Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

tiểu luận cao học CNDVBC phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến và vận dụng vào phân tích mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.5 KB, 27 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Mỗi người trong chúng ta đều sống trong một mạng lưới sự sống
rộng lớn. Giống như một mạng nhện, càng có nhiều mối liên hệ thì mạng
lưới càng bền vững. Chúng ta đã biết tất cả những mối liên kết trong sự
sống sẽ không tồn tại và phát triển được nếu không được hỗ trợ bởi môi
trường. Với tốc độ phá hoại môi trường như hiện nay của con người, môi
trường của chúng ta đang dần bị suy thoái, mối liên kết của các mạng lưới
sự sống đang dần bị phá vỡ. Sự tăng trưởng kinh tế ngày càng nhanh, một
mặt nó nâng cao đời sống của người dân nhưng mặt khác nó đang gây một
sức ép mạnh mẽ lên môi trường tự nhiên.
Cũng như nhiều nước đang phát triển khác, để có những kết quả về
kinh tế trong giai đoạn trước mắt, chúng ta phải trả giá là mất đi sự bền vững
của các nguồn tài nguyên về lâu dài. Một thập kỷ phát triển nhanh chóng ở
việt nam đã dẫn đến sự gia tăng ô nhiễm đất, khơng khí, nước và quan trọng
hơn là gia tăng mưc tiêu thụ, phân hoá giầu nghèo… mạng lưới sự sống đang
dần mất đi sưc mạnh của nó. Chính vì vậy tôi quyết chọn đề tài này để nghiên
cứu.
Khi nghiên cứu “Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến và vận
dụng vào phân tích mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi
trường sinh thái ở Việt Nam”. Với tư cách là một người theo ngành triết
học, tơi muốn góp một phần cơng sức nhỏ bé của mình vào việc tìm kiếm
con đường phát triển của việt nam trong những năm tới nhằm đưa việt nam
trở thành một nước phát triển bền vững trong khu vực và trên thế giới.
Hồn thành tiểu luận này tơi đã gia tăng được tri thức cũng như hiểu biết
về các vấn đề cấp thiết của Việt Nam.
Hà Nội, ngày 20 tháng 08 năm
2013


CHƯƠNG I: PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MỐI LIÊN HỆ
PHỔ BIẾN


1.1. Quá trình phát triển của phép biện chứng

Triết học ra đời từ thời cổ đại đánh dấu sự ra đời của phép biện chứng. Trải
qua hàng ngàn năm tồn tại và phát triển, phép biện chứng có lúc phồn vinh có khi
suy vong. Khởi đầu là phép biện chứng tự phát cổ đại, thể hiện rõ nét trong thuyết
“âm - dương” của Trung Quốc, đăc biệt là trong nhiều học thuyết của Hi Lạp cổ
đại. Đến khoảng thế kỷ 17 nửa đầu thế kỷ 18, phương pháp siêu hình thống trị
trong tư duy triết học mà đại diện là Đêcactơ – ông được coi là linh hồn của
phương pháp siêu hình. Trong khoảng nửa sau thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19 đây là thời
kỳ tổng kết các lịch sử triết học nhân loại và hình thành hệ thống lớn đó là phương
pháp biện chứng duy tâm mà đại diện là Hêgen ông được coi là tiền đề của
phương pháp biện chứng duy vật sau này.
Ngày nay phép biện chứng đã đạt đến trình độ cao nhất đó là phép biện
chứng duy vât. Phép biện chứng duy vật được hình thành từ một loạt những phạm
trù, những nguyên lý, những quy luật được khái quát từ hiện thực, phù hợp với
hiện thực. Cho nên nó phản ánh đúng sự liên hệ, sự vận động và sự phát triển của
tự nhiên, xã hội và tư duy. Nhờ vậy, nó đã khắc phục được những hạn chế vốn có
của phép biện chứng tự phát cổ đại cho rằng thế giới là một chỉnh thể thống nhất,
giữa các bộ phận của nó có mối liên hệ qua lại, thâm nhập vào nhau, tác động và
chịu ảnh hưởng lẫn nhau, thế giới và các bộ phận cấu thành thế giới ấy không
ngừng vận động và phát triển. Tuy nhiên, sự hạn chế của phương pháp biện chứng
tự phát là tuy nó cho chúng ta thấy một bức tranh về sự tác động qua lại, sự vận
động và phát triển nhưng chưa làm rõ được cái gì đang liên hệ cũng như những
quy luật nội tại của sự vận động và phát triển.
Phép biện chứng duy vật còn sửa được sai lầm của phép biện chứng duy
tâm khách quan thời cổ đại mà đại biểu là Hêgen - đại diện lỗi lạc của phép biện
2
2



chứng. Hêgen cho rằng sự phát triển biện chứng của thế giới bên ngoài chỉ là sự
sao chép lại sự tự vận động của “ý niệm tuyệt đối ”mà thôi. Phép biện chứng duy
vật đã chứng minh rằng : những ý niệm trong đầu óc của chúng ta chẳng qua là sự
phản ánh của các sự vật hiện thực khách quan, do đó bản thân biện chứng của ý
niệm chỉ đơn thuần là sự phản ánh có ý thức của sự vận động biện chứng của thế
giới hiện thực khách quan. Như vậy phép biện chứng duy vật đã khái quát một
cách đúng đắn những quy luật vận động và sự phát triển chung nhất của thế giới.
Vì vậy Ph.Ăngen đã định nghĩa: “phép biện chứng…là môn khoa học về những
quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài
người và của tư duy.”
1.2 Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến

1.2.1. Khái niệm mối liên hệ phổ biến
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến một trong hai nguyên lý cơ bản và đóng
vai trị xương sống trong phép duy vật biện chứng của triết học Mác - Lênin khi
xem xét, kiến giải sự vật, hiện tượng.
Trong thế giới có vô vàn các sự vật, các hiện tượng và các q trình khác
nhau. Vậy giữa chúng có mối liên hệ qua lại, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau hay
chúng tồn tại biệt lập, tách rời nhau? Trong lịch sử triết học, để trả lời câu hỏi đó,
ta thấy có những quan điểm khác nhau, thậm chí trái ngược nhau.
Trả lời câu hỏi thứ nhất, những người theo quan điểm siêu hình cho rằng
các sự vật, hiện tượng tồn tại biệt lập, tách rời nhau, cái này tồn tại bên cạnh cái
kia. Chúng khơng có sự phụ thuộc, khơng có sự ràng buộc và quy định lẫn nhau.
Nếu giữa chúng có sự quy định lẫn nhau thì cũng chỉ là những quy định bề ngồi,
mang tính ngẫu nhiên. Tuy vậy, trong số những người theo quan điểm siêu hình
cũng có một số người cho rằng, các sự vật, hiện tượng có mối quan hệ với nhau và
mối liên hệ rất đa dạng phong phú, song các hình thức liên hệ khác nhau khơng có
khả năng chuyển hố lẫn nhau. Chẳng hạn giới vơ cơ và giới hữu cơ khơng có mối
liên hệ gì với nhau, tồn tại độc lập khơng thâm nhập lẫn nhau; tổng số đơn giản
của những con người riêng lẻ tạo thành xã hội đứng yên không vận động...

3
3


Trái lại, những người theo quan điểm biện chứng lại cho rằng các sự vật,
hiện tượng và các quá trình khác nhau vừa tồn tại độc lập, vừa quy định, tác động
qua lại, chuyển hoá lẫn nhau. Chẳng hạn, bão từ diễn ra trên mặt trời sẽ tác động
đến từ trường của trái đất và do đó tác động đến mọi sự vật, trong đó có con
người; sự gia tăng về dân số sẽ tác động trực tiếp đến nền kinh tế, xã hội, giáo dục
y tế.v.v; môi trường ảnh hưởng to lớn đến con người không chỉ trong một nước
mà trên toàn thế giới và ngược lại, hoạt động của con người cũng tác động, ảnh
hưởng làm biến đổi mơi trường.
Câu hỏi đặt ra là: nếu chúng có mối liên hệ qua lại thì cái gì quy định mối
liên hệ đó? Trả lời câu hỏi thứ hai, những người theo chủ nghĩa duy tâm cho rằng
cái quyết định mối quan hệ, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng là
một lực lượng siêu tự nhiên (như trời) hay do ý thức cảm giác của con người.
Đứng trên quan điểm duy tâm chủ quan, Bécơli cho rằng cảm giác là nền tảng của
mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng. Hêghen xuất phát từ lập trường duy tâm
khách quan lại vạch ra rằng “ý niệm tuyệt đối” là nền tảng của mối liên hệ giữa
các sự vật hiện tượng.
Những người theo quan điểm duy vật biện chứng khẳng định tính thống
nhất vật chất của thế giới là cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vât và hiện tượng.
Các sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới dù có đa dạng, phong phú, có khác nhau
bao nhiêu, song chúng dều chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới duy
nhất, thống nhất- thế giới vật chất. Nhờ có tính thống nhất đó, chúng khơng thể
tồn tại biệt lập tách rời nhau mà tồn tại trong sự tác động qua lại chuyển hoá lẫn
nhau theo những quan hệ xác định. Chính trên cơ sở đó triết học duy vật biện
chứng khẳng định rằng mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định
sự tác động qua lại sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa
các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới .

Các sự vật hiện tượng trong thế giới chỉ biểu hiện sự tồn tại của mình thơng
qua sự vận động, sự tác động qua lại lẫn nhau. Bản chất tính quy luật của sự vật,
hiện tượng cũng chỉ bộc lộ thông qua sự tác động qua lại giữa các mặt của bản
4
4


thân chúng hay sự tác động của chúng đối với sự vật, hiện tượng khác. Chúng ta
chỉ có thể đánh giá sự tồn tại cũng như bản chất của một con người cụ thể thông
qua mối liên hệ, sự tác động của con người đó đối với người khác, đối với xã hội
và tự nhiên thông qua hoạt động của chính người ấy. Ngay tri thức của con người
cũng chỉ có giá trị khi chúng được con người vận dụng vào hoạt động cải biến tự
nhiên, cải biến xã hội và cải biến chính con người.
Nguyên lý này được dựa trên một khẵng định trước đó của triết học MácLênin là khẳng định tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở của mối liên hệ
giữa các sự vât và hiện tượng. Các sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới dù có đa
dạng, phong phú, có khác nhau bao nhiêu, song chúng dều chỉ là những dạng khác
nhau của một thế giới duy nhất, thống nhất- thế giới vật chất. Ăng-ghen đã nhấn
mạnh điều này “Tính thống nhất của thế giới là ở tính vật chất của nó, và tính vật
chất này được chứng minh khơng phải bằng ba lời lẽ khéo léo của kẻ làm trò ảo
thuật, mà bằng sự phát triển lâu dài và khó khăn của Triết học và khoa học tự
nhiên”
Nhờ có tính thống nhất đó, chúng khơng thể tồn tại biệt lập tách rời nhau
mà tồn tại trong sự tác động qua lại chuyển hoá lẫn nhau theo những quan hệ xác
định. Chính trên cơ sở đó triết học duy vật biện chứng khẳng định rằng mối liên
hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định sự tác động qua lại sự chuyển hoá
lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một
hiện tượng trong thế giới.
Như vậy, có thể hiểu trong phép biện chứng, khái niệm mối liên dùng để chỉ
sự quy định, sự tác động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay
giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới.

Còn mối liên hệ phổ biến là khái niệm dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở
nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới. Trong mối liên hệ của các sự vật, hiện
tượng, những mối liên hệ phổ biến nhất là mối liên hệ giữa các mặt đối lập, mối
liên hệ giữa lượng và chất, khẳng định và phủ định, cái chung và cái riêng, bản
chất và hiện tượng…
5
5


Giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới vừa tồn tại những mối liên hệ đặc
thù, vừa tồn tại những mối liên hệ phổ biến trong phạm vi nhất định hoặc mối liên
hệ phổ biến nhất, trong đó mối liên hệ đặc thù là sự thể hiện những mối liên hệ
phổ biến trong những điều kiện nhất định.
1.2.2. Nội dung nguyên lí về mối liên hệ phổ biến
Mối liên hệ phổ biến có tính khách quan vì mối liên hệ là vốn có của sự vật,
hiện tượng. Nó khơng phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người hay thần
linh, thượng đế. Ngay cả những vật vô tri, vô giác cũng đang hàng ngày chịu sự
tác động của các sự vật hiện tượng khác (như ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm, áp suất
khơng khí..., đơi khi cũng chịu sự tác động của con người). Con người - một sinh
vật phát triển cao nhất trong tự nhiên dù muốn hay không cũng luôn luôn bị tác
động của các sự vật, hiện tượng khác và các yếu tố ngay trong chính bản thân.
Ngồi sự tác động của tự nhiên, con người còn tiếp nhận sự tác động của xã
hội và của những người khác. Chính con người và chỉ có con người mới tiếp nhận
vô vàn các mối mối liên hệ. Do vậy, con người phải hiểu biết các mối quan hệ,
vận dụng chúng vào hoạt động của mình, giải quyết các mối liên hệ phù hợp nhằm
phục vụ nhu cầu lợi ích của xã hội và bản thân con người .Chỉ có liên hệ với nhau
thì sự vật, hiện tượng mới tồn tại, vận động, phát triển. Ví dụ : con vật thì có mối
liên hệ giữa kẻ săn mồi và con mồi: con hổ với con nai…, nếu khơng có mối liên
như vậy thì con vật khơng thể tồn tại. Cịn con người thì có các quan hệ xã hội
giữa người này với người khác có như vậy con người mới tồn tại, vận động và

phát triển.
Mối liên hệ có tính phổ biến vì bất cứ sự vật hiện tượng nào cũng liên hệ
với sự vật, hiện tượng khác. Khơng có sự vật hiện tượng nào nằm ngồi mối liên
hệ. Xuất phát từ bản thân tính biện chứng của thế giới mỗi sự vật, hiện tượng là
một thể thống nhất, khơng có sự vật hiện tượng nào tồn tại một cách cô lập, biệt
lập mà chúng là một thể thống nhất. Không chỉ trong tự nhiên, mà cả trong xã hội,
lẫn trong tư duy, các sự vật hiện tượng cũng liện hệ tác động qua lại lẫn nhau.

6
6


Khơng thể tìm bất cứ ở đâu, bất cứ khi nào các sự vật, hiện tượng lại tồn tại
một cách cơ lập tách rời. Ví dụ: Trong tự nhiên, cây xanh có mối liên hệ với mơi
trường ( khơng khí, nhiệt độ…), cịn có mối liên hệ với con người ( con người
chăm sóc cây xanh, chặt phá rừng…). Trong xã hội, khơng có người nào mà
khơng có các mối quan hệ xã hội như: quan hệ hàng xóm, gia đình, bạn bè, đồng
nghiệp…; các hình thái kinh tế - xã hội cũng có mối liên hệ với nhau, hình thái
kinh tế - xã hội sau ra đời từ hình thái kinh tế - xã hội trước (công xã nguyên thủychiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa). Trong tư duy,
có mối liên hệ giữa các sự suy đốn, các tâm tư, tình cảm, các cách suy nghĩ khác
nhau như: nhìn vào một cơ gái ta có các suy đốn cơ ấy là người giàu có, cơ ấy
khơng được tốt, cơ ấy rất khó tính… Trong thời đại ngày nay khơng một quốc gia
nào khơng có quan hệ, khơng có liên hệ với các quốc gia khác về mọi mặt của đời
sống xã hội. Chính vì thế, hiện nay, trên thế giới đã và đang xuất hiện xu hướng
tồn cầu hố, khu vực hố mọi mặt đời sống xã hội. Nhiều vấn đề đã và đang trở
thành vấn đề tồn cầu như: đói nghèo, bệnh hiểm nghèo, dân số và kế hoạch hố
gia đình, chiến tranh và hồ bình.... Đặc biệt vấn đề mơi trường sinh thái hiện nay
đang là một chủ đề được rất nhiều nước quan tâm.
Mối liên hệ có tính đa dạng, mn màu mn vẻ. Xuất phát từ tính đa đạng
mn màu mn vẻ của thế giới vật chất. Có nhiều hình thức mối liên hệ, mỗi

hình thức mối liên hệ có vai trị, vị trí, đặc điểm riêng của nó.
Mối liên hệ bên trong là mối liên hệ qua lại, là sự tác động lẫn nhau giữa các
bộ phận, giữa các thuộc tính, các mặt khác nhau của sự vật, nó giữ vai trị quyết
định sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật. Ví dụ : trong xã hội tư bản chủ
nghĩa, có mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và cơng nhân giải quyết nó làm cho xã hội
phát triển. Trong bản thân con người có mâu thuẫn giữa hai q trình đồng hóa và
dị hóa giải quyết nó làm cho cơ thể phát triển….
Mối liên hệ bên ngoài là mối liên hệ giữa một sự vật, hiện tượng này với
một sự vật hiện tượng khác, hoặc một sự vật, hiện tượng này với các sự vật hiện
tượng khác. Mối liên hệ này không quyết định sự tồn tại, vận động và phát triển
7
7


của sự vật mà nó chỉ đóng vai trị trung gian. Ví dụ : xét xã hội Việt Nam hiện nay
có mâu thuẫn giữa Việt Nam và các nước tư bản chủ nghĩa đó là mối liên hệ bên
ngồi giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Trong tự nhiên,
xét một cây xanh thì mối mối liên hệ bên ngồi là là giữa nó với mơi trường sống,
với con người….
Ngồi ra cịn có các mối liên hệ khác như: mối liên hệ bản chất và không
bản chất; mối liên hệ tất yếu và ngẫu nhiên v.v…. Chính tính đa dạng trong q
trình tồn tại, vận động và phát triển của bản thân sự vật và hiện tượng quy định
tính đa dạng của mối liên hệ. Vì vậy, trong một sự vật có thể bao gồm rất nhiều
loại mối liên hệ chứ khơng phải chỉ có một cặp mối liên hệ xác định. Chẳng hạn,
mỗi cá nhân trong một tập thể nhất định vừa có mối liên hệ bên trong, vừa có mối
liên hệ bên ngồi, vừa có mối liên hệ bản chất, vừa có mối liên hệ khơng bản chất,
vừa có mối liên hệ trực tiếp vừa có mối liên hệ gián tiếp ...
Đương nhiên, mỗi cặp mối liên hệ có những đặc trưng riêng. Trong các cặp
mối liên hệ đó, nói chung, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ tất nhiên, mối liên hệ
chủ yếu giữ vai trò quyết định. Song tuỳ theo những điều kiện hoàn cảnh cụ thể,

các mối liên hệ tương ứng với chúng có thể giữ vai trị quyết định. Nói cách khác,
vai trị quyết định của các mối liên hệ trong từng cặp một phụ thuộc vào quan hệ
hiện thực xác định.
Sự phân chia từng cặp mối liên hệ chỉ mang tính tương đối vì mỗi loại mối
liên hệ chỉ là một hình thức, một bộ phận, một mắt xích của mối liên hệ phổ biến.
Mỗi loại mối liên hệ trong từng cặp có thể chuyển hố lẫn nhau tuỳ theo phạm vi
bao quát của mối liên hệ hoặc do kết quả vận động của chính các sự vật. Chẳng
hạn, nếu xem xét các doanh nghiệp tồn tại với tư cách là các đơn vị độc lập thì
mối liên hệ giữa chúng là mối liên hệ bên ngoài. Trong quá trình vận động và phát
triển của mình, các doanh nghiệp kết hợp với nhau tạo thành công ty, thành tổng
cơng ty thì mối liên hệ giữa các doanh nghiệp lại là mối liên hệ bên trong.
Tuy sự phân chia thành các loại mối liên hệ chỉ mang tính tương đối ví dụ
như các lồi cá ,chim và thú đều có quan hệ với nước nhưng cá với nước là mối
8
8


liên hệ về môi trường sống, cá chủ yếu sống trong nước cịn chim và thú thì khơng
sống được trong nước .Nhưng sự phân chia đó lại rất cần thiết bởi vì mỗi loại mối
liên hệ có vị trí và vai trò xác định trong sự vận động và phát triển của sự vật. Con
người phải nắm bắt đúng các mối liên hệ đó để có cách tác động phù hợp, nhằm
đưa lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của mình.
Theo quan điểm này, các sự vật, các hiện tượng trên thế giới dù có đa dạng,
có khác nhau như thế nào đi chăng nữa thì chúng cũng chỉ là những dạng tồn tại
khác nhau của một thế giới duy nhất là thế giới vật chất. Các mối liên hệ diễn ra
trong mỗi sự vật, giữa các sự vật với nhau, trong tồn bộ vũ trụ, trong mọi khơng
gian và thời gian. Quan điểm duy vật biện chứng không chỉ khẳng định tính khách
quan, tính phổ biến của sự liên hệ giữa các sự vật, các hiện tượng, các q trình
mà nó cịn nêu rõ tính đa dạng của sự liên hệ qua lại đó. Tính đa dạng của sự liên
hệ do tính đa dạng trong sự tồn tại, sự vận động và phát triển của chính các sự vật

và hiện tượng quy định.
Có mối liên hệ bên trong là mối liên hệ qua lại, là sự tác động lẫn nhau giữa
các bộ phận, giữa các yếu tố, các thuộc tính, các mặt khác nhau của một sự vật, nó
giữ vai trị quyết định đối với sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật. Có mối
liên hệ bên ngoài là mối liên hệ giữa các sự vật, các hiện tượng khác nhau, nói
chung nó khơng có nghĩa quyết định, hơn nữa nó thường phải thơng qua các mối
liên hệ bên trong mà phát huy.
Tuy nhiên mối liên hệ bên ngồi cũng hết sức quan trọng, đơi khi cịn giữ
vai trị quyết định. Ngồi ra cịn có mối liên hệ chủ yếu, có mối liên hệ thứ yếu, có
mối liên hệ chung bao qt tồn bộ thế giới, có mối liên hệ bao quát một số lĩnh
vực hoặc một số lĩnh vực riêng biệt của thế giới. Có mối liên hệ trực tiếp, có mối
liên hệ gián tiếp mà trong đó sự tác động qua lại được thực hiện thông qua một
hay một số khâu trung gian. Có mối liên hệ bản chất và mối liên hệ khơng bản
chất, có mối liên hệ tất yếu và mối liên hệ ngẫu nhiên. Có mối liên hệ giữa các sự
sự vật khác nhau, có mối liên hệ khác nhau của cùng một sự vật.

9
9


Sự vật, hiện tượng nào cũng vận động và phát triển qua nhiều giai đoạn
khác nhau, giữa các giai đoạn đó cũng có mối liên hệ với nhau tạo thành lịch sử
phát triển hiện thực của các sự vật và các quá trình tương ứng. Quan điểm duy vật
biện chứng về sự liên hệ địi hỏi phải thừa nhận tính tương đối trong sự phân loại
đó. Các loại liên hệ khác nhau có thể chuyển hố cho nhau. Sự chuyển hố đó có
thể diễn ra hoặc do thay đổi phạm vi bao quát khi xem xét hoặc do kết quả vận
động khách quan của chính sự vật hiện tượng ấy.
1.2.3. Ý nghĩa phương pháp luận về mối liên hệ phổ biến
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến xét dưới góc độ thế giới quan thì nó
phản ánh tính thống nhất của vật chất và thế giới. Các sinh vật, hiện tượng trên

thế giới dù có đa dạng, có khác nhau như thế nào chăng nữa thì chúng cũng chỉ
là những dạng khác nhau của một thế giới duy nhất đó là thế giới vật chất.
Bất cứ sự vật hiện tượng nào trong thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ với
các sự vật khác và mối liên hệ rất đa dạng phong phú, do đó khi nhận thức về sự
vật, hiện tượng chúng ta phải có quan điểm toàn diện, tránh quan điểm phiến diện
chỉ xét sự vật, hiện tượng ở một mối liên hệ đã vội vàng kết luận về bản chất hay
về tính quy luật của chúng.
Quan điểm tồn diện địi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật trong mối liên hệ
qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong
sự tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp
và mối liên hệ gián tiếp. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật.
Chẳng hạn, muốn nhận thức đúng và đầy đủ tri thức của khoa học triết học, chúng
ta cịn phải tìm ra mối liên hệ của tri thức triết học với tri thức khoa học khác, với
tri thức cuộc sống và ngược lại, vì tri thức triết học được khái quát từ tri thức của
các khoa học khác và hoạt động của con người, nhất là tri thức chun mơn được
chúng ta lĩnh hội.
Đồng thời, quan điểm tồn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt các mối
liên hệ, phải biết chú ý đến các mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối
liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên ... để hiểu rõ bản chất của sự vật và có
10
10


phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong sự phát triển
của bản thân. Đương nhiên, trong nhận thức và hành động, chúng ta cần lưu ý tới
sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mối liên hệ ở những điều kiện xác định. Trong
quan hệ giữa con người với con người, chúng ta phải biết ứng xử sao cho phù hợp
với từng con người. Ngay cả quan hệ với một con người nhất định ở những không
gian khác nhau hoặc thời gian khác nhau, chúng ta cũng phải có cách giao tiếp,
cách quan hệ phù hợp như ông cha đã kết luận: “đối nhân xử thế”.

Trong hoạt động thực tế, theo quan điểm toàn diện, khi tác động vào sự vật,
chúng ta không những phải chú ý tới những mối liên hệ nội tại của nó mà cịn phải
chú ý tới những mối liên hệ của sự vật ấy với các sự vật khác. Đồng thời chúng ta
phải biết sử dụng đồng bộ các biện pháp, các phương tiện khác nhau để tác động
nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Để thực hiện mục tiêu : “dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, một mặt chúng ta phải phát huy nội lực của
đất nước ta; mặt khác phải biết tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách do xu hướng
quốc tế hoá mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và tồn cầu hố kinh tế đưa lại.
Từ quan điểm tồn diện trong sự xem xét chúng ta đi đến nguyên tắc đồng
bộ trong hành động thực tiễn: để cải tạo một sự vât bao giờ chúng ta cũng phải áp
dụng đồng bộ một hệ thống những biện pháp nhất định. Tuy nhiên cũng như đã
nói ở trên, đồng bộ khơng có nghĩa là dàn đều, bình qn mà trong từng buớc,
từng giai đoạn phải nắm đúng khâu then chốt. Thực hiện quan điểm tồn diện góp
phần khắc phục bệnh phiến diện, một chiều chỉ thấy một mặt mà không thấy nhiều
mặt hoặc có khi tuy có chú ý đến nhiều mặt nhưng khơng nhìn thấy được mặt bản
chất của sự vật. Quan điểm tồn diện cũng góp phần khắc phục lối suy nghĩ giản
đơn.
Quan điểm tồn diện cịn có ý nghĩa trong việc chống chủ nghĩa chiết Trung
mà đặc trưng của nó là nhân danh quan điểm tồn diện để kết hợp một cách vô
nguyên tắc những mặt khác nhau mà thực chất là không thể kết hợp với nhau
được. Trong mối liên hệ qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác (kể cả trực tiếp
và gián tiếp).
11
11


Hơn thế nữa, quan điểm tồn diện cịn địi hỏi để nhận thức được sự vật
hiện tượng chúng ta cần xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của
con người. Quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện khơng chỉ ở chỗ
nó chú ý tới nhiều mặt, nhiều mối kiên hệ. Việc chú ý tới nhiều mặt, nhiều mối

liên hệ của sự vật vẫn có thể là phiến diện, nếu chúng ta đánh giá ngang nhau
những thuộc tính, những tính quy định khác nhau của sự vật được thẻ hiện trong
những mối liên hệ khác nhau đó. Quan điểm tồn diện chân thực đòi hỏi chúng ta
phải đi từ tri thức về nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật đến chỗ khái quát đẻ
rút ra cái bản chất chi phối sự tồn tại và phát triển của sự vật hay hiện tượng đó.
Quan điểm tồn diện khác với chủ nghĩa chiết trung và thuật nguỵ biện.
Chủ nghĩa chiết trung tuy cũng tỏ ra chú ý tới nhiều mặt khác nhau thế nhưng lại
kết hợp vô nguyên tắc các mối liên hệ khác nhau của sự vật. Chính vì vậy hồn
tồn bất lực khi phải đưa ra một quyết sách đúng. Còn thuật nguỵ biện cũng để ý
tới những mặt khác nhau của sự vật, nhưng lại đưa cái không cơ bản thành cái cơ
bản, cái không bản chất thành cái bản chất.Ví dụ: biện hộ cho việc ăn cướp là vì
nghèo. Theo luật Hình sự thì đây chỉ là tình tiết giảm nhẹ mà thơi-> vẫn phải chịu
trách nhiệm hình sự. Cả hai đều đưa đến nhứng kết luận sai lầm.
Ngoài ra, cần có quan điểm lịch sử - cụ thể. Vì sự vật nào cũng có q trình
hình thành tồn tại, biến đổi và phát triển, mỗi giai đoạn phát triển của sự vật lại có
những mối liên hệ riêng đặc trưng cho nó. Cho nên khi xem xét sự vật vừa phải
xem xét q trình phát triển của nó, vừa phải xem xét trong từng điều kiện. Do đó
cần phải có quan điểm lịch sử - cụ thể.
Phép biện chứng của Hê-ghen nói rằng mọi sự trên thế gian này đều luôn
luôn vận động và phát triển. Trong quá trình vận động, phát triển đó, thì ở mỗi giai
đoạn nhất định, tương ứng với một trình độ phát triển nhất định, sẽ có những khái
niệm, phạm trù, quy luật nhất định. Hết giai đoạn đó thì các khái niệm, phạm trù,
quy luật đặc thù của giai đoạn đó sẽ tiêu vong, thay thế bằng các khái niệm, phạm
trù, quy luật khác, đặc trưng cho giai đoạn mới. Cái đó chính là quan điểm lịch sử
vậy. Ví dụ : Nét đặc trưng của xã hội loài người là con người ta phải sản xuất thì
12
12


mới có thể tồn tại và phát triển. Thời đại nào cũng phải sản xuất hết. Như thế, nói

theo ngơn ngữ biện chứng thì sản xuất là một phạm trù “vĩnh viễn”, nghĩa là nó
ln ln xảy ra, bất kể trong hình thái xã hội nào, ở giai đoạn nào. Nhưng nền
sản xuất ở mỗi thời đại lại có những nét riêng biệt. Thời phong kiến, nét chủ đạo
của nền sản xuất xã hội là ở chỗ: xã hội gồm hai giai cấp chính – nơng nơ và lãnh
chúa. Nơng nô lao động trên phần đất do lãnh chúa giao cho, và phải nộp một
phần hoa lợi cho lãnh chúa. Đó là phương thức sản xuất phong kiến.
Phương thức sản xuất phong kiến này trước kia chưa tồn tại (thời cộng sản
ngun thủy, hay chiếm nơ). Nó chỉ phát sinh trong những điều kiện nhất định, ở
giai đoạn nhất định của lịch sử phát triển xã hội. Khi những điều kiện đó mất đi
(cách mạng tư sản xóa bỏ chế độ chiếm hữu ruộng đất của các lãnh chúa) thì
phương thức sản xuất này bị thủ tiêu, kèm theo nó là giai cấp lãnh chúa và nông
nô cũng biến mất. Ta nói rằng phương thức sản xuất phong kiến, cũng như các
khái niệm lãnh chúa, nông nô là những thứ mang tính lịch sử (trái với sản xuất là
phạm trù mang tính vĩnh viễn).
Tương tự, phương thức sản xuất TBCN, với đặc trưng là chế độ lao động
làm thuê, với các phạm trù kinh tế như giá trị, giá trị thặng dư, lợi nhuận, bóc lột,
giai cấp tư sản, vơ sản… là những thứ mang tính lịch sử.
Nếu khơng hiểu điều này, người ta sẽ nghĩ rằng kinh tế thị trường, với các
phạm trù hàng hóa, giá cả, lợi nhuận, cũng như chế độ lao động làm thuê, là cái gì
đó rất tự nhiên, mang tính vĩnh viễn.
Quan điểm lịch sử cho rằng ở mỗi giai đoạn phát triển nhất định, trong
những điều kiện nhất định, thì các sự vật, hiện tượng có những thuộc tính, phạm
trù, khái niệm, quy luật nhất định, tương ứng với giai đoạn đó, điều kiện đó. Vậy,
mỗi khi xem xét một hiện tượng nào đó, ta phải xét xem nó mang tính vĩnh viễn
hay lịch sử, và nếu nó mang tính lịch sử, thì đâu là những điều kiện đã khiến nó
phát sinh, phát triển rồi tiêu vong (ngôn ngữ biện chứng gọi các điều kiện đó là
các “tính quy định lịch sử - tiếng Đức là geschichtliche Bestimmungen”). Ví dụ,
khi nói tới thị trường chứng khốn Việt Nam, thì phải hiểu là nó đang ở giai đoạn
13
13



sơ khai và do đó nó có những nét đặc thù :chụp giựt, thiếu minh bạch, lừa đảo
v.v…
Còn thế nào là quan điểm cụ thể? Cũng theo Hegel, mọi sự đều phát triển
dần dần, từ thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp, từ trừu tượng đến cụ thể. Vậy
“cụ thể” ở đây là cái đối lập với “trừu tượng”. Hai cái này có ý nghĩa gì?
Theo Hê-ghen thì “trừu tượng” nghĩa là sự vật đang ở mức độ phát triển rất
thấp, còn rất giản đơn, thiếu các nội dung, thuộc tính. Sự vật càng phát triển thì nó
càng có thêm nhiều nội dung, thuộc tính phong phú hơn, và Hegel gọi là càng “cụ
thể” hơn.
Như thế, khi đề cập đến bất kỳ vấn đề gì, ta cũng cần tránh lối nói chung
chung, trừu tượng, mà cần nói rõ ràng, cụ thể, tức là phải chỉ ra các thuộc tính đặc
thù của nó. Ví dụ, trên thị trường chứng khốn, câu hỏi kiểu “hôm nay nên mua
hay bán?” là một câu hỏi trừu tượng của người khơng hiểu gì về TTCK, vì nó
khơng có nội dung cụ thể. Bởi vì, cùng trong ngày hơm nay, có những CP nên
mua, và có những CP nên bán. Chưa hết, với cùng một CP, thì với người này thì
nên mua, với người khác lại nên bán. Như thế cần đặt vấn đề một cách cụ thể như
sau: “Tôi đang nắm giữ những cổ phiếu A, B, C này, tôi đã mua chúng theo giá
trung bình như thế này, vào các thời điểm này, vậy thì lúc này nên mua thêm hay
bán bớt chúng đi, vân vân”.
Vậy quan điểm cụ thể là khi đề cập tới một sự vật, hiện tượng nào đó, thì
khơng được nói chung chung, mà phải chỉ rõ: sự vật, hiện tượng đó đang ở mức độ
phát triển nào, trong điều kiện cụ thể nào, với những thuộc tính cụ thể nào. Ví dụ:
khơng nên hỏi “kinh tế thị trường” một cách chung chung, mà phải nói rõ: “kinh tế
thị trường tiền TBCN”, “kinh tế thị trường TBCN”, hay “kinh tế thị trường
XHCN”. Các loại KTTT đó có những thuộc tính rất khác nhau.
Tổng kết lại có thể thấy rằng quan điểm lịch sử cụ thể đòi hỏi chúng ta khi
nhận thức về sự vật và tác động vào sự vật phải chú ý điều kiện, hoàn cảnh lịch sử
- cụ thể, mơi trường cụ thể trong đó sự vật sinh ra tồn tại và phát triển. Một luận

điểm nào đó là luận điểm khoa học trong điều kiện này nhưng sẽ không phải là
luận điểm khoa học trong điều kiện khác. Chẳng hạn, thường thường trong các
14
14


định luật của hố học bao giờ cũng có hai điều kiện: nhiệt độ và áp suất xác định.
Nếu vượt khỏi những điều kiện đó định luật sẽ khơng cịn đúng nữa. Trong lịch sử
triết học khi xem xét các hệ thống triết học bao giờ chúng ta cũng xem xét hoàn
cảnh ra đời và phát triển của các hệ thống đó.

15
15


CHƯƠNG II: MỐI LIÊN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM

2.1. Mối liên hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ mơi trường
Mơi trường sinh thái là tồn bộ các điều kiện vô cơ, hữu cơ của các hệ sinh
thái ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất và mọi hoạt động khác của xã hội lồi
người. Nó là những điều kiện tự nhiên, xã hội trong đó con người hay một sinh vật
tồn tại, phát triển trong quan hệ với con người. Còn tăng trưởng kinh tế nhằm cải
thiện và phát triển đời sống của con người.
Vì vậy, giữa mơi trường sinh thái và tăng trưởng kinh tế có mối liên hệ biện
chứng chặt chẽ. Như chúng ta đã biết môi trường sống được sinh ra và tồn tại
trong tự nhiên, vì vậy có thể nói nó tồn tại một cách khách quan độc lập với ý thức
con người. Tuy nhiên sự phát triển của mơi trường lại hồn tồn phụ thuộc vào ý
thức của con người, con người có thể tác động làm cho môi trường tốt lên hoặc
xấu đi. Tăng trưởng kinh tế lại được sinh ra, tồn tại và phát triển hoàn toàn phụ

thuộc vào con người nên nó tồn tại chủ quan.
Mơi trường chịu tác động trực tiếp của con người, tăng trưởng kinh tế phụ
thuộc vào con người từ đó ta có thể thấy mơi trường cũng chịu tác động của tăng
trưởng kinh tế và ngược lại, mối quan hệ giữa chúng được thông qua một thực thể
đó là con người. Mơi trường là địa bàn để tăng trưởng kinh tế hoạt động vì tăng
trưởng kinh tế diễn ra trên diện rộng và cần khai thác tài nguyên thiên nhiên nhằm
phục vụ cho lợi ích của con người. Nhưng tài nguyên của môi trường không phải là
vô hạn. Nếu chỉ tăng trưởng kinh tế mà không nghĩ đến việc cải tạo mơi trường thì
một ngày nào đó tăng trưởng kinh tế phải dừng lại do mơi trường bị suy thối. Lúc
đó con người phải gánh chịu hậu quả do chính con người gây ra. Một sản phẩm do
con người tạo ra lại phá huỷ cái mà con người chịu tác động trực tiếp vì con người
khơng thể sống mà không chịu sự tác động của môi trường. Ngược lại, nếu tăng
trưởng kinh tế gắn với việc bảo vệ mơi trường thì khơng những nó làm cho đời sống
16
16


của con người ngày càng được cải thiện mà nó cịn làm cải thiện cả mơi trường do
kinh tế phát triển nhà nước có ngân sách cho những dự án bảo vệ môi trường,
nguồn tài nguyên bị khai thác được thay thế dần bởi các nguồn tài nguyên tự tạo
2.2. Môi trường ở Việt Nam đang bị huỷ hoại do các chính sách tăng trưởng
kinh tế.
2.2.1.

Trong cơng nghiệp

Thực hiện nghị quyết Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, kể từ năm 1986
Việt Nam bước vào công cuộc đổi mới. Cơng cuộc đổi mới này được tiến hành
tồn diện, trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội như đổi mới tư duy, hệ
thống kinh tế, chính sách, thể chế quản lí hành chính… Trong lĩnh vực kinh tế,

Việt Nam chuyển từ nền kinh tế chỉ huy, tập chung, quan liêu, bao cấp sang nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí
của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong gần hai thập kỷ qua thực
hiện chủ trương và đường lối đổi mới nền kinh tế Việt Nam đã đạt được một số
thành tựu to lớn. Chính sách đổi mới đã mang lại những thay đổi, tạo ra một nền
kinh tế năng động, một xã hội văn minh, công bằng và dân chủ. Tổng sản phẩm
quốc nội ( GDP) tăng trung bình hơn 7%/năm. Đặc biệt trong công nghiệp, tăng
trưởng công nghiệp từ xuất phát điểm chỉ có 0,6% năm 1980 tăng lên đến 6,07%
năm 1990 và giai đoạn 1991-2000 tăng lên trung bình 12,9%/năm, trong đó thời
kỳ 1991-1995 có tốc độ tăng trưởng cao nhất đạt 17%/năm. Tỷ trọng cơng nghiệp
đã có sự chuyển dịch đáng kể theo hướng cơng nghiệp hố, từ mức 22,7% GDP
năm 1991 tăng lên 36,6% năm 2000.
Sự phát triển của q trình cơng nghiệp hố trong những năm qua một mặt
là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, tạo cơng ăn việc làm cho người dân nhưng
mặt khác nó đã ít nhiều bộc lộ những mặt trái của nó mà nếu khơng có biện pháp
bảo vệ cụ thể thì trong tương lai không xa chúng ta sẽ phải gánh chịu những hậu
quả nghiêm trọng do chính chúng ta gây ra.
Theo ước tính hiện nay nước ta có khoảng trên 60.000 công ty và doanh
nghiệp tư nhân, hơn 4.500 hợp tác xã phi nông nghiệp và trên 2 triệu hộ kinh
17
17


doanh cá thể. Cùng với sự ra đời của hàng loạt các doanh nghiệp và cơ sở kinh
doanh đó, hiện nay trên cả nước tổng lượng chất thải rắn ước tính khoảng 49.000
tấn/ngày, trong đó chất thải rắn cơng nghiệp chiếm khoảng 27.000tấn/ngày. Việc
quản lý chặt chẽ chất thải rắn nguy hại đang gặp nhiều khó khăn, khơng có đủ kho
chứa đủ tiêu chuẩn để lưu giữ các chất thải độc hại trước khi xử lí, khơng có nhà
máy xử lí chất thải độc. Phần lớn chất thải rắn nguy hại này thuần tuý chỉ được
chôn chung lẫn lộn với rác thải sinh hoạt hay thậm chí đổ ngay tại nhà máy gây

mối nguy hại rất lớn đối với môi trường sống.
Ngồi ra, trong q trình sản xuất, kinh doanh, các cơ sở doanh nghiệp
thường thải ra một lượng nươc thải khá lớn. Đặc biệt là khoảng hơn 90% cơ sở
sản xuất cũ chưa có thiết bị xử lí nước thải. Phần lớn các nhà máy xí nghiệp nếu
có tiíen hành xử lí thì chỉ xử lí sơ bộ rồi thải thẳng ra nghuồn nước mặt, gây ô
nhiễm trầm trọng đối với nhiều dịng sơng. Trong nhiều trường hợp, nuớc thải ứ
đọng lâu ngày cịn gây ơ nhiễm khơng khí, mất mỹ quan, lan truyền bệnh dịch và
nhiều tác động tiêu cưc khác. Nước thải cơng nghiệp chính là một trong những
nguyên nhân gây ô nhiễm cho môi trường đô thị
Khí thải của các cơ sở doanh nghiệp sản xuất cũng là vấn đề cần bàn tới. Ơ
nhiễm mơi trường khơng khí chủ yếu do các ngành nhiệt điện, cơng ngiệp hố
chất gây nên. Ví dụ nhà máy nhiệt điện Phả Lại, nồng độ bụi trung bình tại các
điểm đo đều vượt tiêu chuẩn cho phép từ 1 đến 6 lần. Tại nhà máy nhiệt điện
ng Bí, nồng độ bụi đo trong 1 giờ từ 4 đến 4,7 mg/m 3, gấp 13 đến 16 lần trị số
cho phép. Nồng độ các chất khí độc hại khác như CO2, NO2, SO2… trong khơng
khí xung quanh nhiều nhà máy và khu cơng nghiệp đều vượt tiêu chuẩn cho phép
từ 1,5 đến 2,5 lần.
Điều này đã gây tác động xấu đối với mùa màng và sức khoẻ của nhân dân
của cả một vùng rộng lớn xung quanh các khu vực nhà máy. Tuy trong thời gian
qua, phần lớn các nhà máy đã trang bị thiết bị xử lí bụi nhưng số lượng các nhà
máy có thiết bị xử lí khí độc hại cón rất ít mà chủ yếu được thải thẳng ra ngồi
khơng khí, ảnh hưởng trực tiếp đến sưc khoẻ con người.
18
18


Q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố càng phát triển thì nhu cầu khai
thác các thành phần mơi trường để làm nguyên liệu đầu vào cho hoạt động sản
xuất ngày càng tăng. Quá trình này thể hiện mối liên hệ cơ bản giữa phát triển và
môi trường đồng thời cũng là một vấn đề nan giải. Việc khai thác quá mức nguồn

tài nguyên là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự hao kiệt về tài nguyên, mất cân
bằng sinh thái và suy giảm chất lượng môi trường. Nạn khai thác gỗ trái phép gây
ra sự suy nghiêm trọng độ che phủ của rừng. Nếu như năm 1945 độ che phủ nước
ta đạt 43% thì tính đến tháng 12 năm 2000 độ che phủ rừng chỉ còn 29, 8% và
đang ngày càng bị thu hẹp.
Cịn nhiều vấn đề ơ nhiễm do công nghiệp gây ra như việc nhập khẩu các
thiết bị lạc hậu từ nước ngoài, hay tiếng ồn từ các cơ sở sản xuất… mà trong phạm
vi bài tiểu luận triết học của mình tơi khơng thể trình bày hết được, trên đây là
những vấn đề mà theo tôi là cấp thiết và cần có hướng giải quyết kịp thời.
2.2.2. Trong nơng nghiệp
Nước ta là một nước có nền kinh tế xuất phát điểm là nông nghiệp và cho
đến nay, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam vẫn chủ yếu dựa vào tài nguyên, nông
sản và hàng sơ chế. Kim ngạch xuất khẩu khống sản và hàng hố nơng lâm, thủy
hải sản chiếm tới 63% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Nước ta đang trên
đà hội nhập kinh tế quốc tế, quá trình này hứa hẹn nhiều cơ hội cho Việt Nam đẩy
mạnh sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu to lớn của thị trường quốc tế.
Tuy nhiên, đi đôi với sự gia tăng này của các hoạt động sản xuất là khả
năng gây ô nhiễm và huỷ hoại môi trường ngày càng lớn. Sự gia tăng xuất khẩu
các mặt hàng từ nguồn tài nguyên không tái tạo được và việc khai thác bừa bãi các
nguồn tài nguyên có thể tái tạo nhằm phục vụ xuất khẩu có thể làm cạn kiệt nguồn
tài nguyên của nước ta trong tương lai.
Mặt khác, các ngành nông nghiệp, trồng trọt, chăn ni cũng có nhiều cơ hội
để thâm canh, gia tăng sản lượng dẫn đến việc phá huỷ tài nguyên thiên nhiên do
khai thác, trồng trọt và chăn nuôi không hợp lí. Để tăng sản lượng các loại rau, củ,
quả… người nơng dân thường phun các loại chất kích thích, phân bón, thuốc trừ
19
19


sâu… Trình độ nhận thức và chun mơn của người dân cịn thấp, thêm vào đó đội

ngũ cán bộ nơng nghiệp cịn chưa nhiều vì vậy người nơng dân chưa ý thức được
hành động của họ sẽ dẫn đến hậu quả gì.
Việc sử dụng các loại hố chất và sau đó vứt ngay các loại vỏ, bao đựng
trên ruộng trước tiên gây ô nhiễm nguồn nước sau là gây nguy hiểm cho những
người sử dụng các loại rau, củ, quả đó. Thực tế là trong năm 2002, ở miền Bắc,
giá nhãn và vải đã mất giá nghiêm trọng do Trung Quốc khơng nhập khẩu vì hàng
chưa đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng… Sử dụng hố chất khơng được phép trước
tiên là gây ô nhiễm nguồn nước, không tiêu thụ được hàng hoá, sau cùng là gây ra
thoái hoá đất- một sự mất mát lớn. Môi trường nông thôn cũng đang kêu cứu.
2.2.3. Trong du lịch biển
Trước tình hình tăng trưởng kinh tế, các phương tiện thông tin, giao thông
vận tải ngày càng dễ dàng và thuận tiện. Đây là điều kiện để hoạt động du lịch
phát triển trở nên nhanh chóng. Ngành du lịch nước ta hãy cịn rất nhỏ bé so với
các nước trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên trong 10 năm qua, cùng với
quá trình đổi mới và chuẩn bị hội nhập nền kinh tế thế giới du lịch nước ta cũng
đã có những bước phát triển ban đầu. Năm 2001 tồn ngành đón 2,33 triệu lượt
khách quốc tế, tăng gần 9%so với năm 2000, vượt kế hoạch 6% so với năm 2000.
Du lịch phát triển tạo nhiều công ăn việc làm cho dân cư và thu được một lượng
ngoại tệ lớn cho ngân sách quốc gia. Tuy nhiên cũng như sự phát triển trong công
nghiệp và nông nghiệp, hoạt động du lịch cũng đang tác động đến môi trường về
nhiều mặt.
Do nhu cầu phát triển du lịch, nhiều diện tích đất đai bị khai phá để xây
dựng cơ sở hạ tầng như làm đường giao thơng khách sạn, các cơng trình thể thao,
các khu vui chơi giải trí. Điều đó gây phá hoại hoặc tổn thất tới cảnh quan thiên
nhiên, các hệ sinh thái.
Hoạt động du lịch có thể gây tác động khác tới tài nguyên nước, đặc biệt là
các chất thải, các chất gây ô nhiễm do các khách sạn, nhà hàng, các hoạt động vận
tải thuỷ và khách du lịch tạo nên. Hiện nay ở nước ta, tình trạng rác thải bừa bãi
20
20



tại các điểm du lịch, vui chơi giải trí cịn phổ biến, điều đó khơng những ảnh
hưởng tới vệ sinh cơng cộng và mơi trường mà cịn gây cảm giác khó chịu cho du
khách.
Khi hoạt động du lịch nhộn nhịp lên thì đó cũng là điều đe doạ tới chất
lượng khơng khí. Trước hết là ơ nhiễm khơng khí do giao thơng vận tải. Du khách
có thể đi bằng đường bộ hoặc máy bay. Tuy nhiên không giống như ô tơ, xe
máy… ơ nhiễm do máy bay ít được nhận thấy trực tiếp. Thế nhưng đây lại là
phương tiện gây ô nhiễm trực tiếp lên tầng ôzôn.
Sự phát triển du lịch còn tạo nên mối đe doạ tới các hệ sinh thái như phá
những khu rừng ngập mặn để xây dựng cơ sở hạ tầng, làm mất hoặc chia cắt nơi
cư trú của các loài sinh vật, khai thác bừa bãi các tài nguyên rừng, biển để sản
xuất các sản phẩm phục vụ khách du lịch như tiêu bản các loại thú rừng, hoa lan
rừng, tắc kè, đồi mồi, san hơ… tại nhiều điểm du lịch của nước ta.Ngồi ra việc
khai thác hải sản biển cũng đang ở mức báo động. Đánh cá ven bờ giảm một cách
đáng kể và số thuyền đánh cá đã tăng lên một cách nhanh chóng do có sự khuyến
khích của chính phủ. Việc khai thác dầu khơng hợp lí cũng là một trong những
ngun nhân gây ô nhiễm biển.
2.2.4. Gia tăng mức tiêu thụ
Việt Nam là một nước đang phát triển về kinh tế, kinh tế phát triển kéo theo
thu nhập cũng tăng lên. Đời sống người dân càng được nâng cao thì nhu cầu về
các phương tiện trong cuộc sống cũng đòi hỏi cao hơn, nhu cầu của con người bây
giờ khơng cịn là ăn no, mặc ấm nữa mà đã tiến đến một bước cao hơn đó là nhu
cầu ăn ngon, mặc đẹp. Với mức dân số như hiện nay là 80 triệu người và ước tính
đến năm 2042 sẽ có khoảng 155 triệu người, tất cả sống trong một đất nước có
diện tích chỉ bằng ½ nước Pháp. Vấn đề sẽ trở nên khó khăn hơn với 55% dân số
dưới 25 tuổi, tức là sẽ có một sự bùng nổ về dân số khi những người trẻ tuổi này
bước vào tuổi sinh nở.
Dân số đông, kinh tế phát triển, nhu cầu đi lại cũng tăng, hàng ngày lượng

khí thải từ các phương tiện giao thông như ô tô, xe máy… đang góp một phần
21
21


khơng nhỏ vào ơ nhiễm khơng khí. Dân số đơng, nguời ta lấp ao hồ để lấy đất ở.
Rừng ngày càng bị thu hẹp do nhu cầu khai thác gỗ mạnh để sản xuất ra đồ dùng
phục vụ cho con người. Các loại động vật quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng trước
tình trạng săn bắt tràn lan để làm vật chưng bày hoặc làm thịt cho các thực
khách… Hệ sinh thái đang mất đi sự cân bằng trước sự phá hoại như vũ bão của
con người.
2.3.

Hậu quả của ô nhiễm môi trường
“Nếu chúng ta bắn vào thiên nhiên một phát đạn, thì thiên nhiên sẽ bắn trả

lại ta bằng đại bác ”. Thực tế cho thấy, đi kèm với q trình cơng nghiệp hố, hiện
đại hố, chúng ta đang phải gánh chịu những hậu quả do chính chúng ta gây ra.
Trong vòng 7 năm trở lại đây, các thảm hoạ tự nhiên như bão xoáy, lụt lội, hạn
hán…ngày càng tăng nhanh cả về tần suất lẫn cường độ như hạn hán ở miền
Trung, bão lụt ở đồng bằng sông Cửu Long, cháy rừng ở U Minh… đã cướp đi
sinh mạng của nhiều người, thâm hụt vào ngân sách quốc gia hàng trăm tỷ đồng một con số không nhỏ đối với một quốc gia còn nghèo như Việt Nam. Ngồi ra, đi
đơi với sự suy giảm mơi trường, các bệnh về thời tiết cũng gia tăng, thiệt hại
người do các bệnh về đường nước tăng như sốt rét, tiêu chảy... Các bệnh liên quan
đến đường ruột bệnh giun, bệnh sán máng, giun trong máu… các bệnh về hô hấp
như viêm phổi, ung thư phổi… Cuộc sống của con người đang bị đe doạ ngày
càng nghiêm trọng.
2.4 . Một số giải pháp để giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường do tăng
trưởng kinh tế.


22
22


Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đang tăng cường quan
hệ thương mại song phương với các nước trên thế giới: gia nhập Tổ chức thương
mại Thế giới (WTO), tham gia tích cực vào các định chế kinh tế khu vực như
ASEAN, APEC, ASEM… và đặc biệt là hiệp định thương mại Việt -Mỹ. Để hàng
Việt Nam có chỗ đứng và khả năng cạnh tranh với các nước khác chúng ta cần:
• Tăng cường kiểm tra, giám sát sự tuân thủ về pháp luật của các cơ sở cơng
nghiệp.
• Khuyến khích sử dụng cơng nghệ và dây chuyền sản xuất tiết kiệm năng
lượng, nguyên liệu, phát triển nguồn năng lượng sạch, ít khí thải.
• Bắt buộc các nhà máy mối đầu tư áp dụng công nghệ tiên tiến, xây dựng và
vận hành hệ thống xử lí nước thải đạt tiêu chuẩn mơi trường.
• Lập quy hoạch môi trường song song với việc quy hoạch và phát triển cơng
nghiệp.
• Đầu tư cơ sở hạ tầng, hệ thống tiêu thốt nước, xử lí nước thải cơng nghiệp
trước khi thải ra mơi trường.
• Tổ chức và quản lý kịp thời đúng quy cách các loại chất thải rắn công nghiệp,
chất thải y tế và các loại chất thải khác.
• Thực hiện chủ chương xanh hố đơ thị và khu công nghiệp, xây dựng hành
lang xanh và vùng chuyển tiếp giữa khu cơng nghiệp và khu dân cư.
• Tăng cường vai trò của nhà nước trong khâu thẩm định, kiểm tra các mặt hàng
nhập khẩu vào nước ta như máy móc, thiết bị vật tư, ngun vật liệu, các giống
mới…
• Cần bảo vệ, tôn tạo, khai thác và sử dụng tài ngun hợp lí, đảm bảo sự phát
triển bền vững.
• Các sản phẩm về nông nghiệp cần hạn chế các loại thuốc gây hại cho người sử
dụng cũng như cho đất trồng.

• Có chính sách ưu đãi đối với các sản phẩm có nhãn sinh thái
Ngồi ra để đảm bảo sự phát triển bền vững nhà nước của chúng ta cần:
23
23


• Có chính sách ưu đãi đối với những hộ nhận khốn rừng
• Có hình phạt nặng hơn nữa đối với những kẻ chặt phá rừng trái phép
• Thành lập các khu bảo tồn động, thực vật
• Khai thác gỗ hợp lí
• Cán bộ kiểm lâm có chức vụ và quyền hạn cao hơn nữa để công tác kiểm lâm
được chặt chẽ hơn, ngoài ra cán bộ kiểm lâm cần có những chính sách ưu đãi
hơn
• Khai thác dầu hợp lí
• Bảo vệ nguồn sinh vật biển, đặc biệt là những loại quý hiếm
• Nâng cao ý thức của người dân trong việc bảo vệ môi trường

24
24


KẾT LUẬN
Việt Nam đang trên con đường cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước với
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta phải đi từ mục tiêu
cơ bản nhất của mọi sự phát triển xã hội đó là phát triển để cải thiện nâng cao chất
lượng cuộc sống và vì sự sống trường tồn bền vững. Đây là vấn đề quan trọng
trong công cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước hiện nay cũng như về lâu
dài.
Tất cả các bài học kinh nghiệm đã rút ra trong quá trình quy hoạch phát
triển trước đây cần phải được vận dụng triệt để cho quá trình phát triển của tương

lai sao cho tránh được những hậu quả có thể xảy ra và đảm bảo hiệu quả cao nhất
cho quá trình phát triển kinh tế.
Chúng ta bảo vệ mơi trường khơng phải nhằm mục đích hạn chế q trình
phát triển kinh tế mà nhằm mục đích đảm bảo hiệu quả kinh tế cao hơn cho quá
trình phát triển tất yếu này, đồng thời nhằm bảo vệ chất lượng cuộc sống của mỗi
con người chúng ta. Nếu chúng ta không phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ mơi
trường thì chẳng những thế hệ mai sau của chúng ta bị ảnh hưởng nghiêm trọng
mà ngay cả cuộc sống của chúng ta cũng bị đe dọa. Đó là những vấn đề về sức
khỏe, về đất ở, về thiên tai....Do đó, bảo vệ mơi trường và tăng trưởng kinh tế có
sự thống nhất. Có phát triển mới có kinh phí đầy đủ dành cho việc bảo vệ mơi
trường và có bảo vệ mơi trường mới đảm bảo sự phát triển lâu dài và ổn định.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
25
25


×