Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Đề Cương Triết học ĐHBK HN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (768.6 KB, 27 trang )

ĐỀ CƯƠNG TRIẾT CUỐI KHÓA
Câu 1.
CNDV BC khẳng định rằng: Vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố
hữu của vật chất.
Anh (Chị) hãy phân tích để làm sáng tỏ luận điểm trên. Rút ra ý nghĩa đối với bản thân trong
học tập, công tác.
(Hãy phân tích quan điểm của CNDV BC về vận động, rút ra ý nghĩa đối với bản thân trong
học tập, công tác)
(Hãy phân tích định nghĩa vận động của Ănghen, rút ra ý nghĩa đối với bản thân trong học
tập, công tác)
Trả lời.
Nói về vận động có rất nhiều quan điểm khác nhau. Mỗi trường phái triết học đều có
các cách nhìn nhận khác nhau về vận động. Để có thể hiểu một cách sâu sắc quan điểm chính
xác và khoa học của CNDV biện chứng về vận động, trước hết ta điểm qua một số quan điểm
khác nhau về vận động. Quan điểm siêu hình do chịu ảnh hưởng sâu sắc từ cơ học của Newton
nên cho rằng nguồn gốc của vận động nằm ở bên ngoài sự vật hiện tượng, thế giới bắt đầu vận
hành từ “cú hích của thượng đế”, vận động chỉ là sự di chuyển vị trí của vật thể trong không
gian và thời gian. Trong khi đó quan điểm duy tâm coi nguồn gốc của vận động nằm trong ý
thức, cảm giác hoặc do một thực thể tinh thần nào đó như “Ý niệm tuyệt đối” của Heghen hoặc
thế giới ý niệm của Platon. Điều này đối lập hoàn toàn với quan điểm về vận động của CNDV
biện chứng. Quan điểm của CNDV biện chứng về vận động được thể hiện qua định nghĩa về
vận động của Ănghen: “ Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất được hiểu là một phương thức
tồn tại của vật chất, thuộc tính cố hữu của vật chất thì được hiểu bao gồm tất cả mọi sự thay
đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”.
Định nghĩa của Ănghen đã thể hiện rất rõ ràng quan điểm của CNDV biện chứng về
vận động. Trước tiên Ănghen đã khẳng định vận động là phương thức tồn tại của vật chất.
Nghĩa là vật chất tồn tại bằng cách vận động, trong vận động và thông qua vận động mà các
dạng vật chất thể hiện đặc tính của mình. Trong quá trình khám phá thế giới khách quan, việc
nhận thức sự vận động của vật chất trong các dạng khác nhau của nó, về thực chất là đồng
nghĩa với nhận thức bản thân vật chất vì các hình thức và các dạng khác nhau của vật chất chỉ
có thể nhận thức được qua vận động, thuộc tính của vật thể chỉ bộc lộ qua vận động.


Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất. Không thể có vật chất không vận động và
cũng không thể có sự vận động nào lại không phải là vận động của vật chất. Sự vận động của ý
thức, tư duy trên thực tế cũng là sản phẩm của sự vận động của vật chất. Vận động là tự thân
vận động, nguồn gốc của vận động nằm ngay trong bản thân sự vật, sự vận động được tạo nên
do sự tác động lẫn nhau của cách thành tố nội tại trong cấu trúc của vật chất. Quan điểm này
đối lập hoàn toàn với quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và quan điểm siêu hình về vận động.
Vận động là tuyệt đối, là vĩnh viễn, dựa trên những thành tựu của triết học và khoa học
tự nhiên trong lịch sử nhận thức, triết học Mác – Lê nin khẳng định: vật chất không do ai sáng
tạo ra và không thể bị tiêu diệt, cho nên vận động với tính cách là phương thức tồn tại tất yếu
của vật chất cũng không thể bị mất đi hoặc được sáng tạo ra. Nếu một hình thức vận động nào


đó của một sự vật hiện tượng mất đi thì tất yếu sẽ nảy sinh một hình thức vận động khác thay
thế cho nó. Nghĩa là các hình thức vận động chỉ chuyển hóa lẫn nhau, chứ vận động của vật
chất nói chung thì vĩnh viễn tồn tại cùng với sự tồn tại của vật chất. Điều này đã được chứng
minh qua định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng. Theo định luật này, vận động của vật
chất được bảo tuàn cả về mặt lượng và chất. Nếu một hình thức vận động nào đó của sự vật
mất đi thì tất yếu nảy sinh một hình thức vận động khác thay thế nó. Cho đến nay, theo cách
phân loại phổ biến thì có 5 hình thức vận động cơ bản là vận động cơ học, vận động vật lý, vận
động hóa học, vận động sinh học và vận động xã hội. Các hình thức vận động này quan hệ với
nhau theo những nguyên tắc nhất định. Các hình thức vận động có liên hệ tác động, chuyển
hóa lẫn nhau nhưng có sự khác nhau về chất, từ vận động cơ học đến vận động xã hội khác
nhau về trình độ của sự vận động. Các hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình
thức vận động thấp, bao hàm trong nó tất cả các hình thức vận động thấp hơn, trong đó các
hình thức vận động thấp hơn không thể bao hàm các hình thức vận động cao hơn. Trong sự tồn
tại của mình, mỗi một sự vật có thể gắn liền với nhiều hình thức vận động khác nhau, tuy
nhiên bản thân sự tồn tại của sự vật đó bao giờ cũng được đặc trưng bằng một hình thức vận
động cơ bản, ví dụ như đối với con người thì vận động xã hội là đặc trưng cho hoạt động của
nó. Trong cơ thể sinh vật có các hình thức vận động cơ học, vật lý, hóa học, sinh học nhưng
vận động sinh học mới là đặc trưng cơ bản của sinh vật.

Triết học Mác – Lê nin khẳng định thế giới vật chất tồn tại trong sự vận động vĩnh cửu,
điều đó không có nghĩa là phủ nhận sự đứng im của thế giới vật chất. Trái lại CNDV BC thừa
nhận sự đứng im tương đối. Đứng im chỉ là tương đối vì hiện tượng đứng im chỉ xảy ra trong
một quan hệ xác định chứ không phải trong mọi quan hệ, trong cùng một lúc, hiện tượng đứng
im chỉ xảy ra đối với một hình thức vận động nhất định chứ không phải đối với tất cả các hình
thức vận động trong cùng một lúc.
Hiện tượng đứng im chỉ là biểu hiện của một trạng thái vận động, đó là vận động trong
thăng bằng, trong sự ổn định tương đối. Chính nhờ trạng thái ổn định này mà vật chất biểu
hiện thành các sự vật cụ thể và qua đó sự vật mới có thể có điều kiện để thực hiện sự phân hóa
tiếp theo. Vận động cá biệt có xu hướng hình thành sự vật ổn định nào đó còn vận động nói
chung, tức là sự tác động qua lại lẫn nhau giữa sự vật và hiện tượng làm cho tất cả không
ngừng biến đổi.
Qua những phân tích trên đã phần nào cho ta thấy tính đúng đắn và khoa học về vận
động của CNDV biện chứng. Qua đó mà ta có thể rút ra được nhiều bài học quý giá cho chính
quá trình học tập và công tác của bản thân mỗi người.
Vận động là tự thân vận động, do đó cần xác định rõ ràng động lực để học tập là từ bên
trong chứ không phải từ tác động bên ngoài, do đó cần có quan điểm đúng đắn khi học tập, tự
cố gắng và nỗ lực để đạt được kết quả học tập tốt nhất theo khả năng của mình. Kết quả đạt
được chính là phản ánh cố gắng của bản thân.
Vận động có nguồn gốc là sự tác động qua lại giữa các mặt, các yếu tố bên trong sự vật.
Thực chất đó là quá trình giải quyết các mâu thuẫn bên trong sự vật, hiện tượng. Khi mâu
thuẫn này được giải quyết thì mâu thuẫn khác lại nảy sinh. Do đó trong học tập cũng như khi
công tác, tự thân vận động thể hiện ở sự cố gắng học hỏi, không ngừng trau dồi kiến thức và
chuyên môn.


Câu 2:
Đại hội Đảng lần thứ VII, đã khẳng định: “ Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất
phát từ thực tế khách quan „.
Bằng hiểu biết của Chủ nghĩa duy vật biện chứng, anh (chị) hãy làm sáng tỏ luận điểm trên.

Liên hệ với công cuộc đổi mới của đất nước ta hiện nay.
(Bằng hiểu biết của CN DVBC về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, anh (chị) hãy làm sáng
tỏ luận điểm trên)
( Hãy trình bài ( phân tích) cơ sở lý luận của bài học được rút ra tại Đại hội VII:“Mọi đường
lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế khách quan „.
Trả lời:
Trong đại hội Đảng lần thứ VII đã khẳng định :“ Mọi đường lối, chủ trương của Đảng
phải xuất phát từ thực tế khách quan „.Đây là một quan điểm đúng đắn đã được Đảng rút ra từ
bài học về mối liên hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Để có được hiểu biết sâu sắc hơn
luận điểm trên của Đảng, trước hết ta tìm hiểu một số khái niệm cơ bản về vật chất và ý thức.
Khái niệm về vật chất trong CNDV biện chứng đã được thể hiện đầy đủ trong định nghĩa về
vật chất nổi tiếng của Lênin: “ Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách
quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp
lại, phản ánh lại và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác „. Ý thức là sự phản ánh hiện thực
khách quan vào trong bộ óc con ngưòi một cách năng động, sáng tạo.
Giữa vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng chặt chẽ với nhau. Điều đó được thể
hiện qua hai nội dung cơ bản. Trước hết đó là: Vật chất quyết định ý thức, vật chất có trước, ý
thức có sau. Vật chất là nguồn gốc của ý thức vì ý thức được hình thành nhờ thuộc tính phản
ánh có ở mọi dạng vật chất. Nói cách khác ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ
chức cao nhất là bộ não con người. Ý thức chính là sự phản ánh thế giới vật chất, do đó vật
chất quyết định nội dung của ý thức. Tuy nhiên đó là sự phản ánh rất sáng tạo theo các quy
luật và nằm trong khuôn khổ của sự phản ánh, đó không phải là một sự phản ánh giản đơn
thuần túy. Điều đó được thể hiện có nhiều thứ không có trong thế giới vật chất nhưng vẫn có
trong ý thức, như Phơ bách đã viết rằng: Chúa là do con người sáng tạo ra theo hình ảnh của
con người khi ông phê phán tôn giáo.
Tuy vật chất quyết định ý thức và có trước ý thức, điều đó không có nghĩa là ý thức thụ
động so với vật chất. Ý thức tác động trở lại đối với vật chất, đây cũng chính là vai trò của ý
thức. Sự tác động này diễn ra thông qua thực tiễn và theo 2 hướng, tích cực hoặc tiêu cực. Nếu
sự tác động của ý thức phù hợp với quy luật khách quan thì nó có tác dụng tích cực, thúc đẩy
thế giới vật chất phát triển. Ngược lại, nếu ý thức là sai lầm, không phản ánh đúng quy luật

khách quan của thế giới vật chất nó sẽ có tác dụng kìm hãm sự phát triển của thế giới vật chất.
Tuy nhiên tác dụng kìm hãm này chỉ có tính chất tạm thời vì quy luật tất yếu, những hiểu biết
sai lầm sẽ được thay thế bằng những hiểu biết đúng đắn hơn, chính xác hơn.
Qua việc phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức ta có thể rút ra ý
nghĩa phương pháp luận quý giá. Đó là:
Trong hoạt động nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn cần tuân theo nguyên tắc
khách quan. Vì thế giới vật chất tồn tại khách quan và không phu thuộc vào ý thức. Cần phải
tôn trọng thực tế, tôn trọng quy luật khách quan.


Vì ý thức không thụ động mà tác động trở lại thế giới vật chất. Do đó cần phát huy vai
trò của ý thức, của tri thức, đó là phát huy nhân tố con người. Sự tác động trở lại của ý thức
đối với vật chất là cự kỳ quan trọng mà nếu nhìn bề ngoài có thể lầm tưởng ý thức quyết định
vật chất.
Đối với điều kiện cụ thể ở Việt Nam, Đảng ta đã có sự thấu hiểu sâu sắc và vận dụng có
hiệu quả luận điểm trên. Điều này được thể hiện qua bài học: “Mọi đường lối, chủ trương của
Đảng phải xuất phát từ thực tế khách quan „. Bài học này lần đầu tiên được đưa ra tại đại hội
VI, đại hội đổi mới của Đảng. Bài học này đã được Đảng rút ra sau khi phân tích những tình
hình cụ thể đang diễn ra ở nước ta lúc bấy giờ:
Điểm xuất phát của nước ta khi tiến hành xây dựng CNXH là một nước nông nghiệp lạc
hậu. Trong các văn kiện đại hội VI, VII, VIII đều đã khẳng định nước ta là một nước nghèo.
Đến văn kiện đại hội X chúng ta đã nhấn mạnh lại điểm xuất phát của nước ta là một nước
kém phát triển, trình độ dân trí thấp.
Nước ta trải qua một cuộc chiến tranh dài, dẫn đến tồn tại một cơ cấu quản lý bao cấp,
mệnh lệnh. Thêm vào đó chúng ta có phần say sưa trong chiến thắng vì đã đánh thắng hai đế
quốc mạnh nhất thế giới lúc bấy giờ. Điều này dẫn đến căn bệnh chủ quan duy ý chí, không
tôn trọng các quy luật khách quan, điều này đã dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế những năm
80.
Chính vì những lý do trên, đại hội VI của Đảng là một đại hội đổi mới với chủ trương
nhìn thẳng vào sự thật và đưa ra bài học đầu tiên:“ Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải

xuất phát từ thực tế khách quan „. Bài học này đã được các đại hội VII, VIII chú trọng. Thực
chất của bài học này xuất phát từ nguyên tắc khách quan. Sau khi rút ra bài học trên, sau 20
năm đổi mới nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn về cả kinh tế, chính trị, văn hóa xã
hội. Trong văn kiện đại hội X đã viết :“ Đất nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, có
sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh. Sự nghiệp Công nghiệp hóa Hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN đang đẩy mạnh. Đời sóng nhân
dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kiết toàn dân tộc được củng cố
và tăng cường. Chính trị xã hội ổn định, quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta
trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất
nhiều tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiệp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp „.
Sự tác động của ý thức đối với vật chất là cực kỳ quan trong. Đảng ta đã sớm nhìn nhận
thấy vai trò, tác dụng của ý thức và đã có nhiều chủ trương để phát huy nhân tố con người
trong sự nghiệp đổi mới. Đó là:
Lấy CN Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
mọi hành động.
Trong chủ trương đổi mới của Đảng, trước hết là rất chú trọng đổi mới tư duy, lấy đó
làm điều kiện, tiền đề cho đổi mới hoạt động thực tiễn.
Đại hội VIII của Đảng đã đưa ra chủ trương:“ Lấy việc phát huy nguồn lực con người
làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững „. Va muốn vậy Đảng cũng chủ
trương:“ Phải khơi dậy trong nhân dân lòng yêu nước, ý chí quật cường, phát huy tài trí của
người Việt Nam quyết tâm đưa nước nhà ra khỏi nghèo nàn lạc hậu „.



Câu 3:
Phân tích cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử cụ thể. Ý nghĩa của
quan điểm này trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.
(Hãy phân tích nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, ý nghĩa phương pháp luận và liên
hệ với công cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta).
Trả lời:
Cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử cụ thể là những nguyên tắc

quan trọng của phép biện chứng Macxit. Trước khi phân tích cơ sở lý luận của quan điểm toàn
diện và quan điểm lịch sử cụ thể, trước hết ta điểm qua các khái niệm về quan điểm toàn diện
và quan điểm toàn diện của CNDV biện chứng. Quan điểm toàn diện được thể hiện qua hai
yêu cầu, đó là: Xem xét sự vật trong tổng thể các mối quan hệ. Đó là các mối liên hệ qua lại
giữa các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính khác nhau của sự vật đó và các mối liên hệ qua lại
giữa sự vật đó với các sự vật khác (cả trực tiếp và gián tiếp). Thứ hai khi xem xét sự vật cần
thấy rõ vị trí, vai trò của các mối liên hệ. Ngoài việc chú trọng tới việc xem xét nhiều mặt,
nhiều mối quan hệ của sự vật, quan điểm toàn diện yêu cầu phải biết làm nổi bật cái cơ bản,
cái quan trọng của sự vật, hiện tượng đó. Tránh rơi vào quan điểm triết trung cào bằng các mối
quan hệ, tạo nên một bức tranh không đúng về sự vật, hiện tượng. Cần phải chú trọng đến các
mối quan hệ chủ yếu, cơ bản, bên trong. Quan điểm lịch sử cụ thể yêu cầu đặt sự vật trong thời
gian, không gian của nó. Thực chất trong quan điểm toàn diện đã bao hàm quan điểm lịch sử
cụ thể. Vì khi xem xét các mối quan hệ của sự vật, hiện tượng cũng đã xét đến yếu tố không
gian và thời gian. Cơ sở lý luận của hai quan điểm trên chính là nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến.
Khi nói về mối liên hệ, không chỉ có phép biện chứng Macxit nói đến. Có rất nhiều
quan điểm khác nhau về mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng. Để có thể hiểu một cách sâu
sắc về nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật. Trước tiên ta chỉ ra
một số quan điểm khác về mối liên hệ. Quan điểm siêu hình cho rằng các mối liên hệ chỉ là hời
hợt, bên ngoài, ngẫu nhiên. Còn quan điểm duy tâm cho rằng cơ sở của các mối liên hệ do ý
thức quyết định. Béccơli coi cơ sở của sự liên hệ giữa các sự vật và hiện tượng là cảm giác,
Hêghen tìm cơ sở của sự liên hệ qua lại giữa các sự vật và hiện tượng ở ý niệm tuyệt đối. Quan
điểm chiết trung thừa nhận các mối liên hệ, thừa nhận sự thống nhất của các sự vật, hiện tượng
trên thế giới nhưng không phân biệt vị trí, vai trò của các mối liên hệ. Coi vị trí, vai trò của các
mối liên hệ là như nhau. Quan điểm ngụy biện thừa nhận các mối liên hệ, sự thống nhất của
các sự vật, hiện tượng. Nhưng đưa những mối liên hệ không cơ bản thành mối liên hệ cơ bản,
những mối quan hệ bên ngoài thành những mối liên hệ bên trong, những mối liên hệ thứ yếu
thành những mối liên hệ chủ yếu. Từ đó tạo nên bức tranh hoàn toàn sai lầm về sự vật, hiện
tượng. CNDV biện chứng khẳng định: Mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy
định, sự tác động qua lại, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng hay giữa các mặt

của sự vật, hiện tượng trong thế giới. Các mối liên hệ có ba tính chất cơ bản là:
Tính khách quan: Các mối liên hệ tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý thức, ý
muốn của chúng ta.
Tính phổ biến: Không có sự vật hiện tượng nào tồn tại tách rời các mối liên hệ.


Tính đa dạng nhiều vẻ: Các sự vật hiện tượng trên thế giới rất đa dạng, do đó các mối
quan hệ cũng rất đa dạng, nhiều vẻ.
Theo quan điểm DVBC mỗi sự vật hiện tượng tồn tại trong vô vàn các mối liên hệ. Tuy
nhiên vai trò của các mối liên hệ đó là khác nhau. Có mối liên hệ bên trong và bên ngoài, chủ
yếu và thứ yếu, cơ bản và không cơ bản. Chỉ có mối liên hệ bên trong, chủ yếu, cơ bản đóng
vai trò quyết định. Các mối quan hệ bên ngoài, không cơ bản, thứ yếu có vai trò quan trọng.
Sự phân các mối liên hệ vừa có tính tuyệt đối vừa có tính tuyệt đối. Tính tương đối thể hiện
các mối liên hệ có thể chuyển hóa lẫn nhau, trong mối quan hệ này, tại thời điểm này nó là bên
trong nhưng trong mối quan hệ khác, thời điểm khác nó lại là bên ngoài. Tính tuyệt đối được
thể hiện khi xem xét đối với một sự vật hiện tượng cụ thể, một mối quan hệ chỉ có thể là mối
quan hệ bên trong hoặc bên ngoài, cơ bản hoặc không cơ bản, chủ yếu hoặc thứ yếu.
Sau khi phân tích nguyên lý về mối liên hệ phổ biến Đảng ta đã vận dụng một cách
sáng tạo quan điểm toàn diện cũng như quan điểm lịch sử cụ thể trong công cuộc đổi mới đất
nước.
Vận dụng quan điểm toàn diện, Đảng chủ trương phát triển vừa đảm bảo cân đối, đồng
đều nhưng đồng thời vừa có trọng tâm và trọng điểm: Trong đường lối xây dựng CNXH trong
thời kỳ quá độ Đảng ta xác định phải phấn đấu phát triển toàn diện, cân đối kinh tế - xã hội ở
nước ta, nhưng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở những chặng đường trước mắt đại
hội IX vạch rõ: Phải lấy phát triển kinh tế, công nghiệp hóa - hiện đại hóa làm nhiệm vụ trung
tâm, đồng thời chú trọng đến phát triển nông nghiệp, cần phát triển nhanh, phát triển rút ngắn
một số ngành và lĩnh vực như công nghệ tin học, bưu chính viễn thông, giao thông liên lạc, cơ
khí chế tạo, tạo ra những bước phát triển mang tính đột phá hình thành và xác lập các tiền đề,
điều kiện để thúc đẩy sự phát triển các ngành, lĩnh vực khác, xác lập từng bước nhanh chóng
và vững chắc vị thế cạnh tranh trong cho nền kinh tế. Phát triển kinh tế trong điều kiện nước ta

hiện nay chưa thể nào có sự phát triển đồng đều giữa các ngành, các vùng. Đảng ta xác định
ngành nào, vùng nào có điều kiện, có tiềm năng thì phát huy lợi thế so sánh phát triển nhanh
tạo nên các khu vực, các ngành kinh tế động lực, hỗ trợ, thúc đẩy nơi khác, ngành khác phát
triển từng bước đuổi kịp tiến tới phát triển đồng đều.
Phát triển kinh tế - xã hội phải gắn chặt với việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ
với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ là tập trung phát triển nội lực, coi nội lực là động
lực chủ yếu để phát triển đất nước. Phải nắm bắt thời cơ để phát triển nội lực là vấn đề trọng
yếu để phát triển kinh tế. Phát triển kinh tế nhằm tăng cường nội lực mới giữ vững hòa bình và
tham gia hợp tác quốc tế có hiệu quả. Mặt khác Đảng khẳng định phải chủ động hội nhập kinh
tế thế giới vì tình hình thế giới hiện nay đang tạo những điều kiện thuận lợi cho các nước
nhiều cơ hội để phát triển. Nếu không tranh thủ thời cơ bỏ lỡ những cơ hội của thế giới thì
không thể nào có sự phát triển thực sự.
Vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể, khi Đảng xây dựng đường lối, chủ trương của từng
giai đoạn cách mạng cũng như của từng thời kỳ xây dựng đất nước, đặc biệt trong thời đại đổi
mới. Bao giờ Đảng cũng phân tích tình hình cụ thể của đất nước cũng như bối cảnh lịch sử
quốc tế diễn ra trong từng thời kỳ.
Khi thực hiện Đảng luôn có sự bổ xung và phát triển.


Câu 4:
Phân tích cơ sở lý luận của quan điểm phát triển. Ý nghĩa của quan điểm này đối với công
cuộc xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay.
Trả lời:
Cơ sở lý luận của quan điểm phát triển là nguyên tắc quan trọng trong phép biện chứng
Mác xít. Trước khi phân tích cơ sở lý luận, trước tiên ta cần tìm hiểu về quan điểm phát triển.
Theo CNDV biện chứng, quan điểm phát triển thể hiện qua hai yêu cầu. Đó là: Khi xem xét sự
vật, hiện tượng phải đặt trong sự vận động, biến đổi không ngừng, khái quát những biến đổi để
vạch ra xu hướng biến đổi chính của sự vật. Yêu cầu thứ hai là phải biết chia quá trình phát
triển của sự vật ra thành nhiều giai đoạn để tìm cách tác động cho phù hợp. Cơ sở lý luận của

quan điểm phát triển là nguyên lý của sự phát triển trong phép biện chứng duy vât.
Để có thể hiểu rõ hơn tính khoa học và chính xác nguyên lý về sự phát triển của phép
biện chứng Macxit, trước hết ta sẽ điểm qua một số quan điểm khác về sự phát triển. Quan
điểm siêu hình cũng nói đến sự vận động và phát triển, tuy nhiên nguồn gốc của phát triển ở
bên ngoài sự vật hiện tượng. Sự phát triển chỉ là sự thay đổi về lượng chứ không có sự thay đổi
về chất, phát triển đi theo con đường thẳng. Quan điểm duy tâm coi cơ sở, nguồn gốc của sự
phát triển nằm ở ý thức. Đối với chủ nghĩa duy tâm chủ quan thì đó là ý thức của con người.
Đối với chủ nghĩa duy tâm khách quan thì đó là một thực thể tinh thần nhu ý niệm tuyệt đối.
CNDV biện chứng khẳng định: Phát triển là một phạm trù triết học dùng để khái quát quá trình
vận động tiến lên lừ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện
hơn.
Các tính chất của sự phát triển gồm có:
Tính khách quan. Phát triển là hiện tượng diễn ra hoàn toàn độc lập với ý thức, đó là
thuộc tính vốn có của thế giới vật chất.
Tính phổ biến: Diễn ra ở tất cả các sự vật hiện tượng, từ tự nhiên, xã hội đến tư duy, ví
dụ...
Tính đa dạng nhiều vẻ: Đối với mỗi sự vật hiện tượng sự phát triển lại diễn ra khác
nhau.
Ngoài ra còn có các tính chất khác như tính kế thừa. Muốn có sự phát triển thì phải có
sự kế thừa, giữ lại những đặc điểm tích cực của cái cũ và cải tạo cho phù hợp với cái mới theo
quy luật phủ định của phủ định. Đối lập với quan điểm siêu hình, quan điểm DVBC khẳng
định nguồn gốc của sự phát triển nằm bên trong sự vật hiện tượng, do việc giải quyết mâu
thuẫn bên trong sự vật, hiện tượng. Sự phát triển diễn ra theo cách từ sự tích lũy về lượng đến
một giới hạn nào đó sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất. Sự phát triển diễn ra theo con đường xoáy
ốc.
Sau khi nghiên cứu nguyên lý về sự phát triển, ta có thể thấy được những ứng dụng của
Đảng trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước. Việc lựa chọn con đường đi lên CNXH
của nước ta đã thể hiện rất rõ việc vận dụng quan điểm phát triển vì xã hội XHCN là một xã
hội giàu có, phồn vinh và cao hơn xã hội TBCN về mọi mặt. Về con đường phát triển tự nhiên
chúng ta đã bỏ qua giai đoạn TBCN, điều này hoàn toàn không vi phạm quan điểm phát triển

của triểt học Mác vì.


Mặc dù ở một nước kém phát triển với những mâu thuẫn bên trong và bên ngoài nhưng
với sự trưởng thành của giai cấp cách mạng, sự giúp đỡ của các nước tiên tiến và giai cấp vô
sản ở các nước đó chúng ta có thể đi lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN.
Việc lựa chọn này đã được thể hiện qua các văn kiện. Trong chính cương vắn tắt, sách
lược vắn tắt cũng như luận cương đầu tiên của Đảng đã khẳng định CM nước ta nhất định phải
tiến tới CNXH bỏ qua thời kỳ TBCN và trải qua các thời kỳ cách mạng Đảng ta vẫn luôn
khẳng định chân lý: Độc lập dân tộc phải gắn liền với CNXH và đi lên CNXH là con đường tất
yếu khách quan phù hợp với ý chí và nguyện vọng của nhân dân ta. Đến đại hội IX vẫn tiếp
tục khẳng định:“ Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa „
Đảng đã xác định con đường phát triển đất nước đi lên XHCN là một quá trình phức
tạp, khó khăn và lâu dài. Có nhiều giai đoạn, nhiều chặng đường. Cụ thể đại hội IX đã viết
:“Xây dựng CNXH bỏ qua chế độ TBCN tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các
lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn phức tạp cho nên phải trải qua thời kỳ quá độ lâu dài với
nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ „.


Câu 5:
Lênin viết:“ Quan niệm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý
luận về nhận thức „.
Hãy phân tích luận điểm trên và cho biêt ý nghĩa của luận điểm này trong công cuộc đổi mới
ở nước ta.
Trả lời:
( Thực chất là phân tích vai trò của thực tiễn đối với nhận thức).
Lênin đã viết: “ Quan niệm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ
bản của lý luận về nhận thức „. Qua đó có thể thấy được vấn đề đã được Lênin đề cập, đó
chính là vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Trước khi phân tích luận điểm trên của Lênin,

ta sẽ điểm qua một số quan điểm khác về thực tiễn, qua đó có thể thấy được tính khoa học và
đúng đắn mà luận điểm đã thể hiện. Có thể nói việc đưa phạm trù thực tiễn vào trong lý luận
nhận thức nói riêng và triết học Mác nói chung là một cuộc cách mạng trong triết học. Tuy
nhiên Mác không phải là người đầu tiên nghiên cứu về thực tiến. Quan điểm của chủ nghĩa
duy tâm (Hêghen). Coi bản chất của thực tiễn là hoạt động tinh thần. Họat động tinh thần sáng
tạo ra thế giới. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật trước Mác (Phoi ơ bắc). Coi thực tiễn là hoạt
động vật chất nhưng đánh giá rất thấp hoạt động thực tiễn. Coi trọng hoạt động của tư duy.
CNDV biện chứng khẳng định: Thực tiễn là những hoạt động vật chất có mục đích mang tính
lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội. Thực tiễn có tính chất lịch sử,
xã hội và thể hiện qua ba hình thức hoạt động. Đó là: Hoạt động chính trị - xã hội, hoạt động
sản xuất vật chất, hoạt động thực nghiệm khoa học. Trong đó hoạt động sản xuất vật chất là cơ
bản nhất, quan trọng nhất vì nó quyết định sự phát triển và tồn tại của xã hội loại người và
quyết định các dạng khác của hoạt động thực tiễn. Hoạt động thực nghiệm khoa học ngày càng
trở nên quan trọng trong sự phát triển xã hội, đặc biệt trong thời kỳ cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại.
Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc, động lực và mục đích của nhận thức vì nhận thức bắt
nguồn gốc từ hoạt động thực tiễn, nhận thức của con người phải phản ánh bản chất, quy luật
hoạt động của đối tượng mà những bản chất, quy luật đó chỉ biểu hiện trong quá trình lao
động. Nếu bằng giác quan thông thường con ngươi chỉ có thể nhận thức được một phần rất nhỏ
của thế giới. Nhờ có hoạt động thực tiễn mà con người có thể tạo ra các công cụ cho quá trình
nhận thức, giúp nhận thức thế giới sâu sắc hơn, toàn diện hơn. Quan hệ của con người đối với
thể giới đầu tiên là quan hệ thực tiễn, trong quá trình thực tiễn đó mới đặt ra nhu cầu đi sâu
nhận thức thế giới. Hoạt động thực tiễn ngày càng phát triển yêu cầu nhận thức cũng phải vận
động và phát triển theo, hay nói cách khác thực tiễn chính là động lực của nhận thức. Nhận
thức chính là để phục vụ cho thực tiễn, làm cho hoạt động thực tiễn có hiệu quả hơn, nhận thức
chính là mục đích của nhận thức.
Thực tiễn chính là tiêu chuẩn của chân lý. Nhận thức của con người về thế giới cần phải
kiểm tra qua thực tiễn, thực tiễn chính là tiêu chuẩn cao nhất của chân lý. Bản chất của tri thức
là tinh thần, là ý thức và không có khả năng đem lại cho con người trong cảm giác, chỉ có
thông qua hoạt động thực tiễn mới có khả năng đem lại cho con ngưòi trong cảm giác. Tuy

thực tiễn la tiêu chuẩn của chân lý nhưng ngoài thực tiễn ra còn có thể kiểm tra nhận thức bằng
tiêu chuẩn logic. Điều này hoàn toàn không mâu thuẫn với tiêu chuẩn thực tiễn. Tiêu chuẩn


thực tiễn luôn là cao nhất và cuối cùng. Tiêu chuẩn thực tiễn vừa có tính tương đối vừa có tính
tuyệt đối vì thực tiễn cũng là một quá trình, có dầu ấn của không gian và thời gian.
Qua việc phân tích luận điểm trên của Lênin, ta có thể thấy rõ vai trò quan trọng của
thực tiến. Điều này cũng đã được Đảng ta nhìn nhận đúng đắn và thể hiện qua việc Đảng ta
trong công cuộc đổi mới luôn chú trọng đến việc tổng kết thực tiễn, rút ra những bài học cho
quá trình đổi mới.


Câu 6:
Lênin viết: “ Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực
tiến. Đó là con đường biện chứng của quá trình nhận thức chân lý, nhận thức thực tại khách
quan”.
Phân tích luận điểm trên.
Trả lời:
(Thực chất là phân tích con đường biện chứng của quá trình nhận thức).
Lênin đã viết: “ Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừư tượng đến
thực tiến. Đó là con đường biện chứng của quá trình nhận thức chân lý, nhận thức thực tại
khách quan”. Qua đó ta có thể thấy được con đường biện chứng của quá trình nhận thức mà
Lênin đã thể hiện. Trước khi phân tích luận điểm trên ta cần hiểu nhận thực theo quan điểm
của triết học Mác nói chung. Để có thể làm nổi bật và làm sáng tỏ hơn quan điểm này ta có sẽ
xem xét một số quan điểm khác về nhận thức. Quan điểm duy tâm chủ quan và khách quan
cũng có sự khác nhau. Theo Heghen vì ý niệm tuyệt đối tha hóa trở thành giới tự nhiên cũng
như con người, do vậy quá trình con người nhận thức tự nhiên chính là quá trình tự nhận thức
của ý niệm tuyệt đối. Đối với Platon cho rằng mọi sự vật hiện tượng trong thế giới là cái bóng
của thế giới ý niệm. Nhân thức của con người chính là sự hồi tưởng lại của linh hồn bất tử về
thế giới ý niệm mà nó đã trải qua. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng cảm giác quyết định

tất cả. Việc nhận thức thế giới cũng chính là nhận thức cảm giác của bản thân. Nói chung chủ
nghĩa duy tâm cho rằng nhận thức là sự tự nhận thức của ý thức. Quan điểm bất khả tri hay
còn gọi là thuyết không thể biết, xuất phát từ thuyết khả nghi của thời cổ đại, đến thời cận đại
đã trở thành quan điểm bất khả tri. Cho rằng con ngưòi không thể nhận thức được thế giới. Bất
khả tri có hai dạng, dạng bất khả tri tuyệt đối cho răng chúng ta hoàn toàn không nhận thức
được bản chất của thế giới, thậm chí không biết thế giới có thật sự tồn tại hay không. Dạng bất
khả tri một nửa thì cho răng ta chỉ biết về hiện tượng chứ không thể biết về bản chất của thế
giới. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hình trước Mác cho rằng sự phản ánh của thế giới
vật chất là thụ động, nguyên xi, giản đơn. Không thấy được vai trò của thực tiễn đối với nhận
thức. Nếu quan điểm bất khả tri cho rằng con người không thể nhận thức thế giới thì CNDV
biện chứng khẳng định con người có khả năng nhận thức thế giới. Nếu chủ ghĩa duy tâm cho
rằng nhận thức là sự tự nhận thức của ý thức, CNDV biện chứng khẳng định đối tượng của
nhận thức chính là thế giới vật chất tồn tại khách quan. CNDV siêu hình cho rằng nhận thức là
giản đơn, thụ động thì CNDV biện chứng khẳng định nhận thức là một quá trình, khẳng định
vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Điều này được thể hiện qua bốn nguyên tắc của nhận
thức là.
Thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan độc lập với ý thức của con người.
Thừa nhận năng lực nhận thức được thế giới của con người.
Khẳng định nhận thức diễn ra theo một quá trình biện chứng tích cực tự giác và sáng
tạo.
Cơ sở chủ yếu và trực tiếp của nhận thức là thực tiễn.
Qua đó ta thấy theo quan điểm của CNDV biện chứng bản chất của nhận thức là quá
trình phản ánh biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào trong đầu óc
con người trên cơ sở thực tiễn.


Luận điểm trên của Lênin đã khẳng định nhận thức là một quá trình. Cụ thể quá trình đó
phải trải qua hai giai đoạn cơ bản. Đầu tiên là: Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng.
Trực quan sinh động còn gọi là nhận thức cảm tính. Đây là giai đoạn đầu tiên của quá trình
nhận thức, nó được bắt đầu từ thực tiễn và không tách rời thực tiến. Các hình thức của nó là

cảm giác, tri giác, biểu tượng. Cảm giác là hình thức đầu tiên của quá trình nhận thức, là sự
phản ánh từng mặt, từng thuộc tính bên ngoài của sự vật vào các giác quan của con người. Đó
là kết quả của sự tác động vật chất của sự vật vào các giác quan của con người, là sự chuyển
hóa năng lượng kích thích bên ngoài thành yếu tố của ý thức. Tri giác là sự tổng hợp nhiều
cảm giác, đem lại hình ảnh hoàn chỉnh hơn về sự vật. Tri giác nảy sinh trên cơ sở cảm giác, là
sự kết hợp của các cảm giác. Biểu tượng là hình ảnh của sự vật được giữ lại trong trí nhớ, sự
tiếp xúc trực tiếp nhiều lần với sự vật sẽ đem lại những ấn tượng, những hình ảnh về sự vật đó.
Nó có thể hiện lên trong ký ức chúng ta ngay cả khi không có sự vật.
Trực quan sinh động chỉ phản ánh được bề ngoài của sự vật, hiện tượng. Chính vì vậy
nhận thức phải tiến tới giai đoạn mới, đó là tư duy trừu tượng.
Tư duy trừu tượng còn được gọi là nhận thức lý tính. Được thể hiện dưới ba hình thức
là khái niệm, phán đoán, suy luận dựa trên cơ sở của trực quan sinh động đem lại. Khái niệm
phản ánh những mối liên hệ và thuộc tính bản chất, phổ biến của một tập hợp các sự vật, hiện
tượng nào đó. Phán đoán là hình thức của tư duy trừu tượng vận dụng các khái niệm để khẳng
định hoặc phủ định một thuộc tính, một mối liên hệ nào đó của hiện thực khách quan, phán
đoán là hình thức liên hệ giữa các khái niệm, phản ánh mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng
trong ý thức của con người. Suy luận là một hình thức của tư duy trừu tượng trong đó xuất
phát từ một hoặc nhiều phán đoán làm tiền đề để rút ra phán đoán mới làm kết luận. Nói cách
khác, suy luận là quá trìh đi đến một phán đoán mới từ những phán đoán tiền đề.
Trực quan sinh động và tư duy trừu tượng có sự thống nhất với nhau để có thể phản ánh
bản chất của sự vật.
Giai đoạn thứ hai của quá trình nhận thức là: Từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Nhận
thức cần phải quay lại thực tiễn để kiểm tra lại tính đúng đắn của nhận thức, vì thực tiễn chính
là tiều chuẩn cao nhất của chân lý. Thực tiến chính là mục đích của nhận thức.
Từ những phân tích trên ta thấy con đường nhận thức chân lý diễn ra theo con đường
xoáy ốc, xuất phát từ thực tiền và sau đó lại quay trở về với thực tiễn.


Câu 7:
Phân tích nội dung quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của

lực lượng sản xuất. Liên hệ với thực tiễn cách mạng Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
Trả lời:
Theo quan điểm của triết học Mác, xã hội của chúng ta là một thể thống nhất và hoạt
động theo các quy luật xã hội. Một số quan điểm phi Macxit cho rằng xã hội không có quy
luật. Mác chính là người đầu tiên chỉ ra các quy luật vận động trong xã hội. Trong rất nhiều
các quy luật xã hội thì quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất là cơ bản nhất. Trước khi phân tích nội dung quy luật, ta cần làm rõ một số khái niệm
có liên quan, đó là: Lực lượng sản xuất là biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên
trong quá trình sản xuất. Lực lượng sản xuất thể hiện năng lực thực tiễn của con người trong
quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Quan hệ sản xuất là biểu hiện mối quan hệ giữa con
người với con người trong quá trình sản xuất. Nó được biểu hiện bằng ba mối quan hệ vật chất
là: Quan hệ đối với tư liệu sản xuất, quan hệ đối với tổ chức quản lý sản xuất, quan hệ đối với
phân phối sản phẩm lao động xã hội. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phát triển
của lực lượng sản xuất được đánh dấu bằng trình độ của công cụ lao động, nó thể hiện trình độ
chinh phục tự nhiên của con người trong các giai đoạn lịch sử. Trình độ của lực lượng sản xuất
được biểu thị ở trình độ của công cụ lao động, kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con
người, tổ chức và phân công lao động xã hội và ứng dụng khoa học vào sản xuất. Gắn liền với
trình độ của lực lượng sản xuất là tính chất của lực lượng sản xuất. Trình độ của lực lượng sản
xuất đã phát triển từ chỗ mang tính chất cá nhân đến tính chất xã hội hóa. Khi sản xuất thực
hiện với công cụ lao động ở trình độ thủ cộng, thô sơ, phân công lao động kém phảt triển dẫn
đến lực lượng sản xuất mang tính cá nhân. Khi sản xuất ở trình độ cơ khí hiện đại, phân công
lao động phát triển làm cho lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội hóa.
Quy luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
khẳng định rắng sự vận động và phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi
quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó. Quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương đối và tác
động trở lại lực lượng sản xuất.
Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản
xuất cho phù hợp với nó. Trong phương thức sản xuất thì lực lượng sản xuất là yếu tố động
nhất, cách mạng nhất luôn luôn biến đổi, phát triển không ngừng. Còn quan hệ sản xuất
thường ổn định và lạc hậu hơn cho nên khi lực lượng sản xuất phát triển đến một giới hạn nhất

định nào đó thì buộc quan hệ sản xuất phải biến đổi cho phù hợp. Về trình độ là nhấn mạnh sự
phát triển của công cụ lao động. Nó được coi là thước đo, là chuẩn mực của một chế độ chính
trị, xã hội tương ứng. Mác viết: “… Cái cối xay bằng tay sẽ đưa lại một xã hội có lãnh chúa.
Cái cối xay chạy bằng hơi nước sẽ đưa lại một xã hội có CNTB công nghiệp”. Về tính chất là
nhấn mạnh tính chất xã hội hóa của các lực lượng sản xuất cao hay thấp. Từ xã hội phong kiến
về trước lực lượng sản xuất mang tính chất cá nhân, cá thể, tính xã hội thấp. CNTB ra đời và
phát triển làm cho tính chất xã hội hóa của lực lượng sản xuất ngày càng cao. Điều đó mâu
thuấn sâu sắc với sự chiếm hữu tư nhân, tư bản về tư liệu sản xuất. Ăng ghen viết: “ Mâu
thuẫn ấy chỉ có thể được giải quyết trong điều kiện sau đây mà thôi: Tính chất xã hội hóa của
các lực lượng sản xuất hiện đại phải được thật sự thừa nhận. Do đó những quan hệ sản xuất,


quan hệ chiếm hữu, quan hệ trao đổi cũng phải xã hội hóa theo cho phù hợp với tính chất xã
hội hóa của các lực lượng sản xuất hiện đại.”.
Tuy lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất nhưng quan hệ sản xuất cũng có
tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản
xuất không phụ thuộc hoàn toàn vào lực lượng sản xuất mà nó quy định mục đích của sản
xuất, có tác động đến thái độ của người lao động, đến tổ chức phân công lao động xã hội, đến
sự phát triển và ứng dụng của khoa học công nghệ… nên từ đó tác động đến sự phát triển của
lực lượng sản xuất. Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất thì nó
trở thành động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại, nếu quan hệ sản xuất lỗi
thời, lạc hậu hay “ tiên tiến” một cách giả tạo so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
thì sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, việc giải quyết mâu thuẫn giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất không phải giản đơn mà phải thông qua nhận thức và
họat động cải tạo xã hội của con người trong đó xã hội có giai cấp thì phải thông qua đấu tranh
giai cấp, thông qua cách mạng xã hội.
Qua phân tích và thấm nhuần quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất. Đảng ta đã rút ra nhiều bài học áp dụng cho quá trình đổi
mới của đất nước.
Trong đại hội VI, Đảng ta đã tổng kết từ thực tiễn: “Lực lượng sản xuất bị kìm hãm

không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu mà cả khi quan hệ sản xuất đi quá xa so
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”
Bắt đầu từ đại hội VI, Đảng ta chủ trương xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với sự
phát triển của lực lượng sản xuất. Đến văn kiện đại hội IX chỉ rõ: “Ưu tiên phát triển lực lượng
sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng XHCN”. Cụ thể đã
được triển khai như sau:
Ưu tiên phát trỉên lực lượng sản xuất: Đầu tư cho giáo dục, khoa học công nghệ. Trong
văn kiện đại hội IX đã chỉ rõ: “ Phát triển giáo dục là một trong những động lực quan trọng
thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy nguồn lực con
người, yếu tố co bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.”
Thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục đích của công nghiệp hóa,
hiện đại hóa “ là xây dựng cơ sở vật chất – kinh tế, phát triển lực lượng sản xuất của CNXH.
Đó là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên CNXH ở nước ta”.
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN tại đại hội IX đã xác định rõ: “ Mục
đích của kinh tế thị trường định hướng XHCN là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh
tế để xây dựng cơ sở vật chất của CNXH, nâng cao đời sống nhân dân”.
Xây dựng quan hệ sản xuất cho phù hợp đã được Đảng thể hiện qua các chủ trương cụ
thể.
Đa dạng hóa các loại hình sở hữu gồm: Sở hữu nhà nước (sở hữu toàn dân), sở hữu tập
thể, sở hữu tư nhân. Nhưng trên cơ sở chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
Thực hiện đổi mới cơ chế quản lý, sự quản lý của nhà nước XHCN kết hợp với tính
định hướng và cân đối của kế hoạch với tính năng độg và nhạy cảm của thị trường.
Thực hiện nhiều hình thức phân phối nhưng lấy phân phối theo kết quả lao động và
hiệu quả kinh tế là chủ yếu đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp của các nguồn lực


khác vào sản xuất kinh doanh và phân phối theo phúc lợi xã hội đi đôi với chính sách điều tiết
hợp lý, bảo hộ quyền lợi của người lao động.



Câu 8:
Dựa vào học thuyết hình thái kinh tế xã hội đã học, anh (chị) hãy làm sáng tỏ luận điểm sau:
“ Việc lựa chọn con đường đi lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở nước ta như là một quá trình
lịch sử tự nhiên”.
Trả lời:
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã
hội ở trong giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó
phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và một kiến trúc thượng tầng tương
ứng được xây dựng trên những mối quan hệ sản xuất ấy.
Các quan điểm duy tâm hay duy vật trước Mác khi xem xét về xã hội đã cho rằng xã
hội được nhìn nhận hoàn toàn mang tính ngẫu nhiên, không có tính lặp lại. Quan điểm của
CNDV biện chứng về xã hội là xem xét xã hội là một chỉnh thể, một hệ thống hoàn chỉnh, có
cấu trúc phức tạp mà trong đó quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển nhất định
của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất là cái quyết định tất cả mọi quan hệ xã hội.
Kết cấu của hình thái kinh tế xã hội gồm có Lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và
kiến trúc thượng tầng. Ba mặt này có vị trí riêng, tác động lẫn nhau và thống nhất với nhau.
Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất - kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế - xã hội, giữ vai trò
quyết định. Quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản đầu tiên và quyết định tất cả các quan hệ sản
xuất khác. Kiến trúc thượng tầng được hình thành trên cơ sở hạ tầng phù hợp với cơ sở hạ
tầng, là công cụ để bảo vệ và duy trì cơ sở hạ tầng đã sản sinh ra nó.
Sự thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên.
Sự thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế xã hội từ thấp đến cao diễn ra do sự chi phối của
các quy luật khách quan hoàn toàn không phụ thuộc vào ý thức, ý muốn của con người. Các
quy luật đó là: Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng. Trong quy luật sự phù
hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì lực lượng sản xuất
là yếu tố động, yếu tố cách mạng thường xuyên biến đổi vì con người không ngừng cải tiến
công cụ lao động để tăng năng suất, tạo ra nhiều hơn của cải vật chất. Khi lực lượng sản xuất
phát triển đến mức độ nhất định mâu thuẫn với quan hệ sản xuất cũ, nó đòi hỏi thay thế quan
hệ sản xuất đó bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản

xuất này. Khi quan hệ sản xuất mới được thay thế nghĩa là tạo ra một cơ sở hạ tầng mới. Cơ sở
hạ tầng mới lại quyết định kiến trúc thượng tầng mới. Đây là hình thái kinh tế xã hội mới.
Trong hình thái kinh tế xã hội này lực lượng sản xuất luôn luôn biến đổi, đến giới hạn nhất
định lại mâu thuẫn với quan hệ sản xuất và yêu cầu cần có một cuộc cách mạng xã hội để thay
thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuât mới và tạo ra một hình thái kinh tế xã hội mới.
Sự thay thế này hoàn toàn là quy luật khách quan và không phụ thuộc vào ý muốn của bất cứ
ai.
Lênin : “ Nguồn gốc sâu xa của sự phát triển tự nhiên đó chính là yếu tố lực lượng sản
xuất”; “ Chỉ có thể đem quy những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất và đem quy
những quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực lượng sản xuất thì người ta mới có được
một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của những hình thái kinh tế xã hội là một quá
trình lịch sử tự nhiên.”


Sự thay thế nhau một cách tuần tự các hình thái kinh tế xã hội là một quy luật phổ biến.
Tuy nhiên một dân tộc có thể bị chi phối bởi các điều kiện về tự nhiên, chính trị, truyền thống
văn hóa và điều kiện quốc tế mà có thể “bỏ qua” mốt số hình thái kinh tế xã hội nào đó.
Việc lựa chọn con đường tiến lên CNXH bỏ qua CNTB ở nước ta như là một quá trình
lịch sử tự nhiên thể hiện:
Đại hội IX của Đảng đã khẳng định việc bỏ qua chế độ TBCN là bỏ qua việc xác lập vị
trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN nhưng tiếp thu, kế thừa
những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt về kho học và công
nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Đảng ta cũng xác định tiến lên CNXH mặc dù là con đường rút ngắn so với lịch sử tuần
tự xong do tính chất đặc thù của điều kiện lịch sử nước ta, nhất thiết nước ta phải trải qua thời
kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều giai đoạn khó khăn và phức tạp.
Đảng ta cũng xác định xã hội ở thời kỳ quá độ là một kết cấu kinh tế xã hội mang tính
trung gian với sự tồn tại của những hình thức kinh tế, xã hội mang tính chất quá độ như nền
kinh tế thị trường XHCN, có kết cấu đan xen hỗn hợp của các quan hệ sở hữu, quản lý và phân
phối khác nhau. Xã hội còn tồn tại nhiều giai cấp và đấu tranh giai cấp, tình trạng bất bình

đẳng, phân hóa giàu nghèo trong xã hội chưa được khắc phục hoàn toàn, chính trị là nhà nước
pháp quyền XHCN.


Câu 9:
Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa ý thức xã hội và tồn tại xã hội. Phân tích ý nghĩa của
nó trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay.
Trả lời:
Theo quan điểm của CNDV biện chứng, ý thức xã hội và tồn tại xã hội có mối quan hệ
biện chứng chặt chẽ với nhau. Để phân tích mối quan hệ biện chứng này, trước hết ta cần tìm
hiểu các khái niệm về tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Tồn tại xã hội hiểu một cách đơn giản là
vật chất trong đời sống xã hội. Hiểu một cách đầy đủ tồn tại xã hộ là sinh hoạt vật chất và
những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội. Kết cấu của tồn tại xã hội gồm có ba yếu tố là
điều kiện tự nhiên, dân số và phương thức sản xuất. Trong đó phương thức sản xuất vật chất là
yếu tố cơ bản nhất, quyết định sự phát triển của xã hội. Ý thức xã hội là toàn bộ những lĩnh
vực thuộc đời sống tinh thần của xã hội như tình cảm, cảm xúc, thói quen, truyền thống, tâm
trạng và ý chí, trí tuệ, quan điểm, tư tưởng của người ta phản ánh tồn tại xã hội, được hình
thành và phát triển trong những giai đoạn lịch sử xã hội nhất định và các thể chế tương ứng
như nhà nước, chính đảng, xã hội… Ý thức xã hội biểu hiện thông qua ý thức cá nhân, ý thức
cá nhân là biểu hiện độc đáo của ý thức xã hội, không bao hàm nội dung đầy đủ của ý thức xã
hội, nó phản ánh tồn tại xã hội ở các mức độ khác nhau.
Cấu trúc của ý thức xã hội bao gồm: Ý thức xã hội đời thườg và ý thức lý luận hoặc
chia ý thức xã hội ra thành tâm lý xã hội và hệ tư tưởng. Tâm lý xã hội là những tình cảm, cảm
xúc, thói quen, truyền thống của người ta được hình thành một cách tự phát dưới sự tác động
của những điều kiện sinh sống hàng ngày. Hệ tư tưởng là những quan điểm, quan niệm chung
của người ta, của một giai cấp nhất định trong xã hội đã được hệ thống hóa thành khoa học lý
luận, học thuyết triết học. Nó được xây dựng nên một cách tự giác ở một trình độ phát triển
khoa học nhất định và tuân theo trật tự tư duy logic nhất định.
Tồn tại xã hội và ý thức xã hội có mối quan hệ biện chứng với nhau. Mối quan hệ này
được thể hiện qua hai nội dung cơ bản. Đó là:

Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội. Đây là một nguyên lý cơ bản và quan trọng của
CNDV lịch sử. Điều đó bắt nguồn từ nguyên lý vật chất quyết định ý thức và thể hiện ở ba
khía cạnh lớn sau:
Thứ nhất: Tồn tại xã hội thế nào thì ý thức xã hội phải như thế ấy. Tồn tại xã hội quyết
định sự ra đời của ý thức xã hoọi. Ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội và phụ thuộc vào
tồn tại xã hội. Ví dụ khi sản phẩm của Việt Nam chưa tốt vì được sản xuất ra trên máy móc lạc
hậu, trình độ tay nghề chưa cao, kỉ luật lao động lỏng lẻo. Từ đó tạo ra tâm lý sính hàng
ngoại…
Thứ hai: Tồn tại xã hội biến đổi thì ý thức xã hội cũng biến đổi theo. Khi tồn tại xã hội
cũ bị lật đổ và được thay thế bằng tồn tại xã hội mới thì các hình thái ý thức xã hội cũ cũng
dần dần mất đi và được thay thế bằng các hình thái ý thức xã hội mới.
Thứ ba: Bất cứ hình thái ý thức xã hội nào của một xã hội nào đó nó cũng tìm mọi cách
và bằng cả mọi thủ đoạn để bảo vệ, duy trì và phát triển tồn tại xã hội của nó. Nhất là bảo vệ
quan hệ sản xuất chiếm địa vị thống trị đã làm sản sinh ra nó.
Ý thức xã hội có tính độc lập tương đối. Điều này được thể hiện qua năm biểu hiện.


Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội ba lý do: Tồn tại xã hội quyết
định ý thức xã hội cho nên khi tồn tại xã hội thay đổi rồi ý thức xã hội mới thay đổi theo nên
bao giờ cũng chậm hơn. Những phong tục, tập quan, quy tắc đạo đức cũ nhất là những tư
tưởng tôn giáo đã ăn sâu bám rễ vào đầu óc con người lâu dài nên không thể một sớm một
chiều thay đổi được. Chúng có sức ì quán tính. Tồn tại xã hội gắn liền với hoạt động thực tiễn
luôn luôn biến đổi nên nó thay đổi nhanh hơn so với ý thức xã hội. Các giai cấp bóc lột và bọn
phản động đã bị lật đổ nhưng chưa tan rã hoàn toàn đang còn có những âm mưu, thủ đoạn để
phục hồi chế độ cũ. Ý thức xã hội được biểu hiện qua nhiều hình thái: Chính trị, triết học, đạo
đức, văn hóa, tôn giáo, pháp quyền…trong đó có nhiều hình thái châm biến đổi như tôn giáo,
truyền thống…
Tính vượt trước của ý thức xã hội. Tư tưởng khoa học là một hình thái ý thức xã hội đặc
biệt, nó cũng phản ánh tồn tại xã hội nhất định nhưng do nó phát hiện được những quy luật
khách quan phát triển của tự nhiên nên nó có thể đi trước chỉ đường cho thực tiễn phát triển

hàng trăm năm. Nói cách khác nó phản ánh những mầm mống của tồn tại xã hội mới.
Tính kế thừa trong sự phát triển của ý thức xã hội. Bất cứ một khoa học lý luận nào hay
học thuyết triết học nào xuất hiện và phát triển trong lịch sử cũng bao hàm sự kế thừa những
tinh hoa tư tưởng của thời đại đã qua và những thời đại trước đó. Chủ nghĩa Mác Lê nin đã kế
thừa và phát triển những tinh hoa tư tưởng cảu loài người được kết tinh, cô đọng trong triêt
học cổ điển Đức, kinh tế chính trị Anh, CNXH không tưởng của Pháp.
Sự tác động qua lại về ý thức tư tưởng của các giai cấp cũng tồn tại trong xã hội. Trong
xã hội có giai cấp thì tư tưởng của giai cấp thống trị bao giờ cũng là tư tưởng thống trị của mỗi
thời đại. Nó buộc các giai cấp bị trị phải tiếp thu quan điểm chính trị, đạo đức của nó cùng với
các quan hệ vật chất cho nên tư tưởng của giai cấp thống trị bao trùm cả xã hội. Trái lại nhưng
một giai cấp bị trị náo đó khi trở thành giai cấp tiến bộ trong lịch sử thì quan điểm chính trị, tư
tưởng và đạo đức của nó lại có ảnh hưởng sâu sắc đến một bộ phận trọng yếu nhất của giai cấp
thống trị khi giai cấp đó đã tỏ ra lạc hậu lỗi thời và bị phân hóa sâu sắc.
Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội còn được biểu hiện ở chỗ tư
tưởng chính trị và pháp quyền phản ánh trực tiếp từ cơ sở kinh tế, từ quan hệ sản xuất chiếm
địa vị thống trị nên nó có tác dụng chi phối và quyết định đối với mọi hình thái ý thức xã hội
khác nhưng thần học, văn học nghệ thuật, tôn giáo cũng có ảnh hưởng nhất định đến tư tưởng
chính trị pháp quyền và chúng cùng nhau tác động đến cơ sơ kinh tế.
Qua việc phân tích mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội ta có thể
rút ra những bài học quý giá áp dụng cho công cuộc xây dựng đất nước ta trong giai đoạn hiện
nay như sau:
Nghiên cứu vấn đề ý thức xã hội không được dừng lại ở các hiện tượng ý thức mà phải
đi sâu phát hiện mâu thuẫn của đời sống xã hội, là cái cơ sở làm nảy sinh các hiện tượng ý
thức xã hội.
Muốn khắc phục các hiện tượng ý thức xã hội cũ, xây dựng ý thức xã hội mới là phải
chú ý tới tất cả các lĩnh vực nhưng về cơ bản, lâu dài, triệt để phải chú ý tạo lập hiện thực cuộc
sống để nó là mảnh đất tốt đẹp nảy sinh tồn tại và phát triển của ý thức xã hội tốt đẹp.
Coi trọng và đẩy mạnh cuộc cách mạng XHCN trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa phải
thấy được tầm quan trọng và ý nghĩa của ý thức xã hội đối với quá trình hình thành nền văn
hóa mới cũng như con người mới.



Câu 10:
Phân tích tính độc lập tương đối của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội, vai trò của ý thức xã
hội trong sự nghiệp đổi mới.
Trả lời.
CNDV biện chứng khẳng định tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội. Tuy nhiên ý thúc
xã hội có tính độc lập tương đối với tồn tại xã hội. Vai trò của ý thức xã hội là rất quan trọng
và điều đó cũng đã được Đảng ta thấm nhuần trong sự nghiệp đổi mới của đất nước. Trước khi
đi phân tích tính độc lập tương đối của ý thức xã hội, ta cần hiểu các khái niệm tồn tại xã hội
và ý thức xã hội. Tồn tại xã hội hiểu một cách đơn giản là vật chất trong đời sống xã hội. Hiểu
một cách đầy đủ tồn tại xã hộ là sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của
xã hội. Kết cấu của tồn tại xã hội gồm có ba yếu tố là điều kiện tự nhiên, dân số và phương
thức sản xuất. Trong đó phương thức sản xuất vật chất là yếu tố cơ bản nhất, quyết định sự
phát triển của xã hội. Ý thức xã hội là toàn bộ những lĩnh vực thuộc đời sống tinh thần của xã
hội như tình cảm, cảm xúc, thói quen, truyền thống, tâm trạng và ý chí, trí tuệ, quan điểm, tư
tưởng của người ta phản ánh tồn tại xã hội, được hình thành và phát triển trong những giai
đoạn lịch sử xã hội nhất định và các thể chế tương ứng như nhà nước, chính đảng, xã hội… Ý
thức xã hội biểu hiện thông qua ý thức cá nhân, ý thức cá nhân là biểu hiện độc đáo của ý thức
xã hội, không bao hàm nội dung đầy đủ của ý thức xã hội, nó phản ánh tồn tại xã hội ở các
mức độ khác nhau.
Cấu trúc của ý thức xã hội bao gồm: Ý thức xã hội đời thườg và ý thức lý luận hoặc
chia ý thức xã hội ra thành tâm lý xã hội và hệ tư tưởng. Tâm lý xã hội là những tình cảm, cảm
xúc, thói quen, truyền thống của người ta được hình thành một cách tự phát dưới sự tác động
của những điều kiện sinh sống hàng ngày. Hệ tư tưởng là những quan điểm, quan niệm chung
của người ta, của một giai cấp nhất định trong xã hội đã được hệ thống hóa thành khoa học lý
luận, học thuyết triết học. Nó được xây dựng nên một cách tự giác ở một trình độ phát triển
khoa học nhất định và tuân theo trật tự tư duy logic nhất định.
Tuy tồn tại xã hội quyêt đinh ý thức xã hội nhưng ý thức xã hội không thụ động. Nó
cũng có những quy luật phát triển riêng độc lập tương đối với tồn tại xã hội.

Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội ba lý do: Tồn tại xã hội quyết
định ý thức xã hội cho nên khi tồn tại xã hội thay đổi rồi ý thức xã hội mới thay đổi theo nên
bao giờ cũng chậm hơn. Những phong tục, tập quan, quy tắc đạo đức cũ nhất là những tư
tưởng tôn giáo đã ăn sâu bám rễ vào đầu óc con người lâu dài nên không thể một sớm một
chiều thay đổi được. Chúng có sức ì quán tính. Tồn tại xã hội gắn liền với hoạt động thực tiễn
luôn luôn biến đổi nên nó thay đổi nhanh hơn so với ý thức xã hội. Các giai cấp bóc lột và bọn
phản động đã bị lật đổ nhưng chưa tan rã hoàn toàn đang còn có những âm mưu, thủ đoạn để
phục hồi chế độ cũ. Ý thức xã hội được biểu hiện qua nhiều hình thái: Chính trị, triết học, đạo
đức, văn hóa, tôn giáo, pháp quyền…trong đó có nhiều hình thái châm biến đổi như tôn giáo,
truyền thống…
Tính vượt trước của ý thức xã hội. Tư tưởng khoa học là một hình thái ý thức xã hội đặc
biệt, nó cũng phản ánh tồn tại xã hội nhất định nhưng do nó phát hiện được những quy luật
khách quan phát triển của tự nhiên nên nó có thể đi trước chỉ đường cho thực tiễn phát triển
hàng trăm năm. Nói cách khác nó phản ánh những mầm mống của tồn tại xã hội mới.


Tính kế thừa trong sự phát triển của ý thức xã hội. Bất cứ một khoa học lý luận nào hay
học thuyết triết học nào xuất hiện và phát triển trong lịch sử cũng bao hàm sự kế thừa những
tinh hoa tư tưởng của thời đại đã qua và những thời đại trước đó. Chủ nghĩa Mác Lê nin đã kế
thừa và phát triển những tinh hoa tư tưởng cảu loài người được kết tinh, cô đọng trong triêt
học cổ điển Đức, kinh tế chính trị Anh, CNXH không tưởng của Pháp.
Sự tác động qua lại về ý thức tư tưởng của các giai cấp cũng tồn tại trong xã hội. Trong
xã hội có giai cấp thì tư tưởng của giai cấp thống trị bao giờ cũng là tư tưởng thống trị của mỗi
thời đại. Nó buộc các giai cấp bị trị phải tiếp thu quan điểm chính trị, đạo đức của nó cùng với
các quan hệ vật chất cho nên tư tưởng của giai cấp thống trị bao trùm cả xã hội. Trái lại nhưng
một giai cấp bị trị náo đó khi trở thành giai cấp tiến bộ trong lịch sử thì quan điểm chính trị, tư
tưởng và đạo đức của nó lại có ảnh hưởng sâu sắc đến một bộ phận trọng yếu nhất của giai cấp
thống trị khi giai cấp đó đã tỏ ra lạc hậu lỗi thời và bị phân hóa sâu sắc.
Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội còn được biểu hiện ở chỗ tư
tưởng chính trị và pháp quyền phản ánh trực tiếp từ cơ sở kinh tế, từ quan hệ sản xuất chiếm

địa vị thống trị nên nó có tác dụng chi phối và quyết định đối với mọi hình thái ý thức xã hội
khác nhưng thần học, văn học nghệ thuật, tôn giáo cũng có ảnh hưởng nhất định đến tư tưởng
chính trị pháp quyền và chúng cùng nhau tác động đến cơ sở kinh tế.


Câu 11:
Trình bày vai trò của quần chúng nhân dân và lãnh tụ trong lịch sử. Ý nghĩa của vấn đề này
trong việc quán triệt bài học “Lấy dân làm gốc”.
Trả lời:
Vai trò của quần chúng nhân dân và lãnh tụ trong lịch sử là vấn đề được nói đến rất
nhiều. Trong đó chỉ có quan điểm của CNDV biện chứng thể hiện được tính chính xác và khoa
học khi nói đến vấn đề này. Để có thể hiểu rõ hơn quan điểm của CNDV biện chứng, trước hết
ta sẽ xem xét một số quan điểm khác về vai trò của quần chúng nhân dân và lãnh tụ. Trong
lịch sử triết học, trước khi triết học Mác ra đời thì các trường phái triết học khác đều duy tâm
khi nghiên cứu về xã hội. Họ đều cho rằng lãnh tụ là người quyết định còn quần chúng nhân
dân chỉ là phương tiện cho lãnh tụ đạt được mục đích. Nếu vai trò của quần chúng nhân dân
được coi trọng thì cũng chỉ dừng lại ở chủ nghĩa thân dân mà thôi. Quan điểm tôn giáo cho
rằng sự phát triển của lịch sử là do mệnh trời quyết định, trời trao quyền lợi đó cho các cá nhân
thực hiện. Chủ nghĩa duy tâm đề cao vai trò của tư tưởng tinh thần, cho rằng lý tính con người
điều khiển lịch sử. Nhưng không phải tất cả mọi người đều có lý tính lịch sử, mà chỉ có một số
ngưòi gọi là nhân vật lịch sử thì mới có lý tính ấy. Chủ nghĩa duy vật trước Mác thì lại đề cao
vai trò của các vĩ nhân, còn quần chúng nhân dân chỉ là công cụ, phương tiên để sai khiến.
Để hiểu quan điểm của CNDV biện chứng một cách rõ ràng hơn, ta cần hiểu rõ các khái
niệm về quần chúng nhân dân và lãnh tụ.
Quần chúng nhân dân là bộ phận có cùng chung lợi ích cơ bản, bao gồm những thành
phần, tầng lớp và những giai cấp, liên kết lại thành tập thể dưới sự lãnh đạo của một cá nhân,
tổ chức hay đảng phải nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của thời đại nhất
định. Quần chúng nhân dân có ba bộ phận đó là:
Những người lao động sản xuất ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần.
Những bộ phận dân cư chống lại giai cấp thống trị.

Những giai cấp, tầng lớp xã hội thúc đẩy sự tiến bộ xã hội.
Lãnh tụ là những vĩ nhân xuất hiện từ quần chúng nhân dân, làm thủ lĩnh của phong
trào cách mạng, định hướng và thống nhất hành động của quần chúng. Vĩ nhân là những con
người vĩ đại có nhân cách to lớn, có tài năng nhu các nhà bác học, anh hùng, các nhà hoạt
động chính trị..
Lãnh tụ trước hết phải là vĩ nhân nhưng phải có các phẩm chất sau.
Có tri thức khoa học yên bác, uyên thâm, nắm bắt được xu hướng vận động của dân tộc,
quốc tế và thời đại.
Có khả năng tập hợp quần chúng nhân dân, thống nhất ý chí và hành động của họ
hướng vào một nhiệm vụ cụ thể của dân tộc, quốc tế và thời đại.
Nguyện hy sinh quên mình cho lợi ích của dân tộc, quốc tế cũng như thời đại.
Về vai trò của quần chúng nhân dân và lãnh tụ trong lịch sử. Trước hết CNDV biện chứng
khẳng định: Quần chúng nhân dân có vai trò quyết định đối với lịch sử, là chủ thể của lịch sử
vì:
Quần chúng nhân dân là người trực tiếp sáng tạo ra của cải vật chất cũng như tinh thần
của xã hội. Bác viết : “Quần chúng nhân dân là những người sáng tạo, công nông là những
người sáng tạo. Nhưng quần chúng nhân dân không phải chỉ sáng tạo ra những của cải vật chất


cho xã hội. Quần chúng còn là những người sáng tác nữa…Những sáng tác ấy là những hòn
ngọc quý”.
Quần chúng nhân dân là chủ thể của hoạt động cải tạo các quá trình kinh tế, chính trị,
xã hội.
Lợi ích của quần chúng nhân dân vừa là điểm khởi đầu vừa là mục đích cuối cùng của
các hành động cách mạng.
Quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội. Tuy nhiên
sức mạnh của quần chúng muốn phát huy phải có sự hướng dẫn, tổ chức, lãnh đạo. Vai trò đó
thuộc về lãnh tụ. Tuy nhiên chính hoạt động phong trào của quần chúng nhân dân đã sản sinh
ra các vĩ nhân, lãnh tụ.
Tuy khẳng định quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, CNDV biện chứng

không hề xem nhẹ vai trò của lãnh tụ, điều đó được thể hiện qua khẳng định: Lãnh tụ có vai trò
rất quan trọng đến sự vận động và phát triển của lịch sử. Chức năng của người lãnh tụ là nắm
bắt xu thế của dân tộc, quốc tế và thời đại. Định hướng chiến lược, hoạch định các chương
trình hành động cách mạng. Tổ chức lực lượng, giáo dục, thuyết phục quần chúng, thống nhất
hành động của quần chúng hướng vào giải quyết những vấn đề then chốt nhất. Lãnh tụ là
người thúc đẩy nhanh tiến trình cách mạng, mang lại hiệu quả cao cho các hành động cách
mạng, nếu người lãnh tụ đó hiểu và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan . Ngược lại
lãnh tụ có thể là người làm suy giảm hiệu quả của các hành động cách mạng nếu người lãnh tụ
thiếu tài, kém đức. Do đó lịch sử sẽ phải trải qua những bước quanh co. Lãnh tụ thường là
người sáng lập ra các tổ chức chính trị, xã hội và là linh hồn của các tổ chức đó. Lãnh tụ của
mỗi thời đại chỉ có thể hoàn thành những nhiệm vụ đặt ra của thời đại đó. Hay nói cách khác
không có lãnh tụ cho mọi thời đại mà chỉ có lãnh tụ gắn vói một thời đại nhất định.
Giữa quần chúng nân dân và lãnh tụ có quan hệ biện chứng không tách rời nhau. Lãnh
tụ là người xuất thân từ phong trào quần chúng, không có phong trào quần chúng thị không có
lãnh tụ. Mặt khác, lãnh tụ là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của phong trào quần
chúng. Quần chúng nhân dân và lãnh tụ thông nhất trong mục đích và lợi ích. Quần chúng
nhân dân là lực lượng quyết định sự phát triển của xã hội, còn lãnh tụ là người định hướng,
dẫn dắt phong trào, thúc đẩy sự phát triển của lịch sử.
Thực chất của bài học là vận dụng quan điểm của triết học Mác về vai trò quyết định
của quần chúng nhân dân trong lịch sử. Bài học này còn được Đảng ta cụ thể hóa như sau:
Mọi chủ trương, đường lối của Đảng đều phải xuất phát từ lợi ích của quần chúng nhân
dân, đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết. Đặc biệt là mục đích “ Dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh” được đưa ra trong văn kiện đại hội IX.
Luôn lắng nghe ý kiến của quần chúng nhân dân, dân chủ hóa mọi mặt của đời sống xã
hội theo nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Thể hiện là dự thảo đại hội X
đã được công bố rộng rãi để lấy ý kiến của quân chúng nhân dân.


Thực hiện đổi mới hệ thống chính trị mà trọng tâm là bộ máy nhà nước theo nguyên tắc
“nhà nước của dân, do dân, vì dân”.

Tạo mọi điều kiện để phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân.


×