Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

Đề tài Một số biện pháp dạy học nghi thức lời nói cho học sinh tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (978.94 KB, 129 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI
============

TRẦN THỊ THU PHƢƠNG

MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY HỌC NGHI THỨC LỜI NÓI
CHO HS TIỂU HỌC

Chuyên ngành : Giáo dục học (Giáo dục Tiểu học)
Mã số

: 60.14.01.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Lê Phương Nga

HÀ NỘI, NĂM 2015


Lời cảm ơn
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành cảm ơn
GS. TS. Lê Phương Nga, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá
trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Bộ môn các khoa học
xã hội, Khoa Giáo dục Tiểu học, phòng Sau Đại học, Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội đã góp ý, động viên, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên
cứu và hoàn thành luận văn.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới bạn bè và người thân, những người đã
động viên, khích lệ tôi rất nhiều trong thời gian vừa qua.


Tôi xin trân trọng cảm ơn !
Hà Nội, năm 2015
Ngƣời viết

TRẦN THỊ THU PHƢƠNG


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
GV : Giáo viên
HS

: Học sinh

SGK : Sách giáo khoa
NTLN : Nghi thức lời nói
CT

: Chương trình


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 4
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 11
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .................................................................. 11
5. Giả thuyết khoa học .................................................................................... 12
6. Đóng góp của đề tài..................................................................................... 12
7. Phương pháp nghiên cứu............................................................................. 13
8. Cấu trúc luận văn ........................................................................................ 13

PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................ 15
CHƢƠNG 1:CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA DẠY HỌC NGHI
THỨC LỜI NÓI (NTLN) TRONG MÔN TIẾNG VIỆT CHO HS TIỂU
HỌC ................................................................................................................ 15
1. Cơ sở lí luận .............................................................................................. 15
1.1. Khái niệm về NTLN................................................................................. 15
1.2. Lí thuyết hành vi ngôn ngữ và NTLN Tiếng việt .................................... 17
1.2.1. Nhận diện các NTLN Tiếng Việt dựa vào lí thuyết hành vi ngôn ngữ. . 17
1.2.2. Đặc điểm các NTLN Tiếng Việt và việc rèn luyện NTLN ở tiểu học .... 19
1.3.1. Kĩ năng xác định các nhân tố giao tiếp ................................................ 22
1.3.3. Kĩ năng sử dụng NTLN mở đầu và kết thúc cuộc thoại ........................ 23
1.3.4. Kĩ năng tạo lập quan hệ và duy trì giao tiếp ........................................ 24
1.4. Văn hóa giao tiếp và phép lịch sự thể hiện qua NTLN ............................ 25
1.5. Cơ sở tâm lí - ngôn ngữ học ..................................................................... 26
2. Cơ sở thực tiễn ............................................................................................ 27


2.1. Chương trình, sách giáo khoa và các tài liệu dạy học NTLN cho HS tiểu
học ................................................................................................................... 27
2.1.1. Nội dung dạy học NTLN trong chương trình, sách giáo khoa và các tài
liệu dạy học ..................................................................................................... 27
2.1.2. Những đóng góp và những điểm nên điều chỉnh, bổ sung .................... 32
2.2. Thực trạng dạy học NTLN trong nhà trường ........................................... 36
2.2.1. Việc giảng dạy của GV.......................................................................... 36
2.2.2. Việc học tập của HS .............................................................................. 38
2.3. Thực trạng rèn luyện NTLN ở gia đình và xã hội ................................... 39
Kết luận chương 1 .......................................................................................... 41
CHƢƠNG 2: TỔ CHỨC DẠY HỌC NTLN CHO HS TIỂU HỌC
TRONG MÔN TIẾNG VIỆT....................................................................... 44
2.1. Những nguyên tắc dạy học NTLN cho HS tiểu học trong môn Tiếng Việt

......................................................................................................................... 44
2.1.1. Bảo đảm mục tiêu môn học: Rèn kĩ năng giao tiếp .............................. 44
2.1.2. Luyện NTLN theo các nhóm kĩ năng từ thấp đến cao và thường xuyên,
liên tục ............................................................................................................. 46
2.1.3. Kết hợp luyện NTLN với việc học văn hóa ứng xử ngôn ngữ ............... 48
2.1.4. Kết hợp luyện NTLN ở gia đình, nhà trường và xã hội ........................ 49
2.2. Một số biện pháp phát huy tính tích cực của HS tiểu học trong dạy học
NTLN .............................................................................................................. 49
2.2.1.Biện pháp phân tích tình huống giao tiếp ....................................... 50
2.2.2. Biện pháp rèn luyện theo mẫu.............................................................. 55
2.2.3.Biện pháp đóng vai - thực hành giao tiếp ...................................... 57
2.2.4. Biện pháp thảo luận nhóm .................................................................... 60
2.3. Xây dựng hệ thống bài tập sử dụng NTLN cho HS tiểu học ................... 63
2.3.1. Bài tập nhận diện .................................................................................. 67


2.3.2. Bài tập chữa lỗi NTLN .......................................................................... 69
2.4. Quy trình thực hiện các kiểu bài tập NTLN ............................................ 76
2.4.1.Quy trình dạy học kiểu bài sử dụng NTLN trong giao tiếp hội thoại .... 76
2.4.2. Quy trình thực hiện kiểu bài sử dụng NTLN trong giao tiếp độc
thoại ................................................................................................................. 85
Kết luận chương 2 ........................................................................................... 91
CHƢƠNG 3: THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM ............................................... 93
3.1. Mục đích thực nghiệm ............................................................................. 93
3.2. Đối tượng, địa bàn thực nghiệm............................................................... 93
3.3. Nội dung tổ chức thực nghiệm ................................................................. 94
3.4. Phương pháp thực nghiệm ....................................................................... 97
3.4.1. Chuẩn bị thực nghiệm ........................................................................... 97
3.4.2. Tiến hành thực nghiệm .......................................................................... 98
3. Kết quả thực nghiệm ................................................................................. 112

KẾT LUẬN .................................................................................................. 115
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 117
PHỤ LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong quá trình đổi mới giáo dục toàn diện cho học sinh ( HS) tiểu học hiện
nay, việc đổi mới phương pháp dạy học ở bậc phổ thông, đặc biệt là đổi mới ở
tiểu học có một vai trò rất quan trọng. Một mặt nó tạo tiền đề cho các hoạt động
đổi mới giáo dục ở cấp học, mặt khác nó góp phần quan trọng trong việc tạo ra
một nền móng học vấn phổ thông cho người lao động Việt Nam trong bối cảnh
hiện đại hóa và hội nhập kinh tế của chúng ta với kinh tế toàn cầu.
Dạy học nghi thức lời nói( NTLN) là một nội dung mới của chương trình
(CT) Tiếng Việt tiểu học năm 2000. Lần đầu tiên chương trình dạy học môn
Tiếng Việt đã đưa NTLN thành một nội dung học tập. Bản chất của dạy học
NTLN là hình thành và phát triển cho HS kĩ năng tiếp nhận và sản sinh ngôn
bản trong môi trường hoạt động của lứa tuổi, góp phần thực hiện mục đích
dạy học Tiếng Việt theo quan điểm giao tiếp mà chương trình tiểu học hiện
nay đã đề ra.
1.1. Hoạt động giao tiếp là hoạt động đặc trưng của con người. Dù ở
ngành nghề nào con người cũng tiến hành các hoạt động giao tiếp. Người ta
sử dụng ngôn ngữ một cách chọn lọc để diễn đạt ý của mình nhằm giúp
người khác biết và hiểu những thông tin đến đối tượng cần giao tiếp, nhằm
đạt đến thành công trong công việc. Vì vậy dạy tiếng không thể tách rời với
dạy giao tiếp. Bên cạnh đó dạy giao tiếp cũng chính là dạy tư duy. Chính vì
vậy dạy học Tiếng việt theo định hướng giao tiếp không chỉ là dạy tri thức
tiếng Việt mà bao gồm dạy cách học, cách nghĩ, thay đổi thái độ người học,
học những giá trị xã hội và thậm chí là thay đổi cá nhân người học. Theo
đó việc rèn kĩ năng sử dụng lời nói trong giao tiếp sẽ giúp học HS sử dụng

đúng Tiếng Việt và giao tiếp tốt hơn là một việc làm hết sức cần thiết.

1


1.2. Ngôn ngữ là một mặt của văn hoá, là nơi tàng trữ văn hoá và biểu
hiện văn hóa của cá nhân, gia đình và của toàn xã hội. Trong ngôn ngữ có
một nhóm hành vi ở lời bao hàm trong nó là hàm lượng cao các giá trị văn
hóa về mặt ứng xử ngôn ngữ. Chúng gắn với từng nền văn hóa, từng dân
tộc và từng địa phương và được chuẩn hóa thành các NTLN của một thứ
tiếng. Luyện tập các NTLN, HS được học các giá trị văn hóa ẩn tàng trong
đó để các em có thể hòa nhập với cuộc sống cộng đồng. Việc sử dụng các
NTLN một cách có văn hóa khiến cho mối quan hệ giữa con người với
con người trở nên tốt đẹp hơn. NTLN chính là cầu nối, là sự liên kết giữa
các thành viên trong gia đình và xã hội với nhau.Việc dạy học các NTLN
trong môn Tiếng Việt giúp HS hiểu rõ hơn văn hóa ứng xử của người Việt
để học hỏi và làm theo. Đồng thời nó cung cấp cho HS các quy tắc liên văn
hóa của giao tiếp bằng tiếng Việt. Các quy tắc này là một phương diện của
văn hóa Việt Nam nhưng chưa được nghiên cứu và khái quát một cách có
hệ thống. Đây cũng là một vấn đề mới và cũng nhiều khó khăn cho việc
dạy học Tiếng Việt nói chung và dạy NTLN nói riêng .
1.3. Dạy NTLN có điều kiện tích hợp với dạy văn hóa ứng xử, dạy đạo
đức, dạy kĩ năng sống … là những vấn đề đang được ngành giáo dục quan
tâm. Xã hội ngày càng phát triển, những thành tựu khoa học kĩ thuật ngày
càng được áp dụng rộng rãi và mang lại nhiều thành tựu to lớn. Khoảng
cách giữa các dân tộc ngày càng thu hẹp. Giao tiếp văn hóa giữa các dân
tộc đều có đặc điểm chung là mở rộng, du nhập lẫn nhau để tạo điều kiện
cho nhu cầu tiếp thu di sản văn hóa thế giới một cách có hệ thống, có chọn
lọc. Sử dụng tiếng Việt, tiếng Anh và các thứ tiếng khác, xưng hô thế nào
cho đúng bản sắc dân tộc hay cho có văn hóa là vấn đề mà nhà trường bắt

buộc quan tâm. Việc nói đúng tiếng Việt của mỗi HS được bắt đầu từ đâu?
Có thể nói rằng, khi trẻ cất tiếng nói đầu tiên đã được cha mẹ, người thân

2


hướng dẫn cách nói. Nhưng việc hướng dẫn trẻ nói tiếng Việt đúng, chuẩn,có
phương pháp, có hệ thống thì trẻ mới được học khi trẻ bước vào trường học.
Khi đến trường, các em gia nhập vào một phạm vi giao tiếp mới có tổ chức: xã
hội- lớp học (giao tiếp với thầy cô giáo, với bạn bè). Các em không thể nói “ứ
ừ” hay lí nhí gật đầu như nói với bố mẹ. Hơn thế nữa, các em còn hiểu rằng có
những lời nói là hay, là đẹp và có những lời nói là không hay, không đẹp.
Để trả lời câu hỏi của cô giáo “Con học bài chưa?”, các em không được
nói “học rồi”. Các em phải hiểu và biết thực hiện nói thành câu và thể hiện sự
lễ phép “Thưa cô, con học bài rồi ạ!”. Hoặc trong giao tiếp với mọi người
xung quanh, các em phải biết rằng khi được ai giúp đỡ phải biết cảm ơn,
khimắc lỗi (hay phạm khuyết điểm) thì cần phải biết xin lỗi. Chính vì vậy
việc dạy sử dụng các NTLN được dạy từ rất sớm.
1.4.Việc rèn kĩ năng nói cho HS tiểu học nói chung và rèn luyện sử
dụng các NTLN được chương trình và sách giáo khoa hiện hành quan tâm
nhiều hơn so với chương trình và sách giáo khoa trước đây. Vì NTLN là
lần đầu tiên được dạy ở nhà trường theo chương trình và có tính hệ thống
nên các GV không tránh khỏi những khó khăn trong quá trình tổ chức các
hoạt động dạy học.Bên cạnh đó,với vốn ngôn ngữ và vốn kinh nghiệm sống
còn ít ỏi, HS tiểu học rất khó khăn khi học nội dung này.Qua quá trình
quan sát việc sử dụng ngôn ngữ hội thoại hàng ngày và khả năng tương tác
hội thoại trong quá trình trực tiếp giảng dạy các em, tôi thấy khả năng giao
tiếp và sử dụng các NTLN của các em còn yếu. Các em mới chỉ sử dụng
được các khẩu ngữ theo thói quen và kinh nghiệm cá nhân. Thực tế này cho
thấy việc rèn kĩ năng nói nói chung và rèn luyện NTLN cho HS tiểu học

nói riêng là điều cần thiết, đòi hỏi phải có những công trình nghiên cứu cơ
bản và công phu.

3


Xuất phát từ những lí do trên, tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài “Một số
biện pháp dạy học nghi thức lời nói cho học sinh tiểu học”. Tôi hi vọng
đề tài này sẽ đưa ra được một số biện pháp dạy cho HS kĩ năng sử dụng
NTLN Tiếng Việt trong quá trình tạo lập và lĩnh hội ngôn bản hội thoại
theo nguyên tắc giao tiếp, góp phần đổi mới và nâng cao chất lượng dạy
học Tiếng Việt cho HS bậc Tiểu học.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. NTLN và các cách tiếp cận
NTLN là một phạm trù có vị trí quan trọng trong nghiên cứu giao tiếp và
ngữ dụng học. Ở nước ngoài, vấn đề sử dụng NTLN từ góc độ lí luận cùng
như thực tiễn được quan tâm dưới góc độ chuẩn mực xã hội (social norm).
Theo hướng này, NTLN là các hành vi xã hội có lễ độ hay là phép tắc của xã
hội trong phạm vi văn hóa mà tiêu biểu là các công trình nghiên cứu của các
nhà ngữ dụng học hiện đại như R Lakoff (1973 – 1989), G Leech (1983), W
Edmondson (1981), A Kasher (1986)… Tiếp cận NTLN dưới góc độ lịch sự một chiến lược giao tiếp có P Brown và S Levinson (1987). Các tác giả này
đã tìm hiểu phép lịch sự của các lời nói trong giao tiếp qua hành vi giữ gìn thể
diện (face saving); B Fraser (1990) nhìn nhận các NTLN dưới góc độ của sự
hợp tác hội thoại… Tìm hiểu các NTLN là đơn vị lời nói làm phương tiện
biểu đạt các hành vi giao tiếp trong tình huống giao tiếp đã có một số nhà
nghiên cứu bàn đến như A. A Akissina, V.M Alpatov, E.A Arsavskaja, E.M
Veresagin, V.G Kostomarow, V.E Gol’din, I.D Skorbajuk, D Hymes, M
Savill Troike… Nhưng đề cập đến một cách hệ thống và toàn diện hơn cả
phải kể đến công trình “Cách dùng NTLN tiếng Nga” của N.I.Phơrơnopxkaia
(1987).Trong cuốn sách này có một số bằng chứng lí thuyết nghiên cứu vấn

đề chung của NTLN và miêu tả, giải thích tương đối tỉ mỉ các công thức,
thành ngữ dùng trong các tình huống khác nhau. Đặc trưng của cuốn sách này

4


chính là giải thích cách dùng các đơn vị NTLN. Bên cạnh những vấn đề lí
thuyết, công trình này chủ yếu miêu tả cách dùng NTLN Nga trên các lĩnh
vực giao tiếp khác nhau.
Cuốn sách thứ hai là “Nghi thức lời nói Nga” - một tài liệu viết chung
của A.A. Akisina và N.I.Phơrơnopxkaia (1981). Mục đích của cuốn sách này
là giúp người học trau dồi thêm kĩ năng trong giao tiếp bằng cách liệt kê một
loạt các NTLN và đưa ra các tình huống thường được sử dụng lời nói đó.
Trong cuốn sách có nhiều bài tập tình huống đa dạng, phong phú, những biểu
bảng về cách diễn đạt các NTLN có thể giúp phát triển sắc thái, văn phong
ngôn ngữ và lời nói Nga.
Rải rác trên các tài liệu về hội thoại ngôn ngữ và nghiên cứu ngữ nghĩa
của các tác giả Anh -Mĩ như J.L.Austin, George Yule, H.P.Grice, J.Lyons,
J.R.Searls, W.J.Ball… có thể thấy nhiều chương mục có liên quan trực tiếp
hay gián tiếp đến đề tài NTLN.
Ở trong nước, vấn đề NTLN là một vấn đề còn nhiều mới mẻ, tuy nhiên
nó cũng đang được quan tâm đúng mực trong một số công trình nghiên cứu
ngôn ngữ học, văn hoá học. Trong cuốn “Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng”, Đỗ
Hữu Châu ( 1987) đã đưa ra bảng phân loại các chức năng của tín hiệu bao
gồm: Chức năng miêu tả, chức năng dụng học, chức năng phát ngôn và chức
năng cú học. Cách phân loại này giúp chúng ta phân xuất được các phát ngôn
NTLN trong toàn bộ thông điệp. Đặc biệt,trong công trình “Đại cương ngôn
ngữ học”, với chương 3 “Hành vi ngôn ngữ”, Đỗ Hữu Châu đã phân tích các
điều kiện (điều kiện may mắn) của một số hành vi ngôn ngữ. Đây cũng là một
sự gợi ý cho chúng tôi trong quá trình miêu tả, phân loại các NTLN gắn với

các hành vi ngôn ngữ khác nhau. Một số tài liệu ngữ pháp tiếng Việt, ngữ
pháp văn bản của tác giả Diệp Quang Ban đã định hướng cho chúng tôi
nghiên cứu một vài đặc điểm ngữ pháp – ngữ nghĩa của NTLN Tiếng Việt.

5


Khi bàn đến “Câu dưới bậc” trong “Câu đơn tiếng Việt”, Diệp Quang Ban
cũng chú ý nhiều đến mô hình của các câu ngữ vi khuyết chủ ngữ. Đó chính
là các câu phát ngôn thuộc NTLN.
Ngoài ra còn có các công trình nghiên cứu mang tính định hướng của các
tác giả: Hoàng Trọng Phiến (1992), Vũ Thị Thanh Hương (1999), Nguyễn
Thiện Giáp (2000), Trần Ngọc Thêm (2000), Nguyễn Quang (2002), Hoàng
Phê (2005)… Các tài liệu này đã xác định được nghi thức giao tiếp và một số
vấn đề liên quan cũng như đã phác thảo được một số hướng tiếp cận NTLN
chủ yếu được đúc kết từ những quan sát dựa vào ngữ liệu Tiếng Việt. Đó là
những bước đi cơ bản cần có khi nghiên cứu NTLN trong sự tương tác hội
thoại dưới sự chi phối của một nền văn hóa.
Năm 1991, trong luận văn thạc sĩ “Bước đầu tìm hiểu về NTLN Tiếng
Việt”, tác giả Nguyễn Văn Lập đã bước đầu tìm hiểu về NTLN và phân loại,
miêu tả NTLN Tiếng Việt trong một số phạm vi giao tiếp quen thuộc như
phạm vi thu hút sự chú ý (chào hỏi, chúc mừng, tạm biệt), phạm vi bày tỏ thái
độ (cảm ơn, xin lỗi, mời mọc, yêu cầu, nhờ vả…). Đây cũng là những cơ sở
để chúng tôi nghiên cứu đặc điểm các khuôn mẫu NTLN và hướng dẫn HS
nhận biết các NTLN, cách tiếp nhận và cách dùng các dạng NTLN trong khi
giao tiếp. Tuy nhiên, các ngữ liệu mà tác giả đưa ra phân tích, miêu tả chưa
mang tính bao quát, toàn diện. Sau này, NTLN Tiếng Việt đã xuất hiện trong
nhiều công trình nghiên cứu. Tiêu biểu có “NTLN Tiếng Việt hiện đại qua
các phát ngôn chào, cảm ơn, xin lỗi” (Phạm Thị Thành -1995), “Cặp thoại
thỉnh cầu (xin) trong sự kiện lời nói điều khiển” (Nguyễn Thị Vân Anh –

2001), “Sự kiện lời nói xin phép” (Đào Nguyên Phúc – 2003), “Hành vi cho,
tặng trong sự kiện lời nói cho, tặng” (Chử Thị Bích – 2001), “Một số đặc
điểm ngôn ngữ - văn hóa ứng xử của hành vi từ chối trong tiếng Việt”
(Nguyễn Phương Chi – 2005), “Hành vi nhờ và sự kiện lời nói nhờ trong giao

6


tiếp tiếng Việt” (Dương Tuyết Hạnh – 2007), “Sự kiện lời nói cam kết trong hội
thoại” (Vũ Tố Nga – 2010), “Hành động ngôn từ giao tiếp và sự tri nhận” (Đặng
Thị Hảo Tâm – 2010)… Nhìn vào thực tế trên, chúng tôi nhận thấy việc nghiên
cứu các NTLN trong hoạt động giao tiếp còn khá mới mẻ, không chỉ ở Việt Nam
mà cả trên thế giới, như tác giả Nguyễn Quang đã từng nhận xét:
“Điều dễ nhận thấy là, do ảnh hưởng của vốn kiến thức nền khác nhau,
với cách tiếp cận khác nhau, với chủ đích nghiên cứu khác nhau…các công
trình này đều ở các mức độ khác nhau, mang tính cục bộ hoặc nhấn mạnh vào
một khía cạnh nào đó, hoặc trình bày một cách ít nhiều tản mạn không hệ
thống, hoặc chỉ là “quãng giữa” của quá trình nghiên cứu nhằm đạt đến đích
nghiên cứu”.
Do NTLN trong các ngôn ngữ đậm đặc tính văn hóa dân tộc nên chúng
đã được nhiều nhà nghiên cứu khai thác. Trong nhiều tài liệu, các tác giả đã
miêu tả, nhận diện các khuôn mẫu NTLN, hiện thực hóa những hành vi ngôn
ngữ trên các phạm trù giao tiếp thông thường, trên bình diện ngôn ngữ học,
ngữ nghĩa và ngữ dụng học. Các công trình này xuất phát từ phổ niệm “ngôn
ngữ - tư duy – hiện thực khách quan”, lấy đối chiếu là cơ sở, tiếng Anh (hoặc
tiếng Nga – Nhật) hoặc ngôn ngữ các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam là tiếng
được đối chiếu, tiếng Việt là tiếng đối chiếu. Do đó, các công trình không chỉ
dừng lại ở việc miêu tả, phân loại một số phát ngôn lời nói đối thoại trên bình
diện tổ chức cú pháp, các khuôn mẫu tương ứng và không tương ứng trong
hai ngôn ngữ, mà còn xem xét đến những điều kiện dùng của chúng, những

mã tín hiệu kèm ngôn ngữ được được điển hình hóa và ước lệ theo thói quen
ngôn từ của từng dân tộc.
Nêu lên một cách đại thể bức tranh nghiên cứu về các đề tài sử dụng
ngôn ngữ Tiếng Việt trong giao tiếp để thấy rằng đây là một hiện tượng ngôn
ngữ - văn hóa tộc người phức tạp với nhiều khía cạnh lí thú và có thể tiếp cận

7


nhiều góc độ khác nhau: Ngôn ngữ học, ngữ dụng học, dân tộc học, văn hóa
học… Mặc dù có những điểm chưa hoàn toàn thống nhất trong cách miêu tả,
phân loại, đối chiếu các phát ngôn lời nói thuộc nghi thức trên bình diện tổ
chức cú pháp do đặc trưng của từng ngôn ngữ, nhưng nhìn chung việc nghiên
cứu, so sánh, đối chiếu NTLN Tiếng Việt với NTLN các ngôn ngữ khác là
một đóng góp cho ngữ dụng học còn rất mới mẻ ở Việt Nam. Các tài liệu
nghiên cứu trên đều đã xác định khuôn mẫu NTLN và đi tới chỗ thống nhất
và chuẩn hóa cách phân loại các NTLN nói chung. Đối với đề tài luận văn,
việc tìm hiểu các tài liệu nghiên cứu này giúp chúng tôi có những căn cứ khoa
học để đánh giá, phân loại các khuôn mẫu NTLN Tiếng Việt và cũng là căn
cứ để xây dựng các dạng bài tập phù hợp.
2.2. Về rèn kĩ năng sử dụng NTLN cho HS tiểu học
Với quan niệm tìm hiểu các thông tin về xây dựng chương trình giáo dục
phổ thông của các nước có nền giáo dục phát triển cao và các nước tương
đồng với Việt Nam là một yêu cầu tất yếu trong quá trình phát triển chương
trình giáo dục phổ thông của Việt Nam, nhóm các tác giả của Viện Khoa học
giáo dục Việt Nam đã nghiên cứu sâu về giáo dục phổ thông của các nước
Phần Lan, California - Mĩ, Hàn Quốc, Malaysia, Liên bang Nga, Trung Quốc,
đồng thời tham khảo các nghiên cứu về giáo dục của một số quốc gia khác
trong khu vực và trên thế giới. Qua đó cho thấy, ở các nước đều rất chú trọng
rèn luyện kĩ năng sử dụng NTLN trong giao tiếp cho HS ngay từ bậc tiểu học.

Ví dụ, ở Hàn Quốc, chuẩn cần đạt kĩ năng nói đối với HS lớp 1 là:“Biết dùng
các từ ngữ để giới thiệu một cách đơn giản về bản thân trong đời sống hàng
ngày. Biết nói những câu chào đơn giản với bạn bè, với các thành viên trong
gia đình, những người quen, các thầy cô giáo và những người khác trong đời
sống hàng ngày”, đối với HS lớp 4 là “Sử dụng các từ ngữ dùng để thể hiện
sự ủng hộ, sự từ chối, hoặc sự hòa giải, lưu tâm đến tình huống / hoàn cảnh

8


của người nghe”[13]. Ở Trung Quốc, Chính phủ yêu cầu đưa vào chương
trình giáo dục cơ sở các tiết học về “cách cư xử văn minh”. Một trong số
những bài học chính cho HS tiểu học là phải nói năng lịch sự, tuân thủ quy tắc
giao thông, tôn trọng người già và cộng đồng người thiểu số. Trẻ lớn tuổi hơn
sẽ được học về phép xã giao khi nói chuyện điện thoại, viết thư và cách trò
chuyện lịch sự với cả người Trung Quốc lẫn người nước ngoài. Còn ở bang
California - Mĩ, trẻ em ngay từ khi còn nhỏ đã rất tự tin trong việc trình bày
bằng lời nói những suy nghĩ, ý tưởng của mình trước người khác bởi các em
đã được rèn luyện kĩ năng nghe và nói ngay từ những năm học đầu tiên và kĩ
năng nói có mặt ở 3 trong 4 yêu cầu cần đạt của các lớp bậc tiểu học: chiến
lược nghe và nói, nghe hiểu, tổ chức và trình bày, thực hành nói. Trong chiến
lược nghe và nói vấn đề ngữ điệu lại rất được quan tâm và chú ý. HS phải biết
kết hợp lời nói, điệu bộ, cử chỉ, động tác với việc trình bày suy nghĩ, ý tưởng
của mình.
Ở Việt Nam, vấn đề giáo dục văn hóa giao tiếp cho HS nói chung và giáo
dục rèn luyện NTLN nói riêng đã bắt đầu được quan tâm nghiên cứu. Những
tài liệu nghiên cứu có liên quan trực tiếp đến phương pháp dạy học NTLN ở
nhà trường phổ thông theo chúng tôi còn ít. Tìm hiểu tình hình nghiên cứu về
vấn đề dạy học NTLN, đến nay chúng tôi được biết đến cuốn sách “Một số
vấn đề về dạy hội thoại cho học sinh tiểu học” của tác giả Nguyễn Trí. Tác

giả đã cố gắng chọn lọc những kiến thức cơ bản, tối thiểu về hội thoại dựa
theo chương trình môn Tiếng Việt tiểu học ban hành năm 2001 và 2006 và
lựa chọn cách trình bày các kiến thức dựa trên sự phân tích một số dẫn chứng
cụ thể để người mới tiếp cận lí thuyết hội thoại dễ hiểu, dễ nhớ, dễ vận dụng.
Bên cạnh đó, cuốn sách còn giới thiệu các kiểu bài tập dạy học luyện nói
trong bộ sách giáo khoa Tiếng Việt tiểu học, trong đó có kiểu bài tập rèn
NTLN cho HS. Trên cơ sở xác định mục đích, cấu trúc các kiểu bài tập đó, tác

9


giả đề xuất ý kiến: đóng vai là phương pháp đặc trưng dạy các bài tập hội
thoại nói chung và dạy học NTLN nói riêng cho HS tiểu học.
Tác giả Phan Phương Dung (2004) với đề tài luận án “Các phương tiện
ngôn ngữ biểu hiện tính lễ phép trong giao tiếp tiếng Việt”đã nghiên cứu một
cách có hệ thống các phương tiện ngôn ngữ biểu thị tính lễ phép và đã đưa ra
một số mẫu bài tập dạy lời nói văn hóa cho HS tiểu học và HS trung học cơ sở.
Trong luận án Tiến sĩ của Nguyễn Xuân Yến “ Xây dựng hệ thống bài tập dạy
học ngôn bản giai đoạn đầu bậc tiểu học theo nguyên tắc giao tiếp”( 2006) đã
tập trung chú ý đến các nhân tố và quá trình giao tiếp khi dạy nói cho học sinh
đầu cấp. Nguyễn Quang Ninh đã bàn đến việc rèn kĩ năng nói theo hướng giao
tiếp trong công trình “Một số vấn đề dạy học ngôn bản nói và viết ở tiểu học
theo hướng giao tiếp”. Từ lý thuyết hội thoại, tác giả đã rút ra một số vấn đề
quan trọng, để HS làm một bài tập làm văn nói tốt, người GV cần phải chú ý tới
một số điểm sau: phải chuẩn bị tốt nội dung bài nói, phải tạo được nhu cầu về
hội thoại cho HS và phải tạo được hoàn cảnh giao tiếp tốt.
Trong đề tài KH&CN“Một số biện pháp nâng cao hiệu quả rèn kĩ năng
nói cho HS tiểu học ở môn Tiếng Việt” của Viện Khoa học Giáo dục Việt
Nam (mã số V2007-06), tác giả Trần Thị Hiền Lương đã xác định được các
biện pháp dạy học rèn kĩ năng nói cho HS xuất phát từ đặc điểm lứa tuổi HS

tiểu học, từ lý luận dạy học hiện đại, theo hướng tăng cường thực hành, luyện
tập. Trong đề tài này, tác giả đã đưa ra các biện pháp rèn luyện kĩ năng nói
như rèn kĩ năng phát âm, rèn kĩ năng nói độc thoại, nói hội thoại trong đó có
kĩ năng sử dụng NTLN cho HS tiểu học.
Xét về phạm vi tìm hiểu, các công trình nghiên cứu của các tác giả kể
trên đã bàn đến mục tiêu, nội dung, biện pháp phát triển NTLN hoặc rèn kĩ
năng sử dụng NTLN cho HS song các NTLN và cách sử dụng các NTLN ấy
mới chỉ được nói một cách khái quát ở chương cuối của các công trình hoặc

10


chỉ được đề cập có giới hạn về một vài khuôn mẫu trong các bài viết mà chưa
được đặt thành một vấn đề lớn để hình thành nên một công trình nghiên cứu
về rèn luyện NTLN cho HS một cách hoàn chỉnh. Do vậy, việc nghiên cứu để
tìm biện pháp nâng cao hiệu quả kĩ năng sử dụng NTLN cho HS tiểu học là
một việc làm cần thiết, nhằm hỗ trợ cho GV trong quá trình dạy học nội dung
mới này.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Đề tài này được thực hiện nhằm mục đích đề xuất được một số biện pháp
dạy học NTLN cho HS tiểu học, nhằm góp phần nâng cao năng lực sử dụng
tiếng Việt trong giao tiếp cho các em.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những nội dung cơ bản về NTLN, hoạt động giao tiếp, văn
hóa giao tiếp và phép lịch sự trong dạy học NTLN Tiếng Việt ở tiểu học.
- Tìm hiểu thực tiễn tổ chức các hoạt động rèn kĩ năng sử dụng NTLN
đồng thời tìm hiểu thực trạng sử dụng các NTLN trong thực tế giao tiếp của
HS tiểu học.
- Xây dựng các nguyên tắc dạy học NTLN, đề xuất một số phương pháp

dạy học các dạng bài rèn kĩ năng sử dụng NTLN trong môn Tiếng Việt ở tiểu
học và xây dựng hệ thống bài tập.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là biện pháp dạy học NTLN cho HS
tiểu học, trên cơ sở tìm hiểu và hệ thống hóa các vấn đề lí luận của ngôn ngữ
học, tâm lí học, giáo dục học có liên quan đến việc dạy học NTLN, làm nền
tảng cho việc xây dựng các biện pháp dạy học NTLN cho HS tiểu học.
NTLN được đề cập đến ở tất cả các lớp của bậc tiểu học nhưng căn cứ vào
CT và SGK, chúng tôi thấy nội dung dạy học NTLN được xuất hiện tập chung

11


chủ yếu ở các khối 1, 2, 3. Mặt khác do vốn ngôn ngữ của HS tiểu học còn ít
nên việc sử dụng các NTLN còn gặp nhiều khó khăn, lúng túng. Do vậy,chúng
tôi thu hẹp phạm vi nghiên cứu của đề tài này là các bài dạy luyện NTLN trong
môn Tiếng Việt cho HS các lớp 1, 2 ,3.
5. Giả thuyết khoa học
Nếu xác định được các biện pháp dạy học các dạng bài rèn kĩ năng sử
dụng NTLN phù hợp với đặc điểm lứa tuổi HS tiểu học, xuất phát từ lí luận
dạy học hiện đại, theo hướng tăng cường thực hành, luyện tập và phát huy trải
nghiệm của HS trong những tình huống giao tiếp sinh động phù hợp với đặc
điểm văn hóa dân tộc thì chất lượng dạy học NTLN ở nhà trường tiểu học sẽ
có hiệu quả hơn và sẽ sớm hình thành ở HS ý thức sử dụng đúng và hiệu quả
các NTLN trong giao tiếp hàng ngày .
6. Đóng góp của đề tài
- Xác định được cơ sở lí luận, cơ sở thực tiễn của biện pháp dạy học các
dạng bài rèn luyện NTLN trong môn Tiếng Việt cho HS tiểu học từ sự vận
dụng các kết quả nghiên cứu của lí luận ngôn ngữ học, giáo dục học, văn hóa
học, các luận điểm của tâm lí – ngôn ngữ học, tâm lí học lứa tuổi, lí luận dạy

học tiếng mẹ đẻ... và kết quả khảo sát thực trạng sử dụng NTLN của HS tiểu
học trong nhà trường, trong gia đình và ngoài xã hội hiện nay.
- Đề xuất được một số biện pháp dạy học các kiểu bài rèn luyện NTLN
hiệu quả hơn so với biện pháp dạy học của GV tiểu học hiện nay. Đồng thời
xây dựng và hệ thống hóa các bài tập rèn luyện NTLN nhằm tăng cường cơ
hội rèn luyện các NTLN cho HS.
Các kết quả nghiên cứu của luận văn này sẽ giúp GV tiểu học nâng cao hiệu
quả dạy học NTLN theo CT và SGK hiện nay. Hy vọng luận văn này sẽ góp một
ý kiến nhỏ bé trong việc đổi mới nội dung và phương pháp dạy học NTLN trong
chương trình và sách giáo khoa Tiếng Việt tiểu học trong tương lai.

12


7. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài này được thực hiện bằng một số phương pháp nghiên cứu chủ
yếu sau: thống kê - phân loại ; điều tra - khảo sát ; phân tích- tổng hợp
7.1. Phương pháp thống kê – phân loại được sử dụng trong quá trình tìm
hiểu nội dung, phương pháp dạy học qua sách giáo khoa tiếng Việt tiểu
học, hoặc điều tra năng lực giao tiếp của HS.
7.2. Phương pháp điều tra khảo sát được sử dụng trong quá trình dạy
học, dự giờ hoặc thông qua viêc khảo sát các bài tập làm văn của HS để
nhận xét thục tiễn dạy học về NTLN ở tiểu học. Kết quả điều tra, khảo sát là
cơ sở của những phương pháp rèn luyện kĩ năng sử dụng NTLN cho HS tiểu
học được sử dụng trong đề tài.
7.3.Phương pháp phân tích – tổng hợp được sử dụng khi phân tích, lí
giải những vấn đề lí luận và thực tiễn đã đề cập trong đề tài như: lí thuyết
hội thoại, mối quan hệ của NTLN và tính lịch sự trong giao tiếp, bản sắc văn
hóa và phong tục tập quán được thể hiện trong NTLN,ưu điểm và tồn tại của
việc dạy học NTLN ở tiểu học .... Kết quả phân tích các hiện tượng cụ thể sẽ

được tổng hợp thành một số nhận xét về NTLN và việc luyện cho HS tiểu học
cách sử dụng NTLN.
Ngoài các phương pháp chủ yếu nói trên, đề tài này còn sử dụng một
số phương pháp nghiên cứu khác như: quan sát, phỏng vấn, trắc nghiệm
khách quan....
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu ,Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn
bao gồm 3 chương
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễm dạy học NTLN trong môn Tiếng
Việt cho HS tiểu học trình bày những vấn đề cơ bản nhất về NTLN như các
quan niệm, lí thuyết giao tiếp, mối quan hệ của NTLN và tính lịch sử trong

13


giao tiếp, bản sắc văn hóa và phong tục tập quán được thể hiện trong NTLN
…Cũng trong chương này, luận văn còn nêu một số nhận xét về chương trình,
sách giáo khoa và quan sát, mô tả các biện pháp dạy học GV sử dụng trên lớp
cũng như các hoạt động sử dụng NTLN cho HS tiểu học.
Chương 2: Tổ chức dạy học NTLN trong môn Tiếng Việt cho HS tiểu học
đề xuất một số nguyên tắc dạy học NTLN, phân tích các biện pháp đặc trưng
của môn Tiếng Việt trong dạy học NTLN và biện pháp dạy học kiểu bài sử
dụng NTLN. Luận văn này cũng xây dựng và phân tích hệ thống bài tập sử
dụng NTLN cho HS tiểu học.
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm miêu tả cách thức, nội dung và kết quả
thực nghiệm, đánh giá tính khả thi của một số biện pháp được đề xuất ở
chương 2

14



PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA DẠY HỌC NGHI
THỨC LỜI NÓI (NTLN) TRONG MÔN TIẾNG VIỆT CHO HS TIỂU HỌC
1. Cơ sở lí luận
1.1. Khái niệm về NTLN
Trước đây, khi ngành ngữ dụng học còn ở giai đoạn phôi thai, giao tiếp,
quá trình giao tiếp, đặc biệt là mô hình giao tiếp được rất nhiều nhà nghiên
cứu quan tâm như Shannon và Weaver (1949), Roman Jakobson (1960), John
Lyon (1978)… còn nghi thức giao tiếp nói chung và NTLN nói riêng lại là
một vấn đề còn bỏ ngỏ. Ngữ dụng học với cách xác định đối tượng là ngôn
ngữ trong hành chức đã mở ra một triển vọng lớn cho việc nghiên cứu ngôn
ngữ trong bối cảnh giao tiếp. Bối cảnh giao tiếp giờ đây không còn bó hẹp
trong phạm vi ngữ cảnh, tức là sự chi phối giữa các đơn vị ngôn ngữ, mà
được mở rộng đến các yếu tố trước đây vẫn được xem là vùng ngoại vi của
ngôn ngữ học.Và cùng với sự xuất hiện của hàng loạt cách tiếp cận liên
ngành, tất cả đều phản ánh một kì vọng chung là muốn nhận thức sâu sắc hơn,
toàn diện hơn vấn đề ngôn ngữ và con người, mà cốt lõi, suy cho cùng, là bản
thể của sự giao tiếp xã hội. Đây là vấn đề phức tạp bởi vì ngôn ngữ với tư
cách là phương tiện liên giao và liên nhân không còn là hệ thống tĩnh tại mà là
một hoạt động mang tính tương tác. Trong điều kiện đó, nghi thức giao tiếp
đã được nhiều nhà nghiên cứu chú ý đến.
Nghi thức giao tiếp là “những yêu cầu đòi hỏi có tính ước lệ cao trong cư
xử lẫn nhau của xã hội loài người được các thành viên trong một xã hội, một
nhóm người, một giai cấp nào đó chấp nhận và thực hiện khi giao tiếp” [1].
Mỗi dân tộc đều có các nghi thức giao tiếp riêng biệt mà các thành viên trong
cộng đồng phải chấp nhận và thực hiện đồng nhất.Việc tạo ra một phát ngôn

15



thích hợp trong bối cảnh giao tiếp cụ thể, có thể là một từ, một tổ hợp từ, một
ngữ đoạn hay thực hiện một hành vi nói năng chính là thực hiện một NTLN.
NTLN là một thuật ngữ mới xuất hiện trong thời gian gần đây, đồng thời
cũng là một khái niệm vừa phức hợp vừa tổng hợp.Tính phức hợp dựa trên
hai khái niệm lớn: “ nghi thức” và “ lời nói”. Tính tổng hợp dựa trên tính tổng
thể về chức năng, về ngữ nghĩa, về cấu trúc của một phát ngôn được xem như
là khuôn mẫu, là công thức giao tiếp sử dụng trong các tình huống giao tiếp
mang tính nghi thức .
Nghi thức là một bộ các hành vi mang tính xã hội được thực hiện một
cách tất yếu” theo quy tắc của xã hội, nhằm duy trì hoạt động giao tiếp.
Lời nói trong khái niệm “ NTLN” được xem xét trước hết là một định từ
nhằm hạn định khái niệm “ nghi thức”, có nghĩa là chỉ xét đến nghi thức trong
lời nói, nghi thức được biểu đạt bằng các tín hiệu ngôn ngữ. Mặt khác, lời nói
ở đây được xem như là tổng thể các đơn vị giao tiếp bằng ngôn ngữ - các phát
ngôn có liên quan đến người phát, người nhận và hoàn cảnh giao tiếp.
Theo A.A.Akisina và N.I. Phơrơmanopxkaia (1981)trong cuốn “ Nghi
thức lời nói Nga” thì: “ NTLN là những quy tắc giao tiếp bằng lời - những
ước lệ được xác định bởi mối liên hệ tương hỗ giữa những người nói với
nhau. Những quy tắc này được cộng đồng dân tộc ấy và đồng thời cả nhóm
xã hội nhỏ bé, tiếp nhận tùy thuộc vào lứa tuổi, tầng lớp xã hội, tình huống
giao tiếp v..v..”. Sau này, N.I. Phơrơmanopxkaia hình dung vấn đề rõ ràng
hơn: “ NTLN – với nghĩa hẹp - là những quy tắc ứng xử lời nói đặc trưng của
từng dân tộc được dùng trong những tình huống có những người đối thoại
đang tiếp xúc và giao tiếp với giọng điệu được lựa chọn phù hợp với hoàn
cảnh giao tiếp, với các dấu hiệu xã hội của những người đối thoại và các mối
quan hệ giữa họ với nhau và được biến thành các động hình giao tiếp.

16



Như vậy có thể thấy, NTLN là những quy tắc và quy ước ứng xử bằng lời
trong những tình huống giao tiếp mang tính nghi thức, có liên quan đến đặc
điểm dân tộc, sự quy định của xã hội, thói quen, phong tục tập quán lưu hành
trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Với cách hình dung này, có thể kể các
hành động ngôn ngữ như chào, giới thiệu, cám ơn, xin lỗi. yêu cầu, khen, chê,
từ chối... đều thuộc về NTLN. Số lượng hành động ngôn ngữ mang tính nghi
thức là rất lớn và việc tìm hiểu về NTLN Tiếng Việt cũng còn nhiều vấn đề
cần nghiên cứu, Đúng như GS.TS Lý Toàn Thắng đã nhận xét: “Vấn đề NTLN
là một trong những vấn đề thuộc loại khó nhất của Việt ngữ học”.
1.2. Lí thuyết hành vi ngôn ngữ và NTLN Tiếng Việt
1.2.1. Nhận diện các NTLN Tiếng Việt dựa vào lí thuyết hành vi ngôn ngữ.
Các hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ và các thao tác của nó chịu sự
kiểm tra ngặt nghèo cũng như chịu ảnh hưởng từ các nguyên tắc thẩm mĩ và
các quy ước xã hội. Xã hội đặt ra những hình thức nghi lễ ứng xử (trong đó có
cả những ứng xử lời nói) mỗi khi thiết lập và duy trì sự tiếp xúc với người đối
thoại và đòi hỏi những người bản ngữ phải tuân thủ các quy tắc ấy. Để giao
tiếp được với nhau, con người phải tuân theo những nghi thức nhất định theo
quy ước của xã hội, chẳng hạn như trước khi vào câu chuyện thì phải chào
hỏi, khi nhận ân huệ từ người khác thì phải cám ơn, khi mắc lỗi thì phải xin
lỗi… NTLN chính là nơi bộc lộ rõ rệt nhất tính riêng biệt của văn hóa, tâm lí
dân tộc, bởi tính quy ước chặt chẽ, nghiêm ngặt của nó. NTLN với tư cách
hành vi giao tiếp xã hội, “thực hiện các hành vi nói năng dưới các hình thức
đối thoại, độc thoại với những tham số về ngôn ngữ và tâm lí”. Trong NTLN,
“tính xã hội” của ngôn ngữ vô cùng đậm nét, bởi người giao tiếp không hành
động cho riêng mình mà cho quan hệ của họ với người xung quanh.
NTLN gắn chặt với lí thuyết hành vi ngôn ngữ, còn gọi là lí thuyết hoạt
động lời nói, mà người mở đầu là J.L.Austin và sau đó là J.Searle.

17



Theo J.L. Austin có hai loại phát ngôn khác nhau: phát ngôn nhận xét và
phát ngôn ngữ vi. Một phát ngôn được gọi là nhận xét nếu nó được dùng để
miêu tả một sự kiện, một hiện tượng nào đó. Một phát ngôn được gọi là ngữ
vi nếu nó được dùng để miêu tả một hành vi nào đó của người nói hoặc khi
phát ngôn xong động từ ngữ vi thì hành động ngữ vi cũng được thực hiện.
Những phát ngôn ngữ vi là phạm vi mà ở đó các NTLN được sản sinh theo
nhiều kiểu cấu trúc khác nhau.
NTLN nằm ở khu vực ở lời. Khi các hành vi ở lời này được lặp đi lặp lại
ở nhiều người đến mức trở thành tập quán ngôn từ theo một quy ước sử dụng
chung của một cộng đồng ngôn ngữ thì các hành vi đó trở thành NTLN.
Những NTLN này phục vụ cho việc thiết lập, duy trì và phát triển đối thoại.
Xa hơn nữa, nó làm cho mối quan hệ giữa người với người mang tính người
hơn, phù hợp với xã hội văn minh, thể hiện những nét tế nhị trong tâm lí của
con người hiện đại.
J.Searle đã nêu ra những trường hợp sau: Khẳng định, miêu tả, suy đoán,
khuyến cáo, nhận xét. ra lệnh, chú thích, cầu xin. phê phán, xin lỗi. khiến
trách, sỉ nhục, tán đồng, chúc mừng, từ biệt, hứa hẹn, trách móc, đòi hỏi,
khen ngợi, cảnh cáo, chào hỏi. Có bao nhiêu hành vi ngôn ngữ thì có bấy
nhiêu động từ ngữ vi và ngược lại. Tuy nhiên, trong thực tế, số lượng động từ
ngữ vi rất lớn, số lượng các động từ này trong các ngôn ngữ cũng không
giống nhau và Austin đã đưa ra một số loại sau :
((1)Verditives: phán xử (buộc tội, tuyên án)
(2)Exercitives: hành sử (ra lệnh, khuyên báo)
(3)Commissives: cam kết (hứa hẹn, thề nguyền)
(4)Comportecmentaux: ứng xử (xin lỗi, cám ơn, khen ngợi, chúc mừng,
chia buồn, phê phán, thách thức, nghi ngờ).

18



(5)Expositives: trình bày (khẳng định, phú định, nhận xét, báo cáo ý
kiến, tranh luận)
Mỗi một hành vi ngôn ngữ là một đơn vị giao tiếp. Đó là một chỉnh thể
gồm lời kích thích lời ứng đáp. NTLN nếu có trong một hành động ngôn ngữ
thì đó chỉ là một bộ phận góp phần làm đầy nội dung giao tiếp. NTLN là
những khuôn mẫu, khuôn hình có sẵn. Nhưng mỗi lần giao tiếp, người nói lại
tái lập, thiết kế, nhào nặn nó sao cho phù hợp với những điều kiện sau đây:
- Đúng chỗ nhất với hoàn cảnh giao tiếp.
- Thích hợp nhất với các nhân vật giao tiếp
- Quen thuộc nhất và ưa dùng nhất đối với người nói theo những dấu
hiệu, điều kiện khu biệt xã hội và cá nhân của mình
1.2.2. Đặc điểm các NTLN Tiếng Việt và việc rèn luyện NTLN ở tiểu học
Ở tiểu học, các em được học hầu hết các NTLN của Tiếng Việt. Các
NTLN cơ bản trong Tiếng Việt là các nghi thức phát ngôn. Nó xuất hiện
thường xuyên hàng ngày, gần gũi với chúng ta. Chúng ta nói chuyện gì, với ai
cũng rất cần những nghi thức đó.
Ví dụ: Cảm ơn, xin lỗi, hứa hẹn, chúc mừng, mời, động viên an ủi, tán
thành, chào hỏi….. NTLN có mặt trong giao tiếp hàng ngày. Nó rất đa dạng
và phong phú. Đối với mỗi cuộc giao tiếp đều có hoàn cảnh giao tiếp riêng,
nhân vật giao tiếp riêng, có hiện thực nói tới riêng với một nội dung giao tiếp
riêng thì đều có một NTLN riêng. Nói với người trên phải kính trọng, lễ phép
có NTLN khác với NTLN với bạn bè. Tùy tình huống giao tiếp phải có cách
nói năng cho phù hợp .
Dạy NTLN trong trường tiểu học tức là đưa HS tiếp cận với thực tế, giúp
các em thực hành, giải quyết các vấn đề thiết thực trong cuộc sống. Có rất
nhiều em lúng túng khi nói chuyện với người khác (người lớn, bạn bè, em
nhỏ…). Đặc biệt là có những em không biết nói gì, có em dùng từ sai, nói sai,


19


×