Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

tiểu luận cao học công tác dân vận trong thời kỳ đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.58 KB, 34 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của đề tài
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Đảng và Nhà nước ta
luôn luôn coi trọng công tác vận động, tổ chức quần chúng tham gia
vào mọi công việc cách mạng là vấn đề chiến lược xuyên suốt tiến
trình cách mạng Việt Nam. Đầu những năm 20 của thế kỷ XX, khi
tìm thấy ở chủ nghĩa Mác – LêNin con đường đúng đắn để giải
phóng dân tộc, lãnh tụ Nguyễn Aí Quốc đã khẳng định rõ mục đích
trước hết của Người là : trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh
họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh
giành độc lập tự do.
Sau khi giành được chính quyền, năm 1949, Người khẳng
định: “ Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng
kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”. Ngày nay, trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế, công tác dân vận càng phải được quan
tâm hơn nữa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh.
Vậy nên công tác dân vận trong giai đoạn hiện nay có vai trò
hết sức quan trọng trong sự nghiệp đổi mới đất nước và công cuộc
bảo vệ lợi ích, thành quả của cuộc cách mạng trường kỳ của dân tộc
Việt Nam.
1.1. Tình hình thế giới
Có nhiều thay đổi, biến động phức tạp. Cách mạng khoa học
công nghệ phát triển nhanh chóng tiếp tục thúc đẩy quá trình toàn
cầu hóa.

1


Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, là tổn


thất to lớn cho chủ nghĩa xã hội, phong trào cách mạng thế giới tạm
thời lâm vào thoái trào – mất đi trụ cột. Sự kiện đó tác động sâu sắc
tới trật tự thế giới, các nước đế quốc, thế lực thù địch ra sức chống
phá, cô lập các nước xã hội chủ nghĩa nhằm tiêu diệt chủ nghĩa cộng
sản.
Để đạt được những âm mưu đen tối của mình các thế lực thù
địch đang lợi dụng chiêu bài tự do, dân chủ đánh vào tư tưởng quần
chúng nhân dân là chủ yếu vì vậy công tác dân vận trong thời đại
hiện nay đang đặt ra cho Đảng và Nhà nước ta một vấn đề phức tạp,
khó có thể giải quyết được trong một sớm, một chiều.
1.2. Tình hình trong nước
Nhìn chung nhân dân ta tin tưởng vào sự lãnh đạo sáng suốt,
chính sách lãnh đạo đúng đắn của Đảng, của Nhà nước. Đất nước
đang tiếp tục sự nghiệp đổi mới, thực hiện công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước và chủ động hội nhập quốc đang đặt ra những yêu
cầu bức xúc trong công tác quần chúng.
Quá trình công nghiệp hóa, đã và đang tác động ảnh hưởng tới
toàn bộ đời sống xã hội, tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, sự
biến đổi các tầng lớp nhân dân, các giai cấp xã hội. Công nghiệp
hóa đặt ra hang loạt các vấn đề về đô thị hóa, về vùng công nghiệp
tập trung, về môi trường, liên quan trực tiếp đến cuộc sống, lao
động, nghề nghiệp, sức khỏe,công ăn, việc làm, trình độ văn hóa,
chuyên môn và công nghệ, tới sự công bằng xã hội.

2


Thực tiễn cho thấy, huy động vốn đầu tư, phát triển, huy động
tiềm năng công nghiệp mà đất nước đã xây dựng trong những năm
qua, huy động tiềm lực con người mà đặc biệt là huy động và tạo

dựng đội ngũ lao động có kỹ năng và trí tuệ, thích ứng nhanh với
khoa học công nghệ hiện đại; bảo đảm môi trường hòa bình ổn định
của đất nước để dồn sức cho sự phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình thực hiện công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, hướng tới mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh đòi hỏi phải phát huy
sức mạnh đại đoàn kết của cả dân tộc.
Trong cơ chế thị trường hiện nay nhiều vấn đề xã hội phức tạp
nảy sinh, đặc biệt là các tệ nạn xã hội như: tham nhũng buôn lậu, ma
túy, mại dâm…Vấn đề việc làm, đời sống…vẫn đang là những vấn
đề bức xúc, làm cho các tầng lớp nhân dân, đoàn viên, hội viên có
nhiều tâm tư lo lắng, ảnh hưởng đến tính tích cực và niềm tin của
nhân dân. Do đó công tác dân vận cần phải tăng cường công tác để
đoàn kết toàn dân, tạo nên một khối thống nhất không có gì có thể
phá vỡ nổi, phát huy tinh thần yêu nước xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là vấn đề có ý nghĩa chiến lược của
cách mạng hiện nay.
II. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này, tuy nhiên
đây là một vấn đề mang tính chiến lược và được đặt lên hàng đầu
trong giai đoạn hiện nay. Các phương tiện thông tin đại chúng, các
cán bộ làm công tác dân vận vẫn hàng ngày, hàng giờ đưa tin và

3


tuyên truyền những chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và
Nhà nước tới quần chúng nhân dân để tăng cường khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, tạo nên một sức mạnh không gì có thể lay chuyển
được để bảo vệ chính quyền, bảo vệ cách mạng Việt Nam xã hội

chủ nghĩa… Trên cơ sở kế thừa những nội dung hợp lý em hy vọng
tiểu luận này sẽ bổ sung một số vấn đề trong công tác dân vận.
III. MỤC ĐÍCH NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
3.1. Mục đích của đề tài
Các thế lực phản động trên thế giới đang đẩy mạnh sự chống
phá đối với phong trào cách mạng thế giới, các nước xã hội chủ
nghĩa nói chung và Việt Nam nói riêng. Chúng được một số nước
đế quốc hậu thuẫn, sử dụng các loại phương tiện hiện đại hàng đầu
thế giới, hình thức tiến hành hết sức đa dạng và phong phú. Yêu cầu
cấp thiết lúc này đang đặt ra cho công tác tư tưởng là phải làm thật
tốt công tác dân vận, từ đó có những biện pháp hợp lý để cho quần
chúng nhân dân ta hiểu được những chủ trương, chính sách pháp
luật của Đảng và Nhà nước để không bị các thế lực thù địch lợi
dụng và thực hiện những âm mưu đen tối của mình, để bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Vị trí, vai trò của công tác dân vận trong thời kỳ đổi mới
Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về tầm quan trọng
của công tác dân vận
Những vấn đề đặt ra đội với công tác dân vận trong thời kỳ đổi
mới

4


Một số giải pháp nhằm làm tốt, nâng cao hiệu quả của công tác
dân vận
Đảng và các đoàn thể nhân dân đều làm công tác dân vận theo
chức trách của mình
IV. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

4.1 Đối tượng của nghiên cứu
Là tất cả những nội dung, phương pháp, quan điểm của Đảng
cộng sản Việt Nam về công tác dân vận
4.2. phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận được dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghia Mác –
LêNin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, chính sách của
nhà nước ta, đồng thời có sự tham khảo, kế thừa hợp lý kết quả một
số công trình nghiên cứu đến công tác dân vận.
Tiểu luận được triển khai nghiên cứu trên cơ sở phương pháp
luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử,
…Để rút ra những quan điểm đúng đắn, giải pháp khoa học cho vấn
đề.
VI. KẾT CẤU CỦA TIỂU LUẬN
Tiểu luận gồm có 3 phần
Phần mở đầu
Phần nội dung
Phần kết luận

5


B. NỘI DUNG
I. Công tác dân vận
Muốn vận động được quần chúng nhân dân làm cách mạng
trong mọi thời đại đều phải nắm vững tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí
Minh về công tác dân vận.
1.1 Công tác dân vận là gì?
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Dân vận là vận động tất cả
lực lượng của mỗi một người dân không để xót một người dân nào,
góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên

làm, những công việc của Chính Phủ và Đoàn thể giao cho”.
Từ quan điểm trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh ta thấy: Đối
tượng của công tác dân vận là nhân dân(con người),mục tiêu của
công tác dân vận là mục tiêu chung của cách mạng , nội dung cơ
bản của công tác dân vận là tổ chức lực lượng nhân dân, đoàn kết
toàn dân để thực hiện các nhiệm vụ của cách mạng, phương thức
của công tác dân vận là phải tiến hành trước hết từ cơ sở, nắm chắc
và vận động nhân dân từ cơ sở.
1.2. Việc dân vận rất quan trọng
Trong cuốn Đường cách mệnh xuất bản năm 1927, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã khẳng định : “Cách mệnh là việc chung của cả dân
chúng chứ không phải là việc chung của một hai người” . Đó là tư
tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh , xuất phát từ cơ sở nhận thức
khoa học: cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân, vì dân . Vấn đề
của mọi cuộc cách mạng là vấn đề đoàn kết , tập hợp được đông đảo
nhân dân. Đảng dù vĩ đại đến mấy cũng chỉ là một bộ phận của nhân

6


dân . Người nêu lên một luận đề như một chân lý: “Dân vận kém thì
việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”.
Người nghiêm khắc chỉ rõ: “Khuyết điểm to ở nhiều nơi là
xem khinh việc dân vận. Cử ra một ban hoặc một vài người, mà
thường cử ra những cán bộ kém cỏi rồi bỏ mặc họ. Vận được thì tốt,
vận không được cũng mặc. Những cán bộ khác không trông nom
giúp đỡ, tự cho mình không có trách nhiệm dân vận. Đó là sai lầm
rất to, rất có hại”.
1.3. Dân vận là tư tưởng cơ bản xuyên suốt trong tư tưởng
dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Điều nổi bật trong tư tưởng dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh
là luôn luôn coi cái cốt lõi: Dân là gốc; dân là quý nhất, là quan
trọng hơn hết. Dân là gốc thì dân phải là chủ. Dân chủ phải được
hiểu là quyền con người, quyền được mưu cầu hạnh phúc như nhau.
Mất cái lõi “dân là gốc” thì dân chủ sẽ thành vô nghĩa. Chủ tịch Hồ
Chí Minh nhấn mạnh : Lãnh đạo một nước mà để cho dân mình lạc
hậu, bị thiệt thòi trong ảnh hưởng hạnh phúc con người cũng là mất
dân chủ. Người đánh giá rất cao về dân chủ: “ Dân chủ là cái quý
báu nhất của nhân dân”, “ Thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn
năng có thể giải quyết mọi khó khăn”.
Muốn vận động nhân dân thì điều cơ bản đầu tiên là phải dân
chủ; vì vậy, mở đầu bài báo Dân vận, chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định: “Nước ta là một nước dân chủ”.

7


1.4. Đoàn kết “vận động tất cả lực lượng của mỗi một người
dân” để thi hành những công việc nên làm, những công việc mà
Chính Phủ và Đoàn thể giao cho là một nội dung cỏ bản của
công tác dân vận
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Cách mệnh thì phải đoàn kết
dân chúng bị áp bức để đánh đổ cả giai cấp áp bức mình chứ không
phải chỉ nhờ 5,7 người giết 2,3 anh vua; 9,10 anh quan mà được”.
Người kêu gọi:
“ Đoàn kết đoàn kết đại đoàn kết,
Thành công thành công đại thành công”
Tư tưởng đoàn kết của chủ tịch Hồ Chí Minh rất triệt để, được
thể hiện rất rõ rang: Đoàn kết góp thành lực lượng. Đoàn kết trong
tổ chức trong phong trào cách mạng của quần chúng, ngay cả trong

khi thực hiện một khẩu hiệu cách mạng.
1.5. Phương thức cơ bản của công tác dân vận là:
“Dân vận không chỉ dung báo chương, sách vở, mít tinh, khẩu
hiệu, truyền đơn, chỉ thị mà đủ.
Trước hết là phải tìm mọi cách để giải thích cho mỗi người dân
hiểu rõ rằng: việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải
hăng hái làm cho kỳ được.
Điểm thứ hai là bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý
kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết
thực với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ chức toàn dân
thi hành.

8


Trong lúc thi hành phải theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc, khuyến
khích dân.
Khi thi hành xong phải cùng dân kiểm thảo lại công việc, rút
kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng”.
Quán triệt phương thức nêu trên của Người, Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã đúc kết thành phương châm:
“Dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra”.
1.6. Lực lượng làm dân vận là lực lượng của cả hệ thống
chính trị trước hết là của chính quyền
Điều này có ý nghĩa là tất cả cán bộ chính quyền đều phải làm
dân vận. Đây là đặc điểm công tác dân vận khi Đảng có chính
quyền; chính quyền không những cần mà còn có nhiều điều kiện
làm công tác dân vận.
Sau khi nói về trách nhiệm của cán bộ chính quyền, Người đề
cập đến trách nhiệm làm công tác dân vận của cán bộ đoàn thể ( tức

là cán bộ Đảng) hội viên các tổ chức nhân dân. Mỗi loại cán bộ đều
có cách làm dân vận theo chức năng của mình, song phải phối hợp
chặt chẽ với nhau.
1.7. Phong cách làm việc của cán bộ dân vận
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đúc kết nhiệm vụ của người phụ
trách dân vận trong 12 chữ : “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi,
miệng nói, tay làm”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh:
Cán bộ Đảng viên phải tự mình làm gương cho quần chúng.

9


Phải gần gũi quần chúng, kiên trì giải thích cho quần chúng
hiểu rõ đường lối, chủ trương, chính sách, Người còn chỉ rõ: “Muốn
thực sự gần gũi quần chúng thì phải cùng ăn, cùng ở, cùng làm mới
biết sinh hoạt của quần chúng thế nào, mới biết nguyện vọng của
quần chúng thế nào”.
Cách tổ chức, cách làm việc cũng phải phù hợp với quần
chúng: “ Cách làm việc, cách tổ chức, cách nói chuyện, tuyên
truyền, khẩu hiệu, viết báo,… của chúng ta đều phải lấy câu này làm
khuôn phép: Từ quaand chúng mà ra, về sâu trong quần chúng”.
“Cách tổ chức và cách làm việc nào không phù hợp với quần chúng
thì ta phải có gan đề nghị lên cấp trên để bỏ đi hoặc sửa lại. Cách
nào phù hợp với quần chúng, quần chúng cần thì giờ chưa có sẵn, ta
phải đề nghị cấp trên mà đặt ra. Nếu cần thì cứ đặt ra, rồi báo cáo
sau miễn là được việc”.
II. Những quan điểm chỉ đạo đổi mới công tác dân vận của
Đảng hiện nay
2.1 Những nhân tố tác động đến công tác dân vận của Đảng

hiện nay
2.1.1 Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Đảng ta đã nêu rõ quan điểm về công nghiệp hóa như sau: “
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn
diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế,
xã hội từ sử dụng lao đông thủ công là chính sang sử dụng phổ biến
sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên

10


tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghệ và tiến bộ khoa
học – tạo ra năng suất lao động cao”.
Công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta hiện nay là công nghiệp
hóa hiện đại hóa ở một nước công nghiệp lạc hậu, tuyệt đại dân cư còn
sống ở nông thôn và làm nông nghiệp, thu nhập hạn hẹp, sức mua
thấp. Do đó công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình phấn đấu lâu
dài và gian khổ. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã
khẳng định : “ Công nghiệp hóa , hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn
dân” . Vì vậy, vấn đề đặt ra cho công tác dân vận của Đảng là phải “
phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, đưa đất nước tiến
nhanh và vững chắc theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Đại hội X của Đảng khẳng định : “ Tranh thủ cơ hội do bối
cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là
yếu tố quan trọng của nền kinh tế công nghiệp hóa và hiện đại hóa”.
Xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
điều mới mẻ. Điều đó đặt ra cho Đảng và nhân dân ta nhiều khó

khăn, phức tạp. Trong cơ chế thị trường, nếu không có sự quản lý
chặt chẽ, kịp thời, không có giải pháp điều tiết hữu hiệu thì nền kinh
tế có thể bị chệch hướng, một bộ phận nhân dân giàu lên nhanh
chóng, đẩy nhanh sự phân hóa giàu và nghèo ngày càng lớn trong
các giai tầng trong xã hội.
Tình hình đó đã và đang đặt ra cho công tác dân vận của Đảng
phải góp phần vào duy trì và phát triển các thành phần kinh tế trong

11


cơ chế thị trường, song không làm mất đi tính ưu việt của chủ nghĩa
xã hội, không dẫn tới đảo lộn về chính trị, không làm xói mòn, biến
đổi phẩm giá, đạo đức, lối sống, bản sắc văn hóa của con người Việt
Nam. Đảng ta chỉ rõ : “ Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay
trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế
đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục…, giải quyết tốt các vấn
đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người”.
2.1.2. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đi đôi
với mở rộng và phát huy dân chủ
Nhà nước pháp quyền của nước ta từng bước định hình và phát
triển, lấy mục tiêu phục vụ nhân dân thực hiện dân chủ xã hội chủ
nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, lien hệ chặt chẽ với
nhân dân, tôn trọng lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát
của nhân dân, bảo vệ quyền con người, các quyền công dân…đưa
đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong nhà nước pháp quyền của ta, mọi mặt của đời sống xã
hội ,mọi hành vi của con người trong xã hội đều được điều tiết bằng
pháp luật. Do vậy trong công tác dân vận của Đảng phải không
ngừng nâng cao trình độ của mọi người dân để mọi người sống và

làm việc theo hiến pháp và pháp luật; phải tôn trọng quyền làm chủ
của nhân dân ; phát huy vai trò của mặt trận và các đoàn thể nhân
dân; xây dựng hệ thống chính quyền trong sạch, vững mạnh dapd
ứng yêu cầu của thời kỳ mới.

12


2.1.3. Mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế
Trong điều kiện thế giới đang bùng nổ thông tin; khoa học và
công nghệ có bước tiến nhảy vọt. Kinh tế tri thức có vai trò ngày
càng quan trọng và nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản
xuất. Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày
càng nhiều nước tham gia. Thế giới đang đứng trước nhiều vấn đề
toàn cầu mà không một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết
được nếu không có sự hợp tác đa phương như bảo vệ môi trường,
hạn chế bùng nổ về dân số, đẩy lùi những dịch bệnh hiểm nghèo,
chống tội phạm quốc tế. Do đó Đảng ta chủ trương mở rộng quan hệ
đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để thu hút vốn, kỹ
thuật, khai thác trí tuệ và kinh nghiệm tiên tiến của thế giới, phục vụ
cho công cuộc phát triển đất nước là hoàn toàn cần thiết và đúng đắn.
Với chính sách mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế, cán bộ,
đảng viên và nhân dân ta có điều kiện tiếp xúc với thế giới bên
ngoài, do đó dễ tác động cả mặt tích cực và tiêu cực. Để phát huy
mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của thế giới tác động vào cán bộ,
đảng viên và nhân dân ta, đòi hỏi công tác dân vận của đảng phải
góp phần nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, nâng cao trình độ
tri thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, giúp cho cán bộ, đảng
viên và nhân dân ta chủ động thực hiện có hiệu quả phát triển kinh

tế - xã hội, an ninh quốc phòng.

13


2.1.4. Nắm bắt cơ hội và vượt qua thách thức lớn
Đảng ta đã khẳng định: “Ngày nay thế và lực của nước ta đã
lớn mạnh lên nhiều. Cơ sở vật chất của nền kinh tế được tăng
cường. Đất nước còn nhiều tiềm năng lớn về tài nguyên, lao động.
Nhân dân ta có phẩm chất tốt đẹp. Tình hình chính trị xã hội cơ bản
ổn định. Môi trường hòa bình, sự hợp tác, liên kết quốc tế và những
xu thế tích cực trên thế giới tạo điều kiện để chúng ta tiếp tục phát
huy nội lực và lợi thế so sánh, tranh thủ ngoại lực đó là cơ hội lớn.
Đồng thời đất nước ta phải đối mặt với nhiều thách thức lớn.
Bốn nguy cơ mà Đảng ta từng chỉ rõ – tụt hậu xa hơn về kinh tế so
với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, chệch hướng xã hội
chủ nghĩa, nạn tham nhũng và tệ quan liêu , “diễn biến hòa bình” do
các thế lực thù địch gây ra – đến nay vẫn tồn tại và diễn biến phức
tạp, đan xen, tác động lẫn nhau, không thể xem nhẹ nguy cơ nào.
Điều cần nhấn mạnh là : tình trạng tham nhũng và sự suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ
đảng viên, đang cản trở việc thực hiện đường lối, chủ trương chính
sách của Đảng, gây bất bình và giảm lòng tin trong nhân dân”.
Đứng trước cơ hội lớn và thách thức lớn, công tác dân vận của
Đảng cần phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đẩy mạnh
phong tào cách mạng của quần chúng trên các lĩnh vực của đời sống
xã hội, thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Suy cho
cùng chính sức mạnh của nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng mới


14


có thể nắm bắt cơ hội và vượt qua thách thức lớn, đưa cách mạng
Việt Nam tiến lên.
2.2. Những quan điểm chỉ đạo đổi mới công tác dân vận của
Đảng
Trong quá trình đổi mới, những quan điểm chỉ đạo đổi mới
công tác dân vận của Đảng do Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám, Ban
Chấp hành Trung ương khóa VI nêu ra ngày càng tỏ rõ sự đúng đắn,
có giá trị chỉ đạo công tác dân vận trong thời kỳ mới.
Từ đó đến nay, Đảng ta có nhiều nghị quyết về công tác dân
vận trên từng lĩnh vực cụ thể, với những đối tượng khác nhau, ngày
càng hoàn chỉnh hơn việc nhận thức quan điểm của Đảng về dân
vận và công tác dân vận như:
Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ
VII (khóa IX) về: “ Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”; về “ Công tác dân tộc”; về “Công tác tôn giáo”, và Đại hội X
của Đảng đã khẳng định : “ Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc, tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân”.
Vì vậy chúng ta cần quán triệt đầy đủ, sâu sắc những quan
điểm về công tác dân vận của Đảng sau đây:

15


2.2.1 Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân cần được quán triệt sâu sắc hơn nữa trong thời kỳ đẩy

mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Để hiểu đúng và vận dụng tốt quan điểm: cách mạng là sự
nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa cần chú ý những vấn đề sau:
Phải luôn luôn láy mục tiêu vì hạnh phúc của nhân dân làm cơ
sở cho việc giáo dục, thuyết phục, tổ chức, hướng dẫn nhân dân tiến
hành sự nghiệp cách mạng. Bởi vì cách mạng xã hội chủ nghĩa
không có mục tiêu nào khác ngoài việc thực hiện dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, dân tộc độc lập, nhân
dân tự do, ấm no, hạnh phúc.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân. Nhân
dân là lực lượng tiến hành mọi nhiệm vụ, con người là nhân tố
quyết định quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa do
Đảng lãnh đạo.
Chế độ ta là chế độ do nhân dân làm chủ dưới sự lãnh đạo của
Đảng, do đó phải thực sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, thực hiện dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra. Cân
khắc phục nạn quan lieu, xa dân, không tin dân, tham nhũng,
chuyên quyền độc đoán, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân.
Nhân dân nước ta bao gồm các giai cấp, các tầng lớp, các dân
tộc an hem. Vì thế Đảng ta luôn thực hiện tư tưởng chiến lược đại
đoàn kết toàn dân và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tư tưởng thống nhất Tổ quốc và đại

16


đoàn kết toàn dân phải được thể hiện trong mọi chủ trương, chính
sách, pháp luật, trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và đất nước.
Đảng ta đã khẳng định : “ Chính sách và pháp luật của nhà nước là

yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện đại đoàn kết toàn dân
và sinh hoạt dân chủ trong xã hội”.
2.2.2 Động lực thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi
ích thiết thực của nhân dân và kết hợp hài hòa các lợi ích, thống
nhất quyền lợi và nghĩa vụ của công dân
Từ xưa đến nay, lợi ích luôn luôn gắn liền với hoạt động của
con người, con người hành động là vì lợi ích. C.Mác cho rằng: tất cả
những gì con người đấu tranh để giành lấy, đều dính với lợi ích của
họ. Chính lợi ích là cái liên kết các thành viên của xã hội với nhau.
Phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I. Leenin nhấn
mạnh: lợi ích là cái kích thích hành vi của con người, là động lực để
phát triển sản xuất, tăng cường những hoạt động của các giai cấp,
thúc đẩy cuộc đấu tranh giai cấp, là động lực để phát triển xã hội.
Như vậy, lợi ích chính là động lực thúc đẩy phong trào cách
mạng của nhân dân, đồng thời cũng là mục tiêu của Đảng, của cách
mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: ngoài lợi ích của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động, Đảng ta không có lợi ích nào khác.
Người luôn căn dặn cán bộ: “ việc gì có lợi cho dân phải hết sức
làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”.
Lợi ích bao gồm lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần. Do đó,
trong nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn, không thể tuyệt
đối hóa bất kỳ một lợi ích nào mà phải biết kết hợp hài hòa giữa lợi

17


ích tập thể, cá nhân và xã hội, trong đó lợi ích cá nhân là động lực
trực tiếp, gắn chặt quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, khắc phục tư
tưởng coi nhẹ lợi ích tập thể và xã hội, chỉ thấy quyền lợi mà quên
nghĩa vụ công dân hoặc ngược lại.

Chú ý đến lợi ích cụ thể, song phải rất quan tâm đến lợi ích
chung; lợi ích giai cấp phải nằm trong lợi ích dân tộc, lợi ích từng
cộng đồng không làm tổn hại đến lợi ích của đất nước. Lọi ích của
giai cấp công nhân gắn liền với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu
chung đó là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Dân chủ cũng là một loại lợi ích. Do vậy cùng với việc chăm lo
lợi ích thiết thực, nâng cao tinh thần yêu nước, ý trí tự lực, tự cường
cho nhân dân, công tác dân vận phải hết sức coi trọng vấn đề dân
chủ. Quan tâm chăm lo lợi ích cho nhân dân phải đi đôi với chống tệ
nạn quan lieu, tham nhũng, lãng phí.
2.2.3. Các hình thức tập hợp nhân dân phải đa dạng
Trong điều kiện phát triển kinh tế nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trường của nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, mở rộng quan hệ đối ngoại thì cơ cấu giai cấp xã hội có sự
biến đổi. Không những vậy, trình độ dân trí ngày càng cao, xã hội ta
ngày càng phát triển, nhu cầu con người ngày càng đa dạng, do đó
nhu cầu, lợi ích của người dân hết sức đa dạng. Vì vậy đa dạng hóa
các hình thức tập hợp nhân dân là hợp với quy luật phát triển của
nước ta hiện nay.

18


Có như vậy mới phát huy được hết khả năng sang tạo phong
phú của nhân dân để giải quyết những lợi ích, nguyện vọng chính
đáng về các mặt của các tầng lớp nhân dân và đóng góp vào sự
nghiệp chung của đất nước. Cho nên thời kỳ trước kia và hiện nay –
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, Đảng
ta luôn luôn coi trọng xây dựng lực lượng cách mạng và xây dựng

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân vững mạnh, các
tổ chúc quần chúng ngày nay đã phát triển khá đa dạng:
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh chính trị, liên hiệp tự
nguyện của các đoàn thể nhân dân và các cá nhân tiêu biểu của các
giai cấp và các tầng lớp trong xã hội, các dân tộc, các tôn giáo, là tổ
chức chính trị xã hội rộng lớn nhất, là tổ chức liên hiệp và thống
nhất hành động của hang trăm tổ chức thành viên. Mặt trận đã tổ
chức nhiều hình thức hoạt động phong phú, nhất là ở địa bàn dân cư
để tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân vào các phong trào thi đua
yêu nước.
Các đoàn thể chính trị - xã hội: Tổng liên đoàn Lao động Việt
Nam, đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ
nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt
Nam, Hội Liên hiệp các hội Khoa học – Kỹ thuật Việt Nam, Liên
hiệp các hội Văn học – Nghệ thuật Việt Nam, Liên hiệp các tổ chức
hữu nghị Việt Nam. Các đoan thể chính trị - xã hội cũng phải đa
dạng hóa về hình thức tập hợp quần chúng nhân dân. Những hình
thức tập hợp này bao gồm cả những người trong đoàn thể tự nguyện
tham gia, có thể cố định hoặc cũng có thể lập ra từng lúc từng nơi.

19


Các tổ chức xã hội bao gồm: các hội mang tính chất nghề
nghiệp, nhân đạo, từ thiện… được tổ chức thực sự linh hoạt, có hội
chỉ có ở địa phương, cơ sở; có hội bốn cấp nhưng chủ yếu chỉ hoạt
động ở địa phương, cơ sở.
Các đoàn thể nhân dân bao gồm: các đoàn thể chính trị xã hội
và các tổ chức xã hội nghề nghiệp đều thực hiện nguyên tắc tự
nguyện tự quản…có thể là dân chủ tự quản hoặc hiệp thương và

thống nhất hành động, hoạt động theo hướng ích nước, lợi nhà,
tương thân, tương ái. Xu hướng của xã hội phát triển là có nhiều tổ
chức mới ra đời. Do đó ở đâu có sự tập hợp của quần chúng ở đó
phải có Đảng lãnh đạo và sự quản lý của Nhà nước tuyệt đối không
được buông lỏng. Nhà nước cần có chính sách cụ thể tạo điều kiện
vật chất và pháp lý cho hoạt động của các đoàn thể nhân dân.
2.2.4. Công tác dân vận là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và
các đoàn thể nhân dân
Quan điểm này xác định chủ thể tiến hành công tác dân vận.
Bác Hồ đã chỉ rõ: “Tất cả cán bộ chính quyền, tất cả cán bộ Đoàn
thể và tất cả hội viên của các tổ chức nhân dân đều phải phụ trách
dân vận”. Đảng ta chỉ rõ: “ Công tác quần chúng không chỉ là trách
nhiệm của các đoàn thể, mà con là trách nhiệm của các tổ chức khác
trong hệ thống chính trị, có sự phối hợp với nhau dưới sự lãnh đạo
của Đảng. Mọi cán bộ, đảng viên, nhân viên nhà nước đều phải làm
công tác quần chúng theo chức trách của mình”. Như vậy lực lượng
làm công tác dân vận bao gồm:

20


Trước hết là trách nhiệm của Đảng, công tác dân vận là nhiệm
vụ chiến lược của Đảng. Bởi vì toàn bộ sức mạnh của Đảng không
chỉ ở bản than Đảng mà còn bắt nguồn từ mối quan hệ mật thiết giữa
Đảng với nhân dân. Đảng vừa là người lãnh đạo của hệ thống chính
trị và cộng đồng xã hội tiến hành công tác dân vận, vừa là lực lượng
trực tiếp vận động, lôi cuốn tổ chức nhân dân. Các tổ chức Đảng từ
Trung ương đến địa phương phải lấy công tác vận động và chăm lo
cho lợi ích của nhân dân làm nội dung chủ yếu cho mọi hoạt động
của mình. Mọi cán bộ, Đảng viên đều phải làm công tác dân vận,

tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và vận
động quần chuáng thực hiện theo chức trách của mình; khắc phục
hiện tượng không muốn làm hoặc không biết làm công tác dân vận.
Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân, vì dân,do đó liên hệ
chặt chẽ với dân thuộc về bản chất Nhà nước. Vì vậy nhà nước phải
làm công tác dân vận. Không những vậy trong điều kiện Đảng cầm
quyền thì mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân không chỉ thông qua
tổ chức Đảng, đội ngũ Đảng viên mà còn thông qua Nhà nước, chủ
yếu được tiến hành thông qua bộ máy của Nhà nước. Do đó, bộ máy
nhà nước có vai trò quan trọng và trách nhiệm to lớn đối với công
tác dân vận.
Để Nhà nước thực sự là của dân, do dân, vì dân, Quốc hội,
Chính phủ, Hội đồng nhân dân các cấp và Ủy ban nhân dân các cấp
phải thể chế hóa các quan điểm, Chủ trương của Đảng thành chính
sách, pháp luật; tạo môi trường thuận lợi cho nhân dân làm ăn. Bộ
máy nhà nước từ cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp đều phải

21


nâng cao tinh thần phục vụ nhân dân và ý thức trách nhiệm trước
dân, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân. Mọi cán bộ công chức nhà nước đều phải trực tiếp làm
công tác dân vận theo chức trách của mình. Cán bộ công chức
không tự giác trong nhận thức, không coi trọng công tác tuyên
truyền vận động quần chúng nhân dân thì triển khai các công tác
của Đảng và Nhà nước không có hiệu quả. Cần có quy chế phục vụ
dân của cán bộ công chức nhà nước, cải cách hành chính, giảm
phiền hà cho dân góp phần khắc phục tệ hách dịch, mệnh lệnh, cửa
quyền. Nhà nước còn phải phối hợp và tạo điều kiện để phát huy vai

trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, quyền giám sát
của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Mặt trận tổ quốc và đoàn thể với
hoạt động của cơ quan nhà nước. Cán bộ công chức phải thực hành
phong cách: “ Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách
nhiệm với dân”, “ Nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”.
Mặt trận Tổ quốc với các đoàn thể nhân dân có vai trò rát quan
trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; phát huy
dân chủ, nâng cao trách nhiệm công dân của hội viên, đoàn viên giữ
gìn kỷ cương phép nước, thúc đẩy công cuộc đổi mới, thắt chặt môi
quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước.
Nhân dân vừa thực hiện quyền dân chủ trực tiếp vừa thực hiện
quyền dân chủ thông qua đại diện là các cơ quan nhà nước, các đại
biểu nhân dân, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.

22


Để nâng cao hiệu quả của các đoàn thể nhân dân và Mặt trận
Tổ quốc cần phải trực tiếp đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng,
củng cố tổ chức bộ máy, đổi mới phương thức hoạt động của Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, nhất là ở cơ sở, thể chế hóa
các quy định của Nhà nước; chăm lo xây dựng lực lượng cốt cán;
tạo điều kiện thuận lợi cho Mặt trận và các đoàn thể thực hiện tốt
chức năng, nhiệm vụ; triển khai được chủ trương tới dân, phản ánh
nguyện vọng của dân tới các cấp bộ Đảng, chính quyền, nâng cao
hiệu quả hoạt động, làm cho Mặt trận và các đoàn thể thực sự đại
diện cho tiếng nói, quyền lợi và nguyện vọng của quần chúng, làm
tốt công tác vận động và tổ chức các tầng lớp nhân dân tích cực
tham gia công cuộc đổi mới, xây dựng Đảng và chính quyền trong

sạch, vững mạnh.
Xây dựng và thực hiện có hiệu quả quy chế dân chủ ở cơ sở, có
sự phối hợp chặt chẽ giữa Mặt trận, đoàn thể và chính quyền dưới
sự lãnh đạo của Đảng.
Bốn quan điểm chỉ đạo đổi mới công tác quần chúng cuả Đảng
là sự tổng kết từ thực tiễn cách mạng nước ta, vừa có tính lý luận,
vừa có tính thực tiễn sâu sắc. Đây là vấn đề hết sức cơ bản, làm cơ
sở nền tảng để chỉ đạo toàn bộ tiến trình công tác dân vận trong thời
kỳ mới – thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Bốn quan điểm trên có quan hệ chặt với nhau cần được quán triệt
đầy đủ trong hoạt động của các cấp, các ngành, đoàn thể nhân dân.
Trong tình hình hiện nay cần vận động nhân dân nâng cao cảnh
giác, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn các thế lực thù địch gây

23


mất ổn định chính trị, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ quốc gia, gây tổn hại cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất
nước; phát hiện, ngăn chặn mọi loại tội phạm, bảo đảm trật tự an
toàn xã hội.
III- NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA
ĐẢNG VỀ CÔNG TÁC DÂN VẬN TRONG THỜI KỲ MỚI
3.1.Nội dung công tác dân vận của Đảng
Trước hết cần khẳng định mục tiêu công tác dân vận của Đảng
chính là mục tiêu chung của cách mạng Việt Nam . Mọi hoạt động
của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể đều hướng tới một mục tiêu:
Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam, thực hiện dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh, vững bước tiến lên chủ
nghĩa xã hội.

Đảng ta chỉ rõ: “ Các tổ chức Đảng từ Trung ương đến chi bộ
phải lấy công tác vận động và chăm lo lợi ích của quần chúng làm
một nội dung chủ yếu trong hoạt động của mình”.
Như vậy nội dung công tác dân vận của Đảng trong thời kỳ đổi
mới có một số vấn đề cơ bản sau:
3.1.1.Thực hiện các nhiệm vụ chính trị:
Tuyên truyền giáo dục nâng cao trình độ mọi mặt của nhân dân
như giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục đạo đức và nếp sống;
nâng cao trình độ văn hóa , khoa học – kỹ thuật của nhân dân.
Tạo tiền đề vật chất và pháp lý để động viên, vận động nhân
dân tổ chức thành phong trào thi đua yêu nước nhằm thực hiện mọi

24


thắng lợi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát
triển kinh tế - xã hội an ninh quốc phòng.
Tập hợp nhân dân vào các loại hình tổ chức khác nhau bao
gồm: các đoàn thể chính trị - xã hội; các tổ chức xã hội nghề nghiệp,
nhu cầu sở thích, nhân đạo từ thiện, hữu nghị, các hình thức tổ chức
và hoạt động đa dạng khác nhau như câu lạc bộ, các loại hình tự
quản ở cơ sở.
3.1.2.Chăm lo lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân:
Cải thiện dân sinh, tức là chăm lo nâng cao dời sống vật chất của
mọi người dân và cả cộng đồng dân cư bao gồm: ăn, ở, mặc, điều kiện
học hành, đi lại, bảo vệ sức khỏe, nghỉ ngơi, môi trường sống.
Nâng cao dân trí: làm sao cho người dân ai cũng được học
hành, được nâng cao trình độ văn hóa, nghệ thuật, thông tin được
chăm lo lợi ích xã hội; y tế; thể thao; du lịch; chăm lo lợi ích tâm
linh: thực hiện tự do, tín ngưỡng; giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.

Phát huy dân chủ, đảm bảo quyền dân chủ thực sự của nhân dân
thông qua nhà nước, các đoàn thể nhân dân và làm chủ trực tiếp.
3.2. Đảng và phương thức lãnh đạo của Đảng về công tác
dân vận
3.2.1. Đảng làm công tác dân vận
Bản thân tổ chức Đảng trực tiếp tiến hành công tác dân vận
thông qua các công việc sau đây:
Việc đặt lên hang đầu là tổ chức và cấp ủy Đảng có quyết định
đúng đắn về công tác dân vận nói chung hoặc các quyết định vận
động từng đối tượng: công nhân, nông dân, trí thức, thanh niên, phụ

25


×