LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài:
Đất đai là quà tặng vô cùng quý giá của thiên nhiên dành cho con người
nhưng đất đai không phải là vô tận và nếu việc quản lý, sử dụng không hợp lý
thì con người sẽ phải trả giá cho những hành động của mình. Việc quản lý đất
đai ở nước ta trong những năm qua còn tồn tại rất nhiều vấn đề bất hợp lý gây
nhiều phản ứng gay gắt trong nhân dân và là nỗi trăn trở của các nhà lãnh đạo.
Hiện tượng vi phạm pháp luật của người quản lý đất đai ở Việt Nam hiện nay
còn khá phổ biến, nhất là tham nhũng, tiêu cực, suy thoái về phẩm chất đạo đức
là tương đối nghiêm trọng. Các vi phạm pháp luật không giới hạn ở một lĩnh
vực, một ngành, một địa phương mà xảy ra trên phạm vi rộng, xảy ra ngay trong
bộ máy các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Trong năm năm qua, “1334 cán bộ các cấp đã bị khởi tố do tham nhũng
đất đai”(1). Tiêu cực đất đai là “địa chỉ nóng” cần đánh mạnh. Vừa qua hàng loạt
các vụ án lớn liên quan đến quản lý đất đai như vụ Đồ Sơn, Phú Quốc. Hiện
tượng Đồ Sơn không còn là cá biệt. Tuy mức độ cụ thể có thể khác nhau nhưng
chúng ta có thể khẳng định rằng không nơi nào không có hiện tượng tham nhũng
về đất đai, không có nơi nào cán bộ có chức, có quyền không được giao đất với
giá rẻ.
Luật đất đai 2003 ra đời lần đầu tiên đã quy định quyền khởi kiện vụ án
hành chính đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực
quản lý đất đai, quy định cụ thể việc xử lý vi phạm đối với trường hợp cán bộ
công chức nhà nước có hành vi vi phạm pháp luật đất đai hoặc vi phạm về thực
hiện trình tự, thủ tục hành chính trong quản lý và sử dụng đất.
Đồng thời, vấn đề xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai vẫn là vấn
đề khá mới mẻ đối với các công trình nghiên cứu. Trước đây, chủ yếu nghiên
cứu về xử lý vi phạm nói chung và xử lý vi phạm đối với người sử dụng đất.
1
“Hơn 1300 cán bộ bị khởi tố vì tham nhũng đất đai”
1
Chưa có công trình nghiên cứu nào đi sâu vào vấn đề xử lý vi phạm đối với
người quản lý đất đai.
Xuất phát từ những lý do trên, việc nghiên cứu đề tài “Các quy định của
pháp luật đất đai về xử lý vi phạm pháp luật đối với người quản lý đất đai”
trong bối cảnh hiện nay là hợp lý và cần thiết. Đã đến lúc quan cũng giống thứ
dân cần phải bị xử lý nghiêm minh. Nghiên cứu đề tài này cũng là cơ hội để tìm
hiểu sâu hơn về thực trạng quản lý đất đai ở nước ta cũng như việc xử lý vi
phạm đối với người quản lý nói riêng và tôi cũng hy vọng sẽ đóng góp được
những giải pháp hay để tháo gỡ phần nào những vướng mắc trong việc xử lý vi
phạm đối với người quản lý đất đai .
Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Vi phạm pháp luật đất đai được chia thành hai dạng cơ bản sau:
+ Vi phạm pháp luật trong quản lý đất đai.
+ Vi phạm pháp luật trong sử dụng đất đai.
Trong khoá luận này, tôi sẽ tập trung đi sâu nghiên cứu, khai thác về vi
phạm pháp luật đất đai của người quản lý đất đai.
Khoá luận bao gồm những nội dung sau:
- Những vấn đề lý luận về xử lý vi phạm và xử lý vi phạm đối với người
quản lý đất đai.
- Nghiên cứu thực trạng pháp luật đất đai về xử lý vi phạm đối với người
quản lý đất đai.
- Thực trạng vi phạm của người quản lý đất đai và xử lý vi phạm đối với
người quản lý đất đai, đồng thời tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến vi phạm và tình
trạng xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai chưa triệt để và nghiêm minh.
- Qua các vấn đề nghiên cứu trên, từ đó đưa ra các giải pháp, kiến nghị
nhằm ngăn ngừa và xử lý vi phạm nghiêm minh, triệt để đối với người quản lý
đất đai.
Cơ cấu khoá luận:
Chương I: Những vấn đề chung về vi phạm và xử lý vi phạm pháp luật đất
đai đối với người quản lý đất đai.
2
Chương II: Các quy định của pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật đất đai
đối với người quản lý.
Chương III: Một số kiến nghị góp phần áp dụng có hiệu quả và hoàn thiện
các quy định của pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực quản lý đất đai.
Phương pháp nghiên cứu:
Để giải quyết những vấn đề trên, người viết sử dụng phương pháp nghiên
cứu sau: phương pháp hệ thống hóa, phân tích, tổng hợp, so sánh.Với các
phương pháp nghiên cứu này tôi muốn làm rõ thực trạng pháp luật và thực trạng
áp dụng pháp luật trong việc xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai.
3
CHƯƠNG I:
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VI PHẠM VÀ XỬ LÝ VI PHẠM
PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI ĐỐI VỚI NGƯỜI QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
1.1.
VI PHẠM PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI CỦA NGƯỜI QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI:
1.1.1. Vi phạm pháp luật đất đai:
a- Khái niệm vi phạm pháp luật:
Theo từ điển Luật học, Nxb Từ điển bách khoa Hà Nội năm 1999, “vi
phạm” được hiểu là các việc sai trái nói chung.
Giáo trình lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật của khoa Luật trường
Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2001 định nghĩa: “vi phạm là một loại sự kiện
pháp lý đặc biệt, đó là hành vi do các chủ thể pháp luật thực hiện trái với các
yêu cầu của quy phạm pháp luật được pháp luật bảo vệ”.
Như vậy: Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật, có lỗi do chủ
thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại các quan hệ xã hội
được pháp luật bảo vệ.
b- Khái niệm vi phạm pháp luật đất đai:
Để giữ vững, duy trì sự hoạt động của bộ máy chính quyền bảo đảm sự
phát triển toàn diện về kinh tế, văn hóa, xã hội thì bất kỳ Nhà nước nào đều sử
dụng pháp luật như là một công cụ hữu hiệu nhất đảm bảo sự vận hành cho các
quan hệ xã hội trong một trật tự ổn định. Các quan hệ pháp luật đất đai cũng
không nằm ngoài quy luật đó. Để duy trì trật tự quản lý đất đai, đảm bảo đất đai
được sử dụng, khai thác có hiệu quả, bảo vệ quyền và lợi ích cho các chủ thể
thực hiện quan hệ, bảo đảm trật tự pháp chế trong lĩnh vực đất đai được tôn
trọng và chấp hành nghiêm chỉnh, Nhà nước đề ra các quy phạm pháp luật để
điều chỉnh những hành vi xử sự của các chủ thể trong từng mối quan hệ đất đai
cụ thể, buộc các chủ thể phải tuân theo những khuôn mẫu, những quy tắc cụ thể,
nghĩa là phải tuân theo sự điều chỉnh của pháp luật dưới hình thức xác lập quyền
và nghĩa vụ. Tuy nhiên, không phải lợi ích cá nhân và lợi ích của Nhà nước, xã
hội cũng luôn luôn đồng nhất. Trong một số trường hợp vì lợi ích cá nhân mà
4
một số chủ thể đã không tuân thủ thậm chí còn làm trái quy định của pháp luật
đất đai, đó chính là hiện tượng vi phạm pháp luật đất đai.
Các quan hệ pháp luật đất đai rất đa dạng về chủ thể, mục đích, về
phương thức thực hiện. Đó có thể là mối quan hệ giữa Nhà nước mà đại diện là
các cơ quan quản lý đất đai với các chủ thể sử dụng đất trong quá trình giao đất,
cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, thu hồi đất… Đó cũng có
thể là mối quan hệ giữa những chủ thể sử dụng đất với nhau trong các giao dịch
dân sự về đất đai. Trong quá trình thực hiện các mối quan hệ về đất đai các chủ
thể đã không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các quy định của pháp luật
đất đai hoặc thực hiện những điều pháp luật đất đai cấm, đó chính là các vi
phạm pháp luật đất đai.
Vi phạm pháp luật đất đai là hành vi trái pháp luật, được thực hiện
một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm tới quyền lợi của Nhà nước, với vai trò
là đại diện của chủ sở hữu, quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng
đất, cũng như các quy định về chế độ sử dụng các loại đất.
c- Dấu hiệu của vi phạm pháp luật đất đai:
Vi phạm pháp luật là hành vi (hành động hoặc không hành động) trái
pháp luật và có lỗi do chủ thể có trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại các
quan hệ xã hội được pháp luật xã hội chủ nghĩa bảo vệ. Vi phạm pháp luật có
bốn dấu hiệu sau: là hành vi xác định của con người, hành vi đó trái với các quy
định của pháp luật, chứa đựng lỗi của chủ thể thực hiện hành vi đó và chủ thể
thực hiện hành vi vi phạm pháp luật có năng lực chịu trách nhiệm pháp lý.
Khác với căn cứ truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với một hành vi vi
phạm trong các quan hệ xã hội khác, đối với một hành vi vi phạm pháp luật đất
đai , trong đa số các trường hợp chỉ cần hai dấu hiệu là hành vi trái pháp luật và
có lỗi là đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm pháp lý mà không cần phải có những
yếu tố như: có thiệt hại thực tế xảy ra, có mối quan hệ giữa hành vi và hậu quả.
Bởi vì, Luật đất đai điều chỉnh nhóm quan hệ xã hội phát sinh trực tiếp từ quan
hệ sở hữu, quản lý và sử dụng đất đai. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà
nước đại diện chủ sở hữu, mọi hành vi nhằm xâm hại đến quyền sở hữu đó đều
5
là những hành vi vi phạm pháp luật. Hơn nữa đất đai là tài sản đặc biệt không
mất đi sau khi sử dụng, thiệt hại do hành vi vi phạm gây ra không biểu hiện rõ
ràng nhưng để lại hậu quả nặng nề. Việc khắc phục hậu quả do hành vi vi phạm
gây ra hết sức khó khăn, phức tạp. Vì những lý do nêu trên mà không thể quy
định dấu hiệu có thiệt hại xảy ra và có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi
phạm và hậu quả xảy ra là dấu hiệu bắt buộc của một vi phạm pháp luật đất đai.
1.1.2. Vi phạm pháp luật của người quản lý đất đai:
a- Khái niệm vi phạm pháp luật của người quản lý đất đai:
Quan hệ pháp luật đất đai là mối quan hệ vô cùng phức tạp và nhạy cảm,
biến động từng ngày cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Tham gia
mối quan hệ này gồm có cơ quan quản lý đất đai và người sử dụng đất. Khi tham
gia mối quan hệ này, các chủ thể luôn hướng tới mục tiêu, lợi ích riêng. Theo
Hiến pháp nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam năm 1992: “Nhà nước
thống nhất quản lý đất đai theo quy hoạch, bảo đảm sử dụng đúng mục đích và
có hiệu quả.
Nhà nước giao đất cho các tổ chức, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài. Tổ
chức cá nhân có trách nhiệm bảo vệ, bồi bổ, khai thác hợp lý, sử dụng tiệt kiệm
đất, được chuyển quyền sử dụng đất được Nhà nước giao theo quy định của
pháp luật”.
Như vậy, cơ quan quản lý đất đai là đại diện của Nhà nước, thay mặt Nhà
nước để đảm bảo quyền sở hữu toàn dân về đất đai, đảm bảo quyền sử dụng đất
đúng theo quy định của pháp luật đất đai phát huy vai trò vô cùng quan trọng
của đất đai. Và tổ chức cá nhân cũng có trách nhiệm bảo vệ, sử dụng đất đai hợp
lý tuân thủ pháp luật đất đai. Tuy nhiên, trong quá trình tham gia mối quan hệ
này, trong một số trường hợp vì lợi ích trước mắt của bản thân mình mà có chủ
thể đã cố tình vi phạm pháp luật đất đai.
Vi phạm pháp luật đất đai của người quản lý đất đai là hành vi cố ý
hoặc vô ý của người quản lý đất đai vi phạm các quy định của pháp luật
phải chịu trách nhiệm kỷ luật, trong trường hợp hành vi có dấu hiệu cấu
6
thành tội phạm thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của
pháp luật.
b- Dấu hiệu của vi phạm pháp luật của người quản lý đất đai:
* Có hành vi trái pháp luật:
C.Mác đã nói: “Ngoài hành vi của mình ra tôi hoàn toàn không tồn tại
đối với pháp luật, hoàn toàn không phải là đối tượng của nó” (2) Pháp luật được
ban hành để điều chỉnh hành vi của con người. Hành vi trái pháp luật của người
quản lý đất đai là hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng những
quy định của pháp luật về quản lý đất đai. Theo lý luận chung về nhà nước và
pháp luật, vi phạm pháp luật trong quản lý đất đai không chỉ là hành vi xác định
của con người hoặc là hoạt động của cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội mà
hành vi đó phải trái với các quy định của pháp luật đất đai, xâm hại tới khách thể
được Luật đất đai bảo vệ và gây nguy hiểm hoặc có khả năng gây nguy hiểm
cho xã hội.
Hành vi đó có thể bằng hành động hoặc không hành động nhưng phải
được biểu hiện ra bên ngoài hiện thực khách quan, nghĩa là có thể nhìn thấy,
nghe thấy, nhận thức được hành động hay không hành động đó.
Một hành vi chỉ bị coi là trái pháp luật đất đai khi hành vi đó không phù
hợp hoặc trái ngược với các quy định của pháp luật đất đai.
Hành vi vi phạm pháp luật của người quản lý đất đai có thể là hành vi
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các quy định của pháp luật đất đai
trong quá trình thực hiện việc quản lý đất đai. Đây chính là điểm khác nhau cơ
bản giữa vi phạm pháp luật đất đai của người sử dụng đất và người quản lý đất
đai vì vi phạm pháp luật của người sử dụng đất là những hành vi trái pháp luật
đất đai trong quá trình sử dụng đất còn vi phạm pháp luật đất đai của người quản
lý là trong quá trình thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về đất đai.
Hành vi vi phạm pháp luật của người quản lý đất đai không thực hiện
những quy định của pháp luật đất đai như: không công bố hoặc chậm công bố
quy hoạch sử dụng đất chi tiết, kế hoạch sử dụng đất chi tiết đã được xét duyệt;
2
C.Mác – Ăng ghen, tuyển tập 1 NXB Sự thật năm 1980, trang 19
7
không thông báo cho người có đất bị thu hồi; không công khai phương án bồi
thường, tái định cư…
Hành vi vi phạm pháp luật của người quản lý đất đai thực hiện không
đúng những quy định của pháp luật đất đai như: cắm mốc chỉ giới quy hoạch sử
dụng đất chi tiết sai vị trí trên thực địa; giao đất, giao lại đất không đúng vị trí và
diện tích đất trên thực địa; thu hồi đất không đúng thẩm quyền, không đúng đối
tượng, không đúng quy hoạch sử dụng đất chi tiết, kế hoạch sử dụng đất chi tiết
đã được xét duyệt…
* Yếu tố lỗi:
Với một hành vi vi phạm của người quản lý đất đai, dấu hiệu hành vi trái
pháp luật chỉ là dấu hiệu bên ngoài. Để xem xét hành vi đó có là vi phạm pháp
luật đất đai hay không thì phải xem xét cả mặt chủ quan của hành vi, nghĩa là
xác định lỗi (xác định trạng thái tâm lý) của chủ thể quản lý đất đai khi thực hiện
hành vi trái pháp luật đó. Lỗi là yếu tố chủ quan thể hiện thái độ của chủ thể đối
với hành vi trái pháp luật của mình. Trong quy phạm pháp luật, Nhà nước đã
đưa ra trước những cách xử sự có tính khuôn mẫu mà chủ thể được phép hoặc
buộc phải lựa chọn khi ở vào hoàn cảnh, điều kiện đã được dự liệu. Và chủ thể
khi ở vào hoàn cảnh, điều kiện đã được Nhà nước dự liệu thì chỉ được phép hoặc
buộc phải lựa chọn cho mình cách xử sự phù hợp từ những cách xử sự mà quy
phạm pháp luật đã dự liệu cho những trường hợp đó. Các chủ thể pháp luật có lý
trí và tự do ý chí nhưng trong hoàn cảnh đó họ lại lựa chọn cách xử sự trái với ý
chí của Nhà nước do đó chủ thể đã có lỗi và phải chịu trách nhiệm về xử sự của mình.
Lỗi có thể là cố ý hoặc vô ý. Sẽ không bị coi là có lỗi nếu bản thân người
thực hiện hành vi vi phạm không nhận thức được hành vi của mình cũng như
hậu quả do hành vi gây ra. Xét yếu tố lỗi một cách chính xác sẽ xác định được
hình thức xử lý phù hợp nhất đối với một hành vi vi phạm.
c- Cấu thành của vi phạm pháp luật của người quản lý đất đai:
* Mặt khách quan:
Mặt khách quan của vi phạm pháp luật của người quản lý đất đai là những
biểu hiện ra bên ngoài của vi phạm pháp luật. Khác với căn cứ để truy cứu trách
8
nhiệm pháp lý đối với một hành vi vi phạm trong các loại quan hệ xã hội khác
thì đối với hành vi vi phạm pháp luật đất đai nói chung, với hành vi vi phạm của
người quản lý đất đai nói riêng trong đa số trường hợp không bắt buộc phải có
dấu hiệu hậu quả gây thiệt hại của hành vi và quan hệ nhân quả giữa hành vi và
hậu quả của nó. Nói cách khác chỉ cần tồn tại “dấu hiệu hình thức” của nó là đủ
căn cứ để áp dụng biện pháp xử lý hành chính. Ngoài ra còn có các dấu hiệu
như: thời gian, địa điểm, phương tiện vi phạm…
* Mặt chủ quan:
Mặt chủ quan của hành vi vi phạm pháp luật đất đai là những biểu hiện
tâm lý bên trong của chủ thể vi phạm pháp luật. Mặt chủ quan của hành vi vi
phạm pháp luật của người quản lý đất đai thể hiện ở yếu tố lỗi. Lỗi là dấu hiệu
bắt buộc của vi phạm pháp luật đất đai. Một hành vi trái pháp luật không đồng
nghĩa với vi phạm pháp luật nếu chưa xác định yếu tố lỗi. Hành vi vi phạm pháp
luật đất đai của người quản lý được thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý như: Cắm
mốc địa giới hành chính sai vị trí trên thực địa; thu hồi đất không đúng thẩm
quyền, không đúng đối tượng, không đúng quy hoạch sử dụng đất chi tiết đã
được xét duyệt…
* Chủ thể:
Chủ thể của vi phạm pháp luật là cá nhân hoặc tổ chức có năng lực chịu
trách nhiệm pháp lý. Chủ thể của vi phạm pháp luật đất đai chính là các chủ thể
có thẩm quyền trong việc quản lý đất đai như quy định trong Điều 166 Nghị
định 181 mà có hành vi vi phạm trong việc thực hiện chức năng quản lý đất đai.
* Khách thể:
Khách thể của vi phạm pháp luật là những quan hệ xã hội được pháp luật
bảo vệ nhưng bị hành vi vi phạm pháp luật xâm hại. Khách thể của vi phạm luật
do người quản lý đất đai thực hiện là những quan hệ đất đai được các quy phạm
pháp luật đất đai bảo vệ.
9
1.2. XỬ LÝ VI PHẠM ĐỐI VỚI NGƯỜI QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI:
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của xử lý vi phạm đối với người quản đất đai:
a- Khái niệm xử lý vi phạm đối với người quản đất đai:
Theo Điều 17 Hiến pháp nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
năm 1992 thì đất đai là thuộc sở hữu toàn dân và Nhà nước đóng vai trò là người
đại diện chủ sở hữu. Các cơ quan Nhà nước phải có trách nhiệm quản lý chặt
chẽ không để xảy ra các vi phạm pháp luật gây thiệt hại đến tài nguyên đất đai
và quyền của người sử dụng đất. Do đó, các cán bộ lợi dụng chức vụ, quyền hạn
làm trái với các quy định pháp luật đất đai, thiếu trách nhiệm trong quản lý đất
đai thì sẽ bị xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật.
Đồng thời, những cán bộ, công chức trong các cơ quan quản lý đất đai là
đại diện cho công lý và pháp luật, được nhân dân tín nhiệm và tin tưởng thì phải
thật sự gương mẫu để không phụ lòng nhân dân. Khi những cán bộ, công chức
này có hành vi vi phạm trong quản lý đất đai thì càng phải xử lý thích đáng,
đúng pháp luật.
Những cán bộ, công chức quản lý đất đai là những người nắm trong tay
quyền lực Nhà nước, được sử dụng quyền lực Nhà nước trong quá trình thực
hiện công vụ. Tuy nhiên, một số người lại lợi dụng quyền lực Nhà nước để làm
những việc trái pháp luật và có tính nguy hiểm rất cao, có thể gây ra những hậu
quả nghiêm trọng. Do đó xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai là vấn đề
nóng bỏng, đang được dư luận toàn xã hội quan tâm.
Theo giáo trình Luật đất đai 2005 của trường Đại học Luật Hà Nội: “Xử
lý vi phạm pháp luật đất đai là việc áp dụng các hình thức trách nhiệm pháp lý
đối với người vi phạm nhằm mục đích buộc họ phải gánh chịu những hậu quả
pháp lý do hành vi và hậu quả của hành vi vi phạm gây ra”.
Khi một tổ chức hay cá nhân thực hiện hành vi vi phạm pháp luật đất đai,
về nguyên tắc Nhà nước sẽ buộc họ phải gánh chịu những hậu quả bất lợi nhất
định. Trong khoa học pháp lý “trách nhiệm pháp lý” được hiểu là hậu quả bất lợi
(sự trừng phạt) đối với chủ thể vi phạm phạm pháp luật. Các quy phạm pháp luật
xác lập và điều chỉnh mối quan hệ giữa Nhà nước và chủ thể vi phạm, trong đó
10
chủ thể vi phạm pháp luật phải chịu những hậu quả bất lợi, những biện pháp
cưỡng chế được quy định ở chế tài các quy phạm pháp luật.(3)
Chỉ những cơ quan Nhà nước, nhà chức trách có thẩm quyền hay các chủ
thể được trao quyền thì mới có quyền truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với tổ
chức, cá nhân nào đó. Nó thể hiện ở việc các cơ quan Nhà nước, nhà chức trách
hay các chủ thể có thẩm quyền theo trình tự thủ tục luật định yêu cầu chủ thể bị
truy cứu trách nhiệm pháp lý giải thích rõ về hành vi vi phạm pháp luật đất đai
của mình và buộc các chủ thể vi phạm đó chịu những thiệt hại nhất định.
Xử lý vi phạm pháp luật là nhằm mục đích ngăn ngừa và trừng phạt
những hành vi vi phạm đồng thời giáo dục ý thức chấp hành pháp luật, bảo vệ
những quan hệ, những giá trị được pháp luật ghi nhận. Đó cũng là vấn đề có tính
quyết định để duy trì trật tự kỷ cương và nâng cao hiệu quả trong hoạt động
quản lý đất đai ở nước ta hiện nay.
Như vậy: Xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai là hoạt động
của các chủ thể có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện
hành về xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai, quyết định áp dụng
các biện pháp trách nhiệm kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với người quản lý đất đai nhằm đảm bảo duy trì trật tự, kỷ cương và nâng
cao hiệu quả trong hoạt động quản lý đất đai.
b- Đặc điểm của xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai:
Xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai có những đặc điểm chung
của xử lý vi phạm pháp luật nói chung và cũng có những đặc điểm riêng để giúp
ta phân biệt với vi phạm pháp luật khác, đặc biệt là đối với xử lý vi phạm hành
chính đối với người sử dụng đất vi phạm pháp luật đất đai.
Hoạt động xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai có những đặc điểm
cơ bản sau:
Thứ nhất, xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai chỉ được tiến hành
khi có hành vi vi phạm trong khi thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về đất
đai của cán bộ, công chức.
3
Giáo trình lý luận Nhà nước và pháp luật năm 2005 của trường Đại học luật Hà Nội
11
Cơ sở của trách nhiệm pháp lý của người quản lý đất đai chính là các vi
phạm pháp luật trong hoạt động công vụ. Không có vi phạm pháp luật thì không
được truy cứu trách nhiệm pháp lý. Như vậy, để thực hiện hoạt động xử lý vi
phạm đối với người quản lý đất đai thì trước hết phải xác định các vấn đề sau:
Đối tượng của xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai chỉ có thể là
những người thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về đất đai có hành vi vi
phạm như: lợi dụng chức vụ quyền hạn làm trái với các quy định của pháp luật
trong giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, thiếu trách nhiệm trong quản lý để xảy
ra vi phạm pháp luật đất đai hoặc có hành vi khác gây thiệt hại đến quyền và
nghĩa vụ của người sử dụng đất.
Các hành vi vi phạm của người quản lý đất đai phải là hành vi được thực
hiện trong khi thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về đất đai thường gắn với
lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ quyền hạn. Đây chính là những điểm khác biệt
đối với việc xử lý vi phạm hành chính đối với người sử dụng đất vi phạm pháp
luật đất đai bởi vì cơ sở của xử lý vi phạm hành chính là vi phạm hành chính
trong quá trình sử dụng đất và đối tượng xử lý chính là những người sử dụng
đất.
Thứ hai, xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai được thể hiện bằng
quyết định xử lý kỷ luật thực hiện theo quy định chung về phân cấp quản lý cán
bộ hoặc bản án hình sự của Tòa án nếu có hành vi cấu thành tội phạm.
Việc xử lý cán bộ công chức có hành vi vi phạm trong khi thực hiện chức
năng quản lý Nhà nước về đất đai do người đứng đầu cơ quan quản lý công chức
có hành vi vi phạm xử lý kỷ luật.
Nếu người đứng đầu cơ quan, đơn vị vi phạm kỷ luật thì người đứng đầu
cơ quan đơn vị quản lý cấp trên trực tiếp ra quyết định kỷ luật.
Đối với người quản lý có hành vi vi phạm đất đai đã bị xử lý kỷ luật mà
tái phạm hoặc gây hậu quả nghiêm trọng thì sẽ bị xử lý hình sự thể hiện qua bản
án hình sự. Hoạt động xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai phải tiến
hành theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định. Và kết quả của quá trình điều tra,
12
tìm hiểu được thể hiện bằng quyết định xử lý kỷ luật và bản án hình sự nếu có
dấu hiệu cấu thành tội phạm.
Khi tiến hành xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai cơ quan Nhà
nước, cán bộ Nhà nước có thầm quyền xử lý đều phải tuân theo trình tự, thủ tục
do pháp luật quy đinh. Trình tự xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai cũng
mang những nét đặc thù khác biệt so với thủ tục hành chính trong xử lý vi phạm
đối với người sử dụng đất. Trình tự xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai
sẽ tuân theo quy định tại Nghị định số 96/1998/NĐ-CP ngày 17/11/1998 của
Chính Phủ về chế độ thôi việc đối với cán bộ công chức và Nghị định số
97/1998/NĐ-CCP ngày 17/11/1998 của Chính Phủ về xử lý kỷ luật và trách
nhiệm vật chất đối với cán bộ công chức.
Đối với hành vi vi phạm có dấu hiệu cấu thành tội phạm thì sẽ tuân thủ
thủ tục tố tụng hình sự nói chung.
Trình tự áp dụng cưỡng chế kỷ luật và cưỡng chế hình sự phức tạp hơn so
với việc áp dụng trình tự hành chính trong xử lý vi phạm hành chính đối với
người sử dụng đất.
Thứ ba, xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai là hoạt động cưỡng
chế mang tính quyền lực Nhà nước.
Trách nhiệm pháp lý luôn gắn với những biện pháp cưỡng chế. Chủ thể vi
phạm pháp luật bị buộc phải thực hiện những biện pháp cưỡng chế được quy
định ở bộ phận chế tài của quy phạm pháp luật. Trách nhiệm pháp lý chính là
những hậu quả bất lợi đối với chủ thể vi phạm, do đó không một chủ thể nào lại
mong muốn hay tự nguyện chịu trách nhiệm pháp lý. Để đảm bảo pháp luật
được chấp hành nghiêm chỉnh, đảm bảo tính răn đe của pháp luật thì trong xử lý
vi phạm Nhà nước buộc phải sử dụng biện pháp cưỡng chế, buộc đối tượng phải
chấp hành vô điều kiện mà không có sự lựa chọn nào khác. Việc xử lý vi phạm
đối với người quản lý đất đai chỉ do các cơ quan Nhà Nước, cán bộ Nhà nước có
thẩm quyền nhân danh Nhà nước, được Nhà nước trao quyền tiến hành. Do đó,
xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai là hoạt động cưỡng chế mang tính
quyền lực Nhà nước.
13
Thứ tư, trong xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai thể hiện sự bình
đẳng trong các trách nhiệm pháp lý với công dân. Nếu công chức vi phạm pháp
luật đất đai thì cũng phải bị xử lý nghiêm khắc theo quy định của pháp luật. Hơn
thế, trong nhiều trường hợp họ phải chịu trách nhiệm pháp lý nặng hơn so với
công dân không phải công chức. Và trong xử lý vi phạm đối với người quản lý
đất đai công chức lãnh đạo phải chịu trách nhiệm liên đới về hành vi vi phạm
pháp luật của công chức thuộc quyền quản lý.
1.2.2. Yêu cầu đối với pháp luật về xử lý vi phạm đối với người quản lý đất
đai.
- Xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai phải thể hiện được bản chất
Nhà nước của dân, do dân, vì dân, phải thể hiện công chức là công bộc của nhân
dân.
- Xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai phải bảo đảm sự bình đẳng
trước pháp luật giữa cán bộ, công chức quản lý và người sử dụng đất khi vi
phạm pháp luật.
- Xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai phải hướng tới bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đấu tranh không khoan nhượng với
những biểu hiện độc đoán, chuyên quyền, quan liêu, cửa quyền, tham nhũng và
sách nhiễu của đội ngũ cán bộ, công chức quản lý đất đai.
- Xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai phải mang tính khả thi và
được đảm bảo thực hiện trên thực tế.
- Việc xây dựng chế định về xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai
cần được sự tham gia, đóng góp của rộng rãi nhân dân.
- Xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai phải đảm bảo tính công
khai, minh bạch, dễ tiếp cận.
1.2.3. Các hình thức xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai:
Theo nguyên tắc mọi vi phạm pháp luật phải được phát hiện, đình chỉ, xử
lý kịp thời, việc xử lý kỷ luật và trách nhiệm vật chất phải được tiến hành nhanh
chóng, công minh, triệt để; mọi hậu quả do vi phạm gây ra phải được khắc phục
theo quy định của pháp luật thì việc xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai
14
phải được tiến hành theo đúng trình tự và nguyên tắc mà pháp luật quy định.
Tuỳ theo tính chất, mức độ của từng loại vi phạm mà người quản lý đất đai có
hành vi vi phạm sẽ phải chịu những hình thức trách nhiệm như: trách nhiệm kỷ
luật, trách nhiệm hình sự và trách nhiệm dân sự.
a- Trách nhiệm kỷ luật:
Trách nhiệm kỷ luật là hình thức trách nhiệm cơ bản nhất của cán bộ,
công chức trong hoạt động công vụ. Cơ sở của trách nhiệm kỷ luật là vi phạm kỷ
luật. Hình thức xử lý kỷ luật đối với người quản lý đất đai được quy định tại
Khoản 1 Điều 168 Nghị định 181.
* Đối tượng chịu trách nhiệm kỷ luật:
Đối tượng bị chịu trách nhiệm kỷ luật là những người thực hiện chức năng
quản lý Nhà nước về đất đai có hành vi vi phạm như: lợi dụng chức vụ quyền
hạn, làm trái với các quy định của pháp luật trong giao đất, cho thuê đất, thu hồi
đất, chuyển quyền sử dụng đất, chuyển mục đích sử dụng đất, thực hiện quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất, xác định nghĩa vụ tài chính về đất đai, quản lý hồ
sơ địa chính, ra quyết định hành chính trong quản lý đất đai hoặc có hành vi
khác gây thiệt hại đến tài nguyên đất đai, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng
đất. Đó là những hành vi vi phạm nhưng ở mức độ nhẹ, chưa đến mức phải truy
cứu trách nhiệm hình sự, xảy ra khi thực hiện chức năng quản lý đất đai, vi
phạm ý thức tổ chức kỷ luật của các cán bộ, công chức Nhà nước.
* Thẩm quyền áp dụng trách nhiệm kỷ luật:
Chủ thể áp dụng trách nhiệm kỷ luật là thủ trưởng cơ quan, đơn vị nơi có
công chức vi phạm. Nếu người đứng đầu dơ quan, đơn vị vi phạm kỷ luật thì
người đứng đầu cơ quan đơn vị quản lý cấp trên trực tiếp ra quyết định kỷ luật.
Giữa chủ thể áp dụng và người vi phạm có quan hệ trực thuộc về tổ chức.
Việc xử lý kỷ luật đối với người quản lý đất đai thông qua việc thành lập
hội đồng kỷ luật. Người đứng đầu cơ quan quản lý công chức có hành vi vi
phạm ra quyết định kỷ luật sau khi có quyết nghị, biên bản và các hồ sơ, tài liệu
có liên quan của hội đồng kỷ luật.
15
* Hình thức kỷ luật:
Người quản lý đất đai vi phạm kỷ luật thì tuỳ theo mức độ vi phạm phải
gánh chịu một trong những biện pháp kỷ luật sau:
- Khiển trách: là hình thức kỷ luật áp dụng với người quản lý đất đai có
hành vi vi phạm lần đầu, ở mức độ nhẹ.
- Cảnh cáo: được áp dụng đối với người quản lý đất đai đã bị khiển trách
về hành vi vi phạm pháp luật đất đai mà còn tái phạm hoặc vi phạm ở mức độ
nhẹ nhưng khuyết điểm có tính chất thường xuyên hoặc tuy mới vi phạm lần đầu
nhưng có tính chất tương đối nghiêm trọng.
- Hạ bậc lương: áp dụng đối với người quản lý đất đai có hành vi vi phạm
nghiêm trọng trong khi thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về đất đai.
- Hạ ngạch: áp dụng đối với người quản lý đất đai có hành vi vi phạm
nghiêm trọng, xét thấy không đủ phẩm chất đạo đức và tiêu chuẩn nghiệp vụ
chuyên môn của ngạch đang đảm nhiệm.
- Cách chức: áp dụng đối với người quản lý đất đai có chức vụ mà hành vi
vi phạm pháp luật nghiêm trọng xét thấy không thể tiếp tục đảm nhận chức vụ
được giao.
-Buộc thôi việc: đây là hình thức kỷ luật nặng nhất áp dụng đối với người
quản lý đất đai khi có hành vi vi phạm nghiêm trọng pháp luật đất đai.
b- Trách nhiệm hình sự:
Trách nhiệm hình sự là trách nhiệm nghiêm khắc nhất trong các loại trách
nhiệm pháp lý. Cơ sở pháp lý của truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người
quản lý đất đai là Điều 138 Luật đất đai và Điều 174 Bộ luật hình sự.
* Đối tượng chịu trách nhiệm hình sự:
Trách nhiệm hình sự được áp dụng đối với người quản lý đất đai thực
hiện hành vi phạm tội trong khi thi hành công vụ hoặc đã bị xử lý kỷ luật mà
còn vi phạm hoặc vi phạm gây hậu quả nghiêm trọng.
* Thẩm quyền áp dụng trách nhiệm hình sự:
Các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ áp dụng trách nhiệm hình sự đối với
người có hành vi vi phạm pháp luật đất đai bị coi là tội phạm theo quy định của
16
Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự . Viện kiểm sát nhân dân sẽ truy tố
trước tòa và Tòa án xét xử theo quy định của pháp luật hình sự.
* Khung hình phạt được áp dụng:
Đối với tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai, pháp luật quy định
hai khung hình phạt:
- Khung hình phạt thứ nhất, (Khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự): Phạt cải
tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm áp dụng đối
với người phạm tội có hành vi lợi dụng chức vụ hoặc lạm dụng chức vụ quyền
hạn giao đất, thu hồi đất, cho thuê, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái
pháp luật, đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm.
- Khung hình phải thứ hai, ( Khoản 2 Điều 174): Phạt tù từ 2 năm đến 7
năm áp dụng cho người phạm tội trong trường hợp đất có diện tích lớn hoặc có
giá trị lớn, phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng.
Ngoài hai khung hình phạt trên, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ
5 đến 50 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công
việc nhất định từ 1 đến 5 năm.
c-Trách nhiệm dân sự:
Cở sở của trách nhiệm vật chất áp dụng đối với người quản lý đất đai là
sự thực hiện hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động công vụ, gây thiệt hại tài
sản cho Nhà nước hoặc công dân. Vấn đề này được quy định tại Điều 142 Luật
đất đai và Khoản 2 Điều 168 Nghị định 181. Theo đó, người quản lý Nhà nước
về đất đai mà có hành vi vi phạm gây thiệt hại cho Nhà nước, cho người khác thì
còn phải buộc bồi thường cho Nhà nước, cho người bị thiệt hại do hành vi vi
phạm gây ra và buộc hoàn trả cho cơ quan, tổ chức khoản tiền mà cơ quan, tổ
chức đã bồi thường cho người bị thiệt hại.
* Đối tượng chịu trách nhiệm dân sự:
Là người có trách nhiệm quản lý đất đai có hành vi vi phạm pháp luật đất
đai gây thiệt hại cho Nhà nước, người khác.
17
* Nguyên tắc xử lý:
Việc bồi thường thiệt hại trong trách nhiệm dân sự được áp dụng theo
nguyên tắc ngang giá, toàn bộ và kịp thời. Nghĩa là người gây thiệt hại tới đâu
thì phải bồi thường đến đó, việc bồi thường phải đầy đủ và thực hiện nhanh
chóng. Khác với các hình thức trách nhiệm khác, trong trách nhiệm dân sự có
một đặc điểm nổi bật là các bên có thể tự thỏa thuận với nhau về việc bồi thường
thiệt hại. Nếu không thỏa thuận được về mức bồi thường thiệt hại thì bên bị thiệt
hại có quyền khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết.
Trên đây là các hình thức xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai.
Tuy nhiên, khi quyết định các biện pháp xử lý đối với hành vi vi phạm trên cơ
sở quy định của pháp luật còn phải căn cứ vào thái độ, ý thức chấp hành pháp
luật và trình độ hiểu biết pháp luật của người vi phạm để giải quyết. Thông qua
đó mà tăng cường tình giáo dục, thuyết phục, tính cưỡng chế của pháp luật đối
với các quan hệ pháp luật đất đai.
18
CHƯƠNG II
CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM
PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI ĐỐI VỚI NGƯỜI QUẢN LÝ.
2.1. CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM ĐỐI VỚI
NGƯỜI QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI:
2.1.1. Nguyên tắc xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai:
Việc đưa ra những nguyên tắc có tính định hướng trong xử lý vi phạm đối
với người quản lý đất đai có vai trò rất quan trọng góp phần không nhỏ trong
quá trình xử lý vi phạm. Vì vậy, khi xây dựng pháp luật đất đai Nhà nước đã rất
chú trọng vấn đề này. Cụ thể được quy định tại Điều 167 Nghị định 181:
- Mọi vi phạm phải được phát hiện, đình chỉ, xử lý kịp thời. Việc xử lý kỷ
luật và trách nhiệm vật chất phải được tiến hành nhanh chóng, công minh, triệt
để, mọi hậu quả do vi phạm gây ra phải được khắc phục theo quy định của pháp
luật.
- Hình thức kỷ luật được áp dụng độc lập, biện pháp xử lý trách nhiệm vật
chất được áp dụng kèm theo hình thức kỷ luật đối với những hành vi vi phạm có
quy định biện pháp xử lý trách nhiệm vật chất.
Hình thức, mức độ kỷ luật được xác định căn cứ vào tính chất, mức độ,
hậu quả của hành vi vi phạm, nhân thân người có hành vi vi phạm.
- Các hành vi vi phạm pháp luật về đất đai của cán bộ, công chức khi thực
hiện công vụ có liên quan đến quản lý đất đai mà không thuộc các trường hợp
quy định tại Mục 2 của Chương XIII Nghị định 181 thì bị xử lý kỷ luật và trách
nhiệm vật chất theo quy định của pháp luật có liên quan.
- Việc xử lý kỷ luật và trách nhiệm vật chất phải do người có thẩm quyền
quyết định.
- Một hành vi vi phạm chỉ áp dụng một hình thức kỷ luật. Nhiều người
cùng thực hiện một hành vi vi phạm thì từng người vi phạm đều phải bị xử lý.
Một người cùng một lúc thực hiện nhiều hành vi vi phạm thì bị xử lý về từng
19
hành vi vi phạm và chịu hình thức kỷ luật cao hơn một mức so với hình thức kỷ
luật tương ứng với hành vi vi phạm nặng nhất.
- Thời hạn xử lý kỷ luật trong lĩnh vực quản lý đất đai là ba tháng kể từ
ngày phát hiện ra hành vi vi phạm; trường hợp hành vi vi phạm có những tình
tiết phức tạp cần có thời gian để thẩm tra, xác minh thì thời hạn được xem xét
kéo dài nhưng không quá sáu tháng, trừ trường hợp quy định tại Khoản 4 Điều 9
Nghị định 97/1998/NĐ-CP ngày 17 thàng 11 năm 1998 của Chính phủ về xử lý
kỷ luật và trách nhiệm vật chất đối với công chức.
Trong thời hạn xử lý kỷ luật mà cá nhân có hành vi vi phạm mới thuộc
các hành vi quy định trong Nghị định 181 hoặc cố tình trốn tránh, cản trở việc
xử lý kỷ luật thì thời hạn được tính lại kể từ ngày phát hiện hành vi vi phạm mới
hoặc từ ngày chấm dứt hành vi cố tình trốn tránh, cản trở việc xử lý kỷ luật.
- Trường hợp hành vi vi phạm có dấu hiệu cấu thành tội phạm thì bị truy
cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự.
Trong quá trình xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai, những
nguyên tắc trên được quán triệt một cách đầy đủ, thống nhất sẽ giúp cho hoạt
động của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, người có thẩm quyền xử lý vi
phạm được triệt để, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật đất đai. Mặt khác,
thông qua những nguyên tắc này cũng là cơ chế đảm bảo sự xử lý công bằng,
đúng pháp luật, hạn chế sự lạm quyền hoặc bao che, dung túng của các cơ quan
chức năng trong quá trình thực thi nhiệm vụ.
2.1.2. Đối tượng bị xử lý vi phạm:
Đối tượng bị xử lý vi phạm trong hoạt động xử lý vi phạm đối với người
quản lý đất đai chính là những người có chức vụ, quyền hạn trong hoạt động
quản lý đất đai như cán bộ công chức làm việc ở Uỷ ban nhân dân (UBND) các
cấp, cán bộ thuộc các cơ quan Tài nguyên và Môi trường, cán bộ địa chính…
Điều 141 Luật đất đai 2003 đã có quy định chung về đối tượng bị xử lý vi
phạm: “Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái với quy định của pháp
luật trong giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất,
chuyển quyền sử dụng dất, thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, xác định
20
nghĩa vụ tài chính về đất đai, quản lý hồ sơ địa chính, ra quyết định hành chính
trong quản lý đất đai; thiếu trách nhiệm trong quản lý để xảy ra vi phạm pháp
luật về đất đai hoặc có hành vi khác gậy thiệt hại đến tài nguyên đất đai, quyền
và nghĩa vụ của người sử dụng đất thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị
xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật”.
Như vậy, để xác định có phải là đối tượng bị xử lý vi phạm trong hoạt
động quản lý đất đai hay không phải xem xét những dấu hiệu sau:
- Có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn: Những người quản lý vi phạm
phải là những người nắm trong tay quyền lực Nhà nước và trong quá trình thực
thi nhiệm vụ họ đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để thực hiện hành vi
vi phạm.
- Làm trái với các quy định của pháp luật đất đai: Làm trái có nghĩa là
pháp luật quy định phải thực hiện một số hành vi nhất định nhưng không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng với quy định của pháp luật. Trong hoạt động
quản lý đất đai, người quản lý đã làm trái với các quy định của pháp luật trong
giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất, chuyển quyền
sử dụng, thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, xác định nhiệm vụ tài
chính về đất đai, quản lý hồ sơ địa chính, ra quyết định hành chính trong quản lý
đất đai. Do đó, họ phải chịu trách nhiệm về hành vi sai trái của mình.
- Thiếu trách nhiệm trọng quản lý đất đai để xảy ra vi phạm pháp luật về
đất đai. Cán bộ, công chức Nhà nước hưởng lương từ ngân sách Nhà nước và có
nhiệm vụ nhất định trong quản lý Nhà nước và như vậy nếu họ thiếu trách nhiệm
trọng công việc của mình thì đương nhiên họ phải chịu trách nhiệm về hành vi
của mình.
- Có hành vi khác gây thiệt hại đối với tài nguyên đất đai, quyền và nghĩa
vụ của người sử dụng đất.
Trên đây chính là những dấu hiệu chung nhất về hành vi vi phạm pháp
luật đất đai của người quản lý. Những cán bộ, công chức có những hành vi trên
sẽ bị xử lý theo đúng pháp luật. Nhưng cụ thể đối tượng bị xử lý vi phạm là ai?
Điều 166 Nghị định 181 đã quy định cụ thể về đối tượng bị xử lý vi phạm:
21
- Người đứng đầu tổ chức, thủ trưởng cơ quan có thẩm quyền quyết định
về quản lý đất đai mà có hành vi vi phạm pháp luật về đất đai.
- Cán bộ, công chức thuộc cơ quan quản lý đất đai các cấp và cán bộ địa
chính xã, phường, thị trấn có hành vi vi phạm các quy định về trình tự, thủ tục
hành chính trong quản lý đất đai.
- Người đứng đầu, cán bộ, công chức, viên chức, nhân viên của tổ chức
được Nhà nước giao để quản lý trong các trường hợp sau mà có hành vi vi phạm
pháp luật về đất đai đối với đất được giao để quản lý:
+ Tổ chức được giao quản lý các công trình công cộng mà Nhà nước giao
đất để quản lý mà không cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
+ Tổ chức kinh tế được giao quản lý diện tích đất để thực hiện các dự án
đầu tư theo hình thức xây dựng - chuyển giao (BT).
+ Tổ chức phát triển quỹ đất được giao quản lý quỹ đất đã thu hồi theo
quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Hệ thống tổ chức của các cơ quan Nhà nước và các tổ chức quản lý đất
đai được thiết lập theo một mô hình thống nhất hợp lý với sự phối hợp chặt chẽ
trong hoạt động của người đứng đầu tổ chức, thủ trưởng cơ quan và các cán bộ,
công chức dưới quyền. Bất kể là thủ trưởng hay nhân viên mà có hành vi vi
phạm pháp luật đều phải bị xử lý nghiêm minh. Hơn nữa, cán bộ lãnh đạo phải
chịu trách nhiệm liên đới về hành vi vi phạm pháp luật của công chức thuộc
quyền quản lý. Vì vậy pháp luật đất đai cần quy định cụ thể hơn nữa về vấn đề
chịu trách nhiệm liên đới giữa người lãnh đạo và cán bộ, công chức dưới quyền
để tăng sự giám sát lẫn nhau, nâng cao trách nhiệm của người lãnh đạo trong
quá trình điều hành công việc.
2.1.3. Các hành vi vi phạm của người quản lý đất đai và biện pháp xử lý:
Trong những năm qua, Nhà nước ta đã không ngừng xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật đất đai trong đó có chế định về xử lý vi phạm đối với
người quản lý đất đai. Để khắc phục tình trạng yếu kém trong quản lý đất đai,
chống tiêu cực, tham nhũng và các hành vi vi phạm pháp luật khác của cán bộ,
công chức có thẩm quyền trong quản lý Nhà nước về đất đai, Luật đất đai 2003
22
đã quy định cụ thể, chi tiết những hành vi vi phạm của người quản lý đất đai và
biện pháp xử lý. Nếu như ở Luật đất đai 1993 chỉ quy định duy nhất ở Điều 86
về xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai thì nay Luật đất đai 2003 và Nghị
định 181 về thi hành luật đất đai đã quy định chi tiết, cụ thể hơn nhiều.
Hệ thống cơ quan quản lý đất đai ngày càng được kiện toàn với sự xuất
hiện của cơ quan, tổ chức mới. Mỗi cơ quan, tổ chức, mỗi cán bộ quản lý mới
được đảm nhiệm chức trách riêng và kéo theo đó hành vi vi phạm của người
quản lý đất đai cũng rất đa dạng và phức tạp. Nghị định 181 đã dành riêng Mục
2 Chương XIII quy định về các hành vi vi phạm và hình thức xử lý vi phạm đối
với người quản lý đất đai. Đó là những hành vi sau:
a- Vi phạm quy định về hồ sơ và mốc giới địa giới hành chính. (Điều 169)
Vi phạm về hồ sơ và mốc địa giới hành chính bao gồm các hành vi sau:
Làm sai lệch sơ đồ vị trí, bảng tọa độ, biên bản bàn giao mốc địa giới hành
chính; cắm mốc địa giới hành chính sai vị trí trên thực địa.
Với những hành vi trên hình thức trách nhiệm kỷ luật được áp dụng là: có
hành vi làm sai lệch sơ đồ vị trí, bảng tọa độ, biên bản bàn giao mốc địa giới
hành chính do thiếu trách nhiệm thì bị khiển trách, tái phạm do thiếu trách
nhiệm thì bị cảnh cáo; cố ý thì bị hạ bậc lương; tái phạm do cố ý thì hạ ngạch.
Có hành vi cắm mốc địa giới hành chính sai vị trí trên thực địa do thiếu trách
nhiệm thì bị cảnh cáo, tái phạm do thiếu trách nhiệm thì bị hạ bậc lương; cố ý thì
bị hạ ngạch; tái phạm do cố ý thì bị cách chức hoặc thôi việc.
b- Vi phạm quy định về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.(Điều 170)
Vi phạm quy định về quy hoạch sử dụng đất bao gồm các hành vi sau:
Không công bố hoặc chậm công bố quy hoạch sử dụng đất chi tiết, kế
hoạch sử dụng đất chi tiết đã được xét duyệt; không công bố hoặc chậm công bố
việc điều chỉnh hoặc hủy bỏ kế hoạch sử dụng đất; làm mất, làm sai lệch bản đồ
quy hoạch sử dụng đất chi tiết. Nếu có hành vi trên do thiếu trách nhiệm thì bị
khiển trách, tái phạm do thiếu trách nhiệm thì bị cảnh cáo; cố ý thì bị hạ bậc
lương; tái phạm do cố ý thì bị hạ ngạch hoặc cách chức.
23
Cắm mốc chỉ giới quy hoạch sử dụng đất chi tiết sai vị trí trên thực địa; để
xảy ra việc xây dựng, đầu tư bất động sản trái quy hoạch sử dụng đất chi tiết, kế
hoạch sử dụng đất chi tiết trong khu vực đất phải thu hồi để thực hiện quy hoạch
sử dụng đất chi tiết, kế hoạch sử dụng đất chi tiết đã được xét duyệt. Có hành vi
này do thiếu trách nhiệm thì bị khiển trách hoặc cảnh cáo, tái phạm do thiếu
trách nhiệm thì bị cảnh cáo hoặc hạ bậc lương; tái phạm do cố ý thì bị hạ ngạch
hoặc cách chức; tái phạm do cố ý thì bị cách chức hoặc buộc thôi việc.
c- Vi phạm quy định về giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử
dụng đất. (Điều 171)
Vi phạm quy định về giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất
bao gồm những hành vi sau:
Nếu có hành vi giao đất, giao lại đất, cho thuê đất không đúng vị trí và
diện tích đất trên thực địa do thiếu trách nhiệm thì bị cảnh cáo; tái phạm do thiếu
trách nhiệm thì bị hạ bậc lương; cố ý thì bị hạ ngạch hoặc cách chức, tái phạm
do cố ý thì bị cách chức hoặc buộc thôi việc.
Hành vi giao đất, giao lại đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử
dụng đất không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng, không phù hợp với
quy hoạch sử dụng đất chi tiết hoặc quy hoạch xây dựng đô thị, quy hoạch xây
dựng điểm dân cư nông thôn đã được xét duyệt. Nếu có hành vi này do thiếu
trách nhiệm thì bị cảnh cáo hoặc hạ bậc lương; tái phạm do thiếu trách nhiệm thì
bị hạ ngạch hoặc cách chức; do cố ý thì bị cách chức; tái phạm do cố ý thì bị
buộc thôi việc.
d- Vi phạm quy định về thu hồi đất. (Điều 172)
Khi tiến hành thu hồi đất mà không thông báo trước cho người có đất bị
thu hồi theo quy định của Luật đất đai; không công khai phương án bồi thường,
tái định cư do thiếu trách nhiệm thì bị khiển trách, tái phạm do thiếu trách nhiệm
thì bị cảnh cáo, cố ý thì bị hạ bậc lương; tái phạm do cố ý thì bị hạ ngạch.
Nếu có hành vi thực hiện bồi thường không đúng đối tượng, diện tích,
mức bồi thường cho người có đất bị thu hồi; làm sai lệch hồ sơ thu đất; xác định
sai vị trí diện tích đất bị thu hồi trên thực địa do thiếu trách nhiệm thì bị khiển
24
trách hoặc cảnh cáo, tái phạm do thiếu trách nhiệm thì bị cảnh cáo hoặc hạ bậc
lương; cố ý thị bị hạ ngạch hoặc cách chức, tái phạm do cố ý thì bị cách chức
hoặc buộc thôi việc.
Việc thu hồi đất không đúng thẩm quyền; không đúng đối tượng; không
đúng với quy hoạch sử dụng đất chi tiết, kế hoạch sử dụng đất chi tiết đã được
xét duyệt do thiếu trách nhiệm thì bị cảnh cáo hoặc hạ bậc lương; tái phạm do
thiếu trách nhiệm thì bị cảnh cáo hoặc hạ ngạch; cố ý thì bị hạ ngạch hoặc cách
chức, tái phạm do cố ý thì bị buộc thôi việc.
e- Vi phạm quy định về trưng dụng đất. (Điều 173)
Trường hợp thực hiện bồi thường không đúng đối tượng, diện tích, mức
bồi thường, thời hạn bồi thường cho người có đất bị trưng dụng do thiếu trách
nhiệm thì bị khiển trách, tái phạm do thiếu trách nhiệm thì bị cảnh cáo; cố ý thì
bị hạ bậc lương, tái phạm do cố ý thì bị hạ ngạch hoặc cách chức.
Nếu trưng dụng đất không đúng các trường hợp bị trưng dụng theo Luật
đất đai do thiếu trách nhiệm thì bị hạ bậc lương; cố ý thì bị hạ ngạch; tái phạm
do cố ý thì bị cách chức hoặc buộc thôi việc.
f- Vi phạm quy định về quản lý đất được Nhà nước giao để quản lý.
(Điều 174)
Để xảy ra tình trạng người được pháp luật cho phép sử dụng đất tạm thời
mà sử dụng sai mục đích thì bị khiển trách hoặc cảnh cáo; tái phạm thì bị hạ bậc
lương.
Sử dụng đất sai mục đích thì bị cảnh cáo; tái phạm thì bị hạ ngạch hoặc
cách chức.
Để đất bị lấn chiếm, bị thất thoát thì bị cảnh cáo hoặc hạ bậc lương; tái
phạm thì bị hạ ngạch hoặc cách chức.
g- Vi phạm quy định về thực hiện trình tự, thủ tục hành chính trong quản
lý và sử dụng đất. (Điều 175)
Luật đất đai 2003 đã quy định rất cụ thể chỉ tiết về các hành vi vi phạm
trong việc thực hiện trình tự, thủ tục hành chính trong quản lý đất đai. Bao gồm
những hành vi sau: không nhận hồ sơ đã hợp lệ, đầy đủ, không hướng dẫn cụ thể
25