thông tin của khoản vay theo hợp đồng
tín dụng, lập bảng theo dõi nợ vay để giám sát các chỉ tiêu : ngày, tháng, năm giải
ngân; số tiền giải ngân; lãi suất áp dụng; ngày, tháng, năm thu nợ; số tiền thu nợ;
lãi; dư nợ từng thời điểm; số tiền gia hạn nợ; thời gian gia hạn nợ; …
- Cán bộ tín dụng còn phải kiểm tra, giám sát mục đích sử dụng vốn có đúng
như khách hàng đã cam kết trong hợp đồng tín dụng hay không; giám sát tiến độ
thực hiện dự án; kiểm tra các biện pháp bảo đảm tiền vay; …

1.2.5.6 Thu nợ và thanh lý khi hợp đồng tín dụng kết thúc
Thu nợ là khâu chiếm vị trí rất quan trọng. Dựa vào thời hạn đã thỏa thuận,
đơn vị vay vốn chủ động trả nợ khi đến hạn trả. Tuy nhiên trong thực tế có nhiều
trường hợp, các khoản nợ đã đến hạn nhưng khách hàng không trả được nợ, trong
trường hợp này ngân hàng có thể tùy thuộc vào tình hình thực tế của khách hàng để
đưa ra các giải pháp phù hợp. Nếu khách hàng có khó khăn nhưng do điều kiện
khách quan, họ có cố gắng trả nợ thì có thể giãn nợ, gia hạn nợ, giảm lãi suất,…
giúp cho khách hàng có thể vượt qua khó khăn và trả nợ cho ngân hàng. Còn trong
trường hợp khách hàng cố ý dây dưa kéo dài không trả nợ, hoặc chủ ý lừa đảo
chiếm đoạt vốn của ngân hàng thì ngân hàng phải có những biện pháp nghiêm khắc
hơn để thu hồi nợ, đôi khi cần đến sự can thiệp của pháp luật.
1.2.6 Tổ chức bộ máy cấp tín dụng trung, dài hạn tại NHTM
Các cấp có thẩm quyên phê duyệt thông thường là: Hội đồng quản trị; Hội
đồng tín dụng Hội sở; Ban Tổng giám đốc; Hội đồng tín dụng Trung tâm kinh
doanh Hội sở và các chi nhánh; Ban giám đốc Trung tâm kinh doanh Hội sở và các
chi nhánh; Trưởng/phó các phòng giao dịch.
21


Các cấp phê duyệt chỉ được phép phê duyệt trong phạm vi thẩm quyền của
mình do Hội đồng quản trị hoặc Tổng giám đốc ngân hàng quy định. Tất cả các
giao dịch vượt quá thẩm quyền phê duyệt của một cấp cụ thể, thì phải được chuyển
tới cấp có thẩm quyền cao hơn.
Đối với mỗi NHTM thì có những quy định riêng về tổ chức bộ máy cấp tín
dụng trung, dài hạn, tuy nhiên đều có các quy định chung về tổ chức hoạt động tín
dụng tại Hội sở cũng như tại chi nhánh áp dụng cho hầu hết các NHTM theo chính
sách của NHNN.
Cụ thể như phòng Quản lý tín dụng Hội sở có chức năng nhiệm vụ liên quan
đến tín dụng như:
- Theo dõi, giám sát và đánh giá chất lượng tín dụng trên toàn hệ thống ngân

hàng. Quản lý danh mục đầu tư tín dụng trên toàn hệ thống.
- Tái thẩm định các hồ sơ tín dụng của các chi nhánh trước khi trình lên Ban
Tổng giám đốc và Hội đồng tín dụng Hội sở.
- Tham mưu cho Tổng giám đốc trong việc xây dựng các chính sách tín
dụng, xây dựng và tổ chức triển khai các văn bản quy định liên quan đến hoạt động
tín dụng.
Đối với các chi nhánh thì Ban Giám đốc chi nhánh thực hiện vai trò lãnh đạo
và thực hiện chức năng phê duyệt tín dụng theo Ủy quyền của Tổng giám đốc.
Ngoài ra, để tăng cường khả năng kiểm soát rủi ro tín dụng, đồng thời nâng cao khả
năng chủ động trong kinh doanh tại các chi nhánh, Hội đồng tín dụng tại các chi
nhánh được phép thiết lập với các thành viên và có mức thẩm quyền phê duyệt tín
dụng do Tổng giám độc quy định trong từng thời kỳ. Các bộ phận nghiệp vụ khác
tại chi nhánh tham gia vào hoạt động tín dụng bao gồm:
- Phòng kinh doanh có chức năng chủ yếu là: thực hiện công tác marketing,
tiếp thị khách hàng để bán sản phẩm tín dụng và các sản phẩm ngân hàng khác;
thực hiện việc tiếp xúc khách hàng, tập hợp hồ sơ, thẩm định tín dụng và thực hiện
một số công việc khác trong quá trình làm các thủ tục để giải ngân các khoản tín
dụng đã được phê duyệt cho khách hàng.
- Ban thẩm định và quản lý rủi ro tín dụng có nhiệm vụ: theo dõi, giám sát,
kiểm soát rủi ro tín dụng; tái thẩm định các hồ sơ tín dụng của Phòng kinh doanh và
22


hướng dẫn triển khai, kiểm soát việc thực hiện các quy định liên quan đến hoạt
động tín dụng tại chi nhánh.
- Ngoài ra còn có các bộ phận liên quan khác như: Kế toán, kho quỹ; Bộ
phận kiểm soát nội bộ; Bộ phận thu hồi nợ thực hiện những chức năng, nhiệm vụ
riêng của mình tham gia vào quá trình cấp tín dụng trung, dài hạn tại NHTM.
1.2.7 Kết quả của hoạt động tín dụng trung, dài hạn tại NHTM
Hoạt động tín dụng trung, dài hạn tại NHTM được đánh giá qua các chỉ tiêu:

- Doanh số cho vay trung, dài hạn: phản ánh vốn trung, dài hạn mà ngân
hàng đã giải ngân trong một thời kỳ. Khi doanh số cho vay lớn cho thấy ngân hàng
có uy tín và cung cấp dịch vụ đa dạng, phong phú cho khách hàng dẫn đến kết quả
hoạt động tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng tốt.
- Doanh số thu nợ trung, dài hạn: phản ánh lượng vốn trung, dài hạn mà
ngân hàng đã cho vay và đã thu hồi về trong một thời kỳ. Chỉ tiêu này có thể phản
ánh ngân hàng có tình hình kinh doanh ổn định không và hoạt động tín dụng trung,
dài hạn có hiệu quả không.
- Dư nợ tín dụng trung, dài hạn: phản ánh quy mô tín dụng, là chỉ tiêu phản ánh
lượng vốn trung, dài hạn của ngân hàng đã được giải ngân tại một thời điểm cụ thể. Nếu
dư nợ tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng quá cao, nó tiềm ẩn rủi ro cho khả năng
thanh khoản của ngân hàng.
- Lợi nhuận từ tín dụng trung, dài hạn: phản ánh lợi nhuận từ hoạt động tín dụng
trung, dài hạn của ngân hàng, cho thấy hoạt động tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng
có thực sự hiệu quả không, có đóng góp nhiều vào kết quả hoạt động kinh doanh của cả
ngân hàng hay không.
1.3.

Chất lượng tín dụng trung, dài hạn tại NHTM

1.3.1 Quan niệm chất lượng tín dụng trung, dài hạn tại NHTM
Trong nền kinh tế thị trường, tín dụng là nghiệp vụ mang lại phần lớn lợi
nhuận cho ngân hàng nhưng cũng là nghiệp vụ mang lại nhiều rủi ro nhất. Ngay cả
với một khoản vay đã có tài sản cầm cố, thế chấp thì khả năng xảy ra rủi ro vẫn rất
cao. Mục đích cuối cùng của hoạt động kinh doanh của ngân hàng chính là lợi nhuận,
do đó ngân hàng nào cũng muốn đạt hiệu quả hoạt động kinh doanh tốt nhất, có được
23


lợi nhuận cao nhất. Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt hiện nay, các ngân

hàng không hoạt động theo chức năng của riêng mình nữa mà NHTM nào hầu hết đều
có các hoạt động, nghiệp vụ cơ bản là như nhau. Do đó để tạo lợi thế riêng cho mình,
các ngân hàng đều phải nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, muốn tăng lợi nhuận
của mình thì đòi hỏi ngân hàng phải nâng cao chất lượng tín dụng của mình.
Tín dụng trung, dài hạn là một phần trong nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng.
Vì vậy chất lượng tín dụng trung, dài hạn được hiểu theo đúng nghĩa là vốn vay
trung, dài hạn mà ngân hàng cung cấp đáp ứng được đầy đủ, kịp thời cho doanh
nghiệp và được doanh nghiệp đưa vào quá trình sản xuất kinh doanh một cách có
hiệu quả nhất nhằm tạo ta một lượng tiền lớn hơn để trang trải đủ chi phí, có lợi
nhuận và hoàn trả cho nợ ngân hàng đầy đủ, đúng hạn cả gốc lẫn lãi.
Các khoản tín dụng trung, dài hạn được đánh giá là có chất lượng khi nó đáp
ứng kịp thời yêu cầu hợp lý của doanh nghiệp trên tất cả các phương diện: lãi suất
hợp lý, thủ tục đơn giản, không gây phiền hà, mất nhiều thời gian, thu hút được
khách hàng và đặc biệt đối với ngân hàng thì việc đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng đó
phải phù hợp với khả năng của ngân hàng theo hướng tích cực, bảo đảm được: yếu
tố cạnh tranh trên thị trường, nguyên tắc hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn,
hạn chế thấp nhất những rủi ro có thể xảy ra. Bên cạnh đạt được chỉ tiêu lợi nhuận
cao và dư nợ ngày một tăng trưởng thì vẫn phải đảm bảo an toàn: tỷ lệ nợ quá hạn
thấp và hợp lý, cân đối trong cơ cấu nguồn vốn giữa ngắn, trung và dài hạn của
ngân hàng, phù hợp và phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
Việc xem xét chất lượng tín dụng trung, dài hạn được thực hiện đối với ba
giác độ: ngân hàng, khách hàng và nền kinh tế. Ba nhân tố này có tác động qua lại,
vừa thúc đẩy vừa kiềm chế lẫn nhau nên khi xem xét chất lượng tín dụng trung, dài
hạn, ta phải xem xét trên cả ba giác độ trên.
• Đối với ngân hàng
Chất lượng tín dụng trung, dài hạn được đánh giá phải dựa trên thực lực và
những đường lối chính sách của bản thân ngân hàng, dựa vào khả năng cho vay trung,
dài hạn, khả năng thu nợ, cân đối nguồn vốn của ngân hàng cũng như chiến lược về
khách hàng, khả năng cạnh tranh, chiến lược phát triển,... đảm bảo tuân thủ đúng pháp
luật và thực hiện vai trò của ngân hàng trong nền kinh tế. Trong NHTM, chất lượng tín


24


dụng trung, dài hạn thể hiện ở chỉ tiêu lợi nhuận, dư nợ tăng trưởng, tỷ lệ nợ quá hạn
hợp lý, đảm bảo cơ cấu giữa nguồn vốn ngắn hạn, trung, dài hạn trong nền kinh tế.
• Đối với khách hàng
Trong tín dụng trung, dài hạn, vấn đề mà khách hàng quan tâm nhất chính là
sự thỏa mãn những yêu cầu của họ: lãi suất có hợp lý không, thủ tục có đơn giản
không,... Ngân hàng thực hiện những việc đó nhưng vẫn phải đảm bảo tuân thủ
đúng những quy định của chính sách tín dụng, góp phần làm lành mạnh hoá tình
hình tài chính doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh và
duy trì sự tồn tại, phát triển của ngân hàng.
• Đối với nền kinh tế
Đối với nền kinh tế, khoản tín dụng trung, dài hạn có chất lượng phải hỗ trợ
được cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, giúp hoạt động sản xuất
kinh doanh ngày càng được phát triển, giải quyết công ăn việc làm cho người lao
động, xây dựng cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế, vừa thu hút tối đa nguồn vốn trong
nước, vừa tranh thủ vốn đầu tư nước ngoài góp phần thúc đẩy quá trình phát triển
kinh tế trong nước và hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong giới hạn chuyên đề này, chúng ta sẽ nghiên cứu về việc nâng cao chất
lượng tín dụng trung, dài hạn tại NHTM dưới giác độ ngân hàng.
1.3.2 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng trung, dài hạn tại NHTM
1.3.2.1 Các chỉ tiêu định tính
Chất lượng tín dụng trung, dài hạn được phản ánh thông qua các chỉ tiêu
định tính – những chỉ tiêu hết sức quan trọng và có tính chất quyết định đối với
chất lượng độ an toàn và hiệu quả của tín dụng ngân hàng.
• Thủ tục và quy chế cấp tín dụng:
Đây là khâu tiếp xúc đầu tiên của khách hàng với ngân hàng. Yêu cầu về thủ
tục giấy tờ đơn giản, thời gian làm việc nhanh chóng, không gây phiền hà kết hợp

với tinh thần thái độ phục vụ chu đáo, nhiệt tình của cán bộ tín dụng sẽ tạo cho
khách hàng tâm lý thoải mái, tạo niềm tin và hình ảnh tốt về ngân hàng trong mỗi
khách hàng.
Tuy nhiên, ngân hàng vẫn phải đảm bảo đúng các quy định, quy chế khi cấp
25


×