Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

Thực hiện pháp lệnh ở dân chủ trong cải cách hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (411.34 KB, 81 trang )

28. Huyện ủy Thái Thụy, Ban chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ, Báo cáo Kết quả thực
hiện Dân chủ ở các loại hình cơ sở năm 2014, Phương hướng, nhiệm vụ năm 2015 (Ban
hành ngày 10/ 12/2014)........................................................................................................78
47. Ngọc Tú,“Thái Thụy: Khai trương trung tâm hành chính công” (24/10/2015), bài báo
trên website: thaithuy.thaibinh.gov.vn.................................................................................80
52. Dương Trung Ý (tháng 5/ 2013), Nâng cao sự lãnh đạo của các tổ chức cơ sở Đảng
thực hiện hiệu quả dân chủ ở cơ sở, Tạp chí cộng sản số 14...............................................80


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dân chủ là giá trị của lịch sử xã hội gắn liền với sự tồn tại và phát
triển của đời sống con người. Lịch sử loài người đã trải qua nhiều nền dân chủ
khác nhau như dân chủ chủ nô, dân chủ tư sản và đang tiến đến xây dựng và
hoàn thiện nền dân chủ XHCN. Dân chủ là bản chất của chủ nghĩa xã hội và
cũng là bản chất của nhà nước Việt Nam XHCN. Tiếp thu quan điểm của chủ
nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác
định đúng đắn tầm quan trọng và vai trò to lớn của dân chủ, trong bất kỳ giai
đoạn nào, Đảng và Nhà nước ta đều nhận thức việc thực hành dân chủ rộng
rãi sẽ tạo nên sức mạnh to lớn, đảm bảo sự thành công của cách mạng Việt
Nam. Với nhận thức đúng đắn trên, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều
văn bản pháp lý quan trọng, đánh dấu những bước phát triển trong việc thể
chế hoá phương châm ''dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra'' (mà ở đại
hội Đảng toàn quốc khóa VI năm 1986 đã nêu) nhằm phát huy quyền làm chủ
trực tiếp của nhân dân. Trong đó văn bản quan trọng nhất khẳng định vai trò
và tầm quan trọng của việc thực hiện dân chủ ở cơ sở đối với hệ thống chính
trị - xã hội nước ta, đó là Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH 11 về thực hiện
dân chủ ở xã, phường, thị trấn do Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 11
(2007) ban hành ngày 20/4/2007. Thực hiện Pháp lệnh dân chủ cơ sở được
gắn với phát triển kinh tế - xã hội, cải cách thủ tục hành chính, cuộc vận động
"Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", các phong trào, các


hoạt động văn hoá, xã hội, giữ vững an ninh, trật tự ở cơ sở được nhân dân
đồng tình hưởng ứng và thực hiện có hiệu quả, dân chủ nói chung, dân chủ
trực tiếp của nhân dân nói riêng tiếp tục được coi trọng, tăng cường.
Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hóa kinh tế, văn hóa, CCHC trở thành
một trào lưu, một nhu cầu thiết thực tự thân, nỗ lực của hầu hết các quốc gia

1


trên thế giới - cả các nước đang phát triển và các nước phát triển - đều xem
CCHC như một động lực mạnh mẽ để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển
dân chủ và các mặt khác của đời sống xã hội, nhằm xây dựng một nền hành
chính nhà nước hiện đại, năng động hiệu quả, giảm phiền hà, lấy phục vụ
nhân dân làm tôn chỉ, mục đích để từ đó xây dựng và hoàn thiện nền hành
chính. Ở nước ta, công cuộc CCHC nhà nước đang là kế hoạch trọng tâm của
Đảng và Nhà nước nhằm xây dựng, phát triển hoàn thiện nhà nước pháp
quyền XHCN “Nhà nước của dân, do dân, vì dân”, xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN với mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh. Công cuộc CCHC được thực hiện ở tất cả các cấp hành
chính- từ trung ương đến cấp xã, phường, thị trấn - từng bước thận trọng và
đã thu được nhiều kết quả rất đáng khích lệ. CCHC đang thể hiện rõ vai trò
quan trọng của mình trong việc đẩy nhanh sự phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước. Tuy nhiên, quá trình CCHC ở Việt Nam còn rất nhiều vấn đề đặt ra
cần được tiếp tục giải quyết ngày như vẫn còn bộc lộ sự xa dân, quan liêu, bộ
máy cồng kềnh, hoạt động kém hiệu quả, thủ tục hành chính rất nặng nề, gây
phiền hà cho dân; chế độ và trách nhiệm công vụ không rõ ràng, thiếu minh
bạch; cán bộ, công chức có nhiều người sách nhiễu dân, lãng phí và tham
nhũng... Chính vì vậy cần phải đẩy mạnh thực hiện dân chủ cơ sở, đặc biệt là
việc áp dụng Pháp lệnh dân chủ cơ sở trong CCHC nhằm thực hiện tốt chủ
trương cải cách nền hành chính nước nhà, đồng thời phát huy hơn nữa quyền

làm chủ của nhân dân.
Huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình là một huyện ven biển đồng bằng
sông Hồng, là lá cờ đầu của sản xuất nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới
và đây là một trong những địa phương đầu tiên thí điểm thực hiện
CCHC. Bên cạnh những thành tựu đạt được, CCHC ở huyện Thái Thụy
vẫn còn nhiều hạn chế, chưa phát huy được hết quyền làm chủ của nhân
dân. Chính vì vậy tôi chọn “Thực hiện Pháp lệnh dân chủ cơ sở trong cải

2


cách hành chính ở huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình hiện nay” làm đề tài
luận văn của mình nhằm phân tích thực trạng thực hiện Pháp lệnh dân chủ cơ
sở trong CCHC ở huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình từ đó đề xuất một số
phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện Pháp lệnh dân chủ cơ
sở trong CCHC ở huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm qua, nước ta đã có nhiều công trình nghiên cứu về
dân chủ và CCHC nói chung, dân chủ và CCHC ở Việt Nam nói riêng. Trong
các công trình ấy, dân chủ, CCHC ở Việt Nam đã được nghiên cứu theo nhiều
cách tiếp cận khác nhau có thể khai thác và kế thừa như:
Nhóm các công trình nghiên cứu về CCHC nhà nước.
Bàn về CCHC nhà nước có các công trình nghiên cứu của các nhà khoa
học như:
Tô Tử Hạ, Nguyễn Hữu Trị và Nguyễn Hữu Đức (1998),“Cải cách hành
chính địa phương lý luận và thực tiễn”, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
Nguyễn Ngọc Hiến (2001), “Các giải pháp thúc đẩy cải cách hành chính ở
Việt Nam”, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội. Tác giả đã đề cập đến quá trình
CCHC diễn ra như thế nào, các rào cản trong CCHC, đặc điểm, nguyên tắc
CCHC từ đó đưa ra những kiến nghị các giải pháp thúc đẩy quá trình CCHC.

Đoàn Trọng Truyến (2006), “Cải cách hành chính và công cuộc xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
Các công trình nghiên cứu trên đã cung cấp những luận cứ khoa học
làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn trong tiến trình CCHC nhà nước, đề
xuất những kiến nghị về nguyên tắc, phương pháp, giải pháp cho công tác
CCHC, nâng cao nhận thức cho cán bộ, công chức trong bộ máy hành chính
nhà nước và các tầng lớp nhân dân, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và dân chủ
hóa đời sống xã hội.
Nhóm các công trình nghiên cứu về dân chủ và dân chủ cơ sở:

3


Vấn đề dân chủ và dân chủ ở cơ sở là một vấn đề đã được rất nhiều nhà
khoa học quan tâm nghiên cứu với nhiều công trình có giá trị và ý nghĩa đã
được công bố như:
Nguyễn Tiến Phồn: “Dân chủ và tập trung dân chủ - lý luận và thực
tiễn”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001; Luận án Tiến sỹ Chính trị học của
Nguyễn Thị Tâm: “Dân chủ cơ sở và vấn đề thực hiện dân chủ ở nông thôn
nước ta hiện nay” (2007). Các tác giả đã nêu rõ những thành tựu và hạn chế
trong nhận thức và cả những khuyết tật trong xây dựng và thực hiện nền dân
chủ XHCN ở nước ta trong thực tiễn.
PGS.TS Dương Xuân Ngọc: “Quy chế thực hiện dân chủ cấp xã - Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000;
PGS.TS Nguyễn Cúc: “Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong tình hình
hiện nay - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2002; Lương Gia Ban: “Dân chủ và việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ
sở”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003; TS. Nguyễn Văn Sáu - GS. Hồ
Văn Thông: “Thực hiện quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở
nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003. Các công trình này,

các tác giả đã tập trung làm rõ ý nghĩa, tầm quan trọng cả về mặt lý luận lẫn
thực tiễn, cùng với thực trạng của việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở
trong tình hình hiện nay của nước ta.
Phạm Văn Bính: “Phương pháp dân chủ Hồ Chí Minh”, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2008. Cuốn sách này đã góp phần xác định và làm rõ hơn
những vấn đề cơ bản trong phương pháp dân chủ của Hồ Chí Minh, đề xuất
áp dụng phương pháp dân chủ của Hồ Chí Minh đối với việc hoàn thiện
phương pháp lãnh đạo của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.
Hoàng Chí Bảo (2007), cuốn sách “ Dân chủ và dân chủ cơ sở ở nông
thôn trong tiến trình đổi mới”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007. Tác giả
đã nghiên cứu, luận giải sâu sắc về lý luận và thực tiễn một vấn đề xã hội

4


phức tạp hiện nay là tâm lý làng xã, ảnh hưởng và tác động của nó đối với
việc thực hiện và phát huy dân chủ hiện nay.
PGS.TS Nguyễn Văn Mạnh- ThS. Tào Thị Quyên: “Dân chủ trực tiếp ở
Việt Nam, lý luận và thực tiễn”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010. Trong
cuốn sách này tác giả đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về dân
chủ và dân chủ trực tiếp trên thế giới và ở Việt Nam; đánh giá thực trạng, đưa
ra giải pháp nhằm phát huy các hình thức dân chủ trực tiếp ở nước ta hiện
nay.
PGS.TS Lê Minh Quân: “Về quá trình dân chủ hóa xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011. Ở đây tác giả đã
đề cập đến nhiều vấn đề về dân chủ hóa từ góc độ lý luận và thực tiễn, chỉ ra
các yếu tố tác động và quá trình dân chủ hóa trên thế giới, phân tích những
vấn đề lý luận và thực tiễn của quá trình dân chủ hóa XHCN ở nước ta hiện
nay.
Bên cạnh những công trình sách đã được xuất bản, chúng ta còn có thể

kế thừa những bài báo, tạp chí như:
Dương Xuân Ngọc - Lưu Văn An: “Kết quả thực hiện Quy chế dân chủ
ở cơ sở, vấn đề đặt ra và một số giải pháp”, Tạp chí Thông tin lý luận, số 92000. Trong bài viết này, tác giả đã nêu lên những kết quả bước đầu của việc
thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, đồng thời nêu lên những vấn đề cần giải
quyết cùng những giải pháp cụ thể để tiếp tục thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ
sở.
Dương Trung Ý: “Nâng cao sự lãnh đạo của các tổ chức cơ sở Đảng
thực hiện hiệu quả dân chủ ở cơ sở”, Tạp chí Cộng sản số 14 (tháng 5/2013).
Ở bài viết này tác giả chủ yếu đề cập đến các giải pháp nhằm nâng cao vai trò
và năng lực của các tổ chức cơ sở Đảng trong việc phát huy dân chủ cơ sở.
TS. Đoàn Minh Huấn: “Dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp và quá trình
mở rộng dân chủ XHCN ở nước ta”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 8/2014. Tác

5


giả bài viết này làm rõ đặc trưng của hai hình thức dân chủ là dân chủ trực
tiếp và dân chủ đại diện, đồng thời khẳng định vai trò, ưu thế của mỗi hình
thức cũng như sự cần thiết phải phối hợp chặt chẽ hai hình thức này với nhau
trong việc mở rộng dân chủ XHCN ở nước ta.
Ngoài ra, tác giả luận văn còn tham khảo một số luận văn khác bàn về
dân chủ cơ sở và Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở như: Đặng Thị Thu Hương:
“Thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn huyện Vũ
Thư, tỉnh Thái Bình hiện nay” luận văn thạc sĩ triết học chuyên ngành chủ
nghĩa xã hội khoa học bảo vệ tại Đại học KHXH&NV năm 2014. Hoàng Thị
Ngọc Lan: “Phát huy dân chủ ở cơ sở trong quá trình xây dựng nông thôn mới
trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay (Qua khảo sát một số xã ở huyện Yên
Lạc và huyện Lập Thạch), luận văn thạc sĩ triết học chuyên ngành chủ nghĩa
xã hội khoa học bảo vệ tại ĐHKHXH&NV năm 2014. Các luận văn này đã
làm sáng tỏ cơ sở lý luận của việc thực hiện pháp lệnh dân chủ ở xã, phường,

thị trấn hiện nay nói chung và trong quá trình xây dựng nông thôn mới nói
riêng. Trên cơ sở đó, luận văn đã đánh giá thực trạng thực hiện và đề ra những
phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hơn nữa việc thực hiện tốt
Pháp lệnh dân chủ cơ sở.
Nhìn chung, các công trình khoa học, bài báo, luận văn nêu trên với
những cách tiếp cận và phạm vi nghiên cứu khác nhau nhưng đều đã nêu lên
và làm rõ tầm quan trọng của dân chủ, dân chủ cơ sở cũng như những tiền đề
lý luận và thực tiễn của vấn đề dân chủ và dân chủ cơ sở. Do vậy những tài
liệu trên sẽ là những nguồn tư liệu tham khảo bổ ích đối với tác giả. Tuy
nhiên do Pháp lệnh số 344/2007/PL-UBTVQH 11 về thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn của Ủy ban Thường vụ Quốc hội mới được ban hành ngày
20/04/2007 nên các công trình nghiên cứu trước thời điểm ban hành Pháp
lệnh chưa thể đề cập đến các nội dung Pháp lệnh này của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội. Từ sau thời điểm công bố pháp lệnh cũng chưa có một công trình

6


nghiên cứu nào nghiên cứu cụ thể tình hình thực hiện pháp lệnh đó trong lĩnh
vực CCHC trên địa bàn huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Vì vậy trong khuôn
khổ luận văn này tác giả muốn chú trọng làm rõ việc thực hiện Pháp lệnh dân
chủ cơ sở trong CCHC trên địa bàn huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình hiện
nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu của luận văn là phân tích thực trạng và đề xuất những
phương hướng, giải pháp cơ bản để góp phần nâng cao hiệu quả của việc thực
hiện Pháp lệnh dân chủ cơ sở trong CCHC ở huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình
hiện nay.
- Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn là:
+ Phân tích làm rõ những cơ sở lý luận của việc thực hiện Pháp lệnh dân chủ

cơ sở trong CCHC ở huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình hiện nay
+ Đánh giá thực trạng việc thực hiện Pháp lệnh dân chủ cơ sở trong CCHC ở
huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình từ năm 2001 đến nay, chỉ ra nguyên nhân và
phân tích những vấn đề đặt ra cần giải quyết để tăng cường vai trò của Pháp
lệnh dân chủ cơ sở trong CCHC
+ Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu góp phần nâng cao
hiệu quả thực hiện Pháp lệnh dân chủ cơ sở trong CCHC ở Thái Thụy, Thái
Bình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Đối tượng mà luận văn tập trung nghiên cứu là sự cần thiết, vai
trò của việc thực hiện Pháp lệnh dân chủ cơ sở trong CCHC ở UBND huyện
Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Nghiên cứu việc thực hiện Pháp lệnh dân chủ cơ sở trong lĩnh vực CCHC
của UBND huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình
+ Số liệu điều tra, khảo sát từ năm 2001 đến nay, đây là thời điểm Đảng và
nhà nước ta ban hành Quy chế dân chủ cơ sở và Ủy ban Thường vụ Quốc hội
ban hành Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn (04/2007). Trong

7


giai đoạn này, chính phủ ban hành các chương trình tổng thể CCHC nhà
nước giai đoạn 2001- 2010, 2011-2020.
5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Cơ sở lý luận nghiên cứu của luận văn được dựa trên những
quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện
thể hiện quan điểm, chủ trương của Đảng cộng sản và Nhà nước Việt Nam về
thực hiện dân chủ cơ sở và CCHC. Bên cạnh đó tác giả luận văn cũng có kế
thừa, chọn lọc những kết quả nghiên cứu của một số nhà khoa học đã được

công bố về dân chủ cơ sở và CCHC.
- Phương pháp nghiên cứu:
+ Luận văn sử dụng phương pháp luận triết học của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử; các phương pháp nghiên cứu chung như: phương
pháp lôgíc- lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh và chứng minh; phương pháp
liên ngành như: điều tra xã hội học... để nghiên cứu đề tài này.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn trình bày một cách tương đối hoàn chỉnh về những cơ sở lý
luận cho việc thực hiện Pháp lệnh dân chủ cơ sở trong CCHC ở cấp huyện
Việt Nam nói chung và ở huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình nói riêng. Thực
trạng thực hiện Pháp lệnh dân chủ cơ sở trong CCHC và đề xuất các giải pháp
thực hiện có hiệu quả Pháp lệnh dân chủ cơ sở trong CCHC ở huyện Thái
Thụy, tỉnh Thái Bình.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn sẽ là cứ liệu khoa học góp phần để các cơ quan hành chính cả
nước nói chung, các cơ quan hành chính nhà nước ở Thái Thụy, tỉnh Thái
Bình nói riêng đề ra những phương hướng và giải pháp nhằm thực hiện tốt
hơn nữa Pháp lệnh dân chủ cơ sở trong CCHC
Luận văn có thể làm tư liệu phục vụ cho việc nghiên cứu và giảng dạy
những vấn đề lý luận liên quan đến dân chủ, dân chủ cơ sở, dân chủ trong lĩnh
vực CCHC và là tư liệu trong các khoa học lý luận chính trị,...
8. Kết cấu của luận văn

8


Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn còn
có 2 chương 5 tiết

9



NỘI DUNG
Chương 1: THỰC HIỆN PHÁP LỆNH DÂN CHỦ CƠ SỞ TRONG CẢI
CÁCH HÀNH CHÍNH CẤP HUYỆN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY: MỘT SỐ
VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Cải cách hành chính và cải cách hành chính cấp huyện ở Việt Nam
hiện nay
1.1.1.Những vấn đề chung về cải cách hành chính ở Việt Nam hiện nay
1.1.1.1. Khái niệm cải cách hành chính
Từ nhiều năm nay, CCHC đã là một vấn đề mang tính tương đối phổ cập
của xã hội Việt Nam. Người dân, tổ chức cảm nhận được kết quả, tác động
của CCHC một cách trực tiếp nhất khi có việc phải tiếp xúc, giải quyết công
việc với các cơ quan hành chính nhà nước. Vậy CCHC là gì?
Cải cách là sửa đổi những bộ phận, yếu tố, thành phần đã có cho thành
hợp lý, cho thích hợp với điều kiện, hoàn cảnh mới để sự vật có thể vận động
và phát triển tốt hơn [50]. Theo nghĩa triết học và chính trị học thì cải cách là
làm thay đổi một số mặt của sự vật mà không làm thay đổi căn bản sự vật đó.
Đó còn là “sự sửa đổi, cải thiện một số mặt của đời sống xã hội mà không
động tới nền tảng của chế độ xã hội hiện hành” [45, tr.335]. Khái niệm cải
cách có nội hàm hẹp hơn đổi mới.
Còn thuật ngữ “hành chính” có gốc từ tiếng Latinh “administratio” là
quản lý, lãnh đạo. Hiện nay có khá nhiều cách hiểu và giải thích khác nhau về
thuật ngữ này, tuỳ theo góc độ tiếp cận của từng nhà nghiên cứu. Tuy có
nhiều cách tiếp cận, nhưng đặc điểm cơ bản của hành chính xuất phát từ việc
trong bất kỳ xã hội nào cũng cần có sự phân công lao động, cần tới sự xác lập
những tỉ lệ giữa các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Như vậy, hành
chính theo nghĩa chung là quản lý công việc, là quản lý xã hội; theo nghĩa
riêng, hẹp hơn là công việc nhà nước và tổ chức quản lý nhà nước. Về cơ bản,
hành chính là tổng thể những hoạt động (thao tác) nhất định do con người,


10


chủ thể quản lý thực hiện đối với khách thể quản lý nhằm cải tạo khách thể,
bảo đảm cho nó vận động tới một mục tiêu đã định. Hành chính chính là hoạt
động quản lý của con người để tạo ra sự vận hành mang tính hệ thống của xã hội.
Căn cứ vào quan niệm về cải cách và hành chính đã làm rõ ở trên thì
CCHC chính là hoạt động có ý thức và mục đích của con người nhằm hợp lý
hóa, hay khắc phục các khiếm khuyết trong các chương trình điều hành, quản
lý các hệ thống, cải tạo, nâng cấp, hoàn thiện công tác quản lý cho tất cả các
hệ thống trong xã hội. Song do hành chính gắn chủ yếu với hoạt động của các
cơ quan nhà nước, các thể chế chính trị nên khái niệm CCHC thường được
coi là đồng nhất với khái niệm CCHC nhà nước. Nhìn nhận một cách tổng
quát, CCHC được xác định là hành vi có tính hướng đích của con người
nhằm cải biến nền hành chính của một quốc gia theo hướng hoàn thiện hơn.
CCHC nhà nước là tạo ra những thay đổi trong các yếu tố cấu thành của nền
hành chính nhằm làm cho các cơ quan hành chính nhà nước hoạt động hiệu
lực, hiệu quả hơn, phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội tốt hơn.
Trên cơ sở nêu trên, các khái niệm CCHC thống nhất tại các điểm sau:
- CCHC là sự thay đổi có kế hoạch theo một mục tiêu xác định nhưng không
làm triệt tiêu hay thay đổi bản chất của hệ thống hành chính nhà nước mà để
hệ thống hành chính nhà nước hoạt động hiệu quả hơn;
- CCHC hướng tới điều tiết những mâu thuẫn trong cơ cấu tổ chức và cơ chế
quản lý của bộ máy hành chính nhà nước;
- CCHC tập trung vào việc định rõ trách nhiệm của các cơ quan, cá nhân mà
thông qua đó nhằm thiết lập một hệ thống hành chính chặt chẽ từ trên xuống
dưới;
- CCHC không phải là cải cách chế độ chính trị - kinh tế - xã hội mà là quá
trình khắc phục mọi trở lực trong cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của nền

hành chính, làm cho nó phát triển một cách năng động và phù hợp với sự biến
đổi kinh tế-xã hội;

11


Ở Việt Nam hiện nay chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào chính
thức định nghĩa CCHC là gì. Tuy nhiên, nhiều văn bản quan trọng của Đảng
ta đã đề cập đến thuật ngữ này như Nghị quyết đại hội VII, Nghị quyết Trung
ương 8 khóa VII, Nghị quyết Đại hội VIII đã đưa ra mục tiêu nhiệm vụ cụ thể
cho công cuộc CCHC nhà nước. So sánh với các quốc gia, Việt Nam là quốc
gia đã xây dựng một chương trình CCHC toàn diện nhằm giải quyết những
vấn đề căn bản của nền hành chính nhà nước. Ở nhiều quốc gia khác, CCHC
không phải lúc nào cũng được tiến hành theo một kế hoạch tổng thể mà theo
các nhóm giải pháp ở các quy mô nhỏ hơn như đổi mới cơ chế, chính sách
cho khu vực nào đó, phát triển tổ chức, phát triển nguồn nhân lực, quản lý
chất lượng và những lĩnh vực cải cách có liên quan khác.
Trong phạm vi luận văn này, nếu đề cập đến CCHC là nói đến CCHC
nhà nước để phân biệt với CCHC ở các tổ chức, cơ quan, nhất là doanh
nghiệp tư nhân, tức là khu vực tư nhân.
1.1.1.2. Bối cảnh ra đời cải cách hành chính ở Việt Nam
Vào cuối thập kỉ 80, đầu thập kỉ 90 của thế kỉ XX, tình hình thế giới có
những biến chuyển to lớn ảnh hưởng tới nước ta. Không gian chính trị thời kỳ
hậu Xô Viết với tác động của toàn cầu hóa như một xu thế tất yếu và phổ biến
đã làm nổi bật một đặc điểm mới của thế giới hiện nay là hòa bình, hợp tác và
phát triển đòi hỏi các quốc gia phải thích nghi để phù hợp với tình hình mới.
Trong khi đó, nhiều nước trên thế giới trong quá trình phát triển của mình
cũng tiến hành cải cách trên nhiều phương diện, đặc biệt là kinh tế và tổ chức
vận hành bộ máy nhà nước để thích ứng với tình hình mới, trong đó có CCHC
để đổi mới hoạt động của bộ máy nhà nước nhằm tiếp tục đưa đất nước tiến

lên và phát triển một cách bền vững. Những bài học của nhiều nước tiên tiến,
theo nhiều con đường khác nhau đã tác động đến Việt Nam làm thay đổi nhận
thức của nhiều nhà lãnh đạo đất nước. Nhiều người ở Việt Nam dần dần đã
nhận ra rằng, cải cách nền hành chính nhà nước là một đòi hỏi có tính quy
luật. Việt Nam cũng nằm trong quy luật đó.

12


Trong bối cảnh thế giới đó, ở Việt Nam công cuộc đổi mới toàn diện
đất nước diễn ra bắt đầu từ đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng
cộng sản Việt Nam (năm 1986) đến nay đã qua 30 năm tạo ra bước chuyển
biến có ý nghĩa hết sức quan trọng từ nền kinh tế kế hoạch hóa vận hành theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Trong
tiến trình đó, CCHC được đặt ra như một đòi hỏi khách quan của thực tiễn để
tạo tiền đề thúc đẩy cải cách kinh tế. CCHC được xác định là trọng tâm của
việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, trở thành một bộ phận quan trọng trong chủ trương, đường lối của
Đảng và Nhà nước ta.
Việc CCHC ở Việt Nam trong những năm qua được tiến hành rộng
khắp trên tất cả mọi lĩnh vực của CCHC và trong tương lai đi theo hướng làm
cho bộ máy hành chính hoàn bị hơn, hoạt động có hiệu quả hơn, phục vụ nhân
dân ngày một đúng pháp luật, tốt hơn và tiết kiệm nhất, dần từng bước chuyển
nền hành chính từ cơ quan cai quản thành các cơ quan phục vụ dân, làm các
dịch vụ hành chính đối với dân, công dân là khách hàng của nền hành chính,
là người đánh giá khách quan nhất về mọi hoạt động của bộ máy nhà nước, bộ
máy hành chính. Việc ban hành Pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm
2007- một văn bản về những quy chế dân chủ cơ sở đã được luật hóa mang
tính pháp lý quan trọng- có một ý nghĩa vô cùng quan trọng và cần thiết để
thực hiện thành công CCHC ở nước ta hiện nay.

1.1.1.3. Nội dung cải cách hành chính ở Việt Nam hiện nay
CCHC ở Việt nam được tiến hành nhiều năm nay với những bước đi, lộ
trình khác nhau từ thấp tới cao. Bắt đầu là việc cải cách một bước thủ tục
hành chính trong việc giải quyết các công việc của cá nhân, tổ chức với Nghị
quyết số 38/CP năm 1994 của Chính phủ, đến cải cách một bước nền hành
chính nhà nước với ba nội dung được trình bày có hệ thống trong Nghị quyết
Hội nghị TW 8 (Khoá VII) (tháng 1/1995) là: cải cách thể chế hành chính; cải

13


cách bộ máy hành chính nhà nước; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức. Đây
cũng là lần đầu tiên thuật ngữ cải cách nền hành chính được sử dụng chính
thức trong văn kiện của Đảng. Tiến đến thực hiện bốn nội dung CCHC trong
Chương trình tổng thế CCHC nhà nước giai đoạn 2001-2010 bao gồm: cải
cách thể chế; cải cách tổ chức bộ máy hành chính; đổi mới, nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, công chức; cải cách tài chính công. Ngày 8/11/2011,
chính phủ đã ban hành chương trình tổng thế CCHC nhà nước giai đoạn
2011-2020, CCHC đã chuyển sang một bước mới với sáu nội dung: cải cách
thể chế hành chính; cải cách thủ tục hành chính; cải cách tổ chức bộ máy hành
chính nhà nước; xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức; cải cách tài chính công; hiện đại hóa nền hành chính.
Chương trình tổng thể CCHC nhà nước giai đoạn 2011- 2020 với các
mục tiêu đó là: Xây dựng, hoàn thiện hệ thống thể chế kinh tế thị trường định
hướng XHCN nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, huy động và sử dụng có
hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển đất nước. Tạo môi trường kinh doanh
bình đẳng, thông thoáng, thuận lợi, minh bạch nhằm giảm thiểu chi phí về
thời gian và kinh phí của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế
trong việc tuân thủ thủ tục hành chính. Xây dựng hệ thống các cơ quan hành
chính nhà nước từ trung ương tới cơ sở thông suốt, trong sạch, vững mạnh,

hiện đại, hiệu lực, hiệu quả, tăng tính dân chủ và pháp quyền trong hoạt động
điều hành của Chính phủ và của các cơ quan hành chính nhà nước. Bảo đảm
thực hiện trên thực tế quyền dân chủ của nhân dân, bảo vệ quyền con người,
gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, của đất nước. Xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực và trình
độ, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước.
Trọng tâm CCHC trong giai đoạn 10 năm tới là: Cải cách thể chế; xây
dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, chú trọng
cải cách chính sách tiền lương nhằm tạo động lực thực sự để cán bộ, công

14


chức, viên chức thực thi công vụ có chất lượng và hiệu quả cao; nâng cao chất
lượng dịch vụ hành chính và chất lượng dịch vụ công.
Chương trình được triển khai thực hiện thông qua hai giai đoạn, giai
đoạn 1 từ năm 2011 – 2015; giai đoạn 2 từ năm 2016 – 2020. Nếu chương
trình CCHC giai đoạn 2001 – 2010 tập trung vào 4 nội dung (cải cách thể chế;
cải cách tổ chức bộ máy hành chính; đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ, công chức và cải cách tài chính công) thì chương trình mới giai đoạn
2011 - 2020 xác định rõ nhiệm vụ CCHC trên 6 lĩnh vực cụ thể là: Cải cách
thể chế, cải cách thủ tục hành chính, cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà
nước, xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức,
cải cách tài chính công, hiện đại hóa hành chính.
- Thứ nhất, về cải cách thể chế: một vấn đề rất quan trọng được đặt ra
đó là việc hoàn thiện thể chế về sở hữu, trong đó khẳng định sự tồn tại khách
quan, lâu dài của các hình thức sở hữu trước hết là sở hữu nhà nước, sở hữu
tập thể, sở hữu tư nhân, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ
sở hữu khác nhau trong nền kinh tế; sửa đổi đồng bộ thể chế hiện hành về sở
hữu đất đai, phân định rõ quyền sở hữu đất và quyền sử dụng đất, bảo đảm

quyền của người sử dụng đất. Qua những vụ việc về đất đai mới xảy ra gần
đây cho thấy việc hoàn thiện thể chế về sở hữu và đất đai là một bước đi cần
thiết và kịp thời của Đảng và Nhà nước nhằm hoàn thiện khung pháp lý về
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, khuyến khích sự phát triển của các
thành phần kinh tế và đảm bảo sự ổn định, công bằng trong xã hội.
- Thứ hai, về cải cách thủ tục hành chính: điểm mới là Nghị quyết
30c/NQ- CP của Chính phủ về Ban hành chương trình tổng thể CCHC nhà
nước giai đoạn 2011- 2020 đã tách lĩnh vực cải cách thủ tục hành chính ra
khỏi cải cách thể chế và đưa ra làm nhiệm vụ riêng. Đây là một yêu cầu cần
thiết trong bối cảnh hiện nay, bởi thủ tục hành chính có vai trò quan trọng,
được thực hiện hằng ngày trong đời sống xã hội cũng như tác động lớn đến

15


thu hút đầu tư, kinh doanh của doanh nghiệp. Trong giai đoạn 2011- 2015 cần
tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh trong một số lĩnh vực trọng tâm cần
tập trung là: Đầu tư, đất đai, xây dựng, sở hữu nhà ở, thuế, hải quan, xuất
nhập khẩu, y tế, giáo dục, lao động, bảo hiểm, khoa học- công nghệ... Một
điểm mới nữa là việc đặt yêu cầu cải cách thủ tục hành chính ngay trong quá
trình xây dựng thể chế và việc tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của cá
nhân, tổ chức về các quy định hành chính. Đây sẽ là một bước tiến đáng kể
góp phần vào việc nâng cao chất lượng của các quy định hành chính và giám
sát việc thực hiện thủ tục hành chính của các cơ quan nhà nước.
- Thứ ba, về cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước: chương
trình đã lượng hóa kết quả trên một số lĩnh vực cụ thể như bảo đảm sự hài
lòng của cá nhân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà
nước và đối với dịch vụ do đơn vị sự nghiệp công cung cấp trong các lĩnh vực
giáo dục, y tế đạt mức trên 80 % vào năm 2020.
- Thứ tư, về xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công

chức, viên chức đã đưa ra nội dung mới đó là việc thực hiện chế độ thi nâng
ngạch theo nguyên tắc cạnh tranh, thi tuyển cạnh tranh để bổ nhiệm vào các vị
trí lãnh đạo, quản lý từ cấp vụ trưởng và tương đương (ở trung ương), giám
đốc sở và tương đương (ở địa phương) trở xuống. Ngoài ra chương trình cũng
tập trung nguồn lực ưu tiên cho cải cách chính sách tiền lương, chế độ bảo
hiểm xã hội và ưu đãi người có công; đến năm 2020, tiền lương của cán bộ,
công chức, viên chức được cải cách cơ bản, bảo đảm được cuộc sống của cán
bộ, công chức, viên chức và gia đình ở mức trung bình khá trong xã hội.
- Thứ năm, về cải cách tài chính công có một điểm đáng chú ý là việc
đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách cho cơ quan hành chính nhà nước, tiến tới
xóa bỏ chế độ cấp kinh phí theo số lượng biên chế, thay thế bằng cơ chế cấp
ngân sách dựa trên kết quả và chất lượng hoạt động, hướng vào kiểm soát đầu
ra, chất lượng chi tiêu theo mục tiêu, nhiệm vụ của các cơ quan hành chính

16


nhà nước. Bên cạnh đó đối với cơ chế tài chính của các đơn vị sự nghiệp dịch
vụ công sẽ từng bước thực hiện chính sách điều chỉnh giá dịch vụ sự nghiệp
công phù hợp, chú trọng đổi mới cơ chế tài chính của các cơ sở giáo dục, đào
tạo, y tế công lập theo hướng tự chủ, công khai, minh bạch. Đổi mới và hoàn
thiện đồng bộ các chính sách bảo hiểm y tế, khám, chữa bệnh, có lộ trình thực
hiện bảo hiểm y tế toàn dân.
- Thứ sáu, về hiện đại hóa hành chính đã cụ thể hóa mục tiêu đến năm
2020: 90% các văn bản, tài liệu chính thức trao đổi giữa các cơ quan hành
chính nhà nước được thực hiện dưới dạng điện tử; hầu hết các giao dịch của
các cơ quan hành chính nhà nước được thực hiện trên môi trường điện tử, mọi
lúc, mọi nơi; hầu hết các dịch vụ công được cung cấp trực tuyến trên Mạng
thông tin điện tử hành chính của Chính phủ ở mức độ 3 và 4, đáp ứng nhu cầu
thực tế, phục vụ người dân và doanh nghiệp mọi lúc, mọi nơi, dựa trên nhiều

phương tiện khác nhau; Ứng dụng công nghệ thông tin- truyền thông trong
quy trình xử lý công việc của từng cơ quan hành chính nhà nước, giữa các cơ
quan hành chính nhà nước với nhau và trong giao dịch với tổ chức, cá nhân,
đặc biệt là trong hoạt động dịch vụ hành chính công, dịch vụ công của đơn vị
sự nghiệp công.
Chương trình Tổng thể về CCHC giai đoạn 2011- 2020 là một bước đi
quan trọng trong việc cụ thể hóa chủ trương của Đảng về tiếp tục đẩy mạnh
CCHC, xác định đây là một trong ba khâu đột phá trong thực hiện chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020 và đóng góp chung vào sự phát triển
của đất nước trong thời gian tới.
1.1.1.4. Một số đặc trưng trong cải cách hành chính ở Việt Nam hiện nay
Ngoài những điểm giống CCHC ở các nước, CCHC ở Việt Nam có
những đặc trưng riêng sau:
- CCHC là giải pháp đột phá tiên phong trong cải cách các hoạt động
của Nhà nước nói chung, của Chính phủ nói riêng.

17


- Cải cách được tiến hành trong khuôn khổ hệ thống chính trị một Đảng
duy nhất cầm quyền- Đảng Cộng sản Việt Nam. Mặt thuận lợi từ đặc trưng
này chính là ở chỗ dễ tạo sự đồng thuận trong hoạch định chính sách, biện
pháp, thể chế cho cải cách.
- CCHC diễn ra cùng một lúc với khá nhiều cuộc cải cách khác, ví dụ
như cải cách kinh tế, cải cách lập pháp, cải cách tư pháp, cải cách giáo dục
v.v... Đặc trưng này đòi hỏi phải có sự chỉ đạo thống nhất, tập trung nhằm bảo
đảm mục tiêu chung của phát triển.
- CCHC được triển khai trên diện rộng, ở tất cả các cấp hành chính với
sáu lĩnh vực cải cách. Mỗi lĩnh vực lại bao gồm một loạt các lĩnh vực thành
phần cho thấy tính phức tạp, độ rộng của CCHC ở Việt Nam.

- CCHC ở nước ta chịu ảnh hưởng khá lớn của điều kiện xã hội và tâm
lý của người dân Việt Nam. CCHC nước ta đang được tiến hành trong xã hội
có nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, do ảnh hưởng tâm lý phong kiến nặng nề,
ý thức dân chủ và năng lực dân chủ không tương xứng, trọng tình cảm, nhẹ
lý, tách rời quyền với nghĩa vụ cùng với những tệ nạn phát sinh từ mặt trái
của cơ chế thị trường.
Từ những đặc trưng này rút ra những vấn đề sau:
- CCHC không thể tách rời sự lãnh đạo của Đảng
Đặc trưng tiêu biểu của hệ thống chính trị Việt Nam là hệ thống một
đảng duy nhất cầm quyền. Đặc trưng này chi phối nhiều vấn đề, trong đó có
vấn đề CCHC. CCHC muốn tiến hành được, muốn duy trì và đẩy mạnh, trước
hết phải là một chủ trương trong đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tách rời vai trò lãnh đạo của Đảng không thể có cải cách, càng không thể có
những kết quả tích cực. Từ năm 1995 cho đến nay, chủ trương CCHC đã
được xác định trong một loạt các nghị quyết của Đảng tại các hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương và trong các văn kiện Đại hội VII cho đến Đại hội XI.
Năm 2007 đánh dấu một mốc thời gian quan trọng, chính là vì lần đầu tiên

18


Ban Chấp hành Trung ương Đảng có một Nghị quyết riêng về CCHC, đó là
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa X.
CCHC không tách rời sự lãnh đạo của Đảng vừa là bài học kinh nghiệm,
vừa là đặc trưng cải cách của Việt Nam. Mặt thuận lợi của vấn đề này chính là
ở chỗ sự hiện diện của các tổ chức Đảng, của các đảng viên đang giữ các chức
vụ lãnh đạo trong các cơ quan, tổ chức của nhà nước từ trung ương tới cơ sở.
Các thành viên này có trách nhiệm triển khai nghị quyết Đảng về CCHC
thông qua các hình thức thích hợp, trong đó có hoạt động của các cơ quan
hành chính nhà nước.

- Sự chỉ đạo nhất quán của Chính phủ là một yếu tố bảo đảm CCHC đạt
kết quả.
Với vị trí là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, Chính phủ đóng vai
trò quan trọng trong chỉ đạo triển khai CCHC của đất nước. Từ chủ trương
của Đảng, Chính phủ có trách nhiệm cụ thể hoá thành các chương trình, kế
hoạch CCHC, trên cơ sở đó các bộ, ngành trung ương và chính quyền địa
phương các cấp xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình, kế hoạch
CCHC của mình nhằm bảo đảm mục tiêu chung của cải cách là xây dựng
được một nền hành chính mạnh, hiệu lực, hiệu quả, vì dân phục vụ.
Trước đây, Chính phủ đã ban hành Chương trình tổng thể CCHC nhà
nước giai đoạn 2001-2010 và mới đây đã ban hành Chương trình tổng thể
CCHC nhà nước giai đoạn 2011-2020.
Công tác chỉ đạo của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đối với công
cuộc CCHC có ý nghĩa trên các phương diện:
- Bảo đảm rõ định hướng, mục tiêu CCHC.
- Xác định rõ các nhiệm vụ cải cách .
- Xác định các trọng tâm, ưu tiên cải cách theo từng thời kỳ.
- Xác định trách nhiệm người đứng đầu các cơ quan hành chính, trước
hết là Bộ trưởng và Chủ tịch UBND cấp tỉnh trong triển khai CCHC.

19


- Tổng kết từ thực tiễn cải cách để hoạch định thể chế, cơ chế mới, có
tính chất áp dụng chung trong cả nước.
- CCHC triển khai với nhiều nội dung, vì vậy hết sức khó khăn và phải
làm lâu dài.
So với nhiều nước có tiến hành CCHC thì CCHC ở Việt Nam được triển
khai trên nhiều lĩnh vực từ thể chế, tổ chức bộ máy, thủ tục tới con người, các
cơ chế hoạt động, ứng dụng công nghệ thông tin vào hành chính v.v.... Có thể

nói gần như các yếu tố cấu thành cơ bản của nền hành chính quốc gia đều đòi
hỏi phải cải cách, thay đổi. Chính vì vậy, việc triển khai không đơn giản và
cũng không thể sớm đạt kết quả. Vấn đề này chi phối trước hết công tác xây
dựng kế hoạch CCHC của các bộ, ngành và địa phương. Kế hoạch phải bao
quát đủ các lĩnh vực cải cách, cụ thể hóa vào phạm vi trách nhiệm của từng cơ
quan. Kể đến là công tác triển khai, kiểm tra việc thực hiện trong thực tiễn.
- Bảo đảm tính đồng bộ của CCHC với các cuộc cải cách khác trong hệ
thống chính trị
Việt Nam cùng một lúc tiến hành một loạt các cải cách: cải cách lập
pháp, cải cách tư pháp, cải cách kinh tế, cải cách giáo dục v.v... Mỗi cuộc cải
cách theo đuổi các mục tiêu, kết quả riêng, tuy nhiên có rất nhiều vấn đề đan
xen giữa các cuộc cải cách, thậm chí có vấn đề không thể nói chỉ thuộc một
cuộc cải cách riêng biệt. Chính vì vậy, tính đồng bộ giữa các cuộc cải cách
này có ý nghĩa quan trọng, nó tạo ra sự thống nhất ở tầm vĩ mô như hoạch
định thể chế, chính sách, pháp luật để bảo đảm các cuộc cải cách có thể tốt
hơn, không gặp trở ngại.
Tuy nhiên, thực tiễn có lúc không diễn ra như vậy. Từ góc độ cục bộ của
ngành, lĩnh vực, đã có lúc các bộ chuẩn bị các dự án luật trình Quốc hội thông
qua và khi ban hành mới thấy rõ sự cản trở về CCHC đang được triển khai,
làm cho thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý của các bộ phức tạp hơn;
người dân, tổ chức phải vất vả hơn trong giải quyết công việc của mình.

20


- CCHC đòi hỏi phải có những thí điểm
Trong quá trình cải cách, nhiều vấn đề trì trệ của nền hành chính được
phát hiện và các giải pháp được đề xuất để thay đổi. Thông thường, các giải
pháp đó về bản chất khác hẳn giải pháp hiện hành, lại chưa được kiểm nghiệm
tính đúng đắn và chưa được thể chế hóa. Do vậy, hết sức cần thiết có sự thí

điểm để qua thực tiễn xem xét tính phù hợp của các giải pháp. Một loạt các cơ
chế có tính cải cách đang được triển khai trong quá trình cải cách đã ra đời
theo cách như vậy.
1.1.2. Cấp huyện và yêu cầu cải cách hành chính ở cấp huyện của Việt
Nam hiện nay
1.1.2.1. Khái quát về cấp huyện và chính quyền cấp huyện ở Việt Nam hiện
nay
Huyện là đơn vị hành chính địa phương cấp hai ở khu vực nông thôn của
Việt Nam. Thuật ngữ “cấp huyện” đôi khi được dùng để chỉ toàn bộ cấp hành
chính địa phương thứ hai, nghĩa là bao gồm cả thành phố trực thuộc tỉnh,
quận, huyện và thị xã. Một huyện thông thường được chia ra thành nhiều xã
và có thể có một vài thị trấn.
Hiện nay bộ máy chính quyền địa phương ở cấp huyện được căn cứ theo
Hiến pháp năm 1992, sửa đổi năm 2001 và Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân
và UBND năm 2003. Căn cứ Hiến pháp, pháp luật, các văn bản của cơ quan
nhà nước cấp trên, Hội đồng nhân dân huyện ra các nghị quyết về các biện
pháp thực thi pháp luật ở địa phương, các nghị quyết phát triển kinh tế-xã hội
và ngân sách, an ninh quốc phòng ở địa phương, biện pháp để ổn định và
nâng cao đời sống nhân dân, hoàn thành các nhiệm vụ mà cấp trên giao cho
và làm tròn nghĩa vụ với đất nước.
UBND huyện do Hội đồng nhân dân huyện bầu ra, là cơ quan chấp hành
của Hội đồng nhân dân huyện, cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương,

21


chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của các cơ quan Nhà
nước cấp trên và Nghị quyết của Hội đồng nhân dân huyện.
Ngoài ra còn các quy định cụ thể tại Mục 2- Chương 4 của Luật Tổ chức
Hội đồng nhân dân và UBND 2003 và một số văn bản pháp lý quy định khác

cũng nêu rõ về nhiệm vụ, quyền hạn, chức năng của UBND cấp huyện. Cơ
cấu tổ chức của UBND huyện gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các Ủy viên
Ủy viên.
Chính quyền cấp huyện còn một thành phần khác là cơ quan chuyên môn
thuộc UBND cấp huyện được quy định tại Mục 5- Chương IV của Luật Tổ
chức Hội đồng nhân dân và UBND. Các cơ quan chuyên môn thuộc UBND là
cơ quan tham mưu, giúp UBND cùng cấp thực hiện chức năng quản lý nhà
nước ở địa phương và thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn theo sự uỷ
quyền của UBND cùng cấp và theo quy định của pháp luật; góp phần bảo
đảm sự thống nhất quản lý của ngành hoặc lĩnh vực công tác từ trung ương
đến cơ sở.
1.1.2.2. Yêu cầu cải cách hành chính cấp huyện ở Việt Nam hiện nay
Có thể nói, so với chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện là cấp trực tiếp hơn,
sát dân hơn khi thực thi, triển khai các hoạt động quản lý nhà nước trên phạm
vi quận, huyện, thị xã. Trong thực tế hoạt động hiện nay của chính quyền cấp
huyện và cụ thể là UBND cấp huyện, có thể thấy những giao dịch giữa công
dân với cơ quan nhà nước thường xuyên và phần nhiều được giải quyết tại
UBND cấp huyện với những cơ quan thẩm quyền riêng là các cơ quan chuyên
môn thuộc UBND cấp huyện. Từ đó chúng ta có thể đưa ra khái niệm CCHC
cấp huyện là toàn bộ những công việc phải tiến hành đối với UBND huyện và
các cơ quan chuyên môn nhằm đổi mới, điều chỉnh, cải tiến một số bộ phận,
mặt công tác, lĩnh vực hoạt động của các cơ quan ấy, xây dựng một nền hành
chính cấp huyện dân chủ, từng bước hiện đại, góp phần xây dựng chính quyền

22


cấp huyện trong sạch vững mạnh đáp ứng tốt yêu cầu của công cuộc đổi mới,
yêu cầu của nhân dân trong huyện.
Do đó, yêu cầu CCHC ở đây chính là để nâng cao chất lượng hoạt

động, hiệu quả hoạt động của bộ máy, chính quyền hành chính cấp huyện,
góp phần phục vụ tốt đối với các nhu cầu của công dân. Công tác CCHC cấp
huyện đòi hỏi sự đồng bộ trên tất cả các phương diện: thể chế; thủ tục hành
chính; tổ chức bộ máy hành chính nhà nước; xây dựng và nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; tài chính công; hiện đại hóa hành
chính.
1.2. Pháp lệnh dân chủ cơ sở và sự cần thiết phải thực hiện Pháp lệnh
dân chủ cơ sở trong cải cách hành chính cấp huyện ở Việt Nam hiện nay
1.2.1. Khái niệm dân chủ, dân chủ xã hội chủ nghĩa
1.2.1.1. Khái niệm dân chủ
Thuật ngữ “dân chủ” có gốc tiếng Hy Lạp là “demokratia” được hình
thành từ hai chữ “demos” có nghĩa là nhân dân và “kratos” có nghĩa là quyền
lực. “Demokratia” hiểu một cách đơn giản là quyền lực thuộc về nhân dân
hay nhân dân làm chủ quyền lực.
Dân chủ có quá trình tiến hóa lâu dài thể hiện khát vọng của nhân dân
được làm chủ vận mệnh, làm chủ quyền lực xã hội của mình. Sự phát triển
của dân chủ phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế xã hội, năng lực nhận
thức cửa công dân và chính quyền, truyền thống lịch sử văn hóa,...
Qua mỗi thời đại khác nhau, khái niệm “dân chủ” ngày càng phong phú
hơn, mang những đặc trưng về hình thức, nội dung và bản chất của thời đại.
Theo từ điển bách khoa Việt Nam thì “Dân chủ, hình thức tổ chức thiết
chế chính trị của xã hội dựa trên việc thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của
quyền lực, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do. Dân chủ cũng được vận
dụng vào tổ chức và hoạt động của những tổ chức thiết chế chính trị nhất
định” [45,tr.653]

23


Theo tác giả, dân chủ là sản phẩm của xã hội loài người, của quá trình

đấu tranh giai cấp, là tiêu chí để đánh giá cách thức, trình độ tổ chức và thực
hiện quyền lực nhà nước đảm bảo quyền lực nhà nước thuộc về bộ phận dân
cư sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội. Song vấn đề dân chủ luôn là
vấn đề phức tạp, có nội dung rộng lớn, gắn với những tiến bộ về lịch sử, văn
hóa của loài người nên khi xem xét, nghiên cứu về dân chủ cần tìm hiểu nó ở
nhiều góc độ khác nhau.
2.1.1.2. Khái niệm dân chủ xã hội chủ nghĩa
Dân chủ là khát vọng được làm chủ quyền lực, là quyền tự nhiên của con
người. Song, các chế độ dân chủ trước đây chỉ là dân chủ cho thiểu số giai cấp
bóc lột còn đa số nhân dân lao động thì không có quyền dân chủ. Chỉ đến khi
nền dân chủ vô sản - dân chủ XHCN ra đời thì quyền lực của người dân mới
ngày càng được thực hiện đầy đủ trong thực tiễn bởi vì đó là nền dân chủ của
đa số nhân dân với sự đảm bảo thực hiện dưới pháp luật của nhà nước pháp
quyền XHCH của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân trên nền tảng của chế
độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất chủ yếu.
Dân chủ XHCN ra đời là một hiện tượng hợp quy luật, là bước phát triển
cao hơn về chất so với các kiểu dân chủ khác. Đó là nền dân chủ được xây
dựng và hình thành trong tiến trình xây dựng CNXH mang bản chất giai cấp
công nhân, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản để thực hiện và đảm bảo
quyền là chủ thực sự của đông đảo quần chúng nhân dân trong xã hội.
Nền dân chủ XHCN khẳng định quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân
lao động, nhân dân tự tổ chức quyền lực của nhà nước qua bầu cử, tham gia
quản lý và quyết định những vấn đề quan trọng, kiểm tra, giám sát hoạt động
của nhà nước thông qua hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện.
Chủ nghĩa Mác- Lênin cũng đã từng khẳng định rằng dân chủ vô sản
không chỉ là công cụ, phương tiện để phát huy tính sáng tạo của quần chúng
mà còn là bản chất tồn tại của nhà nước XHCN. Chế độ dân chủ XHCN là

24



×