Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

LSNN PL a Phân tích cơ sở tư tưởng cho sự ra đời và phát triển của nhà nước phong kiến Trung Quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.98 KB, 6 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Nhà nước ra đời là sự đánh dấu một bước phát triển to lớn trong lịch sử loài
người. Lần đầu tiên nguyên tắc bình đẳng trong xã hội nguyên thủy bị phá vỡ, nhà nước
đã hình thành và đưa con người tiến tới một xã hội văn minh, tiến bộ hơn. Khi nhà nước
ra đời kéo theo sự ra đời của pháp luật – công cụ để giai cấp thống trị quả lý xã hội. Mỗi
xã hội đều có hệ thống pháp luật đặc trưng riêng, gắn liền với lợi ích của giai cấp thống
trị.Mỗi nhà nước ra đời đều kèm theo sự ra đời của tư tưởng thống trị xã hội. So với
pháp luật – nhà nước trung cổ phương Đông, luật pháp – nhà nước phong kiến Trung
Quốc tương đối phát triển. Để hiểu thêm về nội dung và tư tưởng của nhà nước và pháp
luật phong kiến Trung Quốc em xin chọn đề tài: “Phân tích cơ sở tư tưởng cho sự ra đời
và phát triển của nhà nước phong kiến Trung Quốc”.
NỘI DUNG
1. Khái quát về nhà nước phong kiến Trung Quốc
Trên cơ sở mô hình các quốc gia cổ đại phương Đông, Trung Quốc vào thế kỉ
cuối công nguyên do sự phát triển của sản xuất, xã hội phân hóa giai cấp nên chế độ
phong kiến ở đây đã hình thành sớm. Nhà Tần đã khởi đầu xây dựng chính quyền phong
kiến, hoàng đế có quyền quyệt đối. Kinh tế phong kiến Trung Quốc chủ yếu là nông
nghiệp phát triển thăng trầm theo sự hưng thịnh của các vương triều. Cuối thời Minh –
Thanh đã xuất hiện mầm mống quan hệ sản xuất TBCN nhưng nó không phát triển
được. Trên cơ sở những điều kiện kinh tế xã hội mới, kế thừa truyền thống của nền văn
hóa cổ đại, nhân dân Trung Quốc đã đạt được nhiều thành tựu văn hóa rực rỡ. Nhà nước
và pháp luật hình thành phát triển với quy mô lớn.
Trải qua các triều đại Tần, Hán, Tùy, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh. Trong
mỗi triều đại, tuy có sự khác nhau về cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước song ngay từ đầu
và trong suốt quá trình tồn tại luôn là chính thể quân chủ chuyên chế và qua mỗi triều
đại lại ngày được hoàn thiện. Cùng với đó là sự phát triển của tư tưởng nho giáo luôn
được các giai cấp thống trị Trung Quốc sử dụng như một tư tưởng để xây dựng nhà
nước và pháp luật.
Nho giáo ( 儒 教 ), còn gọi là đạo Nho hay đạo Khổng là một hệ thống đạo
đức, triết lý và học thuyết chính trị do Đức Khổng Tử đề xướng và được các môn đồ của
ông phát triển để xây dựng một xã hội thịnh trị. Nho giáo rất có ảnh hưởng tại ở các


nước châu Á là Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Triều Tiên, Hàn Quốc và Việt Nam.
Những người thực hành theo các tín điều của Nho giáo được gọi là các nhà
Nho hay Nho sĩ hay nho sinh.
I.

1


2.Cơ sở tư tưởng (Nho giáo) cho sự ra đời và phát triển của nhà nướcTrung Quốc.
Lúc mới ra đời học thuyết chính trị nho giáo chưa được trọng dụng.Người sang
lập ra nho giáo là Khổng Tử. Khổng tử, mười mấy năm bôn ba, đi hết nước này đến nước
kia, chỉ cầu sao cho có ông vua nào dùng mình, vì ông tin rằng nếu có ông vua nào dùng mình
thì chỉ vài năm thôi, ông sẽ làm cho nước đó cường thịnh. Nhưng thực tế thầy trò ông, đi hết
nước này đến nước nọ, tìm cách này hay cách nọ để truyền đi bản ý của ngài đến các ông vua,
cố tìm cách để cho họ dùng mình nhưng rốt cục ngài đã thất bại. Có lần ông và học trò còn bị
vây khốn suýt chết ở nước Trần và Thái vì họ cho rằng, ông có tài như vậy, nếu đến giúp nước
nào thì nước đó mạnh lên thì họ sẽ nguy mất.
“Chính giả, chính dã” là một châm ngôn bất hủ của Khổng tử. Nghĩa là muốn được
chính danh thì lời nói và hành động phải đúng đắn. Muốn làm bậc chính danh quân tử thì lời
nói và hành động phải đúng đắn. Nói suông e không được đâu! Lời nói và việc làm có đúng
đắn thì người mới theo về.
Chừng nào mà vua còn làm tròn thiên mệnh, nhân dân dưới quyền cai trị của vua được
hưởng hòa bình và hạnh phúc thì đó là vua hiền, con người vua là thiêng liêng và bất khả xâm
phạm. Muốn như vậy ông vua, chẳng hạn, còn phải siêng năng lên nữa để làm tròn trách nhiệm
của một ông vua. Trái lại, nếu đó là một ông vua ác độc, mà sự cai trị hà khắc làm cho nhân dân
điêu đứng khổ sở, thì tức là ông vua ác đó đã đánh mất chính danh và có thể sẽ bị mất luôn ngôi
vua và mệnh trời và nhân dân có quyền chính đáng nổi dậy, lật đổ ông vua ác độc đó và cử
người khác lên thay thế. Thay bậc đổi ngôi cũng là do mệnh trời. Nếu cuộc khởi nghĩa thành
công, một ông vua khác lên thay, thì đó cũng hợp chính danh và hợp với mệnh trời. Nếu
không phải thì cuộc khởi nghĩa đó thất bại. Trường hợp của hai ông vua Kiệt, Trụ là điển hình

vì không làm tròn trách nhiệm của ông vua, để dân bị tai vạ, đối khổ cho nên mất danh phận
làm vua và mệnh trời rồi còn bị giết. Mạnh tử sau này bảo “Hại nhân, hại nghĩa là quân tàn tặc;
giết quân tàn tặc là giết một đứa thất phu, một tên dân quèn. Nghe nói giết một tên thất phu tên
là Trụ, chứ chưa nghe nói giết vua.”
Thời Hán Vũ Đế, Nho giáo trở thành công cụ sắc bén phục vụ cho nhà nước
phong kiến tập quyền, trở thành cơ sở lí luận và tư tưởng của chế độ phong kiến Trung
Quốc. Các quan niệm về quan hệ phục tùng giữa vua – tôi, chồng - vợ, cha – con là kỉ
cương của xã hội, là đạo đức phong kiến. Sau này học thuyết của Nho giáo trở nên bảo
thủ, ràng buộc tư tưởng tình cảm con người vào những khuôn khổ lỗi thời và kìm hãm
sự phát triển xã hội.Và các triều đại sau nay vẫn chủ yếu lấy đạo Nho để làm công cụ
điều chỉnh các mối quan hệ xã hội và để giữ vững chế độ phong kiến.
2


Lịch sử Trung Quốc ghi lại nhiều tấm gương các Nho sĩ tận tâm với đất nước như
vậy cũng bởi học thuyết này của Khổng Tử. Tiêu biểu là thừa tướng Văn Thiên Tường,
người lãnh đạo Nam Tống chống lại sự xâm chiếm của Mông Cổ. Lúc còn nhỏ, Văn
Thiên Tường chăm học, đọc nhiều sách và thích nhất là những câu chuyện nói về
"Trung thần ghĩa sĩ", tư tưởng yêu nước đã ăn sâu vào tâm hồn ông. Sau khi bị bắt, vua
Mông Cổ ra sức đem cả quyền thế và vũ lực để ép ông đầu hàng nhưng ông vẫn không
khuất phục. Sau khi bị hành quyết, mọi người đã phát hiện có một tờ giấy quấn quanh
đai lưng của thi thể ông, tờ giấy đã được viết thay cho lời trăn trối:"Chức vụ tôi là Tể
tướng, mà không cứu được xã tắc, ổn định thiên hạ, quân bại nước nhục, tội đáng chết
từ lâu. Từ ngày bị bắt đến nay, không làm điều gì gian dối. Ngày nay cơ sự thế này, xin
hướng về phương Nam lạy trăm lạy. Xin được nói: Khổng Tử nói muốn có nhân đức
phải giữ nghĩa, tôi giữ nghĩa đến cùng nên có nhân. Đọc sách thánh hiền, học được
chuyện gì? Đó là làm gì cũng đừng để ngày nay, ngày sau phải hổ thẹn. Tống thừa
tướng Văn Thiên Tường tuyệt bút".
Như vậy, Nho giáo, mặc dù có ít nhiều thay đổi qua các thời đại, vẫn là công cụ
tinh thần để bảo vệ chế độ phong kiến. Nho giáo, một mặt đề xướng con người phải tu

thân, rèn luyện đạo đức phẩm chất; mặt khác, giáo dục con người phải thực hiện đúng
bổn phận đối với quốc gia là trung quân. Đồng thời, Nho giáo cũng buộc con người phải
giữ chữ hiếu và người cha là người có vai trò quyết định nhất trong gia đình.
3. Cơ sở tư tưởng (Nho giáo) cho sự ra đời và phát triển của pháp luật Trung Quốc
thời phong kiến
Pháp luật phong kiến là pháp luật nho giáo: Thể hiện tất cả các quan điểm đạo đức
lễ nghi nho giáo được thể chế hóa vào trong pháp luật là những đặc trưng quan trọng của
pháp luật phong kiến Trung Quốc. Pháp luật Trung Quốc có sự kết hợp giữa đức và pháp
giữa lễ và hình. Luật công có xu hướng phát triển hơn so với luật tư.
3.1 Pháp luật phong kiến Trung Quốc là sự kết hợp giữa lễ và hình
Lễ là nguyên tắc xử sự của con người thuộc các đẳng cấp khác nhau trong các
quan hệ xã hội. Lễ là nội dung trọng tâm của nho giáo. Lễ giáo phong kiến xác lập và
củng cố mối quan hệ tam cương, ba mối quan hệ cơ bản trong xã hội, quan hệ vua tôi,
quan hệ cha mẹ - con cái, quan hệ chồng - vợ. Đó là trật tự của xã hôi phong kiến. Hình
là hình phạt hay nói rộng ra là pháp luật.
Từ nhà Hán trở về sau, đặc biệt là từ đời Hán Vũ Đế, ông chủ trương sử dụng nho
giáo để quản lí nhà nước và biến nho giáo thành quốc giáo thì lễ- nội dung trọng tâm của
nho giáo trở thành hệ tư tưởng chủ đạo trong xã hội phong kiến. Lễ kết hợp với hình luật
3


để chủ trương xây dựng và thực thi pháp luật. Trong mối quan hệ giữa lễ và hình thì các
nguyên tắc của lễ làm sự chỉ đạo, còn lễ mượn sự cưỡng chế của hình để duy trì. Thực
hiện chủ trương kết hợp lễ và hình, nhà nước phong kiến Trung Quốc áp dụng các
nguyên tắc: Đức chủ hình phụ, Lễ pháp tịnh dụng.
Nhà nước phong kiến Trung Quốc còn sử dụng nguyên tắc “tam cương ngũ
thường” của nho gia làm chủ đạo. Tam cương là nội dung cơ bản trong giáo lí của đạo
nho và được pháp luật bảo vệ bằng việc quy định 10 trọng tội (thập ác). Trong đó các tội
trái với đạo hiếu có 6 tội (ác nghịch, bất đạo, bất hiếu, bất mục, bất nghĩa, nội loạn). Các
tội bất trung với hoàng quyền phong kiến có 4 tội (mưu phản quốc, mưu đại nghịch, mưu

phản loạn, đại bất kính). Trong quan hệ hôn nhân theo giáo lí đạo Nho và cũng là theo
luật pháp quy định, người chồng có quyền li dị vợ nếu người vợ chỉ cần phạm một trong
7 điều sơ suất (thất suất): không con, dâm dật, không phụng sự cha mẹ chồng, miệng lưỡi
nói năng lung tung, trộm cắp, ghen tuông, ác tật. Luât pháp từ Hán đến Đường, Tống,
Nguyên, Minh, Thanh đều “nhất chuẩn hồ lễ” (chỉ lấy lễ làm chuẩn). Hay nói cách khác
luật pháp luôn luôn củng cố và bảo vệ lễ giáo phong kiến, trật tự của đẳng cấp của xã hội
phong kiến, chính thể quân chủ chuyên chế phong kiến.
Tuy nhiên, việc dùng lễ đã gây ra việc áp dụng pháp luật không thống nhất. Xuất
hiện hiện tượng “tội đồng luận dị” (tội giống nhau nhưng lí luận khác đi dẫn đến hình
phạt cũng khác nhau) Và do vậy, tệ quan lại xét xử một cách võ đoán hoành hành. Các
quan lại tùy tiện trong cách xét xử, có điều kiện phát sinh tiêu cực. Điển hình là Đổng
Trọng Thư chủ trương dùng sách “Xuân Thu” của Khổng tử để làm cơ sở cho việc xử án.
3.2 Pháp luật phong kiến Trung Quốc là sự kết hợp giữa đức trị và pháp trị,
giữa quy phạm pháp luật với quy phạm đạo đức.
Để cai trị dân giai cấp thống trị có trăm ngàn biện pháp. Trong xã hội phong kiến
Trung Quốc đã tồn tại hai quan điểm đối lập nhau đó là: Quan điểm của Pháp gia và quan
điểm của Nho gia. Hai quan điểm này như hai sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình tồn tại và
phát triển của xã hội phong kiến Trung Quốc. Từ đó đặt ra câu hỏi nên dùng pháp luật
mà trừng trị ? Hay nên dùng đạo đức mà giáo dục. Quan điểm của hai trường phái này
được thể hiện tương ứng qua hai học thuyết pháp trị và đức trị.
Ở Trung Quốc, tư tưởng pháp trị được biểu hiện đầu tiên trong một câu nói của
Quản Trọng - tướng quốc của Tề Hoàn Công vào khoảng đầu thời Xuân Thu: “vua - tôi,
trên - dưới, sang - hèn đều tuân theo pháp luật cả, thế gọi là đại trị”. Sau những nguyên lí
4


đức trị của Khổng Tử được đề ra, đã xuất hiện từng bước những bất đồng về chính trị
giữa “đức trị” và “pháp trị.
Tóm lại, trong suốt thời kì phong kiến Trung Quốc đức trị và pháp trị đã cùng
tồn tại với nhau, tương hỗ nhau. Tuy nhiên, ở mỗi giai đoạn khác nhau thì mức độ ảnh

hưởng của hai học thuyết này có khác nhau. Nhìn chung thì nho giáo giữ vị trí thượng
tôn, pháp trị vẫn được áp dụng nhưng không thể hiện một cách công khai.
Pháp trị là tư tưởng chủ đạo và thực hành ở thời kì chiếm hữu nô lệ (cụ thể là
thời xuân thu chiến quốc) và ở buổi ban đầu của chế độ phong kiến trung Quốc (malan)
còn chức vụ ( của nho giáo) là tư tưởng chủ đạo thịnh hành gần như suốt trong chế độ
phong kiến (từ Hán đến Thanh). Và đương nhiên trong suốt quá trình đó tư tưởng pháp
trị trong một chừng mực nhất định đã được lồng ghép và hòa trộn vào đức trị. Pháp trị
hay đức trị đều cùng một bản chất, đó chỉ là những biện pháp cai trị khác nhau, chỉ là sự
khác nhau về việc áp dụng pháp luật.
II.
KẾT BÀI
Trải qua lịch sử hàng nghìn năm với nhiều thời đại hưng thịnh, suy tàn thế nhưng
Trung Quốc vẫn đứng vững. Nhà nước và pháp luật chính là diện mạo của một quốc gia,
một dân tộc. Thông qua việc nghiên cứu cơ sở tư tưởng cho sự ra đời và phát triển của
nhà nước và pháp luật phong kiến Trung Quốc chúng ta có thể thấy sự ảnh hửng của tư
tưởng Nho giáo đối với sự phát triển của Trung Quốc thời phong kiến.Nó là công cụ để
nhà nước tổ chức quản lí xã hội và điều chỉnh các mối quan hệ trong xã hội hình thành
nên nền tảng quan trọng để xây dựng một đất nước Trung Quốc thời phong kiến vững
mạnh và hưng thịnh.

5


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Lịch Sử Nhà Nước và Pháp Luật Thế Giới, Trường Đại Học Luật Hà
Nội, Nxb CAND, Hà Nội, 2010.
2. Ngô Vinh Chính, Đại cương lịch sử văn hóa Trung Quốc, Nxb Văn hóa thông tin,
1994.
3. />
6




×