Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

Một số vấn đề pháp lí cơ bản của luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (311.81 KB, 61 trang )

Khoá luận tốt nghiệp

1

Phan Thị Vân - QT28A

lời NóI ĐầU
1 Tính cấp thiết của đề tài
Trước xu hướng chung của sự phát triển quốc tế là khu vực hóa, toàn cầu
hoá nền kinh tế thế giới, Việt Nam cũng như các nước khác đang bước nhanh vào
tiến trình hội nhập. Quan hệ giữa các quốc gia di ễn ra trong đi ều ki ện h ết s ức đa
dạng, khác biệt về bản sắc văn hóa cùng các điều kiện về chính trị, kinh tế, xã
hội. Hình thành và phát triển trong đi ều kiện quan h ệ qu ốc t ế đó, Đi ều ước qu ốc
tế có chức năng duy trì và ổn định tương đối trật tự pháp lý quốc tế, giữ gìn quan
hệ bình đẳng giữa các quốc gia, bảo đảm hài hòa lợi ích chung của cộng đồng v à
lợi ích quốc gia, đồng thời bảo đảm các nguyên tắc cơ bản c ủa lu ật qu ốc t ế được
thực thi và tuân thủ.
Nhận thức được rõ vai trò của điều ước quốc tế trong thời kì các quốc gia
trên thế giới đã chuyển từ đối đầu sang đối thoại và hợp tác, chúng ta cũng nhìn
nhận được tầm quan trọng của vấn đề ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc
tế đối với thế giới nói chung và với Việt Nam nói riêng. Việt Nam – một quốc gia
nhỏ, đang phát triển, tiếng nói chưa có sức nặng trên trường quốc tế thì việc làm
sao để khi ký kết, thực hiện điều ước quốc tế vừa phù hợp xu hướng quốc tế
chung, vừa đảm bảo lợi ích quốc gia là rất quan trọng. Do đó, vấn đề ký kết, gia
nhập và thực hiện điều ước quốc tế đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay đặt
ra rất cấp thiết. Đây cũng là lí do vì sao tôi chọn đề tài: “Một số vấn đề pháp lí
cơ bản của luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế” làm đề tài
khóa luận tốt nghiệp của mình.
2 Mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn
Bài khóa luận này tập trung làm sáng tỏ các vấn đề cơ bản về điều ước
quốc tế của luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế 2005 trong tương


quan với hệ thống pháp luật Việt Nam và Luật điều ước quốc tế (Công ước Viên
1969).
Phân tích những qui định của pháp luật hiện hành và thực tiễn kí kết, gia nhập và
thực hiện điều ước quốc tế tại Việt Nam. Đưa ra những nhận xét, đánh giá cũng
như một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn nữa việc ký kết, thực hiện điều ước
quốc tế trong bối cảnh hội nhập trước mắt cũng như trong tương lai.


Khoá luận tốt nghiệp

2

Phan Thị Vân - QT28A

3 Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng một số phương pháp cụ thể như: phân tích,
tổng hợp, đối chiếu so sánh, kết hợp lý luận và thực tiễn.
4 Nội dung của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của luận văn bao gồm 3 chương:
- Chương 1: Những vấn đề cơ bản về luật điều ước quốc tế và sơ lược quá
trình phát triển của các qui định về ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước
quốc tế.
- Chương 2: Các qui định cơ bản của pháp luật Việt Nam về ký kết, gia nhập
và thực hiện điều ước quốc tế.
- Chương 3: Sự tương thích của luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước
quốc tế 2005 với Công ước Viên 1969 về luật điều ước quốc tế. Thực trạng
ký kết, thực hiện và một vài kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật điều ước
quốc tế ở Việt Nam.


Chương 1


Khoá luận tốt nghiệp

3

Phan Thị Vân - QT28A

những vấn đề cơ bản về luật điều ước quốc tế (ĐƯQT) và
sơ lược quá trình phát triển của các quy định về ký kết, gia nhập và thực hiện
ĐƯQT
1.1 Một số vấn đề cơ bản về luật điều ước quốc tế

Ngày 23/5/1969 Liên hợp quốc thông qua công ước Viên 1969 về luật
ĐƯQT ký kết giữa các quốc gia (gọi tắt là công ước Viên 1969) có hiệu l ực
27/1/1980. Tuy không phải là khung pháp lý duy nhất đi ều chỉnh quan h ệ ký k ết
và thực hiện ĐƯQT phát sinh giữa các chủ thể luật quốc tế với nhau nh ưng công
ước này đã có một sự bao trùm lớn các vấn đề quan tr ọng trong l ĩnh v ực n ày.
Công ước không chỉ là kết quả của quá trình pháp điển hoá thành công các quy
phạm của luật tập quán quốc tế về ký kết và thực hiện ĐƯQT m à còn xây dựng
được khung pháp lý quốc tế cơ bản điều chỉnh hiệu quả quan hệ ký kết và thực
hiện ĐƯQT phát sinh giữa các quốc gia - chủ thể cơ bản của luật quốc tế. S ự ra
đời của công ước Viên 1969 cùng với sự ra đời của Công ước Viên 1986 về luật
ĐƯQT giữa các quốc gia và tổ chức quốc tế hoặc giữa các tổ ch ức qu ốc t ế v ới
nhau (gọi tắt là Công ước Viên 1986) đã thúc đẩy việc sử dụng ĐƯQT làm công
cụ pháp lý điều chỉnh mối quan hệ hợp tác giữa các quốc gia trên thế giới ngày
một rộng rãi. Hơn nữa, Công ước Viên 1969 là cơ sở pháp lý quan trọng để xác
định nghĩa vụ pháp lý quốc tế của một quốc gia trước những thoả thuận và cam
kết quốc tế đã được xác lập một cách hợp pháp. Đây là một trong những điều kiện

chủ yếu về phương diện pháp lý để một quốc qia có thể hội nhập v ào xu th ế
chung của thế giới hiện đại: xu thế toàn cầu hoá và liên k ết khu v ực. Quá trình
ký kết, thực hiện ĐƯQT luôn tạo ra những tác động nhiều mặt đến l ợi ích thiết
thực của mỗi quốc gia đặt trong mối tương quan chung của lợi ích quốc tế.
1.1.1 Khái niệm điều ước quốc tế
* Về định nghĩa ĐƯQT
Trong lịch sử phát triển của khoa học luật quốc tế đã có rất nhiều quan đi ểm khác
nhau về ĐƯQT, đã từng có những quan điểm cho rằng ĐƯQT là một hợp đồng
như quan điểm của Andress Bello (ĐƯQT “là một hợp đồng giữa các dân tộc”)
hay Laghi quan niệm ĐƯQT “thực sự là một hợp đồng theo cả nghĩa tri ết h ọc v à
nghĩa pháp lý của ngôn từ”.
Một số khác lại dừng lại ở việc nhận thức ĐƯQT là sự thoả thuận hay sự
ưng thuận nhằm tạo lập, thay đổi hay chấm dứt các quan hệ pháp lý như Diena và
Mc Nair.


Khoá luận tốt nghiệp

4

Phan Thị Vân - QT28A

Trước những quan điểm khác nhau như vậy thì chúng ta phải hiểu như thế
nào là một ĐƯQT ? Điểm a khoản 1 Điều 2 Công ước Viên 1969 đã xác định:
“ĐƯQT là một thoả thuận quốc tế được ký kết bằng văn bản giữa các quốc
gia và được pháp luật quốc tế điều chỉnh, không phụ thuộc vào việc thoả
thuận đó được ghi nhận trong văn kiện duy nhất hay trong hai hay nhiều
văn kiện có quan hệ với nhau cũng như không phụ thuộc vào tên gọi cụ thể
của các văn kiện đó.”
Quy định này đã làm sáng tỏ bản chất của một ĐƯQT là “thoả thuận có

yếu tố quốc tế”. Thoả thuận trong ĐƯQT là sự thống nhất về quan điểm của các
bên về các vấn đề của điều ước tuy nhiên thoả thuận không phải lúc nào cũng là
biểu hiện của việc đàm phán giữa các bên để đi đến sự nhất trí về các vấn đề của
điều ước mà có thể được biểu hiện thông qua sự chấp thuận của quốc gia đối với
những quy định của một ĐƯQT đã được xây dựng. Sự thoả thuận không chỉ về
nội dung, về hình thức và thủ tục ký kết điều ước mà còn được thể hiện cả trong
việc xác định hình thức của điều ước. Do đó thoả thuận là nguyên tắc chủ đạo
xuyên suốt từ quá trình xây dựng đến khi thực hiện điều ước.
Sự thoả thuận trong điều ước phải trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi và tôn
trọng các nguyên tắc khác của luật quốc tế. Thực tế, một ĐƯQT không được ký
kết trên cơ sở nguyên tắc bình đẳng thì không thể nói là đã có sự thoả thuận trong
việc ký kết và như vậy ĐƯQT đã ký phải được xem là vô hiệu.
Điều ước phải là sự thoả thuận do luật quốc tế điều chỉnh. Đây chính là căn
cứ phân biệt ĐƯQT với hợp đồng giữa các quốc gia. Ngoài ra thoả thuận được
thiết lập giữa các bên là nhằm mục đích thiết lập mới các quan hệ giữa họ với
nhau hoặc thay đổi các quan hệ đã được thiết lập hoặc chấm dứt các quan hệ này.
Chúng ta cũng cần phân biệt ĐƯQT với cam kết quốc tế. Sự phân biệt chủ yếu
này là ở bản chất của chúng. ĐƯQT là kết quả của sự thỏa thuận về ý chí của các
chủ thể luật quốc tế. Như vậy quan hệ điều ước phải có sự tham gia ít nhất từ hai
chủ thể luật quốc tế trở lên và tính pháp lý của các thoả thuận này được thể hiện ở
kết quả là các thoả thuận đã thành công ghi nhận dưới dạng các quy phạm pháp


Khoá luận tốt nghiệp

5

Phan Thị Vân - QT28A

luật quốc tế, trực tiếp điều chỉnh quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể tham

gia kết ước. Còn cam kết quốc tế vốn là sự tự ràng buộc của chủ thể luật quốc tế
vào nghĩa vụ pháp lý quốc tế nhất định. Sự ràng buộc đó được thực hiện thông
qua hành vi pháp lý đơn phương hoặc thoả thuận của chủ thể luật quốc tế. Trong
một ĐƯQT , các nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ điều ước được các chủ thể kết ước
cam kết thực hiện trên cơ sở của nguyên tắc pacta sunt vervanda và các nguyên
tắc khác mà Công ước Viên 1969 đã ghi nhận.
Chủ thể ĐƯQT là các chủ thể của luật quốc tế, trong đó các quốc gia chiếm
vị trí chủ yếu. Mặc dù trong Điều 6 Công ước Viên 1969 chỉ đề cập đến tư cách
ký kết ĐƯQT của các quốc gia nhưng Điều 3 Công ước lại qui định rằng:
“Việc Công ước này không áp dụng đối với các hiệp định quốc tế được ký
kết giữa các quốc gia và các chủ thể khác của pháp luật quốc tế hoặc giữa
các chủ thể khác của pháp luật quốc tế với nhau, cũng như không áp dụng
đối với những hiệp định quốc tế không thành văn, sẽ không phương hại gì
đến: giá trị pháp lý của các hiệp định đó…” (Điều 3)
Điều này chứng tỏ rằng bên cạnh quốc gia, các chủ thể khác của luật quốc tế cũng
có tư cách để ký kết ĐƯQT. Công ước Viên 1986 đã thừa nhận năng lực ký kết
điều ước của các tổ chức quốc tế. Ngoài ra, một số phong trào giải phóng dân tộc
cũng được chấp nhận là thành viên của một số Hiệp định quốc tế (dù ở mức độ
hạn chế).
Khách thể của ĐƯQT là các quan hệ giữa các chủ thể luật quốc tế về các
vấn đề tài sản hoặc phi tài sản, hành động hoặc không hành động. Thực tế, bất cứ
khách thể nào của luật quốc tế cũng có thể là khách thể của ĐƯQT, ví dụ: Công
ước về luật biển quốc tế, Hiệp ước về hoạch định biên giới, Hiệp định tương trợ
tư pháp…Theo quan điểm chung hiện nay, những vấn đề liên quan đến công việc
nội bộ tuyệt đối của quốc gia không thể là khách thể của ĐƯQT như vấn đề về
đảng nào sẽ nắm vai trò lãnh đạo trong hệ thống chính trị quốc gia…


Khoá luận tốt nghiệp


6

Phan Thị Vân - QT28A

Mục đích của ĐƯQT là cái mà các chủ thể của luật quốc tế muốn thực hiện
hoặc đạt được qua việc ký kết ĐƯQT. Hay nói cách khác ĐƯQT là công cụ để
các chủ thể luật quốc tế thực hiện mục đích mà họ mong muốn.
Vậy có thể đi đến kết luận: ĐƯQT là sự thoả thuận rõ ràng về mặt ý chí
của các chủ thể luật quốc tế nhằm ấn định thay đổi hoặc huỷ bỏ các các quyền và
nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể trong bất cứ lĩnh vực nào của đời sống quốc tế.
* Về cơ cấu ĐƯQT
Về mặt cơ cấu, ĐƯQT bao gồm 3 phần: lời nói đầu, phần nội dung chính
và phần cuối cùng.
Lời nói đầu là phần mở đầu của ĐƯQT, phần này không được chia thành
chương mục, điều khoản, không xác định quyền và nghĩa vụ các bên. Lời nói đầu
thường bao gồm những vấn đề như: ghi nhận lí do, mục đích, nguyên tắc ký kết
ĐƯQT, tên gọi các bên, bối cảnh dẫn đến ký kết…
Về nguyên tắc, nhìn chung lời nói đầu có giá trị pháp lý như phần nội dung
chính, nó đóng vai trò quan trọng trong việc giải thích các quy định của điều ước
trong phần chính.
Phần nội dung chính là phần quan trọng nhất của điều ước được chia thành
các chương, mục, điều, khoản điều chỉnh các quan hệ mà vì chúng điều ước được
thiết lập giữa các bên. Phần này ghi nhận cụ thể quyền và nghĩa vụ của các bên.
Phần cuối cùng, cũng như phần nội dung chính, phần này được chia thành
các điều khoản nhất định thường bao gồm các nội dung như: thời gian áp dụng,
thời điểm bắt đầu có hiệu lực, khoảng không gian có hiệu lực, vấn đề bảo lưu,
giải thích điều ước, giải quyết tranh chấp có liên quan…
Mặc dù ĐƯQT thường bố trí theo các chương, mục, điều khoản cụ thể,
nhưng đây cũng không phải là yêu cầu bắt buộc về mặt hình thức thể hiện đối với
mọi ĐƯQT. Chẳng hạn một số điều ước về thành lập tổ chức quốc tế như tuyên

bố Băng Cốc năm 1967 về thành lập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á
(ASEAN) là một trong số những ĐƯQT không có kết cấu như thường gặp.
* Về phân loại và ngôn ngữ điều ước quốc tế


Khoá luận tốt nghiệp

7

Phan Thị Vân - QT28A

ĐƯQT có thể phân thành các loại khác nhau dựa vào tiêu chí phân loại.
Căn cứ vào số lượng chủ thể tham gia ký kết điều ước, ĐƯQT được phân
thành 2 loại: ĐƯQT song phương và ĐƯQT đa phương.
ĐƯQT song phương là ĐƯQT được hai quốc gia ký kết. Ngoài ra ĐƯQT
cũng được coi là song phương khi ký kết và thực hiện ĐƯQT có sự tham gia của
nhiều quốc gia trong đó một quốc gia tham gia điều ước với tư cách là một bên
khác.
ĐƯQT đa phương được chia thành 2 loại: ĐƯQT đa phương phổ biến (có
sự tham gia của tất cả các quốc gia) và ĐƯQT với số lượng hạn chế, ví dụ như
các điều ước đa phương khu vực.
Căn cứ lĩnh vực quan hệ điều chỉnh (khách thể của điều ước) ĐƯQT có thể
được chia thành nhiều loại như: chiến tranh và hoà bình, kinh tế, nhân quyền, môi
trường, tương trợ tư pháp,…
Căn cứ vào tính chất điều ước, ĐƯQT được phân thành 2 loại: ĐƯQT mở
và ĐƯQT đóng.
ĐƯQT mở là ĐƯQT được ký kết với các điều kiện mở ra khả năng tham
gia của bất kỳ quốc gia nào, không phụ thuộc vào việc có sự đồng ý hay không
của các quốc gia đã tham gia điều ước.
ĐƯQT đóng là ĐƯQT được ký kết với điều kiện sự tham gia của các quốc

gia khác sau này phải phụ thuộc sự đồng ý của các quốc gia đã tham gia điều ước
(những thành viên ban đầu).
Pháp luật mỗi quốc gia lại có sự phân loại ĐƯQT khác nhau. Về tổng thể
việc phân loại ĐƯQT theo pháp luật quốc gia chủ yếu tạo cơ sở dễ dàng cho công
tác ký kết, thực hiện và quản lý nhà nước đối với ĐƯQT. Công ước Viên 1969
không đưa ra bất cứ một sự phân loại mang tính hệ thống nào, nó tiếp cận theo
hướng ĐƯQT dù là được ký kết ở cấp nào thì vẫn mang danh nghĩa của quốc gia,
tức là quốc gia mới là thành viên của ĐƯQT đó.
ĐƯQT thường được ký kết trên cơ sở các ngôn ngữ nhất định, ngôn ngữ
của điều ước do các bên ký kết quyết định. Ngôn ngữ của ĐƯQT song phương


Khoá luận tốt nghiệp

8

Phan Thị Vân - QT28A

thường là ngôn ngữ cua hai bên ký kết, tuy nhiên cũng có trường hợp các bên có
thể chọn một ngôn ngữ khác. ĐƯQT đa phương hình thành trên cơ sơ ngôn ngữ
mà các bên thoả thuận.
Thông thường các ĐƯQT được ký kết dưới sự bảo trợ của Liên hợp quốc
hoặc các tổ chức chuyên môn của nó được thể hiện thông qua các ngôn ngữ chính
thức của Liên hợp quốc: Anh, Pháp, Nga, Tây Ban Nha, Trung Quốc, Arập. Các
ĐƯQT được soạn thảo trên cơ sở các ngôn ngữ khác nhau có giá trị pháp lý như
nhau. Các văn bản ĐƯQT soạn thảo bằng ngôn ngữ được lựa chọn đều là văn bản
gốc và có giá trị pháp lý như nhau. Ngôn ngữ của văn bản ĐƯQT có thể được
quy định ngay trong các điều khoản của điều ước ví dụ như: cách quy định của
Điều 111 Hiến chương Liên hợp quốc, Điều 53 Công ước Viên 1961 về quan hệ
ngoại giao…

* Hiệu lực của ĐƯQT
_ Về điều kiện có hiệu lực của ĐƯQT
ĐƯQT chỉ có thể phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý của cac chủ thể
tham gia ký kết khi nó phù hợp với pháp luật quốc tế nói chung và pháp luật
ĐƯQT nói riêng.
Trước hết là năng lực ký kết ĐƯQT, chỉ có những chủ thể có quyền năng
chủ thể luật quốc tế mới có đủ tư cách để ký các ĐƯQT có hiệu lực ràng buộc.
ĐƯQT phải được ký kết trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng, nếu vi phạm
nguyên tắc này ĐƯQT có thể bị coi là vô hiệu.
ĐƯQT phải được ký kết trên cơ sở có sự tham gia của các chủ thể có liên
quan trực tiếp tới các vấn đề mà ĐƯQT đề cập. Điều này xuất phát từ nguyên tắc
bình đẳng về mặt chủ quyền giưã các quốc gia và nguyên tắc các quốc gia có
nghĩa vụ hợp tác với nhau.
Để có hiệu lực pháp lý điều ước phải có nội dung không trái với các quy
phạm mệnh lệnh mang tính juscogen.
Ngoài ra ĐƯQT chỉ có hiệu lực khi các điều kiện có hiệu lực xuất hiện
theo quy định của điều ước và khi nó được ký kết phù hợp với luật ĐƯQT.


Khoá luận tốt nghiệp

9

Phan Thị Vân - QT28A

-Về thời gian, không gian có hiệu lực của ĐƯQT
Vấn đề thời gian có hiệu lực của ĐƯQT bao gồm thời hạn bắt đầu và thời
hạn hết hiệu lực.
Cách thức quy định thời gian bắt đầu có hiệu lực của điều ước được quy
định khác nhau. Có điều ước quy định rõ thời điểm có hiệu lực, có điều ước quy

định thời điểm sau khi có đủ số lượng quốc gia nhất định ký kết…theo Công ước
Viên 1969, trật tự và ngày có hiệu lực được các bên thoả thuận quy định rõ trong
chính ĐƯQT đó. Trong trường hợp điều ước không quy định rõ ngày bắt đầu có
hiệu lực pháp lý (chủ yếu là điều ước song phương) thì ngày điều ước bắt đầu có
hiệu lực là ngày các bên ký kết điều ước.
Thời hạn hết hiệu lực của điều ước có thể được ghi rõ trong điều ước hoặc
không quy định rõ (gọi là điều ước vô hạn). Đối với điều ước vô hạn thì điều ước
sẽ hết hiệu lực về mặt thời gian khi các bên thoả thuận sau đó hoặc ký các ĐƯQT
mới thay thế điều ước đang tồn tại.
Không gian có hiệu lực của điều ước được hiểu theo hai nghĩa: số lượng
các quốc gia chịu sự chi phối bởi điều ước (khu vự hoặc toàn cầu) và khoảng
không gian của trái đất chịu sự chi phối của điều ước (như châu Nam cực, khoảng
không vũ trụ,…)
-Về điều ước quốc tế không hợp pháp, hết hiệu lực và bị đình chỉ hiệu lực.
ĐƯQT không hợp pháp là ĐƯQT được ký kết không phù hợp với quy định
của luật quốc tế về các điều kiện hợp pháp của điều ước.
ĐƯQT hết hiệu lực là ĐƯQT không còn giá trị pháp lý ràng buộc các bên.
ĐƯQT có thể hết hiệu lực trong các trường hợp như: theo quy định của điều ước;
theo sự thỏa thuận của các bên tham gia điều ước; hoặc có ĐƯQT mới của các
bên đó về cùng một vấn đề.
Theo quy định của điều ước, các trường hợp làm điều ước quốc tế hết hiệu
lực thường là hết thời hạn, xuất hiện quy phạm juscogen mới, khách thể tác động
của điều ước không còn hoặc các chủ thể ký kết không còn tồn tại.


Khoá luận tốt nghiệp

10

Phan Thị Vân - QT28A


ĐƯQT bị đình chỉ hiệu lực là ĐƯQT không có hiệu lực trong một thời gian
nhất định. Ví dụ theo quy định của luật quốc tế hiện hành khi một hoặc tất cả các
bên ký kết lâm vào tình trạng chiến tranh, các điều ước quốc tế có liên quan trong
quan hệ giữa các bên có thể bị đình chỉ hiệu lực.
Hủy bỏ ĐƯQT là hành động đơn phương của một bên tuyên bố về việc
điều ước hết hiệu lực mặc dù điều đó không được quy định trong điều ước hoặc
thoả thuận mới của các bên. Cơ sở hợp pháp của một tuyên bố như vậy là việc
một hoặc nhiều bên vi phạm cơ bản điều ước hoặc có sự thay đổi hoàn cảnh
không thực hiện được như xuất hiện quốc gia mới mà sự kế thừa của quốc gia đó
đối với điều ước không phù hợp với khách thể hoặc mục đích ký kết điều ước.
* Về tên gọi của ĐƯQT
Điều ước là tên gọi chung cho tất cả các văn kiện pháp lý quốc tế do các
chủ thể của luật quốc tế ký kết. Tuỳ theo tính chất của các loại văn kiện mà điều
ước có thể có tên gọi riêng như: công ước, hiệp ước, hiệp định, hiệp nghị, định
ước, tuyên bố chung, hiến chương…Việc xác định rõ tên gọi của một loại văn
kiện pháp lý quốc tế là rất khó khăn vì vấn đề này phụ thuộc vào sự thoả thuận
của các bên. Tuy vậy thực tế ký kết các ĐƯQT cho thấy công ước thường được
sử dụng là tên một điều ước chung, xác định các quy tắc xử sự của các bên trong
một lĩnh vực xác định của đời sống quốc tế; hiến chương là tên gọi của một điều
ước thành lập ra một tổ chức quốc tế, chẳng hạn như hiến chương Liên hợp
quốc…; Tuyên bố chung là điều ước phản ánh kết quả thu được của một hội nghị
quốc tế; hiệp định, hiệp ước, hiệp nghị…thường được sử dụng là tên gọi của các
điều ước song phương hoặc khu vực.
Nói chung ĐƯQT rất đa dạng về tên gọi, việc đặt tên cho văn bản thoả
thuận hoàn toàn tuỳ thuộc ý chí của các bên ký kết, không có sự phân biệt giá trị
hiệu lực giữa các ĐƯQT theo tên gọi, danh từ dùng để gọi này hầu như là không
giới hạn được.
1.1.2 Khái niệm luật ĐƯQT
* Về định nghĩa luật ĐƯQT



Khoá luận tốt nghiệp

11

Phan Thị Vân - QT28A

Luật ĐƯQT là tổng thể các nguyên tắc, các quy phạm pháp luật quốc tế,
điều chỉnh quan hệ về ký kết và thực hiện ĐƯQT của các chủ thể luật quốc tế.
Trong luật quốc tế hiện đại, luật ĐƯQT có vai trò rất quan trọng. Một mặt,
luật ĐƯQT hướng đến điều chỉnh quá trình hình thành khung pháp luật quốc tế
thông qua sự hình thành của hệ thống các điều ước đa dạng về nội dung. Mặt
khác với sự gia tăng của quan hệ hợp tác quốc tế nảy sinh trong các lĩnh vực của
đời sống quốc tế. Vì vậy sự phát triển của luật ĐƯQT như hiện nay đang là một
trong những yếu tố đảm bảo cho sự hoàn thiện và sự phát triển của luật quốc tế
theo xu thế toàn cầu hoá. Quan hệ giữa các quốc gia trên thế giới đã chuyển từ
đối đầu sang đối thoại, hợp tác cùng có lợi, các vấn đề quốc tế hầu hết đều được
giải quyết thông qua việc ký kết ĐƯQT. Luật ĐƯQT phát triển với tư cách là một
ngành luật độc lập thuộc hệ thống pháp luật quốc tế hiện đại ngày càng khẳng
định hơn nữa vai trò quan trọng của mình trong đời sống quốc tế.
Luật ĐƯQT điều chỉnh quan hệ về ký kết ĐƯQT giữa các quốc gia, các tổ
chức quốc tế liên quốc gia. Trong luật quốc tế quốc gia được coi là một thực thể
có chủ quyền và năng lực ký kết ĐƯQT là một trong những thuộc tính của chủ
quyền quốc gia. Điều 6 Công ước Viên 1969 quy định: “ mọi quốc gia đều có tư
cách để ký kết các ĐƯQT”. Năng lực ký kết ĐƯQT của quốc gia là năng lực đầy
đủ. Điều này có nghĩa là quốc gia hoàn toàn có đầy đủ tư cách để tham gia ký kết
các ĐƯQT ở mọi loại hình và trên mọi lĩnh vực của đời sống pháp lý quốc tế. Tổ
chức quốc tế cũng là một thực thể được thừa nhận có năng lực ký kết ĐƯQT. Tuy
nhiên nếu quốc gia trên cơ sở của chủ quyền quốc gia có năng lực ký kết ĐƯQT

đầy đủ thì tổ chức quốc tế chỉ có năng lực ký kết điều ước hạn chế. Bởi lẽ năng
lực ký kết ĐƯQT của tổ chức quốc tế là do quốc gia thành viên chuyển giao một
phẩn quyền năng ký kết ĐƯQT của mình cho tổ chức quốc tế. Có thể nói năng
lực ký kết ĐƯQT của tổ chức quốc tế là sự hợp nhất chủ quyền của các quốc gia
thành viên trong một tổ chức về một số vấn đề thuộc một hay một số lĩnh vực
nhất định của quan hệ pháp lý quốc tế, hay nói cách khác đó là sự triển khai chủ
quyền của các quốc gia thành viên trên thực tế. Tính chất hạn chế của năng lực ký


Khoá luận tốt nghiệp

12

Phan Thị Vân - QT28A

kết ĐƯQT của tổ chức quốc tế được xác định bởi hiến chương hay điều lệ thành
lập tổ chức quốc tế đó.
Ngoài ra, một số thực thể đặc biệt củng có quyền năng ký kết ĐƯQT như
Toà thánh Vanticang, hay các thực thể pháp lý lãnh thổ khác như: Macao, Hồng
Kông…Việc ký kết các thoả thuận giữa các tổ chức pháp nhân nước ngoài với
quốc gia, giữa các tổ chức phi chính phủ với nhau hoặc với quốc gia sẽ không
thuộc phạm vi điều chỉnh của luật ĐƯQT.
* Về nguyên tắc cơ bản của luật ĐƯQT
Là một ngành của Luật quốc tế, Luật ĐƯQT được hình thành và phát triển
dưới nền tảng của các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế, trong đó các nguyên tắc
như bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia, các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác
với nhau và nguyên tắc tuân thủ các cam kết quốc tế có ảnh hưởng lớn nhất đến
ngành luật này.
Ngành luật ĐƯQT cũng có nguyên tắc riêng biệt của mình như nguyên tắc
bình đẳng và tự nguyện giữa các chủ thể, nguyên tắc tận tâm, có thiện chí, và

nguyên tắc rõ ràng, chặt chẽ. Các nguyên tắc này chi phối toàn bộ quan hệ giữa
các chủ thể luật quốc tế trong lĩnh vực đàm phán , ký kết và thực hiện ĐƯQT.
Nguyên tắc bình đẳng và tự nguyện có nguồn gốc từ nguyên tắc bình đẳng
về chủ quyền giữa các quốc gia. Nguyên tắc này thể hiện ở việc các quốc gia
không phân biệt chế độ, số dân, trình độ phát triển…đều có quyền bình đẳng và
tự nguyện trong việc đàm phán, ký kết và thực hiện ĐƯQT. Bởi vậy khi các chủ
thể vi pham nguyên tắc này thì ĐƯQT không có giá trị pháp lý. Trên bàn đàm
phán các quốc gia có tư cách ngang nhau, quyền và nghĩa vụ pháp lý như nhau
trong cùng một điều kiện hoàn cảnh nhất định. Các quốc gia lớn không có quyền
ép buộc các quốc gia nhỏ phải ký kết, thực hiện ĐƯQT không theo ý muốn của
mình. Đây là nguyên tắc cơ bản trong luật ĐƯQT nhằm bảo vệ quyền lợi ích hợp
pháp của tất cả các quốc gia lớn nhỏ khi tham gia đàm phán , ký kết ĐƯQT.
Nguyên tắc tận tâm, thiện chí có nguồn gốc từ nguyên tắc các quốc gia có
nghĩa vụ hợp tác và nguyên tắc tuân thủ cam kết quốc tế. Nguyên tắc này đặt ra


Khoá luận tốt nghiệp

13

Phan Thị Vân - QT28A

nghĩa vụ cho các quốc gia: phải có thái độ xây dựng trong việc đàm phán và ký
ĐƯQT, phải thực hiện ĐƯQT một cách có thiện chí phối hợp với khách thể và
mục đích ký kết ĐƯQT. Việc các quốc gia thực hiện ĐƯQT một cách miễn
cưỡng hoặc khi đàm phán có thái độ thiếu tinh thần xây dựng sẽ bị coi là các
hành vi vi phạm nguyên tấc này.
Nguyên tắc rõ ràng và chặt chẽ được thể hiện ở chổ các quy định trong
điều ước phải dễ hiểu và logic , thuận lợi cho quá trình thực hiện ĐƯQT trên thực
tế. Việc các quốc gia ký kết các ĐƯQT theo cách quy định chung chung mang

tính nghị quyết sẽ bị coi là hành vi vi phạm nguyên tắc này.
* Nguồn của luật ĐƯQT
Các quy phạm của ĐƯQT được ghi nhận trong các ĐƯQT và tập quán
quốc tế.
Các quy phạm tập quán về luật ĐƯQT được hình thành chủ yếu từ chính
thực tiễn đàm phán, ký kết và thực hiện ĐƯQT của các quốc gia. Hiện nay những
tập quán quốc tế liên quan đến thủ tục, nghi lễ ký kết ĐƯQT vẫn được các chủ
thể kết ước áp dụng trong quá trình thiết lập các quan hệ ĐƯQT với nhau.
Công ước Viên 1969 về luật ĐƯQT giữa các quốc gia và Công ước Viên
1986 về luật ĐƯQT giữa các quốc gia và tổ chức quốc tế hoặc giữa các tổ chức
quốc tế với nhau được coi là nguồn pháp luật thành văn chủ yếu của luật ĐƯQT
hiện hành. Công ước Viên 1969 là kết quả của quá trình phát triển và pháp điển
hoá các quy phạm ĐƯQT. Công ước này chỉ điều chỉnh việc ký kết và thực hiện
các ĐƯQT thành văn giữa các quốc gia. Riêng ĐƯQT bất thành văn (hiệp định
quân tử) và các ĐƯQT khác mà một trong các bên ký kết, thông qua phải là quốc
gia phải chịu sự điều chỉnh của các quy phạm tập quán và các văn bản pháp lý
quốc tế khác.
Trong từng quốc gia, để thống nhất quản lý hoạt động ký kết và thực hiện
ĐƯQT, mỗi nước đều ban hành các văn bản quy phạm pháp luật trong nước điều
chỉnh cụ thể quan hệ ký kết, thực hiện ĐƯQT giữa nước đó với các chủ thể khác
của pháp luật quốc tế.Ví dụ: luật ký kết, gia nhập và thực hiện ĐƯQT của Việt


Khoá luận tốt nghiệp

14

Phan Thị Vân - QT28A

Nam năm 2005, luật về ĐƯQT của Liên bang Nga năm1995, luật về trình tự ký

kết ĐƯQT của nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa năm 1990… Như vậy, về
phương diện pháp lý các quốc gia sử dụng luật ĐƯQT như phương tiện pháp luật
phổ cập để hình thành và phát triển hệ thống các ĐƯQT mang tính vừa là nguồn
chứa đựng các quy phạm pháp luật quốc tế, vừa là công cụ pháp lý hiệu quả để
duy trì quan hệ hợp tác quốc tế của các chủ thể luật quốc tế.
1.1.3 Về các nguyên tắc điều chỉnh quan hệ ký kết và thực hiện ĐƯQT
* Nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng trong quá trình ký kết ĐƯQT
Ký kết ĐƯQT là loại hình hoạt động pháp lý thuộc quá trình xây dựng luật
quốc tế. Do đặc điểm cơ bản của luật quốc tế là không có các cơ quan lập pháp
chuyên trách nên quá trình xây dựng luật quốc tế luôn được tiến hành bởi chính
các chủ thể luật quốc tế. Đặc điểm này tác động đến quá trình ký kết ĐƯQT theo
hướng việc ký kết ĐƯQT sẽ hoàn toàn dựa trên cơ sở ý chí tự nguyện của các
thành viên. Sự tự nguyện và bình đẳng trong các quan hệ ĐƯQT trở thành một
trong những căn cứ đánh giá tính hợp pháp của một ĐƯQT. Theo nguyên tắc này,
những điều ước được ký kết mà có sự lừa dối, có sử dụng vũ lực hoặc đe dọa
dùng vũ lực hay ép buộc sẽ không có giá trị pháp lý. Công ước Viên 1969 quy
định: “Nếu một quốc gia bị thuyết phục ký kết một điều ước do một hành vi lừa
dối của một quốc gia tham gia đàm phán khác, thì quốc gia này có thể viện dẫn sự
lừa dối này để từ bỏ sự đồng ý của mình chấp nhận sự ràng buộc của điều ước
đó” (Điều 49) và “một điều ước bị coi là vô hiệu nếu việc ký kết điều ước này là
kết quả của việc đe doạ sử dụng hay sử dụng vũ lực trái với những nguyên tắc của
luật pháp quốc tế đã được ghi trong Hiến chương liên hợp quốc”(Điều 52).
Nguyên tắc này góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể ký
kết trong các quan hệ pháp luật quốc tế, tránh sự áp đặt từ bên ngoài với mục đích
thôn tính hay tạo ra tình trạng phải lệ thuộc về kinh tế, chính trị vào quốc gia
khác, đồng thời tạo cơ sở để duy trì tương quan có lợi cho hoà bình, an ninh, ổn
định ở từng khu vực cũng như trên phạm vi toàn cầu, hạn chế sự lạm quyền và
tình trạng không bình đẳng trong quá trình vừa hợp tác vừa cạnh tranh của các



Khoá luận tốt nghiệp

15

Phan Thị Vân - QT28A

chủ thể luật quốc tế. Nguyên tắc này còn trở thành một trong những điều kiện
pháp lý để ĐƯQT đã ký kết có hiệu lực trong thực tiễn.
* Nguyên tắc ĐƯQT phải có nội dung phù hợp với các nguyên tắc cơ bản
của luật quốc tế
Các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế được thừa nhận là những “thước
đo” giá trị hợp pháp của các quy phạm pháp luật khác. Vì vậy quy phạm pháp
luật chỉ tồn tại dưới hình thức điều ước hay tập quán đều phải có nội dung không
trái với các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế. Nếu có sự mâu thuẩn giữa nội
dung ĐƯQT với nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế thì ĐƯQT sẽ mặc nhiên vô
hiệu, kể cả đối với ĐƯQT đang có hiệu lực thi hành nhưng khi xuất hiện một quy
phạm juscogen mới của luật quốc tế thì ĐƯQT đó cũng phải chấm dứt hiệu lực
thi hành.
* Nguyên tắc pasta sunt servanda
Đây là một trong những nguyên tắc rất quan trọng của luật ĐƯQT. Điều 26
công ước Viên 1969 quy định: “Tất cả điều ước có hiệu lực ràng buộc các thành
viên và phải được các thành viên tự nguyện thi hành với thiện chí”. Sự tận tâm,
thiện chí của các chủ thể ký kết vừa là cơ sở, vừa là đảm bảo quan trọng để chủ
thể ký kết tự ràng buộc mình những nghĩa vụ thực hiện các quy định của luật điều
ước nói chung và luật ĐƯQT nói riêng với tính chất là các cam kết quốc tế tồn tại
song hành cùng các điều khoản thoả thuận trong điều ước. Việc không thi hành
ĐƯQT chỉ có thể được thực hiện trong một số trường hợp và trong những điều
kiện chặt chẽ, chẳng hạn như trường hợp cắt quan hệ ngoại giao hoặc quan hệ
lãnh sự đươc quy định tại Điều 63 Công ước Viên 1969 như sau:
“Việc cắt quan hệ ngoại giao hoặc lãnh sự giữa các quốc gia thành viên

của một số điều ước không làm ảnh hưởng đến những quan hệ phap lý do
điều ước đặt ra giữa các quốc gia này với nhau trừ khi trong một mức độ
nhất định, việc tồn tại những quan hệ ngoại giao hoặc lãnh sự không thể
thiếu được để thi hành điều ước”


Khoá luận tốt nghiệp

16

Phan Thị Vân - QT28A

1.2 sơ lược quá trình phát triển củă các quy định về ký kết, gia nhập và
thực hiện ĐƯQT trong pháp luật việt nam, từ năm 1945 đến nay
1.2.1

Từ năm 1945 đến trước đổi mới năm 1986

Lịch sử phát triển của pháp luật Việt Nam về ký kết và thực hiện ĐƯQT
trong hơn 60 năm qua gắn liền với lịch sử phát triển của đất nước ta trong từng
thời kì. Với tư cách là một quốc gia độc lập, có chủ quyền, Việt Nam hiện là
thành viên của nhiều ĐƯQT. Các ĐƯQT được Việt Nam ký kết hoặc gia nhập đã
hình thành cơ sở pháp lí quốc tế quan trọng nhằm phát triển các quan hệ hữu
nghị và hợp tác với các quốc gia và dân tộc trên thế giới, góp phần không nhỏ vào
sự nghiệp xây dựng, bảo vệ tổ quốc nâng cao hơn nữa vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế.
Đánh giá đúng ý nghĩa của hoạt động ký kết và thực hiện ĐƯQT, các bản
hiến pháp của nhà nước Công hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đều có những quy
định về vấn đề này .
Ngay tại bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam năm 1946 đã quy định

tại Điều 23 như sau: “Nghị Viện nhân dân giải quyết mọi vấn đề chung cho toàn
quốc, đặt ra các pháp luật, biểu quyết ngân sách, chuẩn y các hiệp ước mà Chính
phủ ký với nước ngoài”. Và khoản h Điều 49 quy định: Chủ tịch nước có quyền
“ký hiệp ước với nước ngoài ”. Tuy nhiên các quy định trong Hiến pháp năm
1946 này mới chỉ tạo cho cơ quan nhà nước căn cứ để thông qua và sử dụng
ĐƯQT làm công cụ pháp lí cho việc đấu tranh và bảo vệ độc lập dân tộc, nó chưa
làm rỏ hết tầm quan trọng của ĐƯQT trong các lĩnh vực khác.
Đến Hiến pháp năm 1959 với các quy định tài khoản 12 Điều 23 , Điều 64,
khoản 11 Điều 74 đã xác định hoạt động ký kết, quyết định và thực hiện ĐƯQT
là một trong những công tác quan trọng của hoạt động đối ngoại, đồng thời trao
thêm thẩm quyền hoạt động ĐƯQT cho Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chính
phủ cùng với thẩm quyền của Quốc hội và Chủ tịch nước đã được quy định từ
bản Hiến pháp năm 1946 .


Khoá luận tốt nghiệp

17

Phan Thị Vân - QT28A

Hiến pháp năm 1980 với các quy định tại khoản 15 Điều 83; khoản 16
Điều 100; khoản 16 Điều 107 đã xác lập cơ sở pháp lí để nhà nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam mở rộng quan hệ đối ngoại, ký kết và thực hiện ĐƯQT,
phục vụ cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước.
Tuy nhiên thời kì này các quy định về ký kết và thực hiện ĐƯQT chỉ được
quy định trong hiến pháp mà chưa có các văn bản pháp luật riêng biệt điều chỉnh
vấn đề này. Do đó các bước của quá trình ký kết, thực hiện ĐƯQT như đề xuất
đàm phán, đàm phán, bảo lưu, lưu chiểu, đình chỉ, huỷ bỏ …chưa được cụ thể
hoá nên nó cũng chưa thực sự đi vào đời sống.

Một điểm nữa trong ba bản Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959,
Hiến pháp năm 1980 chưa đề cập đến đó là hoạt động gia nhập ĐƯQT. Trong cả
ba bản Hiến pháp trên không hề có một quy định nào về việc gia nhập ĐƯQT của
Việt Nam mặc dù trên thực tế hoạt động này đã tồn tại, năm 1957 Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã quyết định gia nhập 4 công ước Giơnevơ về bảo hộ nạn nhân chiến
tranh và hàng loạt các công ước khác sau đó. Thời kỳ này mặc dù chưa là thành
viên của Công ước Viên 1969 nhưng chúng ta đã sử dụng chế định gia nhập trong
công ước đó như là một quy phạm tập quán để áp dụng vào pháp luật quốc gia.
Đặc biệt Hiến pháp 1959 và Hiến pháp 1980 mặc dù các quy định về ký
kết, thực hiện ĐƯQT đã được tăng lên nhưng lại không hề có một quy định nào
chỉ rõ cơ quan nhà nước nào có thẩm quyền ký kết ĐƯQT, vấn đề này được giải
quyết sau khi Hiến pháp năm 1990 ra đời.
1.2.2 Giai đoạn từ sau đổi mới 1986 đến nay
Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12 /1986) chính sách
ngoại giao của nhà nước ta đã có sự đổi mới, khẳng định Việt Nam muốn làm bạn
với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị. Công cuộc đổi mới và chính
sách đối ngoại này là một bước ngoặt trong công tác ngoại giao nói chung và
công tác ki kết và thực hiện ĐƯQT nói riêng. Nhìn chung từ năm 1986 đến nay,
các quy định về kí kết và thực hiện ĐƯQT của nước ta đã có những thay đổi ngày


Khoá luận tốt nghiệp

18

Phan Thị Vân - QT28A

càng hợp lí, mang tính khoa học hơn, phục vụ cho chính sách mở rộng quan hệ
hợp tác quốc tế của Việt Nam.
Trên cơ sở các quy định của Hiến pháp năm 1980, ngày 27/10/1989 Hội

đồng Nhà nước ban hành pháp lệnh ký kết và thực hiện ĐƯQT năm 1989 (sau
đây gọi tắt là Pháp lệnh năm 1989) và ngày 28/5/1992 Hội đồng Bộ trưởng đã
ban hành Nghị định số 182/HĐBT quy định chi tiết thi hành pháp lệnh này. Đây
chính là văn bản pháp lí mang tính chuyên ngành đầu tiên quy định về công tác
điều ước của Việt Nam. Pháp lệnh năm 1989 là căn cứ pháp lí quan trọng để các
cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam xúc tiến các hoạt động ký kết và thực hiện
ĐƯQT với các đối tác nước khác.
Nhìn chung pháp lệnh năm 1989 đã đề cập đến các nội dung cần thiết của
công tác điều ước. Tuy nhiên, do được xây dựng và ban hành vào những năm đầu
của công cuộc đổi mới đất nước, trong bối cảnh quan hệ đối ngoại của Việt Nam
chưa phát triển nên pháp lệnh này không thể tránh khỏi những hạn chế nhất định
như một số vấn đề thực tiễn đã hoặc có thể xảy ra nhưng lại chưa được quy định
trong pháp lệnh (như: vấn đề rút bảo lưu, thời hạn tiến hành các hoạt động không
được quy định cụ thể…) hoặc trong thực tiễn thực thi pháp lệnh cũng nảy sinh
không ít vấn đề cần được làm rõ như về danh nghĩa ký kết, về giải thích ĐƯQT…
Với đường lối đổi mới của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm 1986),
chúng ta đã đạt được những thành tựu nhất định. Tình hình thực tiển cho thấy
nhiều quy định của Hiến pháp năm 1980 không còn phù hợp. Ngày 15/4/1992,
Quốc hội đã nhất trí thông qua bản hiến pháp mới. Hiến pháp năm 1992 có các
Điều 84, Điều 103, Điều 112 quy định trực tiếp thẩm quyền ký kết và thực hiện
ĐƯQT đặt ra yêu cầu phải sửa đổi nhiều quy định về điều ước trong pháp lệnh
năm 1989 cho phù hợp Hiến pháp năm 1992.
Ngày 15/4/1992 Quốc Hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩaViệt Nam khoá
VIII, kỳ họp thứ 11 thông qua Hiến pháp năm 1992. Bản Hiến pháp này đã có
quy định rõ về thẩm quyền ký kết ĐƯQT của Chủ tịch nước (Khoản 10 Điều
103) và của Chính Phủ (Khoản 8 Điều 112) cũng như thẩm quyền của từng cơ


Khoá luận tốt nghiệp


19

Phan Thị Vân - QT28A

quan trong hoạt động đối ngoại của nhà nước ta (Khoản 13 Điều 84). Cũng tại
bản Hiến pháp này, lần đầu tiên vấn đề gia nhập ĐƯQT đã được đề cập dưới khái
niệm “tham gia”. Việc đề cập đến “tham gia ĐƯQT” trong Hiến pháp năm 1992
đã tạo cơ sở pháp lý cho chúng ta trong việc gia nhập ĐƯQT vốn đã tồn tại khá
lâu trong quá trình ký kết thực hiện ĐƯQT của nhà nước.
Ngày 28/8/1998, Uỷ ban thương vụ Quốc hội đã thông qua pháp lệnh về ký
kết và thực hiện ĐƯQT 1998 (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh năm 1998) và ngày
18/10/1999 Chính phủ ban hành Nghị định số 161 về thi hành pháp lệnh năm
1998. Về mặt tổng thể Pháp lệnh năm 1998 và Nghị định số 161 được xây dựng
trên cơ sở Hiến pháp năm 1992, kế thừa nhưng quy định của Pháp lệnh năm
1989, Nghị định số 182 và các kinh nghiệm ký kết thực hiện ĐƯQT là một bước
phát triển của pháp luật ĐƯQT của Việt Nam, góp phần không nhỏ vào việc mở
rộng quan hệ hợp tác quốc tế của Việt Nam.
Ngày 25/12/2001, Quốc hội khoá X kì họp thứ 10 thông qua Nghị quyết về
việc sửa đổi, bổ sung một số quy định của Hiến pháp năm 1992. Nội dung các
Điều 84, Điều103, Điều 112 được sửa đổi theo hướng khẳng định và làm rõ hơn
thẩm quyền của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ trong công tác ĐƯQT. Do
đó một số quy định của Pháp lệnh năm 1998 và Nghị định số 161 về thẩm quyền
ký kết và gia nhập ĐƯQT không còn phù hợp với Hiến pháp sửa đổi. Hơn nữa,
quá trình thực hiện Pháp lệnh năm 1998 trong sự phát triển của đất nước đã bộc
lộ một số quy định không còn phù hợp với luật pháp và thực tiễn quốc tế cũng
như thực tiễn Việt Nam về ký kết, gia nhập và thực hiện ĐƯQT như vấn đề phân
loại ĐƯQT trong đó có ĐƯQT ký kết với danh nghĩa Bộ, Ngành hoặc danh nghĩa
Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; quy định về thẩm định
ĐƯQT,.. Ngoài ra Pháp lệnh năm 1998 còn chưa quy định về vấn đề phản đối
bảo lưu, về vị trí ĐƯQT so với các văn bản pháp luật khác của Việt Nam. Mặt

khác, việc năm 2001 Nhà nước ta gia nhập Công ước Viên 1969 về luật điều ước
đã đặt ra yêu cầu đánh giá mức độ tương thích giữa các quy định của pháp luật
hiện hành về ký kết và thực hiện ĐƯQT với nội dung của Công ước Viên 1969.


Khoá luận tốt nghiệp

20

Phan Thị Vân - QT28A

Trước yêu cầu nêu trên ngày 14/6/2005, Quốc hội khoá XI kì họp thứ 7 đã
thông qua luật ký kết, gia nhập và thực hiện ĐƯQT năm 2005 (sau đây gọi tắt là
luật 2005). Luật 2005 ra đời là sự hoàn thiện về mặt pháp lí cho công tác ký kết
và thực hiện ĐƯQT tại Việt Nam. Số lượng các chương, điều cũng như hình thức
văn bản đều có sự nâng cấp thực sự đáp ứng đòi hỏi thực tế về việc chúng ta đã,
đang và sẽ ký kết ngày càng nhiều hơn nữa những ĐƯQT trong tiến trình hội
nhập quốc tế và khu vực.
Kết luận: Pháp luật ĐƯQT của Việt Nam hình thành và phát triển theo
hướng ngày càng hoàn thiện và phù hợp với pháp luật quốc tế, đồng thời phản
ánh quan điểm, đường lối, chính sách của Việt Nam phù hợp với hoàn cảnh lịch
sử cụ thể của nước ta trong từng thời kì khác nhau, khẳng định vai trò ngày càng
quan trọng của mình trong việc bảo vệ chủ quyền, quyền lợi chính trị, kinh tế của
Việt Nam và Chính phủ Việt Nam, cũng như vị thế của Việt Nam trên trường
quốc tế.


Khoá luận tốt nghiệp

21


Phan Thị Vân - QT28A

Chương 2
các quy định pháp lí cơ bản của Việt nam về ký kết, gia
nhập và thực hiện ĐƯQT hiện hành.
Việt Nam cũng như tất cả các quốc gia khác, việc ký kết, gia nhập và thực
hiện ĐƯQT là hoạt động điều chỉnh bởi pháp luật quốc gia, hoạt động này phải
dựa trên nền tảng hiến pháp và pháp luật. Tuy nhiên trong các giai đoạn khác
nhau của lịch sử, tuỳ thuộc vào tình hình kinh tế, chính trị xã hội, hoạt động ký
kết và thực hiện ĐƯQT được xem xét theo các mức độ khác nhau cả về lí luận
cũng như thực tiễn.
Năm 2005 với sự ra đời của luật ký kết, gia nhập và thực hiện ĐƯQT đã
góp phần không nhỏ trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật quốc gia.Việt
Nam đã khá thành công trong việc xây dựng được một khung pháp luật quốc gia
về ký kết, gia nhập và thực hiện ĐƯQT, đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước,
đặc biệt trước nhu cầu hội nhập và toàn cầu hoá như hiện nay.
2.1 Vấn đề ký kết, gia nhập ĐƯQT
Ký kết ĐƯQT là quá trình phức tạp, nó chỉ có thể diễn ra khi các bên tham
gia được thể hiện ý chí của mình một cách rõ ràng, dứt khoát. Đó là sự gặp gỡ của
các bên về các vấn đề của điều ước. Do đó để đạt được kết quả là việc ký kết
ĐƯQT, các bên phải vượt qua nhiều giai đoạn với nhiều thủ tục khác nhau như
đàm phán để đi đến soạn thảo văn bản điều ước, thông qua văn bản điều ước và
các thủ tục ký cũng như thủ tục khác nhằm làm cho điều ước phát sinh hiệu lực
trên thực tế.
2.1.1 Về thẩm quyền ký kết, gia nhập ĐƯQT


Khoá luận tốt nghiệp


22

Phan Thị Vân - QT28A

Theo quy định tại Điều 11 Luật 2005, thẩm quyền quyết định đàm phán, kí
ĐƯQT xác định như sau:
“1. Chủ tịch nước quyết định đàm phán, ký ĐƯQT nhân danh Nhà nước
với người đứng đầu Nhà nước khác.
2. Chính phủ quyệt định đàm phán, ký ĐƯQT nhân danh Chính phủ, nhân
danh Nhà nước, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 điều này.
3. Chính phủ trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến về việc đàm
phán, ký ĐƯQT có quy định trái hoặc chưa được quy định trong văn bản
quy phạm pháp luật của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ quốc hội, ĐƯQT mà
để thực hiện cần sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm
pháp luật của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội; trong trường hợp đàm
phán, ký ĐƯQT có quy định trái với văn bản quy phạm pháp luật của Quốc
hội thì báo cáo Quốc hội cho ý kiến”
Việc phân định rõ thẩm quyền của Chủ tịch nước, Chính phủ, Uỷ ban
thường vụ Quốc hội và Quốc hội như trên tránh sự chồng chéo về thẩm quyền
quyết định đàm phán, ký ĐƯQT giữa các cơ quan nhà nước. Sự mở rộng thẩm
quyền của Chính phủ và thu hẹp bớt thẩm quyền của Chủ tịch nước so với pháp
lệnh 1998 là phù hợp thực tiễn, tạo điều kiện cho Chủ tịch nước tập trung hoàn
thành tốt nghĩa vụ của người đứng đầu nhà nước cũng như tạo cơ sở pháp lí cần
thiết cho Chính phủ thực hiện công việc của mình. Hơn nữa, việc qui định thẩm
quyền ký kết, gia nhập ĐƯQT thuộc về Chủ tịch nước, Chính phủ, Uỷ ban
thường vụ Quốc hội, Quốc hội thể hiện đúng bản chất của một ĐƯQT là thỏa
thuận mang danh nghĩa của một quốc gia, bởi lẽ những cơ quan này là những cơ
quan nhà nước của nhân dân, đại diện cho quyền và lợi ích của nhân dân một
cách rộng rãi nhất. Các qui định tại pháp lệnh năm 1998 về ký kết ĐƯQT nhân
danh Bộ, Ngành thực sự chưa nói lên được điều này.

2.1.2 Quy định về vấn đề hình thành văn bản điều ước
Vấn đề quan trọng nhất chứng minh ĐƯQT được ký kết thành công không
chỉ là việc ĐƯQT phát sinh hiệu lực pháp lí mà còn là việc ĐƯQT đó phải đáp


Khoá luận tốt nghiệp

23

Phan Thị Vân - QT28A

ứng được lợi ích quốc gia, dân tộc trên thực tế. Để đạt được mục tiêu này pháp
luật quốc gia về ký kết ĐƯQT chú trọng những vấn đề liên quan đến quá trình
xây dựng văn bản điều ước. Nhấn mạnh khía cạnh khoa học pháp lí của hành vi
mà chủ thể ký kết thực hiện trong giai đoạn hình thành văn bản dự thảo điều ước
là quy định chặt chẽ các vấn đề về đề xuất đàm phán, đề xuất ký kết hoặc gia
nhập điều ước, xác định thẩm quyền, danh nghĩa ký kêt điều ước, thủ tục ủy
quyền, xác định dự thảo ĐƯQT, hoạt động thông qua văn bản, xác thực văn bản
ĐƯQT… đặc biệt là khâu thẩm định ĐƯQT.
* Về việc đề xuất đàm phán
Đây là khâu đầu tiên trong hoạt động ký kết ĐƯQT, pháp luật Việt Nam
quy định vấn đề này áp dụng thẩm quyền theo chức năng tại Điều 9, Điều10 Luật
2005:
“Toà án Nhân dân tối cao, Viện kiểm sát Nhân dân tối cao, Bộ, cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ (sau đây gọi là cơ quan đề xuất) căn cứ
vào nhiệm vụ và quyền hạn được giao theo quy định của pháp luật, yêu càu
hợp tác quốc tế, chủ động đề xuất với Chính phủ về việc đàm phán, ký
ĐƯQT”
Điều 10 quy định trách nhiệm của Bộ Ngoại giao trong việc kiểm tra đề
xuất đàm phán, ký ĐƯQT. Việc quy định cụ thể trách nhiệm này của Bộ Ngoại

giao nhằm đảm bảo cho những đề xuất trình lên Chủ tịch nước, Chính phủ là
những đề xuất thiết thực phù hợp và khả thi, tránh hiện tượng Chủ tịch nước,
Chính phủ phải tiếp nhận các đề xuất một cách tràn lan, không có chất lượng hoặc
chưa phù hợp.
* Về thẩm định ĐƯQT
Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động ký kết và thực hiện
ĐƯQT. Việc thẩm định điều ước làm sáng tỏ yêu cầu, mục đích, nội dung cơ bản
về các quyền và nghĩa vụ khi tham gia ĐƯQT của Việt Nam, đồng thời cũng phải
đánh giá được những tác động của ĐƯQT đối với tình hình kinh tế, chính trị, tài
chính…của đất nước. Công tác này nhằm bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ trong


Khoá luận tốt nghiệp

24

Phan Thị Vân - QT28A

hệ thống pháp luật và tính thực thi của ĐƯQT khi nó phát sinh hiệu lực trên thực
tế. Vấn đề này phức tạp bởi lẽ nó không chỉ đụng chạm đến hệ thống pháp luật
trong nước mà còn đến cả hệ thống ĐƯQT mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập.
Tại luật 2005, Điều 17 quy định: “ĐƯQT phải được thẩm định trước khi
trình Chính phủ về việc đàm phán, ký ”. Điều 18 quy định phạm vi thẩm định
ĐƯQT, Điều 19 quy định về thẩm quyền thẩm định. Quy trình thẩm định cũng
được đặt ra tương tự cho việc gia nhập ĐƯQT ( Điều 49 khoản 2).
Thẩm định ĐƯQT để có sự định tính và định lượng về giá trị tổng thể cũng
như những tác động tích cực và tiêu cực của một ĐƯQT đối với Việt Nam khi trở
thành thành viên. Các cơ quan đề xuất ký hoặc gia nhập ĐƯQT phải dự báo được
tính khả thi của một điều ước trong tương lai. Khi đề xuất ký kết hoặc gia nhập
điều ước, ngoài dự thảo nội dung văn bản điều ước, cơ quan đề xuất phải có

những phương án về những vấn đề liên quan như vấn đề uỷ quyền tham gia ký
kết, các khâu chuẩn bị cho việc ký kết, nghĩa vụ pháp lí và khả năng gánh vác
trách nhiệm theo điều ước, các phương án đàm phán, tuyên bố bảo lưu (nếu có)
và nếu điều ước cho phép (đối với điều ước nhiều bên), việc thẩm định mang tính
dự báo, đón đầu này còn tránh được sự phối hợp thiếu thống nhất của các ban
ngành liên quan trong quá trình thực thi ĐƯQT. Thực hiện tốt quá trình thẩm
định ĐƯQT, đặc biệt trong trường hợp gia nhập ĐƯQT sẽ tránh xảy ra những
khó khăn trong quá trình thực hiện ĐƯQT về sau, đảm bảo tính khả thi của
ĐƯQT.
* Về đàm phán ĐƯQT
Đàm phán là giai đoạn đầu tiên của quá trình ký kết ĐƯQT được biểu hiện
thông qua việc các bên cùng thảo luận nhằm đạt được sự thỏa thuận. Thông qua
đàm phán, các bên biểu thị ý chí của mình về các vấn đề thuộc lĩnh vực điều
chỉnh của điều ước dự định thiết lập. Để có thể đi đến việc ký kết điều ước, việc
đàm phán đòi hỏi phải thể hiện được sự nhất trí của các bên về tất cả các vấn đề
cơ bản. Vì vậy, đàm phán không phải bao giờ cũng đi đến sự thành công và đi
đến ký kết ĐƯQT mà rất có thể bị thất bại. Đây là qui định thể hiện rõ nhất của


Khoá luận tốt nghiệp

25

Phan Thị Vân - QT28A

nguyên tắc bình đẳng, thỏa thuận trong ký kết và thực hiện ĐƯQT. Vì nếu như
không có sự bình đẳng giữa các chủ thể tham gia thì không bao giờ có sự thỏa
thuận để đi đến thống nhất ý chí cũng có nghĩa là không có quá trình đàm phán.
Luật năm 2005 quy định rõ trường hợp đàm phán ĐƯQT không cần giấy
uỷ quyền, tham dự hội nghị quốc tế không cần giấy uỷ nhiệm (Điều 22) và trường

hợp đàm phán ĐƯQT phải có giấy uỷ quyền, tham dự hội nghị quốc tế phải có
giấy uỷ nhiệm ( Điều 23) cũng như quy định cụ thể thủ tục đối ngoại về cấp giấy
uỷ quyền, giấy uỷ nhiệm (Điều 24). Người tham gia đàm phán là người đứng ra
đại diện cho quốc gia để thỏa thuận, đi đến thống nhất các quyền và nghĩa vụ của
mình trong một quan hệ điều ước. Do đó, sự qui định cụ thể các trường hợp cũng
như thủ tục trên là rất cần thiết.
Sau khi ĐƯQT được đàm phán thành công, văn bản điều ước được thông
qua và được xác thực chính thức bởi các quốc gia đàm phán theo quy định của
luật quốc tế.
Hình thành văn bản ĐƯQT với các hành vi pháp lí như xây dựng dự thảo,
đàm phán, thông qua… là quá trình cho ra đời một văn kiện pháp lí quốc tế làm
cơ sở cho việc các quốc gia tiến hành các hành vi xác nhận sự ràng buộc đối với
ĐƯQT.
2.1.3 Các qui định về hành vi xác nhận sự ràng buộc đối với một
ĐƯQT
Theo quy định của pháp luật Viêt Nam hiện nay, hành vi xác nhận sự ràng
buộc đối với một ĐƯQT bao gồm: ký, phê chuẩn , phê duyệt, gia nhập, trao đổi
văn kiện tạo thành ĐƯQT và thực hiện các hành vi khác theo thoả thuận với bên
kí kết nước ngoài.(Điều 8)
* Về ký ĐƯQT
Ký là hành vi biểu hiện chung nhất thể hiện sự ràng buộc của ĐƯQT đối
với các quốc gia một cách chính thức. Theo quy định tại khoản 5 Điều 2 quy
định: “Ký là hành vi pháp lí do người có thẩm quyền hoặc được uỷ quyền thực


×