Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

skkn sử DỤNG các PHƯƠNG PHÁP dạy học TÍCH cực NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG dạy học môn GIÁO dục CÔNG dân lớp 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.71 KB, 37 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
Trường THPT Nam Hà
Mã số: ...........

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

SỬ DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP
DẠY HỌC TÍCH CỰC NHẰM
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
DẠY HỌC MƠN
GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 12

Người thực hiện: TRẦN THỊ THANH HẰNG
Lĩnh vực nghiên cứu:
- Quản lý giáo dục



- Phương pháp dạy học bộ mơn: .....GDCD....
- Lĩnh vực khác:

Có đính kèm:
 Mơ hình

 Phần mềm



.............................................. 

 Phim ảnh



Năm học: 2014 – 2015

 Hiện vật khác


SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN
1. Họ và tên: TRẦN THỊ THANH HẰNG
2. Ngày tháng năm sinh: 03 / 12 / 1982
3. Nam, nữ: Nữ
4. Địa chỉ: Chung cư Pegasus, Phường Quyết Thắng, TP Biên Hòa, T Đồng
Nai
5. Điện thoại: 0613.950365; ĐTDĐ: 01233700727
6. Fax:

E-mail:

7. Chức vụ: Giáo viên
8. Nhiệm vụ được giao: Giảng dạy môn GDCD ở 5 lớp 10 và 9 lớp 12.
9. Đơn vị cơng tác: Trường THPT Nam Hà
II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO
- Học vị (hoặc trình độ chun mơn, nghiệp vụ) cao nhất: Thạc sĩ
- Năm nhận bằng: 2013
- Chuyên ngành đào tạo: LL và PPDH bộ môn Giáo dục chính trị.
III.KINH NGHIỆM KHOA HỌC
- Lĩnh vực chun mơn có kinh nghiệm: Giảng dạy.
Số năm có kinh nghiệm: 10 năm
- Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây:
+ “Sử dụng phương pháp đóng vai trong giảng dạy môn giáo dục công dân ở bậc

trung học phổ thông”
+ “Lồng ghép giáo dục pháp luật trong giảng dạy môn giáo dục công dân lớp 10”
+ “Khai thác và vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh ở một số bài học môn
GDCD lớp 10”



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CNTT

: công nghệ thông tin

CNXH

: chủ nghĩa xã hội

GDCD

: giáo dục công dân

GDCT

: giáo dục chính trị

GV

: giáo viên

HS


: học sinh

HP

: hiến pháp

HN-GD

: hơn nhân gia đình

LL&PPDH : lý luận và phương pháp dạy học
PPDH

: phương pháp dạy học

PP

: phương pháp

SGK

: sách giáo khoa

SGV

: sách giáo viên

THPT

: trung học phổ thông


UBND

: ủy ban nhân dân


1
SỬ DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC NHẰM NÂNG
CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 12
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Bước vào thế kỷ 21 - thế kỷ mà tri thức và kĩ năng của con người được coi như là
yếu tố quyết định sự phát triển xã hội, nền giáo dục phải đào tạo ra những con người
thơng minh, có trí tuệ phát triển, giàu tính sáng tạo và tính nhân văn. Nghị quyết hội nghị
lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá VII về tiếp tục đổi
mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo đã nhận định: "Con người được đào tạo thường thiếu
năng động, chậm thích nghi với nền kinh tế xã hội đang đổi mới" [14; 2]. Từ đó đã nêu
rõ một trong những quan điểm chỉ đạo để đổi mới sự nghiệp giáo dục là phải: "phát triển
giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo những con
người có kiến thức văn hố khoa học, có kỹ năng nghề nghiệp, lao động tự chủ, sáng tạo
và có tính kỷ luật, giàu lịng nhân ái, u nước, yêu CNXH, sống lành mạnh, đáp ứng
nhu cầu phát triển đất nước những năm 90 và chuẩn bị cho tương lai"[14; 3]. Để thực
hiện được những mục tiêu trên, đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) ở trường THPT
là một trong những nhiệm vụ cấp bách mà Đảng và nhà nước ta quan tâm. Nghị quyết
Ban chấp hành Trung ương II khoá VIII nhấn mạnh: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp
giáo dục - đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng
tạo của người học, từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến, phương tiện hiện đại
vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học
sinh...” [15; 11].
Trong những năm qua, việc giảng dạy môn GDCD ở các trường THPT của
cả nước nói chung, và dạy học chương trình GDCD lớp 12 Công dân với pháp luật

ở trường THPT Nam Hà cho thấy: Sự đổi mới PPDH môn GDCD ở trường THPT
đang được tiến hành, phát triển tương đối nhanh ở các trường thuộc khu vực thành
phố, song chuyển biến còn chậm ở các trường phổ thông ở khu vực nông thôn.
PPDH môn GDCD vẫn nặng về sử dụng các PPDH truyền thống, việc sử dụng các


2
PPDH tích cực bước đầu được thực hiện song so với yêu cầu vẫn còn quá nhiều
vấn đề cần giải đáp cả về cơ sở lý luận lẫn thực tiễn vận dụng. Nhằm nâng cao tính
tích cực của HS đối với kiến thức pháp luật, vận dụng những kiến thức đó vào
cuộc sống thực tiễn của chính bản thân HS thì người GV cần có sự kết hợp và sử
dụng một cách linh hoạt các PPDH tích cực, qua đó mới có thể phát huy tính tích
cực về nhận thức của HS.
Nhằm khắc phục phần nào còn hạn chế, phát huy tính tích cực trong việc
dạy học phần Cơng dân với pháp luật cho học sinh lớp 12 THPT, việc phân
tích các PPDH tích cực, chỉ ra phương thức sử dụ ng các PPDH một cách phù
hợp trong mỗi giờ dạy nhằm phát huy, nâng cao hứng thú, sáng tạo của HS trở
thành một yêu cầu cấp bách đối với GV bộ môn GDCD ở trường THPT trong
giai đoạ n hiệ n nay.
Xuất phát từ tính cấp thiết của vấn đề, thời gian qua đã có nhiều cơng trình,
đề tài nghiên cứu về PPDH môn GDCD và đổi mới PPDH mơn GDCD ở các phần
khác nhau của chương trình GDCD THPT, nhưng vấn đề sử dụng các PPDH tích
cực trong việc giảng dạy một số kiến thức phần Công dân với pháp luật, chương
trình GDCD lớp 12 ở một trường THPT trên địa bàn của một tỉnh miền Đông Nam
Bộ thì hầu như chưa có đề tài nào đề cập đến. Vì vậy tác giả chọn vấn đề: "Sử
dụng các phương pháp dạy học tích cực nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn
giáo dục công dân lớp 12” (Qua khảo sát ở trường THPT Nam Hà, TP Biên Hòa,
Tỉnh Đồng Nai) làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm của mình.



3
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Cơ sở lý luận của việc sử dụng các phương pháp dạy học tích cực
trong dạy học mơn giáo dục cơng dân lớp 12
a. Phương pháp dạy học tích cực
Phương pháp dạy học tích cực thực chất là PPDH hướng tới khả năng tích cực,
chủ động, sáng tạo của người học chứ khơng phải hướng tới việc phát huy tính tích
cực của người dạy. Khi vận dụng các PPDH tích cực, GV với vai trò là người hướng
dẫn rèn luyện cho học sinh phương pháp tự học, phát huy sự tìm tịi độc lập của từng
HS hoặc thơng qua thảo luận, thí nghiệm, thực hành, thâm nhập thực tế của học sinh
theo mục tiêu, nội dung của bài học. GV là người tổng hợp các ý kiến của từng học
sinh và tập thể lớp học để xây dựng nội dung bài học.
Từ những cách tiếp cận khác nhau về PPDH tích cực, chúng ta có thể hiểu
các PPDH tích cực là những phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích
cực, chủ động, độc lập và sáng tạo, hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt
động nhận thức của người học.
b. Các phương pháp dạy học tích cực được vận dụng trong chương trình
Giáo dục cơng dân lớp 12
Hiện nay, có rất nhiều PPDH tích cực có thể sử dụng vào tất cả các bài dạy
trong chương trình GDCD ở cấp THPT. Tuy nhiên, trong phạm vi đề tài này, tác
giả chỉ nghiên cứu một số PPDH tích cực phù hợp với nội dung chương trình
GDCD lớp 12 hiện nay.
- Phương pháp động não
Phương pháp động não là phương pháp giúp cho HS trong một thời gian
ngắn nảy sinh được nhiều ý tưởng hay giả định về một vấn đề nào đó.
Trong dạy học các mơn học ở bậc THPT, đặc biệt là dạy học môn GDCD,
phương pháp này được dùng để giới thiệu chủ đề của bài học trên cơ sở so sánh và


4

chọn lựa các kết quả trả lời của HS hoặc dùng để thu thập và chọn lựa các phương
án giải quyết vấn đề liên quan đến nội dung bài học.
Phương pháp động não đúng như tên gọi của nó, thích hợp với các hoạt động
dạy học hướng đến mục đích phát triển ở người học những phẩm chất hoạt động
độc lập, đặc biệt là khả năng sáng tạo. Mặt khác, kết quả của hoạt động động não
là những ý tưởng, các giải pháp mới mẻ của người học được hình thành, thơng qua
đó, GV có thể thu thập được nhiều điều bổ ích.
Ưu điểm của phương pháp động não:
Với phương pháp động não, GV dể dàng soạn thảo câu hỏi và dể thực hiện,
không tốn kém, đồng thời huy động được tối đa trí tuệ của tập thể trong quá trình
tìm kiếm thơng tin để trả lời. Tạo được khơng khí sơi nổi nhờ q trình tham gia
phản hồi một cách tích cực của người học để cải tạo khơng khí học tập trầm lặng,
buồn tẻ.
Nhược điểm:
Có thể mất nhiều thời gian nếu lớp học đông, các ý kiến trả lời có thể tản
mạn hoặc lạc đề. Hiệu quả của phương pháp mới chỉ dừng lại ở việc cung cấp ý
tưởng chứ chưa bồi dưỡng được năng lực tư duy phân tích, chứng minh, tổng hợp
của học sinh.
- Phương pháp xử lý tình huống (phương pháp nghiên cứu trường hợp điển
hình)
Phương pháp xử lý tình huống là một phương pháp dạy học, trong đó HS tự
lực nghiên cứu một tình huống cụ thể trong thực tiễn và giải quyết vấn đề do tình
huống đặt ra dưới sự hướng dẫn của GV.
Tình huống là một hồn cảnh thực tế, câu chuyện có thật hoặc được hư cấu,
mơ phỏng theo tình huống thường xảy ra trong thực tiễn có chứa đựng những mâu
thuẫn, xung đột. Người học sau khi tiếp nhận phải đưa ra một số quyết định trên cơ
sở cân nhắc các phương pháp giải quyết khác nhau.
Ưu điểm của phương pháp tình huống:



5
Nội dung tri thức của bài học được thực tiễn hóa, gắn lý thuyết với thực tiễn
thơng qua những tình huống gần gũi với HS. Tạo điều kiện để rèn luyện, bồi
dưỡng những phẩm chất của tư duy như: phê phán, sáng tạo, khả năng giao tiếp,
quyết đoán, ra quyết định. Tích cực hố hoạt động của người học nhờ quá trình
thường xuyên tiếp cận với các tình huống thực tế, đồng thời dễ tạo được khơng khí
tranh luận thoải mái và khai thác trí tuệ của tập thể.
Nhược điểm:
Địi hỏi nhiều thời gian, công sức và năng lực của người GV trong khâu
chọn lựa tình huống và quá trình triển khai trên lớp.
Phương pháp xử lý tình huống chỉ phù hợp với việc vận dụng tri thức nhưng
không phù hợp với việc truyền thụ tri thức mới một cách hệ thống.
Phương pháp này đòi hỏi cao với GV. Nhiệm vụ truyền thụ tri thức của GV
là thứ yếu, GV cần làm việc với tư cách là người tổ chức, điều khiển q trình học
tập. Và nó cũng địi hỏi cao đối với HS. Hình thức quen thuộc là lĩnh hội tri thức
được sắp xếp sẵn một cách hệ thống từ GV khơng cịn phù hợp nữa mà HS phải
biết tự mình vận dụng tri thức một cách sáng tạo.
HS có thể bị lạc đề nếu tình huống điển hình của GV đưa ra không phù hợp
hoặc câu hỏi định hướng sai mục đích.
- Phương pháp thảo luận nhóm
Thảo luận nhóm là PPDH trong đó lớp học được chia thành những nhóm
nhỏ để bàn bạc, trao đổi, thảo luận về một vấn đề học tập và đưa ra ý kiến chung
của nhóm về vấn đề đó. Thảo luận nhóm được sử dụng rộng rãi nhằm giúp HS
tham gia một cách chủ động vào quá trình học tập, tạo cơ hội cho HS có thể chia sẻ
kiến thức, kinh nghiệm, ý kiến để giải quyết một vấn đề có liên quan đến nội dung
bài học.
Ưu điểm của phương pháp thảo luận nhóm:
Trong số PPDH đang được sử dụng, phương pháp thảo luận nhóm có nhiều
ưu thế trong việc thực hiện các mục tiêu giáo dục mới hiện nay.



6
Kiến thức mà HS thu nhận được không chỉ là kết quả của hoạt động riêng
biệt của cá nhân mà thu nhận được thơng qua q trình cọ xát hợp tác, vì thế kiến
thức của HS sẽ giảm bớt tính chủ quan, phiến diện và tăng tính khách quan khoa
học.
Kiến thức trở nên sâu sắc bền vững, dễ nhớ và nhớ nhanh do được giao lưu,
học hỏi giữa các thành viên trong nhóm.
Giúp HS phát triển năng lực giao tiếp thơng qua sự cộng tác làm việc trong
nhóm, giúp HS phát triển năng lực giao tiếp như biết lắng nghe, chấp nhận và phê
phán ý kiến của người khác, biết trình bày và bảo vệ ý kiến của mình trong nhóm.
Tăng cường sự tự tin cho HS. HS được liên kết với nhau qua giao tiếp xã
hội, các em sẽ mạnh dạn hơn và ít sợ mắc sai lầm.
Nhược điểm:
Dạy học theo phương pháp thảo luận nhóm địi hỏi nhiều thời gian. Thời
gian 45 phút của một tiết học cũng là trở ngại gây khó khăn trên con đường đạt
được thành cơng cho cơng việc nhóm.
Thảo luận nhóm nhưng chưa được luyện tập sẽ dễ gây ra hỗn loạn. Thí dụ có
thể xẩy ra một HS phụ trách nhóm theo kiểu độc đốn, các thành viên trong nhóm
khơng làm bài mà quan tâm đến vấn đề khác. Giữa các nhóm có thể phát sinh sự
đối địch và giận dữ.
Sự thụ động hoặc hăng hái quá mức của các nhóm sẽ gây khó khăn cho sự
điều khiển của GV.
- Phương pháp đóng vai
Đóng vai là một PPDH, trong đó GV tổ chức cho người học thực hành, “làm
thử” một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định. Đây là PPDH
nhằm giúp HS suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách tập trung vào một sự kiện
cụ thể mà người học vừa thực hiện hoặc quan sát. Việc “diễn” khơng phải là phần
chính của phương pháp này mà điều quan trọng là sự thảo luận và rút ra nội dung
bài học sau phần diễn ấy.



7
Ưu điểm của phương pháp đóng vai:
HS được rèn luyện thực hành kỷ năng ứng xử và bày tỏ thái độ của mình
trong quá trình học tập trên lớp trước khi thực hành trong thực tiễn.
Tạo ra được tâm lý hứng thú và sự chú ý cho HS, tạo điều kiện làm phát
triển óc sáng tạo của HS.
Khích lệ sự thay đổi thái độ, hành vi của HS theo hướng tích cực một cách
tự giác. GV có thể thấy ngay sự tác động có hiệu quả của HS qua vai diễn.
Nhược điểm:
Phương pháp đóng vai chỉ có thể tiến hành với phòng học rộng và học sinh
mạnh dạn trong quá trình tham gia các vai diễn.
Giáo viên sẽ mất nhiều thời gian nếu khơng có kinh nghiệm tổ chức hoặc HS
q nhút nhát.
Nếu tình huống đóng vai được lặp đi, lặp lại giữa các nhóm có thể gây nên
sự nhàm chán đối với học sinh.
- Phương pháp vấn đáp (đàm thoại)
Vấn đáp (đàm thoại) là một PPDH mà trong đó việc truyền thụ và lĩnh hội tri
thức mới giữa GV và HS thông qua hệ thống những câu trả lời từ những yêu cầu,
gợi ý do GV nêu ra.
Như vậy, phương pháp vấn đáp là quá trình tương tác giữa GV và HS, được
thực hiện thông qua hệ thống câu hỏi và câu trả lời tương ứng về một chủ đề nào
đó được GV và HS đặt ra. Kết quả dưới sự dẫn đắt của GV, HS thể hiện được suy
nghĩ của mình và lĩnh hội được kiến thức.
Căn cứ vào mục đích và tính chất của hoạt động nhận thức, có thể phân chia
phương pháp vấn đáp ở ba dạng: vấn đáp tái hiện, vấn đáp giải thích – minh họa,
vấn đáp tìm tịi – phát hiện.
- Vấn đáp tái hiện: GV đặt ra những câu hỏi và chỉ yêu cầu HS nhớ lại kiến
thức đã biết để trả lời. Những câu trả lời này chỉ thường dựa vào trí nhớ mà khơng

cần phải suy luận, khơng mất nhiều thời gian. Các câu hỏi thường khơng khó hiểu,


8
HS không phải chuẩn bị trước ở nhà, những kiến thức đó đã có sẵn trong trí óc, HS
chỉ cần tái hiện lại và trả lời theo những yêu cầu của câu hỏi.
- Vấn đáp giải thích – minh họa: Nhằm mục đích làm sáng tỏ, chứng minh
một nội dung tri thức nào đó. Thực hiện dạng này, GV lần lượt nêu ra những câu
hỏi kèm theo những ví dụ minh họa để HS dể hiểu, dể nhớ. Phương pháp này đặc
biệt có hiệu quả khi có sự hỗ trợ của các phương tiện và thiết bị dạy học.
- Vấn đáp tìm tịi: Đây là dạng vấn đáp phổ biến trong dạy học GDCD và
địi hỏi cao nhất tính chủ động, sáng tạo của HS. Với dạng vấn đáp này, GV dùng
một hệ thống câu hỏi được sắp xếp hợp lí để hướng dẫn HS từng bước phát hiện ra
bản chất của sự vật, tính quy luật của hiện tượng đang nghiên cứu, tìm hiểu. Với
phương pháp này, GV là người tổ chức, hướng dẫn để HS tự lực phát hiện kiến
thức mới, qua đó HS được rèn luyện phương pháp tư duy, kỹ năng trong nhận thức
và có được niềm vui của sự khám phá.
Ưu điểm của phương pháp vấn đáp:
Phương pháp vấn đáp đã khắc phục được điểm yếu của phương pháp thuyết
trình nhờ có sự tương tác giữa GV và HS thông qua việc truyền thụ và lĩnh hội.
Việc cùng tham gia giải quyết các vấn đề giữa GV và HS đã khắc phục được lối
truyền thụ một chiều của phương pháp thuyết trình.
Kích thích được tư duy năng động, sáng tạo của HS nhờ quá trình tự lực tìm
ra bản chất vấn đề dưới sự gợi ý, hướng dẫn của GV.
GV dể dàng đánh giá được năng lực nhận thức và mức độ tiếp thu tri thức
của HS. Đó là thơng tin quan trọng để GV điều chỉnh PPDH của mình.
Rèn luyện cho HS một số thao tác tư duy lơgic như: phân tích, tổng hợp,
khái quát, chứng minh, diễn giải...
Nhược điểm:
Phương pháp này phụ thuộc nhiều vào năng lực và thái độ của HS. Bên cạnh

đó, việc nảy sinh nhiều tình huống ngẫu nhiên trong quá trình đàm thoại dể gây
chệch hướng so với chủ đề ban đầu. Sử dụng phương pháp này sẽ mất nhiều thời


9
gian xây dựng hệ thống câu hỏi, nhất là trong vấn đáp tìm tịi. Q trình sử dụng
phương pháp này có thể bị biến thành cuộc tranh luận tay đơi giữa GV và một số
HS.
-Phương pháp nêu vấn đề
Dạy học nêu vấn đề xuất phát từ luận điểm cho rằng con người chỉ tích cực
tư duy khi ở vào hồn cảnh có vấn đề nảy sinh, khi con người phát hiện ra mâu
thuẫn của lý thuyết hay thực tế mà tư duy cũ không thể giải quyết được một cách
tốt nhất.
Phương pháp nêu vấn đề là PPDH, trong đó GV giúp HS xem xét, phân tích
những tình huống có vấn đề và xác định những cách thức giải quyết tình huống đó
nhằm tiếp thu tri thức, rèn luyện kỹ năng và hình thành tư tưởng thái độ.
Phương pháp nêu vấn đề khơng chỉ nhằm mục đích truyền thụ tri thức mới
cho người học mà thơng qua đó xây dựng phương pháp tư duy khoa học, hình
thành và phát triển thói quen, năng lực nắm bắt những tri thức mới và vận dụng
chúng vào thực tiễn.
Ưu điểm của phương pháp nêu vấn đề:
Học sinh nắm vững được tri thức mới và các phương pháp lĩnh hội khác
nhau về tri thức đó. Đồng thời, phát triển tư duy sáng tạo, bồi dưỡng lòng ham học
và khả năng tự học của HS.
Rèn luyện năng lực thích ứng với cuộc sống hiện đại thơng qua kỹ năng biết
đặt ra và giải quyết hợp lý các vấn đề nảy sinh trong quá trình học tập và trong cuộc
sống thực tế.
GV kiểm tra, đánh giá năng lực của HS thông qua các hoạt động học tập như
tiếp cận và xử lý tình huống, xây dựng kế hoạch giải quyết vấn đề, trình bày, lý
giải các bài toán nhận thức.

Nhược điểm:
Để vận dụng tốt PPDH nêu vấn đề cịn phụ thuộc rất nhiều vào trình độ,
năng lực vận dụng phương pháp của GV cũng như trình độ nhận thức của HS. Bên


10
cạnh đó, khi sử dụng phương pháp này, GV sẽ cần nhiều thời gian trong quá trình
chuẩn bị bài giảng và triển khai bài giảng trên lớp.
c. Tính tất yếu khách quan của việc sử dụng các phương pháp dạy học
tích cực trong dạy học mơn giáo dục cơng dân lớp 12
- Cơ sở triết học
Theo quan điểm của triết học Mác – Lênin, bản chất con người là tổng hòa
những mối quan hệ xã hội, bản chất ấy được hình thành và thể hiện ở những con
người hiện thực. Là những con người cụ thể sống trong điều kiện cụ thể, những
mặt khác nhau tạo nên bản chất con người, ngoài ra tất cả các mối quan hệ xã hội
đều góp phần hình thành nên bản chất con người. Trong các yếu tố hình thành nên
bản chất con người, giáo dục có ý nghĩa vơ cùng quan trọng. Bởi vì sự nhận thức
của con người là sự nhận thức có tính tích cực, năng động, sáng tạo trên cơ sở thực
tiễn. Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm
cho hồn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hồn cảnh đó chính là tồn
bộ mơi trường tự nhiên và xã hội tác động đến con người theo khuynh hướng phát
triển nhằm đạt tới các giá trị có tính mục đích, tự giác, có ý nghĩa định hướng giáo
dục. Thơng qua đó, con người tiếp nhận hồn cảnh một cách tích cực và tác động
trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khác nhau: hoạt động thực tiễn, quan hệ
ứng xử, hành vi con người, sự phát triển của phẩm chất trí tuệ và năng lực tư duy,
các quy luật nhận thức hướng con người tới hoạt động vật chất.
GDCD là một mơn học có đặc điểm tri thức mang tính khái qt hóa, trừu
tượng hóa cao. Chương trình GDCD tập trung khá nhiều nội dung liên quan đến
các phân môn khác, chứa đựng kiến thức của các môn khoa học khác nhau. Vì vậy
trong q trình giảng dạy mơn GDCD lớp 12, GV cần phải biết sử dụng các PPDH

tích cực để đưa những nội dung vốn dĩ rất khái quát ấy vào thực tiễn cuộc sống,
giúp HS dể dàng nắm bắt tri thức và vận dụng nó vào thực tế, đồng thời bảo đảm
được tính thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong quá trình giảng dạy và học tập
môn GDCD. Trên cơ sở từng bước tiếp cận và nắm vững hệ thống kiến thức cơ


11
bản của mơn GDCD, HS sẽ dần dần có những hiểu biết cơ bản để hình thành cho
bản thân thế giới quan đúng đắn và phương pháp luận khoa học. Từ xuất phát điểm
ấy, HS sẽ vận dụng nhằm nâng cao hiệu quả quá trình hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn của bản thân.
- Cơ sở tâm lý – Giáo dục học
GDCD là một trong những môn học có vai trị quan trọng, góp phần đào tạo
các thế hệ học sinh thành những người lao động xã hội chủ nghĩa vừa hồng vừa
chuyên, đáp ứng nguồn nhân lực cho q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Đối với môn GDCD, “mục tiêu dạy người” luôn được xác định là quan trọng
nhất. Chính vì vậy, mơn GDCD ln ở vị trí hàng đầu trong việc định hướng, phát
triển nhân cách của học sinh. Mỗi HS là một chủ thể của sự phát triển nhân cách,
phát triển xã hội.
Kết quả nghiên cứu tâm – sinh lí của HS và điều tra xã hội học gần đây trên
thế giới cũng như ở nước ta cho thấy HS phổ thông có những thay đổi trong sự
phát triển tâm – sinh lí, đó là sự thay đổi có gia tốc. Trong điều kiện phát triển của
các phương tiện truyền thông, trong bối cảnh hội nhập, mở rộng giao lưu, HS được
tiếp nhận nhiều nguồn thông tin đa dạng, phong phú từ nhiều mặt của cuộc sống,
hiểu biết nhiều hơn, linh hoạt và thực tế hơn so với các thế hệ cùng lứa tuổi trước
đây. Học sinh lớp 12 (độ tuổi 17,18) có đặc điểm tâm lý là ham hiểu biết, có trình
độ tư duy phát triển, đã hình thành và phát triển các kỹ năng học tập, thói quen tự
học. Trong học tập, HS khơng thỏa mãn với vai trị của người tiếp thu thụ động,
không chỉ chấp nhận các giải pháp đã có sẵn được đưa ra. Như vậy, ở lứa tuổi này,
HS nảy sinh một yêu cầu và cũng là một quá trình: sự lĩnh hội độc lập các tri thức

và phát triển kỹ năng. Đó là yêu cầu đặt ra cho ngành Giáo dục nói chung và cho
mơn GDCD nói riêng. Người GV trong q trình dạy học phải làm thế nào để có
thể khơi dậy những điểm mạnh vốn có của HS lớp 12, đó là sự ham học hỏi, muốn
khám phá bản thân và thế giới, tính độc lập, chủ động và sáng tạo.
- Định hướng đổi mới nội dung và phương pháp dạy học


12
Định hướng đổi mới PPDH đã được đặt ra từ cuộc cải cách giáo dục lần thứ
tư của thế kỷ trước (1980), nhưng cho đến nay, việc sử dụng các PPDH tích cực
vẫn chưa có sự thay đổi, chuyển biến nhiều, phổ biến vẫn là những PPDH truyền
thống với cách dạy thầy đọc, trò chép, thầy giảng, trò nghe. Và chính cách dạy đó
đã tạo ra một bộ phận khơng nhỏ học sinh thụ động, kém năng động, sáng tạo, có
tính ỷ lại, thiếu kỹ năng giải quyết những vấn đề thực tiễn.
Chính vì lẽ đó, có thể nói, đổi mới PPDH là xu hướng chung của giáo dục
hiện nay. Định hướng đổi mới phương pháp dạy và học đã được xác định trong
Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII (1 - 1993), Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII
(12 - 1996), được thể chế hóa trong Luật Giáo dục (2005), được cụ thể hóa trong
các chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đặc biệt là chỉ thị số 15 (4 - 1999). Luật
Giáo dục, điều 28, khoản 2, 2005 chỉ rõ: "Phương pháp giáo dục phổ thông phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc
điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm
việc theo nhóm, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến
tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh". [8, 17]
2. Cơ sở thực tiễn của việc sử dụng các phương pháp dạy học tích cực
trong dạy học môn GDCD lớp 12 ở trường THPT Nam Hà, Thành phố Biên
Hòa, Tỉnh Đồng Nai
Trong mục tiêu giáo dục chung nhằm đào tạo những cơng dân phát triển
tồn diện, trường THPT Nam Hà luôn chú trọng giáo dục học sinh khơng chỉ giỏi
về tri thức mà cịn phải nâng cao trình độ nhận thức, ln biết gắn trách nhiệm của

cơng dân với vận mệnh của đất nước.
Đa số giáo viên giảng dạy ở trường đều ln có ý thức đổi mới phương pháp
dạy học, biết sử dụng các phương pháp dạy học tích cực bên cạnh các PPDH
truyền thống, đã biết cách phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học
sinh, trong đó, GV đóng vai trị là người hướng dẫn, còn HS là chủ thể chiếm lĩnh
tri thức một cách sáng tạo.


13
Trong quá trình dạy học, GV đã biết vận dụng các PPDH tích cực phù hợp
với tiết học, bài học và đối tượng HS, đồng thời, tiến hành đổi mới kiểm tra, đánh
giá HS nhằm nâng cao chất lượng dạy học mơn GDCD ở trường, từng bước khẳng
định vị trí của bộ môn GDCD trong nhà trường, tạo niềm tin, sự say mê, u thích
học tập bộ mơn cho HS, hướng tới các mục tiêu giáo dục bộ môn.
Bên cạnh những thuận lợi thì quá trình vận dụng các PPDH tích cực trong
giảng dạy mơn GDCD ở trường THPT Nam Hà cịn gặp phải những khó khăn nhất
định: trong q trình giảng dạy, ở một số bài học, tiết học mặc dù khơng nhiều
song vẫn cịn tồn tại tình trạng GV chưa nhận thức đầy đủ về PPDH mới, chưa
hiểu thấu đáo bản chất của các PPDH tích cực nên khi vận dụng vào bài giảng, GV
không tránh khỏi sự lúng túng, khó triển khai, khả năng kết hợp PPDH với nhau
chưa nhuần nhuyễn cũng như kỹ năng tổ chức dạy học.


14
III.

TỔ CHỨC THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP

1. Thực nghiệm sử dụng các PPDH tích cực:
- Mục đích thực nghiệm

Tiến hành thực nghiệm các PPDH tích cực trong dạy học chương trình
GDCD lớp 12 nhằm khẳng định tính đúng đắn và hiệu quả của việc sử dụng các
PPDH tích cực trong dạy học bộ môn GDCD ở trường THPT hiện nay. Kết quả
thực nghiệm là cơ sở để khẳng định tính khả thi của việc sử dụng các PPDH tích
cực trong dạy học mơn GDCD lớp 12, qua đó khẳng định được tính ưu việt khi sử
dụng PPDH tích cực so với các PPDH khác.
- Nội dung thực nghiệm.
Thiết kế giáo án:
Bài 4: Quyền bình đẳng của cơng dân trong một số lĩnh vực của đời sống
xã hội (tiết 1)
I. Mục tiêu bài học:
1. Về kiến thức:
- Hiểu được khái niệm, nội dung quyền bình đẳng của cơng dân trong lĩnh vực
hơn nhân và gia đình.
- Nêu được trách nhiệm của Nhà nước đối với việc bảo đảm cho công dân
thực hiện quyền bình đẳng trong hơn nhân và gia đình.
2. Về kỹ năng:
Biết thực hiện và nhận xét việc thực hiện quyền bình đẳng của cơng dân trong
các lĩnh vực hơn nhân và gia đình.
3. Về thái độ:
Có ý thức tơn trọng các quyền bình đẳng của cơng dân trong lĩnh vực hơn
nhân và gia đình.
II. Phương tiện dạy học:
- Sách giáo khoa, sách giáo viên GDCD 12.


15
- Sách tham khảo: Tình huống GDCD 12; Bài tập trắc nghiệm GDCD 12; Đề
kiểm tra theo chuẩn kiến thức, kĩ năng GDCD 12.
- Hiến pháp năm 1992.

- Giấy khổ lớn, bút dạ, nam châm.
III. Phương pháp dạy học:
Ở bài này, GV cần sử dụng và kết hợp các phương pháp dạy học tích cực như:
phương pháp giải quyết vấn đề, phương pháp vấn đáp, phương pháp động não,
phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp đóng vai... để phát huy được tính tích
cực, chủ động của HS.
IV. Tiến trình dạy học:
1. Kiểm tra bài cũ:
Em hiểu thế nào là công dân bình đẳng về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm
pháp lí? Cho VD?
2. Giới thiệu bài mới:
Mỗi chúng ta, ai cũng mong muốn được sống trong một gia đình, một xã hội
mà ở đó mọi người được bình đẳng với nhau về cơ hội học tập, lao động, cống hiến
nhằm xây dựng gia đình hịa thuận, tiến bộ, bình đẳng, hạnh phúc, xây dựng xã hội
dân chủ, công bằng, văn minh. Nguyện vọng chính đáng đó được Nhà nước ta thừa
nhận và bảo đảm thực hiện trên thực tế. Vậy, quyền bình đẳng của cơng dân trong
các lĩnh vực của đời sống xã hội trong các lĩnh vực của đời sống xã hội được thể
hiện như thế nào? Tìm hiểu nội dung kiến thức của bài 4 sẽ giúp chúng ta giải đáp
được phần nào câu hỏi đó.
3. Giảng bài mới:
Bài 4: Quyền bình đẳng của cơng dân trong một số lĩnh vực của đời sống xã hội.
(tiết 1)
1. Bình đẳng trong hơn nhân và gia đình:
Hoạt động của Thầy và Trị
GV sử dụng phương pháp đàm

Nội dung chính của bài học
a. Thế nào là bình đẳng trong



16
thoại, vấn đáp, khái quát lại kiến thức hôn nhân và gia đình:
cũ:
Hỏi: Hơn nhân là gì? Hơn nhân
đánh dấu bằng sự kiện nào? Mục đích
của hơn nhân?
(Là sự liên kết đặc biệt giữa 1 nam
và 1 nữ trên cơ sở tự nguyện, bình
đẳng được nhà nước thừa nhận nhằm
chung sống lâu dài và xây dựng gia
đình hạnh phúc. Hơn nhân được đánh
dấu bằng sự kiện kết hơn)

Bình đẳng trong hơn nhân và gia đình

Hỏi: Sau hơn nhân phát sinh mối được hiểu là bình đẳng về quyền và
quan hệ giữa các thành viên như thế nghĩa vụ giữa vợ và chồng, giữa các
nào?

thành viên trong gia đình trên cơ sở

Hỏi: Trong hơn nhân và gia đình, ngun tắc dân chủ, cơng bằng, tơn
bình đẳng được hiểu như thế nào?

trọng lẫn nhau, không phân biệt đối xử

HS phát biểu, GV chốt ý và kết trong các mối quan hệ ở phạm vi gia
luận:

đình và xã hội.

b. Nội dung bình đẳng trong hơn
nhân và gia đình:
* Bình đẳng giữa vợ và chồng:

GV sử dụng PP vấn đáp, động não:
Hỏi: Kể các thành viên trong gia
đình?


17
Chuyển ý:
Sau khi kết hôn, giữa vợ và chồng
phát sinh quan hệ nhân thân và quan hệ
tài sản. Từ đó phát sinh quyền và nghĩa
vụ nhân thân, quyền và nghĩa vụ tài
sản.
Hỏi: Thế nào là quan hệ nhân thân
giữa vợ và chồng? (Liên quan đến yếu
tố tình cảm vợ chồng, không thể
chuyển giao cho người khác)
Hỏi: Quyền và nghĩa vụ trong quan
hệ nhân thân?
Hỏi: Mối quan hệ giữa vợ và chồng
hiện nay có những nét gì đổi mới so
với quan hệ truyền thống?

- Trong quan hệ nhân thân: có
quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong

Hỏi: Bình đẳng giữa vợ chồng việc lựa chọn nơi cư trú, tôn trọng và

được HP nước ta qui định từ 1946. giữ gìn danh dự, nhân phẩm, uy tín…
Hiện nay, sự bình đẳng giữa vợ và

- Trong quan hệ tài sản: Vợ, chồng

chồng còn tồn tại bất cập gì? (về cả có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong
quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân)
HS trả lời, GV chuẩn kiến thức:

sở hữu tài sản chung, thể hiện ở quyền
chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền
định đoạt….

GV sử dụng phương pháp thảo luận
nhóm, nêu vấn đề, tình huống, đóng
vai:
GV chia lớp làm 2 nhóm:
Nhóm 1: Tình trạng bạo lực trong gia
đình mà nạn nhân thường là phụ nữ và


18
trẻ em là vấn đề đang được quan tâm ở
nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Theo em, đây có phải là biểu hiện của
bất bình đẳng khơng?
Nhóm 2: Một người chồng do quan
niệm vợ mình khơng đi làm, chỉ ở nhà
làm công việc nội trợ, không thể quyết
định được việc lớn, nên khi bán xe ô tô

(tài sản chung của vợ chồng đang sử
dụng vào việc kinh doanh của gia đình)
đã khơng bàn bạc với vợ. Người vợ
phản đối, khơng đồng ý bán. Theo em,
người vợ có quyền đó khơng? Vì sao?
Đại diện các nhóm trình bày. Nhóm
khác lắng nghe, bổ sung thêm nếu có ý
kiến khác.
GV nhận xét, giảng giải và kết luận:

* Bình đẳng giữa cha mẹ và con:

Vợ, chồng bình đẳng với nhau, có
nghĩa vụ và quyền ngang nhau về mọi
mặt trong gia đình.
Ngồi ra, PL thừa nhận vợ chồng
có quyền có tài sản riêng đối với tài
sản của mình…
HS thực hiện các tình huống chuẩn
bị trước về nội dung này bằng phương
pháp đóng vai.

- Cha mẹ có nghĩa vụ ngang nhau
đối với con, khơng ngược đãi con,

1. Cha mẹ quá nuông chiều con, cùng thương yêu, chăm sóc con cái…


19
dẫn đến hậu quả con hư hỏng.

2. Cha mẹ xúi giục con cái làm
điều trái PL, đạo đức.
GV nhận xét về phần đóng vai của
HS, chốt ý và rút ra kết luận:
GV yêu cầu HS giải quyết tình huống:
Trong thực tế, em đã nghe kể hoặc
thấy trường hợp nào cha mẹ ngược đãi
hoặc xúi giục, ép buộc con làm việc
trái đạo đức, trái pháp luật chưa? Nếu
rơi vào hoàn cảnh đó, theo em phải
làm gì?
GV giảng và kết luận: Các thành viên
trong gia đình có quyền được hưởng sự
chăm sóc, giúp đỡ nhau và có nghĩa vụ
quan tâm, chăm lo đời sống chung của
gia đình.
Hỏi: Bình đẳng trong mối quan hệ
giữa ơng bà và cháu thể hiện như thế
nào?

* Bình đẳng giữa ơng bà và cháu:
- Ơng bà có nghĩa vụ thương yêu,
chăm sóc, nêu gương cho các cháu.
- Các cháu có bổn phận thương
u, phụng dưỡng ơng bà.

GV sử dụng PP đàm thoại, động
não:
Hỏi: Hiện nay, mối quan hệ giữa
anh chị em trong gia đình cịn có tồn

tại gì? Nguyên nhân?

* Bình đẳng giữa anh chị em:


20
Hỏi: Quyền bình đẳng được thể
hiện như thế nào?
Hs trả lời, GV chốt ý và kết luận:

- Mọi người đều có quyền và nghĩa
vụ ngang nhau, yêu thương và đùm bọc
nhau…

4. Củng cố:
Cho HS trả lời câu hỏi và một số bài tập:
- Nguyên tắc đạo đức và cách xử sự của các thành viên trong gia đình hiện
nay có gì khác với gia đình truyền thống trước đây? Cho ví dụ?
5. Hoạt động tiếp nối:
- Học bài cũ
- Làm bài tập trong SGK.
- Sưu tầm hình ảnh về hoạt động tôn giáo ở địa phương.


21

* Trong giáo án thực nghiệm, GV đã sử dụng những PP: đàm thoại, tình
huống, đóng vai, nêu vấn đề, động não, thảo luận nhóm... để hướng HS đến những
tri thức cần nắm. Việc sử dụng các phương pháp này cho thấy, cùng thời lượng tiết
học như nhau, nhưng nếu GV vận dụng nhiều PPDH tích cực thì sẽ tổ chức được

nhiều hoạt động cho HS, đồng thời tạo được sự hứng thú, ham muốn học tập của
HS. PP đóng vai giúp HS phát hiện ra những năng khiếu của bản thân, bộc lộ khả
năng sáng tạo; PP tình huống kết hợp với thảo luận nhóm, vấn đáp... giúp HS hình
dung ra những quan hệ xã hội, quan hệ pháp luật phức tạp, từ đó đặt mình vào
những tình huống cụ thể để có cách ứng xử phù hợp với lợi ích cộng đồng. Việc
kết hợp nhuần nhuyễn các PP khơng chỉ đem lại cho các em q trình lĩnh hội tri
thức một cách chủ động mà cịn góp phần hình thành kỹ năng hợp tác, làm việc
nhóm, kỹ năng giải quyết vấn đề và rèn luyện tính tự học, phát huy được tiềm năng
sáng tạo từ HS. Đồng thời, người GV sẽ “nhàn nhã” hơn so với việc dạy học theo
PP truyền thống.
Ngồi ra, để chứng minh cho tính đúng đắn và hiệu quả của việc sử dụng các
PPDH tích cực vào dạy học mơn GDCD, tác giả cũng đã tổ chức cho GV môn
GDCD cùng trường dự giờ những tiết thực nghiệm. Qua các tiết dự giờ thực
nghiệm đó, các GV đã rút ra kết luận rằng: việc sử dụng các PPDH tích cực một
cách linh hoạt trong tiết học cùng với việc trang bị đầy đủ các phương tiện, thiết bị
dạy học cần thiết thì hiệu quả sẽ cao hơn rất nhiều, đồng thời tạo cho HS sự hứng
thú, say mê môn học vốn khô khan này.
Với những kết quả trên, tác giả có thể khẳng định rằng, việc sử dụng các
PPDH tích cực trong chương trình GDCD lớp 12 ở trường THPT Nam Hà là hoàn
toàn có khả năng thực hiện và vận dụng thường xuyên, đồng thời có thể vận dụng
vào q trình dạy học bộ môn GDCD ở các trường THPT hiện nay. Như vậy, mục
đích của thực nghiệm đã đạt được và giả thuyết khoa học nêu ra đã được kiểm
nghiệm.


×