Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Phương hướng đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức liên hệ các quan điểm của đảng trong văn kiện đh XII và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.93 KB, 8 trang )

Câu 3. Phương hướng đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ,
công chức. Liên hệ các quan điểm của Đảng trong văn kiện ĐH XII và thực tiễn
tại địa phương?
Bài làm
Cán bộ, công chức có vai trò rất quan trọng trong việc hoạch định và quyết định
sự thành công hay thất bại đường lối, chính sách cho cơ quan, tổ chức. Họ trực tiếp
thực thi các chính sách, kế hoạch của cơ quan, tổ chức; các mục tiêu quốc gia. Họ
thực hiện các giao tiếp (trao đổi, tiếp nhận thông tin,...) giữa các cơ quan nhà nước
với nhau, với các doanh nghiệp và công dân. Muốn thế, đội ngũ cán bộ, công chức
phải được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng về năng lực công tác, tinh thần trách nhiệm
và ý thức phục vụ nhân dân. Việc đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ, công chức là một nhiệm vụ và là thách thức lớn đối với những cơ quan nhà nước
có thẩm quyền.
Trước tiên cần hiểu về Cán bộ, công chức:
Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ,
chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ
chức chính trị – xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau
đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi
chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước (Theo
quy định tại Điều 4 Luật cán bộ, công chức).
Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ,
chức danh trong cơ quan của ĐCSVN, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội ở trung
ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không
phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn
vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và
trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt
1


Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công
lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ


máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ
lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của bộ luật lao động 2014.
Riêng đối với cấp xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã): cán bộ cấp
xã là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường
trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng
đầu tổ chức chính trị - xã hội; công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển
dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã,
trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Trong Văn kiện trình Đại hội XII của Đảng đã chú trọng công tác xây dựng đội
ngũ cán bộ, công chức. Từ đó, ta thấy rằng, Đảng đã nhận thức rõ tầm quan trọng
của cán bộ, công chức trong thực hiện mục tiêu nhiệm vụ chính trị đề ra.
Nhìn lại thực trạng đất nước ta, đội ngũ cán bộ, công chức ở các cơ quan, đơn
vị, địa phương có bản lĩnh chính trị vững vàng, năng động và sáng tạo; hăng hái thực
hiện đường lối chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước.Trình độ kiến
thức và năng lực hoạt động thực tiễn ngày càng được nâng cao, thích nghi dần với cơ
chế mới. Đội ngũ cán bộ, công chức đã đóng góp vai trò quan trọng trong việc đạt
được những thành tựu về kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng trong thời gian qua.
Tuy nhiên, trong thực tế vẫn còn số đông cán bộ, công chức ở các tỉnh, thành
vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu công việc trong quá trình xây dựng và phát triển đất
nước. Đó là do một số cấp ủy Đảng, chính quyền cơ sở chưa coi trọng đúng mức
công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức nên một
số chỉ tiêu theo tiêu chuẩn quy định đạt thấp...
Cán bộ, công chức chủ yếu vừa học vừa làm nên thời gian học tập trung không
nhiều. Nhiều cán bộ cơ sở, nhất là cán bộ người dân tộc, vùng sâu, vùng xa, cán bộ
có tuổi, có hoàn cảnh kinh tế khó khăn ngại đi học. Công tác đào tạo, bồi dưỡng tuy
2


có nhiều cố gắng nhưng còn chạy theo số lượng, chưa cử đúng đối tượng đào tạo,
học chưa đúng chuyên ngành cần đào tạo, vì thế chưa đáp ứng được nhu cầu của cơ

quan, tổ chức. Việc đào tạo với sử dụng chưa cân đối, chưa quản lý chặt đội ngũ cán
bộ dự nguồn sau đào tạo (nhiều trường hợp được cử đi đào tạo đã tốt nghiệp nhưng
chưa được bố trí công việc theo quy hoạch). Nội dung và chất lượng đào tạo (nhất là
hệ tại chức) chưa cao, giáo trình đào tạo tuy đã được cải tiến song vẫn chưa thật phù
hợp với đối tượng cán bộ cơ sở, phương thức đào tạo chưa đa dạng hoá. Một bộ
phận không nhỏ cán bộ, công chức đi học nhằm hợp thức hoá bằng cấp. Việc đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức chưa được thực hiện đồng bộ, mới chỉ đào
tạo về lý luận chính trị và chuyên môn nghiệp vụ mà chưa chú ý bồi dưỡng về kỹ
năng quản lý điều hành, tổ chức thực hiện, nhất là xử lý những tình huống trong thực
tiễn. Thêm vào đó là chế độ chính sách cho cán bộ, công chức được cử đi đào tạo,
bồi dưỡng tuy đã được điều chỉnh, bổ sung, nâng cao hơn so với trước, song còn
thấp và chưa phù hợp với giá cả của thị trường hiện nay.
Trình độ đào tạo sau đại học của đội ngũ cán bộ, công chức cấp huyện, tỉnh
chiếm tỷ lệ thấp; chưa xây dựng được đội ngũ chuyên gia đầu ngành, đội ngũ cán bộ
giỏi ở một số lĩnh vực quản lý nhà nước. Tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ,
công chức chưa cao; kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ quản lý nhà nước còn hạn chế.
Một bộ phận cán bộ, công chức chậm đổi mới tư duy, thiếu chủ động, sáng tạo trong
thực thi nhiệm vụ. Đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã chưa đáp ứng đủ các tiêu chuẩn
trình độ đào tạo theo quy định, nhất là đối với cán bộ chuyên trách; phần lớn công
chức cấp xã làm việc không theo chuyên môn được đào tạo. Điều hành và xử lý công
việc còn lúng túng; nhiều cán bộ, công chức cấp xã chưa thật sự tận tâm, tận tụy
phục vụ nhân dân.
Ngoài ra, việc quy hoạch cán bộ cơ sở mới chỉ dừng lại ở các chức danh cán bộ
lãnh đạo, quản lý mà chưa chú ý đến đội ngũ làm công tác chuyên môn, thậm chí có
nơi, những người họat động không chuyên trách cấp xã chưa qua đào tạo lý luận
3


chính trị. Nói chung, cán bộ có trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận
chính trị còn thấp và thiếu đồng đều giữa các địa phương nên việc bố trí cùng lúc

nhiều cán bộ đi đào tạo còn khó khăn. Từ đó dẫn đến công tác chỉ đạo, điều hành bộc
lộ yếu kém về năng lực, trình độ. Dẫn đến hạn chế tính tự chủ trong công việc, lúng
túng khi cụ thể hóa chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước; chưa giải
quyết được những vấn đề nảy sinh phức tạp theo thẩm quyền.
Vì thế, tình trạng cán bộ, công chức vi phạm đạo đức công vụ vẫn xảy ra, tệ nạn
tham nhũng, lãng phí không giảm, sách nhiễu, gây phiền hà cho dân chưa được
chuyển biến mạnh… Những biểu hiện tiêu cực này đã một phần làm suy giảm lòng
tin của Nhân dân đối với chế độ; Làm ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả việc đầu tư;
Là cơ hội để cho các thế lực kinh tế chi phối các thế lực chính trị; Làm sai lệch việc
hoạch định các chính sách, thực hiện chính sách của Chính phủ.
Trước tình hình đó, vấn đề đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ cán bộ, công
chức để đáp ứng sự phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ mới đặt ra những yêu cầu
cấp thiết.
Để đẩy mạnh phát triển đội ngũ cán bộ, công chức trong tình hình hiện nay
cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:
Một là, tiếp tục thực hiện công tác quy hoạch và đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản
lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giai đoạn 2010 - 2020, xem đây
là nhiệm vụ trọng tâm thường xuyên của cả hệ thống chính trị. Tăng cường đầu tư
ngân sách nhà nước cho công tác đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới cho cán
bộ lãnh đạo, quản lý. Đào tạo, bồi dưỡng phải tính đến việc đáp ứng những yêu cầu,
tiêu chuẩn phục vụ hội nhập quốc tế. Chẳng hạn như: cán bộ lãnh đạo, quản lý hoạt
động trong lĩnh vực liên quan đến hội nhập quốc tế phải nắm vững xu hướng phát

4


triển của lĩnh vực mà mình hoạt động, có hiểu biết về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã
hội, lịch sử; về luật, kinh tế, thương mại, thị trường và các mối quan hệ quốc tế.
Hai là, Rà soát, đánh giá đúng trình độ đội ngũ cán bộ, công chức và công tác
đào tạo, bồi dưỡng trong thời gian qua. Từ đó xác định nhu cầu đào tạo, xây dựng kế

hoạch đào tạo cụ thể theo từng năm và cả nhiệm kỳ. Trên cơ sở quy hoạch cán bộ và
nhu cầu thực tiễn của cơ quan, đơn vị, địa phương, các cấp ủy xây dựng kế hoạch
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cụ thể, phù hợp với từng chức danh, ngạch, bậc; quan tâm
đào tạo cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số. Đồng thời chú trọng
việc đào tạo chuyên sâu sau đại học để có đội ngũ trí thức giỏi trên từng ngành, lĩnh
vực, nhất là những ngành, lĩnh vực thế mạnh. Đẩy mạnh việc thu hút cán bộ có trình
độ, sinh viên tốt nghiệp đại học loại giỏi, có trình độ chuyên môn phù hợp về công
tác tại các cơ quan nhà nước.
Ba là, Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải gắn với việc bố trí, sử dụng; tránh tình
trạng đào tạo không đúng chuyên ngành, chuyên môn nghiệp vụ. Người đứng đầu cơ
quan, đơn vị phải chịu trách nhiệm trong việc thực hiện quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng
và sử dụng cán bộ. Phải quản lý chặt chẽ cán bộ cử đi học, chấm dứt việc đề bạt, bổ
nhiệm hoặc tuyển dụng trước, đào tạo sau. Phải tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh trong
khâu nâng ngạch, bổ nhiệm các chức vụ lãnh đạo, quản lý. Đây chính là động lực thúc
đẩy sự phấn đấu nâng cao năng lực của công chức, khắc phục được tình trạng trì trệ của
chế độ công vụ theo hệ thống chức nghiệp. Nghiên cứu, từng bước vận dụng hình thức
thi theo vị trí, chức danh của chế độ công vụ theo hệ thống “việc làm” trong việc đề
bạt, bổ nhiệm các chức danh chuyên môn và quản lý. Trước mắt xây dựng quy trình thi
vào một số các chức danh như trưởng, phó các phòng chuyên môn thuộc các Sở, ban,
5


ngành và UBND các huyện, thị xã, tỉnh, thành phố, một số chức danh thuộc UBND cấp
xã.
Bốn là, Xây dựng cơ chế, chính sách để tuyển chọn đội ngũ giảng dạy, báo cáo
viên chất lượng cao; tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị cho việc dạy và học. Tổ
chức những lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, đổi mới nội dung, chương
trình, phương pháp. Có những biện pháp khuyến khích cán bộ, công chức nâng cao
trình độ ngoại ngữ để có cơ sở nâng cao trình độ sau đại học và giao tiếp được với
người nước ngoài.

Năm là, Tăng cường phối hợp, liên kết với các trung tâm đào tạo, viện, trường
để đa dạng hóa loại hình đào tạo, bồi dưỡng. Kết hợp giữa đào tạo chính quy tập
trung với đào tạo tại chức, giữa ngắn hạn với dài hạn, giữa trong nước và ngoài
nước, giữa đào tạo ở trường lớp với đào tạo qua thực tiễn. Trong đó, chú trọng hình
thức đào tạo chính quy tập trung; mở rộng hình thức cử tuyển đối với một số lĩnh
vực và đối tượng thật sự có nhu cầu như cán bộ người dân tộc, cán bộ y tế cơ sở, cán
bộ xã, phường, thị trấn.
Sáu là, Thực hiện đồng bộ các giải pháp: Xác định chu kỳ sát hạch để đánh giá
năng lực cán bộ, công chức (chu kỳ từ 03 đến 05 năm); Xác định số lượng cán bộ,
công chức theo ngạch, bậc trong từng cơ quan, đơn vị cần phải bồi dưỡng kiến thức;
Quy định các loại văn bằng, chứng chỉ cho từng chức danh; Xây dựng các quy định
nhằm định hướng đào tạo để nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn và đặc biệt là
các kỹ năng thực thi công vụ, tránh tình trạng bằng cấp chỉ để hợp thức hoá tiêu
chuẩn chức danh và ngạch, bậc.
Liên hệ thực tế tại huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định:
Trong những năm qua, huyện Hoài Nhơn đã ban hành và triển khai thực hiện
Chương trình hành động số 15-CTr/HU ngày 01-6-2011 của Huyện ủy về đào tạo,
bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2011-2015. Việc tuyển dụng cán
bộ, công chức hành chính thực sự xuất phát từ yêu cầu công việc. Huyện đã thực
hiện chính sách ưu đãi đối với cán bộ, công chức trẻ có trình độ, năng lực chuyên
6


môn phù hợp về công tác tại huyện, xã, thị trấn. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
luôn gắn với công tác quy hoạch, bổ nhiệm, luân chuyển, xác định mục tiêu đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức là xây dựng về bản lĩnh chính trị, năng lực
thực tiển, có phẩm chất, đạo đức trong sáng, tác phong làm việc khoa học, hiệu quả,
đáp ứng được yêu cầu với nhiệm vụ công tác cải cách hành chính hiện nay.
Triển khai thực hiện Luật Cán bộ, công chức; Luật Viên chức, từng bước nâng
cao tinh thần trách nhiệm và đạo đức của cán bộ, công chức, viên chức trong thực thi

công vụ. UBND huyện đã xây dựng và ban hành thực hiện Quy tắc ứng xử của cán
bộ, công chức, viên chức làm việc trong các cơ quan chính quyền cấp huyện và cấp
xã theo Quyết định số 03/2007/QĐ-BNV ngày 26-02-2007 của Bộ Nội vụ; thực hiện
tốt nếp sống văn minh công sở, nâng cao kỹ năng giao tiếp, thái độ tiếp công dân của
cán bộ, công chức, viên chức.
Qua rà soát cập nhật trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, UBND
huyện đã lập kế hoạch đào tạo bồi dưỡng về trình độ lý luận chính trị, trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ và kiến thức phù hợp với nhiệm vụ công tác. Trong năm
2011, 2012 huyện đã phối hợp với Trường Chính trị tỉnh, mở lớp trung cấp Chính trị
- Hành chính tại huyện đào tạo cho 115 cán bộ, công chức thuộc diện quy hoạch và
phối hợp với Trung tâm Giáo dục thường xuyên Bình Định, Trường Đại học Quy
Nhơn mở lớp đại học hệ vừa học, vừa làm tại huyện cho 140 cán bộ, công chức và
dự nguồn được đào tạo ngành hành chính; 100% đại biểu HĐND cấp huyện, cấp xã
nhiệm kỳ 2011-2016 được bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng hoạt động của người đại
biểu.
Đội ngũ cán bộ cơ sở của Hoài Nhơn luôn được quan tâm, tuyển chọn và bổ
sung. Nhiều cán bộ trẻ, được đào tạo cơ bản đã được bố trí, sắp xếp công việc phù
hợp với năng lực và sở trường công tác. Ngoài ra cán bộ, công chức cấp xã được cử
đi học các trường, cơ sở đào tạo để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ theo
chuyên ngành như: Luật, quản lý đất đai, kinh tế, quản trị văn phòng, trung cấp Công
an, trung cấp Quân sự…; 100% cán bộ chủ chốt là chủ tịch, phó chủ tịch UBND xã
được bồi dưỡng kỹ năng quản lý, lãnh đạo, kỹ năng tiếp công dân, giải quyết khiếu
7


nại, tố cáo; kỹ năng tổ chức tổ chức, điều hành cuộc họp; kỹ năng thuyết trình. Nhờ
vậy, đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã có năng lực và trình độ đại học, cao đẳng
ngày càng tăng, đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ công tác cải cách hành chính ở địa
phương.
Tóm lại: Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Muôn việc thành công hay thất

bại đều do cán bộ tốt hay kém”, “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, khi đã có
đường lối đúng thì cán bộ là khâu quyết định. Vì vậy, việc đổi mới, nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, công chức không chỉ góp phần xây dựng một nền hành chính
trong sạch, vững mạnh mà còn có tác động tích cực đến nhiều mặt của đời sống kinh
tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng – an ninh. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng chỉ rõ:
“Không phải vài ba tháng hoặc vài ba năm mà đào tạo được một cán bộ tốt. Cần
phải công tác, đấu tranh, huấn luyện lâu năm mới được”. Do đó, bên cạnh việc đào
tạo, bồi dưỡng qua trường lớp, việc đào tạo cán bộ, công chức qua hoạt động thực
tiễn cũng nên được quan tâm. Công tác này phải được thực hiện liên tục trong quá
trình sử dụng cán bộ.

8



×