Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

skkn vận dụng sơ đồ tư duy từ phần mềm mind manager vào dạy và học môn GDQP AN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (819.66 KB, 16 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
Trường THPT NGUYỄN TRÃI
Mã số:

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
VẬN DỤNG SƠ ĐỒ TƯ DUY TỪ PHẦN MỀM MINDMANAGER
VÀO DẠY VÀ HỌC MÔN GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG AN NINH

Người thực hiện: LÊ NGỌC THÀNH LONG
Lĩnh vực nghiên cứu: Giáo Dục Quốc Phòng và An Ninh
Phương pháp giảng dạy bộ môn: Giáo Dục Quốc Phòng và An Ninh

Có dính kèm:
 Mô hình

 Đĩa CD(DVD)

 Phim ảnh

Năm học: 2014 – 2015

 Hiện vật khác


SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC
I.

THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN:

1. Họ và tên: LÊ NGỌC THÀNH LONG
2. Ngày tháng năm sinh: 27/05/1983


3. Nam, nữ: Nam
4. Địa chỉ: Trường THPT Nguyễn Trãi. KP9, P. Tân Biên, Biên Hòa, Đồng Nai
5. Điện thoại: CQ: 0613. 884351 ; DĐ: 0918. 565455
6. Fax:

E-Mail:

7. Chức vụ: Giáo viên
8. Nhiệm vụ được giao : Giảng dạy Thể dục và GDQP-AN
9. Đơn vị công tác: Trường THPT Nguyễn Trãi
II.

TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO:

-

Học vị (hoặc trình độ chuyên môn, nghiệp vụ) cao nhất: Thạc sỹ

-

Năm nhận bằng: 2014

-

Chuyên ngành đào tạo: Giáo dục thể chất, GDQPAN

III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC:
-

Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Môn Thể Dục, GDQPAN


-

Số năm có kinh nghiệm: 09 năm

-

Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây:
+ Giảng dạy môn GDQP-AN theo hình thức tổ chức thực hiện dự án
(NH:2011-2012)
+ Tổ chức chương trình “một ngày làm chiến sĩ” cho học sinh trường THPT
Nguyễn Trãi (NH: 2012-2013)


VẬN DỤNG SƠ ĐỒ TƯ DUY TỪ PHẦN MỀM MINDMANAGER
VÀO DẠY VÀ HỌC MÔN GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG AN NINH
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Giáo dục quốc phòng an ninh (GDQP-AN) là môn học nằm trong chương
trình dạy học của các trường THPT và là một bộ phận quan trọng của công tác giáo
dục quốc phòng toàn dân. Môn học này còn có tác dụng rèn luyện tác phong
nghiêm túc, tinh thần đoàn kết, ý thức tổ chức kỷ luật trong học sinh.
Chỉ thị 12 CT/TW ngày 3/5/2007 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác quốc phòng - an ninh trong tình hình mới; Nghị định
116/2007/NĐ-CP của Chính phủ ngày 10/7/2007 về công tác giáo dục quốc phòng
- an ninh; Chỉ thị số 57/2007/BGD&ĐT ngày 4/10/2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo
dục & Đào tạo về việc tăng cường công tác giáo dục quốc phòng - an ninh trong
ngành giáo dục; Công văn số 8468/BGDĐT-GDQP ngày 25/11/2013 về việc cử
giáo viên đi đào tạo văn bằng 2 GDQP-AN năm 2014.
Để nâng cao chất lượng dạy và học môn Giáo dục Quốc phòng và An Ninh
trong nhà trường, các đơn vị trường học và cơ sở giáo dục cần nghiêm túc thực

hiện các văn bản, chỉ thị trên bắt đầu từ việc xác định đúng đắn vai trò, vị trí của
môn học này trong nhà trường.
Từ đó có những biện pháp tương ứng, phù hợp. Cần triển khai và tổ chức thực
hiện chương trình SGK Giáo dục Quốc phòng và An Ninh do Bộ GD&ĐT ban
hành từ năm 2007, thực hiện hình thức dạy và học theo phân phối chương trình
thay hình thức dạy học tập trung trong một thời gian ngắn. Cần nhanh chóng có kế
hoạch tuyển dụng, bồi dưỡng tiến tới chuẩn hóa đội ngũ giáo viên dạy môn
GDQPAN theo đúng quy định.
Qua những tiết giảng thực tế tôi nhận thất môn học này cần được sự quan tâm
đầu tư của các cấp lãnh đạo và chính bản thân người giáo viên cần phải nắm vững
những mục đích yêu cầu của từng bài học, chú trọng thục luyện kỹ giáo án từ đó có
những phương pháp giảng dạy mới phù hợp với đối tượng học sinh
Qua các thực trạng trên, bằng kinh nghiệm thực tiễn của mình trong quá trình
giảng dạy môn học này tôi xin chia sẻ một số kinh nghiệm về phương pháp giảng
dạy đổi mới.
-1-


II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Cơ sở lý luận
Từ lâu các nhà sư phạm tiền bối đã từng tâm đắc: tri thức của tuổi trẻ là diện
mạo của đất nước trong tương lai.Từ những năm 60 của thế kỉ trước đồng chí
Phạm Văn Đồng đã từng căn dặn thầy giáo phải: “ gõ vào trí thông minh” của học
sinh, giáo dục là đào tạo học sinh thành những thế hệ thông minh sáng tạo. Sự
thông minh sáng tạo phải xuất phát từ những hiểu biết rộng lớn, nó tạo cho nền
tảng tư duy được vững vàng hơn. Phải hiểu rộng, biết nhiều mới có thể chuyên sâu,
mới“ làm được cuộc trường chinh vạn dặm trên con đường học vấn”. Muốn được
như vậy, thì ngay hôm nay, những người thầy giáo phải tích cực, chủ động vận
dụng những thành tựu dạy học tiên tiến của loài người vào giảng dạy cho học sinh,
trong đó sơ đồ tư duy là một cách dạy học mới dựa trên cơ sở sơ đồ hóa kiến thức

mà từ trước đến nay chúng ta vẫn vận dụng để phân tầng kiến thức, hệ thống chuỗi
sự kiện hoặc thiết lập biểu bảng ôn tập tổng kết….
Mặt khác, nhiều công trình nghiên cứu đã cho thấy tính hiệu quả của việc
hình dung tri thức thông qua một sơ đồ hình nhánh, mỗi nhánh mang một thông tin
ngắn gọn được phát triển từ một vấn đề lớn đặt ở trung tâm.. Một sơ đồ tư duy cho
phép ta thỏa sức vạch ra các ý tưởng, suy nghĩ đầy đủ trước khi đưa ra một quyết
định. Nếu cần xây dựng một kế hoạch làm việc, phân tích một vấn đề…thì sơ đồ tư
duy mang đến những giá trị lớn hơn nhiều so với việc bạn đặt bút viết từ đầu đến cuối.
2. Cơ sở thực tiễn
Để đáp ứng những yêu cầu đổi mới về phương diện phương pháp, đáp ứng tốt
hơn Chuẩn kiến thức và kĩ năng quy định thì việc làm phong phú, sinh động, khắc
sâu đề tài…bằng một kỹ thuật mới đó là tổ chức các đơn vị kiến thức trên hệ thống
sơ đồ, ta vẫn gọi là sơ đồ tư duy, hay bản đồ tư duy . Nó không chỉ giúp cho học
sinh có sự hiểu biết sâu rộng, dễ tái hiện kiến thức mà còn góp phần chắp cánh cho
những phương pháp dạy học đặc trưng của bộ môn này. Đồng thời, tạo hứng thú để
học sinh tham gia học tập tích cực, kiểu như: “ có thích mới nhích tư duy”.
Thực tế vận dụng sơ đồ tư duy vào một số tiết dạy ở bộ môn GDQP-AN,
chúng tôi thấy nó đã đem lại những hiệu quả nhất định. Để tiến đến sử dụng sơ đồ
-2-


tư duy lâu dài và đem lại hiệu quả tối ưu, chúng tôi tiến hành tìm hiểu, nghiên cứu
những cơ sở khoa học của nó và vận dụng cho phù hợp với đặc trưng của bộ môn
GDQP-AN. Do đó, chúng tôi chọn đề tài cho Sáng kiến kinh nghiệm này là : “Vận
dụng sơ đồ tư duy từ phần mềm Mind Manager vào dạy và học môn GDQP-AN”
Mong rằng với những kinh nghiệm này có thể giúp quý đồng nghiệp ít nhiều trong
việc làm phong phú thêm phương pháp, kĩ thuật dạy học môn GDQP-AN, đồng
thời chúng tôi rất mong có sự góp ý chân thành của quý vị để đề tài này được sâu
sắc hơn về giá trị khoa học và tính hiệu dụng của nó.
III. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN

1. Thuận lợi :
- Bản thân tôi được nhà trường tạo điều kiện giảng dạy và huấn luyện trực
tiếp môn GDQP –AN , là giáo viên chuyên trách môn học này
- Được lãnh đạo Sở GDĐT tỉnh Đồng Nai tin tưởng chọn vào hàng ngũ giáo
viên cốt cán bộ môn GDQP-AN của tỉnh nhà, hàng năm được chọn, cử tham dự
các lớp tập huấn giáo viên cốt cán do Bộ GDĐT tổ chức, là báo cáo viên nhiều
năm vào các dịp tập huấn kiến thức GDQP-AN cho giáo viên toàn tỉnh.
- Bên cạnh đó, tôi cũng rất may mắn được sự đồng tình và giúp đỡ, động viên
hết sức nhiệt tình của Ban giám hiệu nhà trường và của bạn bè đồng nghiệp.
- Giờ dạy môn GDQP-AN thực sự mang lại cho tôi sự cảm hứng và muốn tìm
tòi, học hỏi nhiều hơn nữa.
2. Khó khăn :
- Trang thiết bị đồ dùng dạy học cũng còn hạn chế.
- Thực tế trong nhà trường hiện nay nhiều giáo viên đã tích cực ứng dụng
công nghệ thông tin, những tìm tòi trong công tác soạn giảng và tiếp cận lượng lớn
tư liệu dạy học. Tuy vậy về phương diện phương pháp và kĩ thuật vẫn còn nhiều
hạn chế nhất là cách thức giúp học sinh hiểu vấn đề nhanh, nhớ kiến thức lâu và tái
hiện nhanh khi cần thiết vận dụng.
-Tình trạng học sinh học vẹt để đối phó trong kiểm tra đánh giá hiện nay một
phần do các em hiểu vấn đề chưa tường tận hoặc bị ràng buộc bỡi “hành lang ngôn
ngữ diễn đạt” mà giáo viên đã sử dụng, các em không tự tin khi dùng kho từ vựng
-3-


của mình để diễn đạt, do không sử dụng nên nó cũng dễ mai một và ngày một ít
sắc bén hơn. Đặc biệt với môn GDQP-AN thì đây là một hạn chế lớn, khi nói, viết
được xem là yêu cầu quan trọng của học sinh
- Xuất phát từ thực tiễn dạy học ở địa phương nhiều năm qua: giáo viên chưa
thật sự quan tâm trong việc hình hóa kiến thức bài học. Trước đây, các tiết học
một số GV cũng đã lập bảng biểu, vẽ sơ đồ, biểu đồ,… và cả lớp có chung cách

trình bày giống như cách của giáo viên hoặc của tài liệu, chứ không phải do học
sinh tự xây dựng theo cách hiểu của mình, hơn nữa, các bảng biểu đó chưa chú ý
đến hình ảnh, màu sắc và đường nét.
- Giáo viên trình bày kiến thức chính xác phong phú, sinh động nhờ sự hỗ trợ
nhiều về yếu tố trực quan do công nghệ thông tin mang lại nhưng vẫn chưa đưa sơ
đồ tư duy vào sử dụng đại trà để học sinh học tập hiệu quả hơn. Nhiều phương
pháp kích thích sự chủ động sáng tạo ở học sinh chưa được phát huy tối đa vì thiếu
thao tác sơ đồ hóa hoặc sử dụng với mật độ thấp.
- Chưa đổi mới cách ghi chép nội dung kiến thức bài học, theo kiểu kích thích
tư duy mà chủ yếu là quan tâm đến độ chuẩn của nội dung ghi. Do vậy, dù ở lớp
học sinh tích cực chủ động để phát hiện hiểu kiến thức nhưng khi học bài cũ ở nhà
thì rất thụ động.
- Để có kết quả học tập tốt, ở một số bộ môn học sinh phải học vẹt vì phải
nhớ kiến thức để trả lời câu hỏi mà theo các em, nội dung ghi của giáo viên là
chuẩn, là cách diễn đạt tốt nhất. Chính điều này dẫn đến hiện tượng học sinh học
thuộc để trả lời, đó cũng là nguyên nhân học vẹt ở học sinh
- Một phần rất quan trọng, để trả lời câu hỏi: Tại sao lập sơ đồ để dạy học là
chuyện rất cũ mà trước đây giáo viên ít mạnh dạn vận dụng? Có lẽ một phần do
giáo viên ngại ghi chép theo kiểu vắn tắt, chẳng ngay hàng thẳng lối, thoát khỏi
quy củ đề mục, mặc dù giáo viên nào cũng có thể hình dung được kiến thức có thể
thiết lập trên một sơ đồ. Nếu ai đó đã mạnh dạn làm việc này với tư cách là hoạt
động trung tâm của tiết học thì chưa chắc đã được công nhận là một tiết dạy tốt.
Phải chăng trước đây ta đã có sơ đồ nhưng ta chưa thật sự đổi mới tư duy.

-4-


IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP
Người thầy dạy học muốn học sinh học tích cực thì mình cũng phải dạy tích
cực. Xuất phát từ những nguyên nhân và thực trạng vừa phân tích trên, một vấn đề

đang đặt ra : làm thế nào để một tiết dạy GDQPAN thật sự lôi cuốn, hấp dẫn, tạo
hứng thú khơi gợi sự tìm tòi, khám phá những điều mới lạ ngoài sách giáo khoa.
Đồng thời, học sinh nắm vững kiến thức chuẩn trong sách giáo khoa để học tập và
ứng dụng trong thực tế hằng ngày cũng như tiếp tục tiếp thu sau này với những
kiến thức GDQP – AN ở các bậc học cao hơn, sẵn sàng ứng phó khi đất nước có
chiến tranh xảy ra. Giáo viên phải dạy tích cực và nên vận dụng sơ đồ tư duy vào
như một phương pháp quen thuộc trong nhiều tiết dạy.
Hơn nữa, việc vận dụng sơ đồ tư duy còn là một chủ trương trong tiến trình
đổi mới dạy học của ngành Giáo dục, nên đưa ra một cách thức tiếp cận và vận
dụng cho bộ môn GDQP-AN lúc này là cần thiết để quý đồng nghiệp chia sẻ và
đóng góp. Do đó, tôi đề xuất một số giải pháp cho việc thực hiện đề tài.
1. Sơ đồ tư duy (SĐTD) là gì?
Sơ đồ tư duy hay còn gọi là bản đồ tư duy là một hình thức ghi chép sử
dụng màu sắc, hình ảnh để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. Kỹ thuật tạo ra loại
bản đồ này được phát triển bởi Tony Buzan vào những năm 1960. Sơ đồ tư duy có
cấu tạo như một cái cây có nhiều nhánh lớn, nhỏ mọc xung quanh. “Cái cây” ở
giữa sơ đồ là một ý tưởng chính hay hình ảnh trung tâm. Nối với nó là các nhánh
lớn thể hiện các vấn đề liên quan với ý tưởng chính. Các nhánh lớn sẽ được phân
thành nhiều nhánh nhỏ, rồi nhánh nhỏ hơn, nhánh nhỏ hơn nữa nhằm thể hiện chủ
đề ở mức độ sâu hơn. Sự phân nhánh cứ thế tiếp tục và các kiến thức, hình ảnh
luôn được nối kết với nhau. Sự liên kết này tạo ra một “bức tranh tổng thể” mô tả ý
tưởng trung tâm một cách đầy đủ và rõ ràng.
2. Sơ đồ tư duy có ích lợi gì ?
Bản thân thiên nhiên đã phát triển thật hoàn hảo: cân đối, vững vàng, đa
dạng. Một sơ đồ tư duy cho phép chúng ta thoả sức vạch ra các ý tưởng, suy nghĩ
đầy đủ trước khi đi đến một quyết định. Nếu cần xây dựng một kế hoạch làm việc,

-5-



phân tích một vấn đề v.v...thì sơ đồ tư duy mang đến những giá trị lớn hơn nhiều
việc bạn đặt bút viết tuần tự từ đầu đến cuối trang giấy:
* Khuyến khích làm giảm sự miêu tả của mỗi ý, mỗi khái niệm xuống thành
một từ (hay từ kép).
* Toàn bộ ý của sơ đồ có thể "nhìn thấy" và nhớ bởi trí nhớ hình ảnh
* Sáng tạo các bài viết và các bài tường thuật.
* Là phương tiện cho học tập hay tìm hiểu sự kiện.
Có thể tóm lược tác dụng mà dạy học với SĐTD mang lại như sau:

3. Một số hướng dẫn khi tạo sơ đồ tư duy
1. Bắt đầu từ trung tâm với hình ảnh của chủ đề. Tại sao lại phải dùng hình
ảnh? Vì một hình ảnh có thể diễn đạt được cả ngàn từ và giúp HS sử dụng trí tưởng
-6-


tượng của mình. Một hình ảnh ở trung tâm sẽ giúp chúng ta tập trung được vào chủ
đề và làm cho chúng ta hưng phấn hơn.
2. Luôn sử dụng màu sắc. Bởi vì màu sắc cũng có tác dụng kích thích não như
hình ảnh
3. Nối các nhánh chính (cấp một) đến hình ảnh trung tâm, nối các nhánh
nhánh cấp hai đến các nhánh cấp một, nối các nhánh cấp ba đến nhánh cấp hai,....
bằng các đường kẻ. Các đường kẻ càng ở gần hình ảnh trung tâm thì càng được tô
đậm hơn, dày hơn. Khi chúng ta nối các đường với nhau, bạn sẽ hiểu và nhớ nhiều
thứ hơn rất nhiều do bộ não của chúng ta làm việc bằng sự liên tưởng
4. Mỗi từ / ảnh/ ý nên đứng độc lập và được nằm trên một đường kẻ
5. Tạo ra một kiểu bản đồ riêng cho mình (Kiểu đường kẻ, màu sắc,...)
6. Nên dùng các đường kẻ cong thay vì các đường thẳng vì các đường cong
được tổ chức rõ ràng sẽ thu hút được sự chú ý của mắt hơn rất nhiều
7. Bố trí thông tin đều quanh hình ảnh trung tâm
4. Hướng dẫn sử dụng phần mềm tạo sơ đồ tư duy MindManager Pro 9.0:

Trong đĩa CD đính kèm (bao gồm Video và file word hướng dẫn)
5. Tổ chức các hoạt động dạy và học môn GDQP-AN bằng sơ đồ tư duy
(SĐTD): có thể tóm tắt như sau:
Hoạt động 1: Giáo viên (GV) trang bị hướng dẫn học sinh (HS) download
và bẻ khóa phần mềm Mindmanager Pro 9.0 và các file hướng dẫn. HS lập SĐTD
theo nhóm hay cá nhân từ gợi ý của GV ở nhà. GV có thể tạo nhánh cấp một để
gợi ý cho HS tiếp tục vẽ các nhánh ở cấp tiếp theo.
Hoạt động 2: Cá nhân hoặc đại diện của các nhóm HS lên báo cáo, thuyết
minh về SĐTD mà nhóm mình đã thiết lập.
Hoạt động 3: HS thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện SĐTD về kiến
thức của bài học đó. GV sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp HS hoàn chỉnh
SĐTD, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học.
Hoạt động 4: Củng cố kiến thức bằng một SĐTD mà GV đã chuẩn bị sẵn
hoặc một SĐTD mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh, chỉ định HS lên trình
bày, thuyết minh về kiến thức đó.
-7-


Lưu ý: Phần mềm Mind Manager Pro 9.0 tạo SĐTD là một sơ đồ mở nên không
yêu cầu tất cả các nhóm HS có chung một kiểu SĐTD, GV chỉ nên chỉnh sửa cho
HS về mặt kiến thức, góp ý thêm về đường nét vẽ, màu sắc và hình thức (nếu cần)
6. Vận dụng thiết lập SĐTD vào các bài học GDQPAN cụ thể
a. Vận dụng cho bài 4 lớp 11: “Giới thiệu súng tiểu liên AK và súng trường CKC” –
Tổ 1 lớp 11A1

-8-


b. Vận dụng cho bài 3 lớp 12: “Tổ chức Quân đội và Công an nhân dân Việt Nam” –
phần Quân đội nhân dân Việt Nam. – Tổ 1 lớp 12A3


-9-


+ Sau khi thuyết trình xong nếu cho lớp vỗ tay tán thưởng và giáo viên nhận
xét bài thuyết trình thì giờ học sẽ trở nên nhàm chán, sáo rỗng , không mang lại kết
quả toàn diện của bài học, và khả năng tiếp thu của các HS trong lớp cũng rất hạn
chế, thậm chí có HS không quan tâm tới bạn mình đã thuyết trình những gì
+ Để khắc phục được vấn đề này , người giáo viên đứng lớp phải khéo léo
khích lệ các em bằng biện pháp cụ thể, đó là: tổ chức cho các tổ khác nêu các câu
hỏi phản biện và những câu hỏi có liên quan đến bài thuyết trình (Ví dụ: Người có
đạo Thiên chúa giáo có được thi vào các trường Quân đội và Công an không? Hình
thức đăng kí nguyện vọng vào các trường thuộc khối Quân đội và Công an như thế
nào? Lực lượng An ninh khác lực lượng cảnh sát ở chỗ nào? Điểm giống và khác
nhau giữa học viện và đại học? ...) mà tổ thuyết trình mới thực hiện. Giáo viên
khích lệ những HS đặt câu hỏi cho tổ thuyết trình bằng những điểm cộng nhất định
+ Tổ thuyết trình sẽ hội ý và đưa ra câu trả lời đúng nhất (dưới sự giám sát
của Giáo viên)
+ Sau khi tổ thuyết trình trả lời thắc mắc cho bạn mình xong giáo viên sẽ
nhận xét câu trả lời
+ Bên cạnh đó khi tổ thuyết trình không trả lời được thắc mắc của các tổ
khác, giáo viên sẽ đứng ra giải đáp các thắc mắc này cho học trò.
+ Tiếp tục như vậy cho đến khi hết thời gian quy định.
+ Cuối giờ giáo viên cùng với các tổ khác nhận xét về phẩn thực hiện của tổ
vừa thuyết trình từ đó đánh giá kết quả.
V. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI
- Sử dụng SĐTD sẽ dễ dàng hơn trong việc phát triển ý tưởng, tìm tòi xây
dựng kiến thức mới. Nhờ sự liên kết các nét vẽ cùng với màu sắc thích hợp và cách
diễn đạt riêng của mỗi người, SĐTD giúp bộ não liên tưởng, liên kết các kiến thức
đã học trong sách vở, đã biết trong cuộc sống… để phát triển, mở rộng ý tưởng.

Sau khi HS tự thiết lập SĐTD kết hợp việc thảo luận nhóm dưới sự gợi ý, dẫn dắt
của GV dẫn đến kiến thức của bài học một cách nhẹ nhàng, tự nhiên;
- Giúp HS học tập một cách chủ động, tích cực và huy động được tất cả HS
tham gia xây dựng bài một cách hào hứng. Với sản phẩm độc đáo “kiến thức + hội
-10-


họa” là niềm vui sáng tạo hàng ngày của HS và cũng là niềm vui của chính thầy cô
giáo và phụ huynh HS khi chứng kiến thành quả lao động của học trò của mình.
Cách học này còn phát triển được năng lực riêng của từng học sinh không chỉ về trí
tuệ (vẽ, viết gì trên SĐTD), hệ thống hóa kiến thức (huy động những điều đã học
trước đó để chọn lọc các ý để ghi), khả năng hội họa (hình thức trình bày, kết hợp
hình vẽ, chữ viết, màu sắc), sự vận dụng kiến thức được học qua sách vở vào cuộc sống;
- Tổ thuyết trình tăng thêm tình đoàn kết, ý thức làm việc tập thể của các
thành viên, định hình cho các em hình thức học theo nhóm, học theo tổ, tự học, ý
thức tự lập, làm hành trang khi bước vào giảng đường đại học và ra xã hội;
- Khả năng tiếp thu thông tin vể bài học một cách tối đa, (kể cả những lớp
chọn và lớp bình thường);
- Dễ dàng tiếp cận với công nghệ thông tin ,học sinhcơ bản có thể tự soạn bài
bằng cách tìm các thông tin qua Internet và các hình ảnh liên quan. Giáo viên chỉ
làm công tác chủ đạo và giám sát nội dung bài;
- Cập nhật nhiều thông tin mới về GDQP – AN mà trong Sách giáo khoa
không đề cập tới;
- Đặc biệt, bản thân người giáo viên đã tự nâng cao kiến thức chuyên môn khi
tham gia cùng học sinh thuyết trình trong các tiết dạy. Sự bắt buộc phải xem bài kĩ,
hiểu thấu đáo nội dung và phương pháp truyền đạt để hướng dẫn, giải đáp, hỗ trợ
học sinh trong việc thực hiện bài học sẽ đem lại hiệu quả hơn một tiết học bình
thường. Điều này nâng cao cả vị thế người giáo viên lên hẳn một bậc về chuyên
môn lẫn phong cách sư phạm.
- Thay đổi được quan điểm cho rằng môn học GDQP – AN là một môn học

vừa khô vừa khó;
- Tạo nên sự yêu thích thật sự môn học GDQP – AN cho một số học sinh, cụ
thể các em đã hăng hái đăng kí tham gia được tham dự kiểm tra bắn đạn thật, Hội
thao GDQP – AN cấp trường, Hội thao GDQP – AN cấp tỉnh.
- Vận dụng SĐTD bước đầu tạo một không khí sôi nổi, hào hứng của cả thầy
và trò trong dạy học là một trong những nội dung quan trọng đóng góp vào phong
-11-


trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” mà Bộ GD&ĐT
đang đẩy mạnh triển khai;
- Phần mềm Mind Manager Pro 9.0 giúp tạo SĐTD một công cụ có tính khả
thi cao vì có thể vận dụng được với bất kì điều kiện cơ sở vật chất nào của các nhà
trường hiện nay. Có thể xuất thành quả của mình ra nhiều dạng file (word, hình
ảnh, trình chiếu….);
- Việc vận dụng SĐTD trong dạy học sẽ dần hình thành cho HS tư duy mạch
lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ thống,
khoa học. Sử dụng SĐTD kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực khác như
vấn đáp gợi mở, thuyết trình,… có tính khả thi cao góp phần đổi mới PPDH.
- Từ sự đam mê, yêu thích môn học GDQP – AN của học trò, đã đưa môn
học GDQP – AN không chỉ là một môn học như các môn học khác, mà cũng có thể
coi đó như là một hoạt động ngoại khóa, một hoạt động hướng nghiệp, một hoạt
động ngoải giờ lên lớp, một phong trào thi đua của trường , của tỉnh . . .
VI. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ VÀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG
1. Đề xuất:
- Phải khống chế thời gian tổ chức báo cáo của các tổ để đảm bảo thời gian
cho một tiết học
- Giáo viên cần lưu ý với tổ thuyết trình là chỉ thuyết trình chứ không phải
thực hiện giảng bài (không nêu câu hỏi liên quan đến nội dung của sách giáo khoa
để bạn mình đứng lên trả lời),

- Giáo viên phải thẩm định các nguôn thông tin của học sinh trong SĐTD
đảm bảo nguồn thông tin phải chính thống ,
- Giáo viên cần phải theo dõi các bước thực hiện của học sinh,
- Giáo viên phải luôn trau dồi trình độ chuyên môn, cập nhật thường xuyên
các thông tin về quốc phòng an ninh trong nước và ngoài nước (đây là yếu tố rất
cần thiết cho các giáo viên mới dạy bộ môn này)

-12-


2. Khuyến nghị khả năng áp dụng
- Cần trang nhiều hơn nữa hệ thống máy chiếu, phòng công nghệ thông tin,
phòng chức năng cho môn học;
- Thường xuyên có các buổi tọa đàm, trau đổi kinh nghiệm học tập, giảng dạy
môn học GDQP – AN đối với giáo viên ;
- Nâng cao trình độ vi tính cho giáo viên GDQP - AN để có thể tự soạn bài
bằng CNTT ;
- Nhận được sự quan tâm đúng mức hơn của lãnh đạo các cấp đối với môn
học GDQP – AN ;
- Có sự hỗ kịp thời từ nhà trường về kinh phí khi tổ chức Hội thao GDQP –
AN cấp trường và khi tham dự hội thao GDQP – AN cấp tỉnh.
VII. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bản đồ Tư duy trong công việc – Tony Buzan – NXB Lao động – Xã hội.
2. www.mind-map.com (trang web chính thức của Tony Buzan)
3. www.peterussell.com/mindmaps/mindmap.htm
4. Bài giảng của TS. Tống Xuân Tám – giảng viên trường Đại học Sư phạm
TP.HCM về Mind Mapping và các Kỹ năng soạn giảng bằng phần mềm Mind
Manager Pro 9.0
6. Hướng dẫn sử dụng phần mềm sơ đồ tư duy (xem phim minh họa trong đĩa CD)
7. Trần Đình Châu, Sử dụng Bản đồ tư duy – một biện pháp hiệu quả hỗ trợ

học sinh học tập Tạp chí Giáo dục, kì 2, tháng 9-2009.
8. Trần Đình Châu, Đặng Thị Thu Thủy; Bản đồ tư duy – công cụ hiệu quả hỗ
trợ dạy học và công tác quản lý nhà trường, Báo Giáo dục & Thời đại, số 147 ngày
14/9/2010.
Người thực hiện

Lê Ngọc Thành Long
-13-


SỞ GDĐT ĐỒNG NAI
Trường THPT NGUYỄN TRÃI
–––––––––––

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
––––––––––––––––––––––––
Nguyễn Trãi, ngày 25 tháng 04 năm 2015

PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Năm học: 2014 - 2015
–––––––––––––––––
Tên sáng kiến kinh nghiệm: Vận dụng sơ đồ tư duy từ phần mềm mindmanager vào dạy và học
môn giáo dục quốc phòng an ninh
Họ và tên tác giả: LÊ NGỌC THÀNH LONG

Chức vụ: Giáo viên

Đơn vị: Nhóm Thể dục, GDQPAN..
Lĩnh vực: (Đánh dấu X vào các ô tương ứng, ghi rõ tên bộ môn hoặc lĩnh vực khác)

- Quản lý giáo dục

- Phương pháp dạy học bộ môn: ............................... 
- Phương pháp giáo dục

- Lĩnh vực khác: ........................................................ 
Sáng kiến kinh nghiệm đã được triển khai áp dụng: Tại đơn vị 
Trong Ngành 
1. Tính mới (Đánh dấu X vào 1 trong 3 ô dưới đây)
- Đề ra giải pháp thay thế hoàn toàn mới, bảo đảm tính khoa học, đúng đắn

- Đề ra giải pháp thay thế một phần giải pháp đã có, bảo đảm tính khoa học, đúng đắn 
- Giải pháp mới gần đây đã áp dụng ở đơn vị khác nhưng chưa từng áp dụng ở đơn vị mình,
nay tác giả tổ chức thực hiện và có hiệu quả cho đơn vị

2. Hiệu quả (Đánh dấu X vào 1 trong 5 ô dưới đây)
- Giải pháp thay thế hoàn toàn mới, đã được thực hiện trong toàn ngành có hiệu quả cao 
- Giải pháp thay thế một phần giải pháp đã có, đã được thực hiện trong toàn ngành có hiệu
quả cao 
- Giải pháp thay thế hoàn toàn mới, đã được thực hiện tại đơn vị có hiệu quả cao 
- Giải pháp thay thế một phần giải pháp đã có, đã được thực hiện tại đơn vị có hiệu quả 
- Giải pháp mới gần đây đã áp dụng ở đơn vị khác nhưng chưa từng áp dụng ở đơn vị mình,
nay tác giả tổ chức thực hiện và có hiệu quả cho đơn vị

3. Khả năng áp dụng (Đánh dấu X vào 1 trong 3 ô mỗi dòng dưới đây)
- Cung cấp được các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách:
Trong Tổ/Phòng/Ban  Trong cơ quan, đơn vị, cơ sở GD&ĐT 
Trong ngành 
- Đưa ra các giải pháp khuyến nghị có khả năng ứng dụng thực tiễn, dễ thực hiện và dễ đi vào cuộc
sống: Trong Tổ/Phòng/Ban 

Trong cơ quan, đơn vị, cơ sở GD&ĐT 
Trong ngành 
- Đã được áp dụng trong thực tế đạt hiệu quả hoặc có khả năng áp dụng đạt hiệu quả trong phạm vi rộng:
Trong Tổ/Phòng/Ban 
Trong cơ quan, đơn vị, cơ sở GD&ĐT 
Trong ngành 
Xếp loại chung: Xuất sắc 
Khá 
Đạt 
Không xếp loại 
Cá nhân viết sáng kiến kinh nghiệm cam kết và chịu trách nhiệm không sao chép tài liệu của
người khác hoặc sao chép lại nội dung sáng kiến kinh nghiệm cũ của mình.
Tổ trưởng và Thủ trưởng đơn vị xác nhận đã kiểm tra và ghi nhận sáng kiến kinh nghiệm này
đã được tổ chức thực hiện tại đơn vị, được Hội đồng chuyên môn trường xem xét, đánh giá; tác
giả không sao chép tài liệu của người khác hoặc sao chép lại nội dung sáng kiến kinh nghiệm cũ
của chính tác giả.
Phiếu này được đánh dấu X đầy đủ các ô tương ứng, có ký tên xác nhận của tác giả và người
có thẩm quyền, đóng dấu của đơn vị và đóng kèm vào cuối mỗi bản sáng kiến kinh nghiệm.
NGƯỜI THỰC HIỆN SKKN
(Ký tên và ghi rõ họ tên)

Lê Ngọc Thành Long

XÁC NHẬN CỦA TỔ
CHUYÊN MÔN
(Ký tên và ghi rõ họ tên)

THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
(Ký tên, ghi rõ
họ tên và đóng dấu)




×