Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Công chúng tiếp nhận truyện ngắn việt nam thời kỳ đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (809.89 KB, 112 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

VŨ THỊ ÁNH TUYẾT

CÔNG CHÚNG TIẾP NHẬN
TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM
THỜI KÌ ĐỔI MỚI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

HÀ NỘI, 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

VŨ THỊ ÁNH TUYẾT

CÔNG CHÚNG TIẾP NHẬN
TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM
THỜI KÌ ĐỔI MỚI
Chuyên ngành: Lý luận văn học
Mã số: 60 22 01 20

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TÔN THỊ THẢO MIÊN

HÀ NỘI, 2015




LỜI CẢM ƠN
Qua thời gian nghiên cứu miệt mài, nghiêm túc, cuốn luận văn của em
đã hoàn thành. Bên cạnh sự nỗ lực của bản thân, em đã nhận được rất nhiều
sự quan tâm, giúp đỡ. Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban Giám hiệu,
Phòng Sau Đại Học, Khoa Ngữ văn Trường Đại Học Sư phạm Hà Nội 2, đã
tạo điều kiện thuận lợi để em hoàn thành tốt khóa học của mình. Qua đây em
xin bày tỏ lòng biết ơn tới toàn thể các thầy cô giáo trong nhà trường đã giảng
dạy, hướng dẫn tận tình cho em trong quá trình học tập tại trường.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo PGS. TS. Tôn
Thảo Miên, người đã trực tiếp hướng dẫn tận tình, động viên em trong suốt
quá trình thực hiện luận văn.
Cuối cùng, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng
nghiệp đã dành cho tôi sự quan tâm, khích lệ, chia sẻ trong suốt thời gian
học tập và nghiên cứu hoàn thành bản luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng 7 năm 2015
Học viên

Vũ Thị Ánh Tuyết


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này
là trung thưc và không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi cũng xin cam đoan
rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các
thông tin trích dẫn trong luận văn này đã được chỉ rõ nguồn gốc.


Hà Nội, tháng 7 năm 2015
Học viên

Vũ Thị Ánh Tuyết


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................ 1
2. Mục đích nghiên cứu .......................................................................... 7
3. Nhiệm vụ nghiên cứu.......................................................................... 7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................... 8
5. Phương pháp nghiên cứu .................................................................... 8
6. Đóng góp của luận văn ....................................................................... 9
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Một số vấn đề lý thuyết tiếp nhận ........................................... 10
1.1. Khái quát tiếp nhận văn học ................................................................... 10
1. 2. Lịch sử tiếp nhận văn học ...................................................................... 12
1.2.1. Tiếp nhận văn học truyền thống ................................................... 13
1.2.2. Tiếp nhận văn học hiện đại .......................................................... 14
1.3. Những đặc điểm của lí thuyết tiếp nhận .................................................. 17
1.3.1 Tiếp nhận văn học là giai đoạn hoàn tất quá trình sáng tác – giao
tế của tác phẩm.............................................................................................. 18
1.3.2. Tính khách quan của tiếp nhận văn học ....................................... 19
1.3.3. Tính sáng tạo của tiếp nhận văn học ............................................ 22
1.4. Vai trò của lí thuyết tiếp nhận .............................................................. 23
1.4.1. Từ mỹ học sáng tạo đến mỹ học tiếp nhận .................................. 24
1.4.2. Mối quan hệ giữa văn bản và tác giả ........................................... 28
1.4.3. Mối quan hệ giữa văn bản và độc giả .......................................... 30
Chương 2. Diễn trình tiếp nhận truyện ngắn Việt Nam thời kì đổi mới .............36

2.1. Khái quát chung về truyện ngắn Việt Nam thời kì đổi mới .................... 36
2.2. Các phương diện tiếp nhận truyện ngắn Việt Nam thời kì đổi mới ......... 42


2.2.1. Tiếp cận truyện ngắn Việt Nam thời kì đổi mới từ thi pháp học
(tự sự học) ..................................................................................................... 42
2.2 2. Tiếp cận truyện ngắn đương đại từ góc độ phân tâm học ............ 48
2.2.3. Một số hướng tiếp cận khác ........................................................ 50
2.3. Các xu hướng tiếp nhận truyện ngắn Việt Nam thời kì đổi mới ............. 51
2.3.1. Xu hướng phản đối ..................................................................... 53
2.3.2. Xu hướng đồng tình .................................................................... 58
Chương 3. Vấn đề chủ thể tiếp nhận trong việc tiếp nhận truyện ngắn
Việt Nam thời kì đổi mới............................................................................ 63
3.1. Vai trò của chuẩn thẩm mỹ cộng đồng ................................................... 65
3.2. Từ đặc điểm sáng tạo nghệ thuật đến tiếp nhận văn học ........................ 70
3. 2.1. Kết thúc mở ............................................................................... 73
3.2.2. Di động điểm nhìn trần thuật ...................................................... 82
3.2.3. Người kể chuyện “không đáng tin cậy” ...................................... 85
PHẦN KẾT LUẬN ..................................................................................... 96
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 99


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trước đây, trong nghiên cứu phê bình văn học tồn tại một quan
niệm: lấy tác giả cùng cá tính sáng tạo làm trung tâm. Họ cho rằng: ý tưởng
của người nghệ sĩ là nòng cốt, là “chỉ dẫn của Chúa” để soi đường cho những
tín đồ văn chương mải miết đi tìm chân lí; tiếp nhận được xem như một nỗ

lực phóng chiếu tinh thần nghệ sĩ vào tác phẩm, truy tìm ánh xạ tâm hồn nhà
văn trong bề mặt ngôn ngữ, văn bản. Theo quan niệm đó, phê bình văn học cố
gắng lần tìm theo lối người viết đã đi để dựng lại một tác phẩm văn học duy
nhất trong ý đồ sáng tạo. Hướng nghiên cứu phổ biến và lí tưởng một thời là
tiếp cận trực tiếp với tác giả, khai thác địa đồ nhà văn đã phác thảo, lí giải tác
phẩm bằng chỉ dẫn trực tiếp.
Quan niệm này đã xem nhẹ vai trò của bạn đọc và quá trình tiếp nhận.
Không thể phủ nhận vai trò của tác giả trong việc hình thành nên tác phẩm,
xong đó không phải là yếu tố duy nhất và quan trọng nhất để ta cần chú ý khi
nghiên cứu tác phẩm. Bởi, có một vấn đề đặt ra: làm cách nào để tìm hiểu các
tác phẩm khuyết danh, các sáng tác của các nhà văn không đồng thời với
chúng ta hay nhà văn đã mất? Nếu tác giả không để lại bất kì chỉ dẫn nào
ngoài văn bản thì có nghĩa chiếc chìa khóa đi vào văn bản mãi mãi bị vùi lấp.
Mỹ học tiếp nhận hiện đại cho rằng: tác phẩm văn học chỉ ra đời trong
quá trình gặp gỡ, tiếp xúc giữa văn bản tác phẩm với độc giả. Xem “Tác phẩm
văn học như một quá trình” (Trương Đăng Dung), các nhà nghiên cứu văn
học đã phục nguyên vai trò của bạn đọc trong quá trình tiếp nhận văn học. Họ
cho rằng vòng đời của tác phẩm văn học luôn có mối quan hệ qua lại giữa các
khâu sáng tạo, truyền bá và tiếp nhận. Từ xưa đến nay, không phải mỗi nhà
văn xuất hiện, mỗi tác phẩm văn học ra đời là ngay lập tức khẳng định được
giá trị trong lịch sử văn học, mà sự sống của tác phẩm văn học “chỉ thực sự


2

bắt đầu khi trải qua quá trình chiếm lĩnh thẩm mỹ về tác phẩm của người đọc.
Văn bản chỉ trở thành tác phẩm khi người đọc xuất hiện”.
Đề cao vị thế của độc giả, tiếp nhận tác phẩm từ hoạt động của người
đọc là bước tiến lí luận văn học trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Jean- Paul
Sartre đã nói: “Tác phẩm như một con quay kỳ lạ, chỉ có thể xuất hiện và vận

động. Muốn làm cho nó xuất hiện cần phải có một hoạt động cụ thể gọi là sự
đọc. Và tác phẩm văn học chỉ kéo dài chừng nào sự đọc còn có thể tiếp tục.
Ngoài sự đọc ra, nó chỉ là những vệt đen trên giấy trắng”. Nguyễn Lai trong
bài viết: “Về quá trình tiếp nhận văn học” có đưa ra một luận điểm quan trọng
“Nói đến quá trình tiếp nhận văn học, thoạt tiên ta nghĩ ngay đến “sản phẩm”
được làm ra. Theo cách đó, sản phẩm chưa qua tay người tiêu dùng thì mới ở
dạng tiềm năng. Do vậy, năng động chủ quan của người tiếp nhận cánh cửa
đầu tiên để ta có thể đi vào ngôi nhà tạo nghĩa của quá trình tiếp nhận văn
học”. (“Tiếp nhận văn học- Một vấn đề thời sự”, Báo văn nghệ số 28).
Như vậy, trong nghiên cứu, phê bình văn học hiện nay, vai trò của tác giả
không còn giữ địa vị thống trị như trước đây; tư duy lý luận văn học hiện đại
đã nhận ra vai trò quan trọng của văn bản nghệ thuật như là trung tâm tạo
nghĩa. Tác phẩm chính là kết tinh tư duy nghệ thuật của tác giả, nhưng đồng
thời cũng là một thực thể văn hóa xã hội khách quan. Nó có đời sống và sinh
mệnh độc lập với nhà văn ngay từ khi ra đời. Đối với tác phẩm văn học, sự
tiếp nhận của người đọc là khâu cuối cùng của quá trình sáng tạo. Lịch sử tác
phẩm văn học sở dĩ có được, một mặt do giá trị của chính tác phẩm, mặt khác
là do sự tiếp nhận sáng tạo và năng động của công chúng.
Có thể khẳng định, người đọc là yếu tố nội tại của quá trình sáng tác văn
học. Tác phẩm văn học chỉ có được đời sống khi được người đọc tiếp nhận và
chiếm lĩnh các giá trị tư tưởng, thẩm mỹ của nó; nghĩa là, chỉ khi được người
đọc tiếp nhận, quá trình sáng tạo của nhà văn mới hoàn tất.


3

1.2. Văn học thời kỳ đổi mới là một đối tượng rộng lớn và chưa hoàn
thành. Tuy nhiên, với hơn 25 năm từ thời điểm tiến hành đổi mới đến nay,
chúng ta đã hoàn toàn có thể nhìn lại một chặng đường quan trọng của văn
chương nước nhà, để phác họa diện mạo, để nhận ra những thành tựu và hạn

chế, những đổi mới thực sự của văn nghệ trong bối cảnh đối mới của đất
nước.
Nhìn lại hơn 25 năm của nền văn học đổi mới, chúng ta nhận ra có
những điểm hội tụ mà ở đó tác giả, tác phẩm, sự tiếp nhận, phản hồi của công
chúng văn học đang nói lên sức sống sinh động của đời sống văn học. Những
hiện tượng nổi bật như Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Bình Phương, Đỗ Hoàng
Diệu, Nguyễn Ngọc Tư, … chính là những điểm hội tụ như thế. Từ góc độ
tiếp nhận văn học, chúng ta có thể nhận ra bản chất của các hiện tượng vừa
nêu cũng như thấy được thị hiếu thẩm mỹ của cộng đồng thời đại.
1.3. Chọn đề tài “Công chúng tiếp nhận truyện ngắn Việt Nam thời kì đổi
mới”, chúng tôi không những được trở lại những vấn đề về lịch sử văn học
mà còn có cơ hội tiếp cận với những thành tựu về tư duy lí luận văn học hiện
đại và hậu hiện đại, từ đó giúp chúng tôi mở ra những nhận thức mới về
phương thức tồn tại của tác phẩm văn học.
Chúng tôi chia lịch sử nghiên cứu vấn đề thành hai cấp độ: Các công
trình, các bài viết về lí thuyết tiếp nhận nói chung và các công trình, bài viết
về truyện ngắn Việt Nam thời kì đổi mới nói riêng.
1.3.1 Những năm đầu thế kỉ XX, trên thế giới đã có nhiều nhà lí luận
nghiên cứu về lí thuyết tiếp nhận (đặc biệt ở phương Tây). Dựa trên những kết
quả nghiên cứu tác phẩm văn học theo hiện tượng học của Husserl, Roman
Ingarden là người đầu tiên cho ra đời công trình “Tác phẩm văn học”. Ngoài
ra Heidegger và những người đồng nghiệp của ông đã tạo ra những biến thể
mới của Hiện tượng học như Tường giải học, Mĩ học tiếp nhận. Quan điểm


4

của Heidegger đã được Hans Goerg Gadamer tiếp tục phát triển trong công
trình triết học nghệ thật nổi tiếng “Chân lí và phương pháp” (1960). Tác giả
đặt ra những vấn đề hoàn toàn mới mẻ cho lí luận văn học.

Dựa trên lí luận của H.G. Gadamer, những năm 60 của thế kỉ XX, Hans
Robert có công trình “Lịch sử văn học như là sự khiêu khích đối với khoa học
văn học” (1967), nó được xem là tuyên ngôn về mĩ học tiếp nhận, ông nhấn
mạnh sự tồn tại của tác phẩm không thể hình dung được nếu thiếu sự tham gia
của người đọc. Cùng với Jauss, Wolfgang Iser và các nhà khoa học khác cũng
có cùng quan điểm. Về sau Derrida cũng cho rằng: Văn bản văn học không
khép kín, nó luôn mở. Từ đây, lịch sử văn học theo Mĩ học tiếp nhận, không
phải là lịch sử của những tác phẩm và tác giả mà là lịch sử tiếp nhận của
người đọc.
Những thành tựu của tư duy lí luận văn học hiện đại và hậu hiện đại trên
đây có tính chất định hướng cho vấn đề tiếp nhận tác phẩm văn học nói chung
và vấn đề tiếp nhận truyện ngắn Việt Nam thời kì đổi mới, là đề tài mà chúng
tôi đang nghiên cứu nói riêng.
Lí thuyết tiếp nhận đến Việt Nam tuy muộn hơn so với thế giới nhưng bù
lại nó được các nhà nghiên cứu lí luận văn học đặc biệt quan tâm. Cụ thể từ
khoảng thập niên 70, 80, 90 của thế kỉ XX đã có những bài báo, công trình
nghiên cứu về tiếp nhận văn học của các tác giả Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh
Phan Anh, Hoàng Trinh, Nguyễn Lai, Nguyễn Thanh Hùng, Huỳnh Vân,
Nguyễn Thị Thanh Thủy, Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Văn Dân, .... Nhìn chung,
các tác giả đều thừa nhận vấn đề tiếp nhận văn học là một vấn đề quan trọng
cần được nghiên cứu nhất là ở nước ta hiện nay.
Tuy nhiên, theo nhà nghiên cứu Trịnh Bá Đĩnh thì “Người có thành tích
nhất trong việc giới thiệu lí thuyết này ở nước ta là Trương Đăng Dung”.
Thực ra vấn đề này đã có nhiều nhà nghiên cứu đề cập nhưng đến những năm


5

cuối của thập niên 90 mới được Trương Đăng Dung nghiên cứu một cách
khoa học và hệ thống. Ông có nhiều bài viết về lí thuyết tiếp nhận, đặc biệt ở

tạp chí Văn học số 7-8 (2002) Trương Đăng Dung nêu lên phương thức tồn tại
của các tác phẩm văn học, ông đề cập đến hai vấn đề: một là tính chất ngôn
ngữ, cái quyết định đặc trưng văn học của văn bản; hai là khả năng tạo lập đời
sống cụ thể của văn bản văn học qua người đọc. Đây là những đóng góp đáng
quí của ông vào hình thức đổi mới và hiện đại nền lí luận văn học nước nhà.
Ông cũng cho xuất bản hai chuyên luận nghiên cứu sâu sắc về vấn đề tiếp
nhận đó là “Từ văn bản đến tác phẩm văn học” (1998) và “Tác phẩm văn học
như là quá trình” (2004). Trong hai chuyên luận này ông nhấn mạnh: Việc
tiếp cận bản chất của tác phẩm văn học từ đặc trưng của văn bản và sự tạo
nghĩa thông qua người đọc đã cho thấy, tác phẩm văn học không tĩnh mà
động, không là sản phẩm cố định mà là quá trình. Đây là vấn đề quan trọng
khi nghiên cứu tác phẩm văn học.
Có thể thấy, những công trình về lí luận tiếp nhận trên đã đưa ra những lí
thuyết vừa khái quát vừa cụ thể về tiếp nhận văn học. Qua đây chúng tôi có
thể lí giải được vì sao tác phẩm văn học (cụ thể là truyện ngắn Việt Nam thời
kì đổi mới) lại có nhiều cách hiểu khác nhau. Hầu hết các bài viết, công trình
nghiên cứu về truyện ngắn Việt Nam thời kì đổi mới chỉ đề cập đến một vài
phương diện biểu hiện của lí thuyết tiếp nhận, chưa có công trình nào tập
trung một cách đầy đủ, hệ thống và khoa học về vấn đề này. Chúng tôi trân
trọng các công trình nghiên cứu trên như những gợi ý hết sức quí báu có tính
chất định hướng trong quá trình hiện thực đề tài “Công chúng tiếp nhận
truyện ngắn Việt Nam thời kì đổi mới”
1.3.2. Một số truyện ngắn Việt Nam thời kì đổi mới ngay khi vừa xuất
hiện đã tạo nên những cuộc tranh luận sôi nổi kéo dài. Tuy nhiên, những ý
kiến đánh giá xung quanh văn học Việt Nam thời kì đổi mới cũng rất khác


6

nhau. Sự đánh giá ấy vô hình chung đã thừa nhận văn học Việt Nam thời kì

đổi mới là hiện tượng văn học phức tạp và luôn có độ mở lớn.
Trong giới hạn của luận văn, chúng tôi chỉ xin điểm lại một vài bài viết
tiêu biểu xung quanh vấn đề tiếp nhận truyện ngắn Việt Nam thời kì đổi mới.
Đó là bài “Thị hiếu và lối đọc truyện hiện nay qua một cuộc tranh luận” của
Đặng Anh Đào, “Đọc văn phải khác với đọc sử” của nhà nghiên cứu Lại
Nguyên Ân. Văn Giá trong bài “Bàn thêm về Vàng lửa của Nguyễn Huy
Thiệp” cũng nhận xét về cách kết thúc mở trong truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp. Đỗ Đức Hiểu trong quá trình “Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp” đã đưa
chúng ta tiếp cận với một lí thuyết văn học quan trọng của nhân loại cuối thế
kỉ XX: lí thuyết đọc. Cuốn “Công chúng, giao lưu và quảng bá văn học thời
kì đổi mới”(1986-2010) do PGS.TS.Tôn Thị Thảo Miên (chủ biên) tổng kết
thực tiễn tiếp nhận của công chúng và giao lưu, quảng bá văn học trong 25
năm đổi mới. Trần Phỏng Diều với tựa đề: “Thị hiếu thẩm mĩ trong truyện
ngắn Nguyễn Ngọc Tư” có cái nhìn khái quát và đánh giá về truyện ngắn của
chị .
Không có nhiều tác phẩm nhưng vẫn nhận được sự quan tâm và tạo nên
một dấu ấn riêng trong văn học đương đại Việt Nam phải kể đến nhà văn trẻ
Đỗ Hoàng Diệu. Tập truyện ngắn “Bóng đè”(2005) đã gây xôn xao văn đàn
một thời gian dài với rất nhiều luồng ý kiến và dư luận trái chiều.
Nguyễn Bình Phương cũng là một hiện tượng rất đáng chú ý trong đời
sống văn học Việt Nam sau đổi mới. Nhiều bài viết đề cập đến vấn đề ngôn
ngữ, giọng điệu, thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Bình
Phương. Đáng chú ý là những luận văn, khóa luận chọn tác phẩm của Nguyễn
Bình Phương làm đối tượng nghiên cứu.
Tóm lại, những bài viết, những công trình nghiên cứu đó, bằng các
hướng tiếp cận khác nhau đều trực tiếp hay gián tiếp đề cập đến tiếp nhận


7


truyện ngắn Việt Nam thời kì đổi mới. Những nhận xét trên đều liên quan đến
yếu tố văn bản và yếu tố đồng sáng tạo của người đọc, là những vấn đề quan
trọng của lí thuyết tiếp nhận. Kế thừa những kết quả nghiên cứu trên, chúng
tôi đi sâu nghiên cứu đề tài “Công chúng tiếp nhận truyện ngắn Việt Nam thời
kì đổi mới”
1.4. Là một giáo viên dạy văn ở trường phổ thông, tôi nhận thấy vấn đề
tiếp nhận văn học là vấn đề rất cần thiết để tìm hiểu đúng bản chất của văn
chương. Nhờ nó tôi có thể vận dụng vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy
và học tập môn văn trong nhà trường.
2. Mục đích nghiên cứu
Chọn đề tài “Công chúng tiếp nhận truyện ngắn Việt Nam thời kì đổi
mới”, chúng tôi không những được trở lại những vấn đề về lịch sử văn học
mà còn có cơ hội tiếp cận với những thành tựu về tư duy lí luận văn học hiện
đại và hậu hiện đại, từ đó giúp chúng tôi mở ra những nhận thức mới về
phương thức tồn tại của tác phẩm văn học. Đây cũng là một dịp để chúng tôi
khẳng định những đóng góp của Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Bình Phương,
Đỗ Hoàng Diệu, Nguyễn Ngọc Tư, … trong quá trình đổi mới văn học nước
nhà.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn khảo sát những cách tiếp nhận truyện ngắn Việt Nam thời kì
đổi mới qua các hiện tượng nổi bật như Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Bình
Phương, Đỗ Hoàng Diệu, Nguyễn Ngọc Tư, … từ đó hệ thống hóa các
khuynh hướng tiếp nhận của công chúng theo trình tự thời gian. Đồng thời,
tiếp thu ý kiến đánh giá của những nhà nghiên cứu, phê bình xác lập quan
điểm khách quan về một số phương diện nội dung và nghệ thuật của truyện
ngắn Việt Nam thời kì đổi mới, khẳng định vị trí và đóng góp của truyện ngắn
Việt Nam thời kì đổi mới đối với quá trình hiện đại hóa văn học dân tộc.


8


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Truyện ngắn Việt Nam thời kì đổi mới phát triển rất đa dạng và phong
phú. Trong phạm vi luận văn, đối tượng mà chúng tôi tập trung nghiên cứu là
công chúng tiếp nhận truyện ngắn Việt Nam thời kì đổi mới, trong đó chú ý
đến các hiện tượng nổi bật như Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Bình Phương, Đỗ
Hoàng Diệu, Nguyễn Ngọc Tư, …
Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi sử dụng bài viết của các
nhà nghiên cứu lý luận phê bình, các luận văn, luận án nghiên cứu về truyện
ngắn Việt Nam thời kì đổi mới.
5. Đóng góp của luận văn
5.1

Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống vấn

đề tiếp nhận truyện ngắn Việt Nam thời kì đổi mới, trong đó tập trung vào
một số hiện tượng nổi bật như Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Bình Phương, Đỗ
Hoàng Diệu, Nguyễn Ngọc Tư, … Trên cơ sở những thành tựu của lí luận văn
học hiện đại và hậu hiện đại, luận văn nghiên cứu diễn trình tiếp nhận truyện
ngắn Việt Nam thời kì đổi mới nhằm khẳng định: phương thức tồn tại của tác
phẩm văn học qua sự xác lập đời sống cụ thể của văn chương thông qua người
đọc.
5.2 Qua diễn trình tiếp nhận truyện ngắn Việt Nam thời kì đổi mới ở các
hiện tượng nổi bật như Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Bình Phương, Đỗ Hoàng
Diệu, Nguyễn Ngọc Tư, … luận văn khẳng định: lịch sử văn học không chỉ
đơn giản là con số cộng của các tác giả và tác phẩm mà còn được hiểu là các
tác phẩm và người tiếp nhận trong những chuyển biến lịch sử của nó. Tác
phẩm văn học không phải là sản phẩm cố định mà là quá trình tạo nghĩa
không ngừng thông qua người đọc.



9

5.3. Luận văn cũng nêu lên những đóng góp của nhà văn Nguyễn Huy
Thiệp, Nguyễn Bình Phương, Đỗ Hoàng Diệu, Nguyễn Ngọc Tư, … trong
quá trình đổi mới văn học nước nhà.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để luận văn có thể triển khai một cách khoa học, chúng tôi sử dụng các
phương pháp sau:
- Phương pháp lịch sử.
- Phương pháp hệ thống.
- Phương pháp phân tích- tổng hợp.
- Phương pháp thống kê.
- Phương pháp so sánh- đối chiếu.


10

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT TIẾP NHẬN
1.1.Khái quát lý thuyết tiếp nhận
Tiếp nhận là hoạt động nắm bắt thông tin trong quá trình giao tiếp.
Trong giao tiếp văn học từ trước đến nay, quan hệ giữa người đọc với tác
phẩm thường được gọi bằng các từ “đọc”, “cảm thụ”, “thưởng thức”, “phê
bình”…. Lí thuyết tiếp nhận đề xuất khái niệm “tiếp nhận văn học” nhằm chỉ
phương diện chủ động của người đọc trong việc lựa chọn thông tin, sáng tạo ý
nghĩa của tác phẩm. Với khái niệm này, vai trò của người đọc được đặt lên
hàng đầu.
Tiếp nhận văn học là một khâu quan trọng trong toàn bộ hoạt động

văn học. Hoạt động văn học không đơn thuần chỉ là hoạt động sáng tạo nên
văn bản văn học – tức là hoạt động sáng tác của nhà văn, mà còn bao gồm
hoạt động tiếp nhận văn bản văn học của người đọc – tức là hoạt động đọc.
Hai hoạt động này liên quan đến nhau, quy định lẫn nhau, không thể thiếu
một trong hai bởi chỉ có thể thông qua hoạt động tiếp nhận của người đọc –
chủ thể cảm thụ, tiếp nhận văn học, văn bản văn học mới có thể chuyển hóa
thành tác phẩm văn học.
Lí thuyết tiếp nhận ra đời vào giữa thế kỉ XX đã khẳng định sự tiếp
nhận của người đọc có vai trò vô cùng to lớn, quyết định sự sống còn, tồn tại
hay không tồn tại của tác phẩm. Khoa học nghiên cứu văn học thời kì này đã
chứng kiến sự chuyển dịch trung tâm từ tác giả sang văn bản rồi đến người
đọc. Với quan niệm này, tác phẩm văn học vừa là sáng tạo của nhà văn, vừa là
nơi hoạt động của ngôn ngữ, nhưng đồng thời vừa là nơi tiếp nhận những
sáng tạo từ phía người đọc để tạo nên những nét nghĩa mới cho tác phẩm văn
học như là hình thức đọc đặc trưng mà lí luận văn học truyền thống không


11

giải thích được. Và như vậy, xét từ cách tiếp nhận này, việc nghiên cứu bản
chất của tác phẩm văn học cũng chính là nghiên cứu mối quan hệ giữa tác
phẩm và người đọc. Do đó, hoạt động tiếp nhận văn học, là một hoạt động
mang tính sáng tạo, tác phẩm văn học là một thành tố trong quá trình tiếp
nhận.
Nhà nghiên cứu Roman Ingarden trong công trình nghiên cứu “Tác phẩm
văn học” đã chỉ ra rằng: “Tác phẩm văn học như là khách thể mang tính chủ ý
thì đời sống của tác phẩm văn học cũng phụ thuộc vào những hoạt động cụ
thể hoá (đọc) văn bản có chủ ý của người đọc hướng tới nó…, mặt khác thông
qua sự cụ thể hóa như là một hoạt động của ý thức hướng về nó mà bộ xương
được đắp thêm da thịt và tác phẩm hình thành” [41, tr 115-188].

Nhà nghiên cứu Trương Đăng Dung cũng khẳng định “Tác phẩm văn
học như là quá trình” mà hành trình của nó đi từ hoạt động viết của nhà văn
để tạo nên văn bản văn học và khi được người đọc tiếp nhận, mới trở thành
tác phẩm văn học. Cho nên, có thể nói “lịch sử văn học không chỉ đơn giản là
con số cộng các tác giả tác phẩm mà còn được hiểu là các tác phẩm và người
tiếp nhận trong những chuyển biến lịch sử của nó” [1,167]. Giá trị và ý nghĩa
của tác phẩm văn học có đời sống đa dạng, phong phú trong sự lĩnh hội và
tiếp nhận của người đọc qua các thế hệ.
Đề cập đến hành động tiếp nhận, xuất phát từ đặc trưng thẩm mỹ của
nghệ thuật ngôn từ, các tác giả cuốn Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa:
“Tiếp nhận văn học là hoạt động chiếm lĩnh các giá trị tư tưởng, thẩm mỹ của
tác phẩm văn học, bắt đầu từ sự cảm thụ văn bản ngôn từ, hình tượng nghệ
thuật, tư tưởng, cảm hứng, quan niệm nghệ thuật, tài nghệ tác giả cho đến sản
phẩm sau khi đọc: cách hiểu, ấn tượng trong trí nhớ, ảnh hưởng trong hoạt
động sáng tạo, bản dịch, chuyển thể … [13, tr 325].


12

Các tác giả cuốn giáo trình Lí luận văn học (Phương Lựu chủ biên –
NXB GD 2006), tập 1, Bản chất và đặc trưng văn học) cũng cho rằng: “Tiếp
nhận văn học là hoạt động tiêu dùng, thưởng thức, phê bình văn học của độc
giả thuộc nhiều loại hình, nhiều trình độ khác nhau”.
Tiếp nhận văn học khác với các hoạt động tiếp thu văn học với mục
đích để thưởng thức, khảo cứu, giải trí … Tiếp nhận văn học chính là quá
trình người đọc hòa mình vào tác phẩm, rung động với nó, đắm chìm trong
thế giới nghệ thuật được dựng lên bằng ngôn từ, lắng nghe tiếng nói cuả tác
giả, thưởng thức cái hay, cái đẹp, tài nghệ của người nghệ sĩ sáng tạo. Bằng
trí tưởng tượng, kinh nghiệm sống, vốn văn hóa và bằng cả tâm hồn mình,
người đọc khám phá ý nghĩa của từng câu chữ, cảm nhận sức sống của từng

hình ảnh, hình tượng, dõi theo diễn biến của câu chuyện, làm cho tác phẩm từ
một văn bản khô khan biến thành một thế giới sống động, đầy sức cuốn hút.
Có thể nói, tiếp nhận văn học là một hoạt động tích cực của cảm giác, tâm trí
người đọc nhằm biến văn bản thành thế giới nghệ thuật trong tâm trí mình.
Như vậy, trong đời sống văn học, tiếp nhận văn học có ý nghĩa hết sức
quan trọng, Hans Robert Jauss nói: “Lịch sử văn học là lịch sử tiếp nhận” để
khẳng định tầm quan trọng của tiếp nhận văn học bởi chỉ khi đến với độc giả,
văn bản văn học mới trở thành yếu tố tinh thần, biến tác phẩm thành một yếu
tố của đời sống ý thức xã hội.
1.2. Lịch sử tiếp nhận văn học
Lịch sử văn học không chỉ cho biết sự ra đời của tác phẩm văn học mà
còn cho biết lịch sử tiếp nhận tác phẩm văn học. Trong lí luận văn học, lí
thuyết tiếp nhận là một bộ phận quan trọng. Tác phẩm văn học được sáng tác
để cho người đọc tiếp nhận, thưởng ngoạn. Thế nhưng lí thuyết tiếp nhận văn
học ở mỗi giai đoạn lại có sự biểu hiện khác nhau.


13

1.2.1.Tiếp nhận văn học truyền thống
Lí luận tiếp nhận văn học truyền thống cho rằng tiếp nhận là sự gặp gỡ
giữa hai tâm hồn đồng điệu, “hai thế giới nội tâm”, “hai khối óc lớn, hai tư
tưởng lớn”, giữa chủ thể cá nhân với tác giả người đọc, “của ý thức (vô thức)
tác giả với ý thức (vô thức) người đọc”[62, tr156].
Dạng thức biểu hiện của tiếp nhận văn học truyền thống bộc lộ ở quan
niệm tiếp nhận “tri âm” và “kí thác”.
Quan niệm “tri âm” cho rằng: nhiệm vụ của việc tiếp nhận là cảm và
hiểu cuộc sống được gợi lên trong tác phẩm như chính tác giả miêu tả. Câu
chuyện Bá Nha đập vỡ cây đàn khi Chu Tử Kỳ chết là minh họa tiêu biểu cho
quan niệm này. Khi không còn người tri âm, thấu hiểu được nỗi lòng của

người đánh đàn gửi gắm qua tiếng nhạc thì tiếng đàn dù hay cũng không còn
ý nghĩa. Đây là kiểu tiếp nhận mang tính chất chủ quan, không đề cao vai trò
của công chúng rộng rãi mà chỉ chú ý đến những cá nhân có sự am hiểu sâu
sắc văn chương, đồng điệu trong đời sống tâm hồn khi sự cảm nhận của độc
giả về tác phẩm trùng khít với ý đồ của tác giả trong quá trình xây dựng tác
phẩm, nghĩa là “người tiếp nhận có thế giới nội tâm trùng với thế giới nội tâm
của nhà văn” (Emil Enekel). Quan niệm này đánh mất chức năng xã hội của
văn học, triệt tiêu khả năng đồng sáng tạo của người đọc khi tiếp nhận văn
bản văn học. Nhưng quan niệm này rất khó thực hiện được bởi rất hiếm khi có
được sự gặp gỡ để hiểu nhà văn và tác phẩm của họ.
Quan niệm kí thác thì xem tác phẩm như là nơi để gửi gắm tư tưởng,
tình cảm của người đọc. Họ quan niệm thưởng thức văn học như là một sự tự
thể hiện bản thân. Khi đó, người tiếp nhận “phát hiện những giá trị tư tưởng
thẩm mỹ của tác phẩm ngoài tầm kiểm soát của tư tưởng tác giả, dựa trên các
ấn tượng chủ quan về tác phẩm hoặc khám phá những ý tưởng ngược hẳn với
ý của tác giả”[13, tr 326]. Do đó, tác phẩm văn chương được coi như là một


14

phương tiện để người đọc giãi bày tấm lòng, gửi gắm những quan niệm nhân
sinh, những cảm xúc về thế cuộc hoặc những vấn đề bức thiết của cuộc sống
mà trong một chừng mực nào đó người đọc không có điều kiện để nói ra một
cách trực diện.
Như vậy, quan niệm truyền thống về tiếp nhận văn học cho rằng tiếp
nhận là sự đồng cảm giữa nhà văn, tác phẩm và bạn đọc, tiếp nhận tác phẩm
văn học đúng như ý đồ của nhà văn khi sáng tạo tác phẩm, là sự gặp gỡ của
hai tâm hồn tri âm, hai trái tim cùng chung nhịp đập.
1.2.2. Tiếp nhận văn học hiện đại
Trên tinh thần kế thừa lí luận tiếp nhận truyền thống, lí luận tiếp nhận

hiện đại cho rằng tiếp nhận là sự giao lưu, đối thoại giữa tác giả - chủ thể sáng
tác và độc giả - chủ thể tiếp nhận thông qua tác phẩm văn học. Lý thuyết tiếp
nhận ra đời đường như là sự phản ứng lại những quan niệm tuyệt đối hóa quá
trình sáng tác trước đây, coi trọng tác phẩm văn học mà không quan tâm đúng
mức tới tiếp nhận văn học.
Trường phái phê bình ấn tượng do J.Lemaitre chủ xướng chủ trương tái
hiện cảm xúc tinh khôi, tươi mới của người đọc trong việc tiếp nhận tác
phẩm. Hoạt động cảm thụ, phê bình tác phẩm diễn ra phong phú, đa dạng tác
động không ít đến những nhà nghiên cứu lí luận, những người muốn đặt lí
thuyết tiếp nhận như một phương pháp luận để nghiên cứu.
Một đại biểu của trường phái Konstanz, Hans Robert Jauss đã nêu lên
vấn đề tiếp nhận: sự tiếp nhận của truyền thống văn hóa này đối với tác phẩm
truyền thống văn hóa khác; của một xã hội này đối với tác phẩm của một xã
hội khác và của công chúng xác định đối với một tác phẩm. Trong tác phẩm
“Vì một nền mỹ học tiếp nhận”, Jauss đã đặt giả thuyết cho rằng một tác
phẩm đồng thời bao gồm văn bản với tư cách là một cấu trúc cho sẵn và sự
tiếp nhận của người đọc. Ý nghĩa của nó thay đổi theo điều kiện và lịch sử xã


15

hội của tiếp nhận nên nó không cố định, bất biến mà mang ý nghĩa của một
cuộc đối thoại. Do đó, lịch sử của văn học không chỉ là lịch sử của quá trình
sáng tác mà còn bao gồm cả lịch sử tiếp nhận của các thế hệ độc giả. Tác
phẩm văn học được ông quan niệm là sự kết hợp chặt chẽ giữa quá trình sáng
tạo và sự tiếp nhận của công chúng văn học. Với việc đề xuất những khái
niệm quan trọng như “tầm đón đợi”, “kinh nghiệm thẩm mỹ” …. Hans Robert
Jauss và trường phái Konstanz đã mô tả trọn vẹn quá trình sáng tạo của tác
giả văn học từ sáng tác đến tiếp nhận.
Công trình “Xã hội, văn học, sự đọc” của các nhà nghiên cứu người

Đức do Manfred Nauman chủ biên đã nêu lên những vấn đề cốt lõi nhất của lí
thuyết tiếp nhận. Họ cho rằng trọng tâm lí thuyết tiếp nhận là giải quyết vấn
đề tương quan chặt chẽ giữa các thành tố khác nhau của quá trình tiếp nhận
văn học. Qua đó, cần làm rõ ý nghĩa của các yếu tố tác giả, tác phẩm, người
đọc và hiện thực.
Trong cái nhìn lí luận văn học hiện đại, văn bản văn học và tác phẩm
văn học là hai khái niệm khác nhau, không phải là một, không thể đồng nhất
chúng. Nhà văn là người khai sinh ra văn bản văn học nhưng đó mới chỉ là
một “kết cấu vẫy gọi” (Iser), tác phẩm văn học chỉ thực sự được hình thành
thông qua sự đọc và nó chỉ thực sự trọn vẹn trong cảm nhận của người đọc.
Bằng toàn bộ kinh nghiệm thẩm mỹ của mình, người đọc khi tiếp cận với văn
bản tái hiện lại thế giới hình tượng được tác giả thể hiện trong tác phẩm và
khi đó tác phẩm văn học mới hiện lên trọn vẹn trong thế giới cảm xúc của độc
giả.
Lí luận tiếp nhận hiện đại cho rằng tác phẩm văn học là một loại sản
phẩm tinh thần do nhà văn sáng tạo ra nhằm thỏa mãn nhu cầu về đời sống
của con người trong xã hội. Sáng tác văn học tạo ra đối tượng tiêu thụ cho
tiếp nhận văn học, đó chính là tác phẩm văn học. “Tiêu thụ mà không có đối


16

tượng, không thể trở thành tiêu thụ”. Nếu không có hoạt động sáng tác của
nhà văn thì tiếp nhận văn học không thể diễn ra. Sáng tác văn học còn tạo ra
những phương thức tiêu thụ cho tiếp nhận văn học. Nói cách khác, sáng tác
văn học không chỉ quyết định hoạt động tiếp nhận văn học sẽ diễn ra như thế
nào, nhà văn sáng tạo nên tác phẩm theo một phương thức nào đó, người đọc
cũng phải dựa trên một phương thức phù hợp mà tiếp nhận tác phẩm. Nếu như
cái mà nhà văn cung cấp cho người đọc là tiểu thuyết mà không phải là thơ,
thì người đọc không thể lấy cách đọc thơ mà đọc tiểu thuyết và ngược lại.

Sáng tạo văn học cũng tạo nên động lực tiêu thụ cho tiếp nhận văn học, tức là
nhu cầu của bản thân người tiêu thụ: “Bản thân tiêu thụ với tư cách là một
động lực lấy đối tượng làm môi giới. Nhu cầu mà tiêu thụ cảm thấy về đối
tượng chính là nhu cầu sáng tạo tri giác về đối tượng. Đối tượng nghệ thuật
tạo nên công chúng hiểu được nghệ thuật và có khả năng thưởng thức cái đẹp.
Bất kì một sản phẩm nào khác cũng vậy. Do đó, sản xuất không chỉ tạo nên
đối tượng cho chủ thể mà còn tạo nên chủ thể cho đối tượng”. Nói cách khác,
chỉ có tác phẩm văn học mới có thể tạo ra nhu cầu thưởng thức văn học của
con người. Một văn bản phi văn học chỉ có thể tạo ra nhu cầu nhận thức mà
không phải là nhu cầu thưởng thức văn học. Đồng thời, bất cứ người nào cũng
phải trải qua quá trình đọc một tác phẩm văn học, sau đó mới có thể thưởng
thức được văn học. Vì vậy, sáng tác văn học không chỉ tạo nên đối tượng
thưởng thức cho người đọc, mà còn tạo nên chủ thể tiếp nhận cho đối tượng
thưởng thức, đó là độc giả. Tiếp nhận văn chương là một hoạt động tái tạo
hình tượng nghệ thuật, một công việc không thể thiếu của sáng tạo nghệ thuật.
Lí luận tiếp nhận văn học hiện đại đã bổ sung, phát triển những quan
niệm tiếp nhận của lí luận truyền thống trên bình diện xã hội, văn hóa, lịch sử.
Kế thừa những thành tựu của lí luận tiếp nhận truyền thống, lí luận tiếp nhận
hiện đại đã nâng tầm lí thuyết tiếp nhận văn chương trong lịch sử văn học,


17

đồng thời không ngừng mở rộng phạm vi nghiên cứu, tìm tòi, khám phá phạm
vi biểu hiện, lí giải quy luật của hoạt động tiếp nhận văn học . . . Với những
đóng góp ấy, hoạt động tiếp nhận được nhận thức ngày càng đúng đắn và
khoa học hơn.
1.3. Những đặc điểm của lí thuyết tiếp nhận
Tác phẩm văn học là một đối tượng nhận thức đặc thù vì nó là sản
phẩm tinh thần đặc biệt. Muốn chiếm lĩnh, tiếp nhận không thể vận dụng

những năng lực hoạt động nhận thức chung mà cần đến những năng lực đặc
thù qua hình tượng thẩm mỹ vốn là một hình tượng nhận thức phát triển ở
mức cao hơn những hoạt động nhận thức bằng lý luận. Tác phẩm văn học là
một sáng tạo tinh thần của cá nhân người nghệ sĩ. Nó không phải là một vật
thể thẩm mỹ cụ thể mà là một tồn tại phi vật thể thông qua hình tượng thẩm
mỹ được vật chất hóa bằng hệ thống tín hiệu ngôn ngữ nghệ thuật.
Tác phẩm văn chương nào cũng nhằm mục đích thông báo tình cảm
thẩm mỹ. Nhà văn gửi đến cho người đọc nhiều cảm xúc mãnh liệt nhất về
cuộc sống, con người dưới ánh sáng của một lí tưởng thẩm mỹ. Nội dung đó
nó thể hiện qua hình tượng thẩm mỹ được hệ thống hóa qua hệ thống ngôn
ngữ nghệ thuật do nhà văn sáng tạo nên. Nó là một đặc trưng riêng trong sáng
tác văn học và trong tiếp nhận văn học. Tiếp nhận chính là tìm hiểu những
tình cảm thẩm mỹ bằng hệ thống tượng hình thẩm mỹ qua hệ thống ngôn ngữ.
Đây là một quy trình khép kín của tác phẩm văn học từ sáng tác đến bạn đọc
và ngược lại.
Từ qui trình tác động của tác phẩm văn học đối với bạn đọc, chúng ta
nhận thấy qui trình tiếp nhận tác phẩm là quá trình tiếp thu, lĩnh hội những giá
trị mà văn bản tác phẩm mang đến cho người đọc. Nó đòi hỏi người đọc phải
có những năng lực cụ thể. Quá trình đó diễn ra theo một chiều duy nhất đó là


18

đọc văn và tri giác ngôn ngữ. “Tiếp nhận văn học là một quá trình, vì nó chỉ
thực sự diễn ra theo một hoạt động duy nhất đó là đọc văn”.
1.3.1 Tiếp nhận văn học là giai đoạn hoàn tất quá trình sáng tác – giao
tế của tác phẩm
Nghệ sĩ sáng tạo tác phẩm là để truyền đạt những khái quát, rung cảm
của mình về cuộc sống cho người đọc, chỉ khi người đọc tiếp nhận tác phẩm
thì quá trình sáng tạo mới hoàn tất. Muốn hiểu rõ bản chất của quá trình tiếp

nhận, cần thấy rõ hình tượng nghệ thuật tồn tại như một quá trình có nhiều
giai đoạn. Trước tiên hình tượng nảy sinh trong ý đồ tác giả và được phát
triển thành một thế giới nghệ thuật trọn vẹn tồn tại dưới dạng tinh thần trong ý
thức của người nghệ sĩ. Hình tượng ấy được thể hiện vào một phương tiện vật
chất là văn bản như một tổ chức kí hiệu chặt chẽ, liên tục, phù hợp với một
cấu trúc ý nghĩa trọn vẹn, phức tạp. Tác phẩm chỉ có được đời sống khi được
độc giả tiếp nhận, sự tiếp nhận chuyển nội dung văn bản thành một thế giới
tinh thần, biến tác phẩm thành một yếu tố của đời sống ý thức xã hội. Như
vậy tiếp nhận là một giai đoạn tồn tại của hình tượng nghệ thuật, là một khâu
không thể thiếu được của sáng tạo nghệ thuật.
Không phải mọi sự sử dụng văn bản văn học đều là “tiếp nhận văn
học”. Tiếp nhận văn học không phải là việc sử dụng từ ngữ, tìm kiếm kiến
thức xã hội, văn hóa, lịch sử, kinh tế, chính trị… từ các tác phẩm văn học.
Văn học là sản phẩm tinh thần, kết tinh kinh nghiệm, tư tưởng tình cảm của
con người, chỉ khi nào có sự giao thoa giữa người đọc với tác phẩm, người
đọc lĩnh hội được thế giới tinh thần đó mới là sự tiếp nhận chân chính.
Tiếp nhận đòi hỏi người đọc phải biết tri giác, cảm thụ tác phẩm, phải
hiểu tình tiết, ngôn ngữ, cốt truyện, thể loại để có thể cảm nhận hình tượng
văn học một cách toàn vẹn. Người đọc tiếp xúc với ý đồ sáng tạo của nhà văn,
thâm nhập vào hệ thống hình tượng tác phẩm và đưa hình tượng tác phẩm vào


19

văn cảnh đời sống và kinh nghiệm sống của mình để thể nghiệm, đồng cảm.
Mức độ cuối cùng của quá trình tiếp nhận là người đọc lí giải tác phẩm, hiểu
được vị trí của tác phẩm trong lịch sử văn hóa, tư tưởng và truyền thống nghệ
thuật. Tiếp nhận văn học đòi hỏi sự tham gia của tri giác, cảm giác, trực giác
tưởng tượng và bộc lộ cá tính của người tiếp nhận, lập trường của người đọc
với giá trị tác phẩm.

1.3.2. Tính khách quan của tiếp nhận văn học.
Tiếp nhận văn học xuất phát từ người đọc. Mỗi người đọc có một suy
nghĩ chủ quan riêng, và việc tiếp nhận tùy thuộc vào những suy nghĩ, độ tinh
tế, kiến thức, vốn sống của người đó. Cùng một tác phẩm nhưng có người thì
say mê ngôn ngữ của tác phẩm, người thì tìm kiếm trong đó sự đồng cảm,
đồng điệu trong cuộc sống, có người thì chú trọng khai thác tác phẩm trên các
quan điểm nghệ thuật. Có nhiều trường hợp cùng một câu chữ nhưng mỗi
người lại có mỗi cách tiếp cận khác nhau, lý giải khác nhau tùy thuộc vào thị
hiếu, vào vốn sống, vào năng lực thẩm mỹ của mỗi người.
Tuy nhiên, tiếp nhận văn học lại là hoạt động mang tính lịch sử xã hội
và khách quan. Người đọc khi ở trong quá trình tiếp nhận văn học tâm lí của
anh ta không thể là tấm bảng trắng, trong hoạt động thực tiễn xã hội, thẩm mỹ
và hoạt động văn hóa giáo dục, anh ta đã có một kết cấu tâm lí và văn hóa
nhất định. Cái này tất nhiên sẽ ảnh hưởng và chi phối sự tiếp nhận văn bản
văn học của anh ta. Chính dựa trên cơ sở này, nhà mĩ học Đức Jauss đã đề
xuất một khái niệm rất quan trọng: tầm đón đợi. Đây là khái niệm để chỉ độ
thưởng thức và yêu cầu thưởng thức của người đọc đối với tác phẩm văn học.
Tầm đón đợi này hình thành do sự tổng hợp các kinh nghiệm, tri thức, sở
thích, năng lực…
Văn học phản ánh đời sống xã hội nên vốn mang tính khách quan. Tầm
đón đợi của người đọc có thể thống nhất với trình độ nghệ thuật của tác phẩm,


×