Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Các tội phạm tình dục theo quy định của luật hình sự việt nam và một số nước trên thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (478.93 KB, 20 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

HOÀNG THỊ NGỌC BÍCH

CÁC TỘI PHẠM TÌNH DỤC THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÌNH
SỰ VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – NĂM 2016


Vũ Vinh Quang- KT33D048

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Nhóm D2-2

BLHS

: Bộ luật Hình sự

BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự

TNHS



: Trách nhiệm hình sự

CTTP

: Cấu thành tội phạm

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

Nxb

: Nhà xuất bản

CHND

: Cộng hòa nhân dân

1

Khoa pháp luật kinh tế


Vũ Vinh Quang- KT33D048

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế hội nhập quốc tế cùng với việc đẩy mạnh quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, nước ta đã có nhiều chuyển biến tích cực, sự phát triển

kinh tế - xã hội ngày càng được cải thiện, đời sống nhân dân ngày được nâng cao.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, hiện tượng tội phạm ngày càng gia tăng gây nhức nhối
trong xã hội, một trong số đó là vấn đề các tội xâm phạm tình dục có xu hướng
diễn biến hết sức phức tạp, gây quan ngại đối với toàn thể xã hội. Đây không chỉ là
vấn nạn ở Việt Nam mà còn là vấn nạn ở nhiều nơi trên thế giới. Theo thống kê của
Tòa án nhân dân tối cao, trên phạm vi toàn quốc, ngành tòa án đã xét xử trong năm
2011 là 1.352 vụ về các tội phạm tình dục với 1.568 bị cáo; năm 2012 đã xét xử
1.604 vụ với 1.864 bị cáo; năm 2013 đã xét xử 1.903 vụ với 2.140 bị cáo; năm 2014
đã xét xử 2.107 vụ về với 2.393 bị cáo; năm 2015 đã xét xử 1.846 vụ với 2.012 bị
cáo. Số liệu này cho thấy, giai đoạn từ năm 2011 – 2014 số vụ và số bị cáo bị đưa ra
xét xử về các tội phạm tình dục đều tăng liên tục. Riêng năm 2015 số vụ và bị cáo
đưa ra xét xử về các tội phạm này có sự giảm nhẹ, song không đáng kể. Như vậy, có
thể thấy tội phạm về tình dục ở nước ta rất đáng lo ngại. Mặt khác,“Theo Quỹ Nhi
đồng Liên Hiệp Quốc (Unicef), trên toàn thế giới, 1/5 nữ giới và 1/7 nam giới đã
từng bị xâm hại tình dục, 9% đến 25% trẻ em ở khu vực Châu Á đã phải chịu đựng
nhiều mức độ xâm hại thể chất khác nhau, theo khảo sát 30% cả bé trai và bé gái
đã từng phải chịu đựng cưỡng bức tình dục…”1
Để đấu tranh phòng chống tội phạm tình dục, nhà nước cần tiến hành đồng
bộ các biện pháp khác nhau, trong đó, biện pháp hình sự đóng vai trò vô cùng quan
trọng. BLHS năm 1999 (BLHS hiện hành) quy định về các tội phạm về tình dục đã
góp phần quan trọng vào đấu tranh phòng chống loại tội phạm này. Tuy nhiên, theo
thời gian, xã hội Việt Nam ngày càng biến đổi hết sức nhanh chóng, Bộ luật này đã
bộc lộ những bất cập nhất định. Những bất cập, tồn tại này cũng ảnh hưởng nhất
định đến việc áp dụng BLHS trên thực tế. Bên cạnh đó, trong xu thế hội nhập quốc
tế, nghiên cứu so sánh với quy định của pháp luật hình sự nước ngoài, từ đó học tập

1

Xem />
Nhóm D2-2


2

Khoa pháp luật kinh tế


Vũ Vinh Quang- KT33D048

kinh nghiệm về lập pháp hình sự nhằm hoàn thiện luật là rất cần thiết. Do đó, vấn
đề đặt ra là cần nghiên cứu một cách toàn diện quy định của BLHS hiện hành về các
tội phạm tình dục, nghiên cứu, học tập kinh nghiệm lập pháp hình sự của nước
ngoài, chỉ rõ những bất cập của BLHS hiện hành cần phải sửa đổi, bổ sung, đề xuất
các giải pháp khắc phục nhằm làm cho các quy định này ngày càng hoàn thiện. Bên
cạnh đó, BLHS năm 2015 tuy đã được Quốc hội thông qua, nhưng chưa có hiệu lực.
Do vậy, việc tìm ra những bất cập của Bộ luật này để phục vụ cho việc ban hành
Luật sửa đổi, bổ sung sắp tới là rất thiết thực. Với lí do trên, tác giả đã chọn và
nghiên cứu đề tài: “Các tội phạm tình dục theo quy định của luật hình sự Việt Nam
và một số nước trên thế giới” làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các tội xâm phạm tình dục là một vấn đề luôn dành được nhiều sự quan tâm,
nghiên cứu của các nhà khoa học, người làm công tác thực tiễn. Một số công trình
nghiên cứu tiêu biểu liên quan đến đề tài này bao gồm:
* Luận văn thạc sĩ gồm có:
- “Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trong Luật hình sự Việt Nam và đấu tranh
phòng chống loại tội phạm này”, Tác giả Trịnh Thị Thu Hương, Luận văn thạc sĩ luật
học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2004;
- “Tội giao cấu với trẻ em theo quy định của Bộ luật hình sự hiện hành”, tác
giả Trần Thùy Chi, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2011;
- “Tội hiếp dâm – so sánh giữa Bộ luật hình sự Việt Nam và Bộ luật hình sự
một số nước”, tác giả Bùi Thị Quyên, Luận văn Thạc sĩ luật học, Trường Đại học

Luật Hà Nội, 2013.
* Sách chuyên khảo gồm có:
+ “Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người”,
tác giả Trần Văn Luyện, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000;
*Bài viết trên tạp chí gồm có:
+ “Về các tội phạm tình dục trong luật hình sự Việt Nam”, tác giả Dương
Tuyết Miên, Tạp chí Luật học, số 06, năm 1998;
+“Một số ý kiến khi áp dụng tình tiết định khung “Nhiều người hiếp một
người”, tác giả Nguyễn Thị Tuyết, Tạp chí Toà án nhân dân, số 03/1999;

Nhóm D2-2

3

Khoa pháp luật kinh tế


Vũ Vinh Quang- KT33D048

+ “Các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người
– so sánh giữa BLHS năm 1999 và BLHS năm 1985”, tác giả Nguyễn Ngọc Hoà, Tạp
chí Luật học số 1, năm 2001;
+ “Những điểm mới cơ bản về các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân
phẩm, danh dự của con người trong Bộ luật Hình sự năm 1999”, tác giả Trần Văn
Luyện, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 3, năm 2001;
+“Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về các tội xâm phạm tình
dục trẻ em”, Tác giả Phạm Mạnh Hùng, Tạp chí Toà án nhân dân, số 12/2002;
+“Về tội hiếp dâm quy định tại Điều 111 Bộ luật hình sự”, Tác giả Nguyễn
Hiển Khanh,Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 02/2004;
+“Luật hình sự Việt Nam nhìn từ góc độ tiếp cận giới”, tác giả Nguyễn

Tuyết Mai, Tạp chí Luật học, số 03/2007;
+“Một vài ý kiến trao đổi về tội hiếp dâm theo quy định tại Điều 111 Bộ luật
hình sự”, tác giả Đỗ Việt Cường, Tạp chí Kiểm sát, số 23/2008;
+ “Trao đổi về tội hiếp dâm theo Điều 111 Bộ luật hình sự”, tác giả Đỗ Xuân
Nam, Tạp chí Kiểm sát, số 07/2009;
+ “Những bất cập và phương hướng hoàn thiện quy định về một số tội xâm
phạm nhân phẩm của con người trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999”, tác giả
Phạm Văn Báu, Tạp chí Luật học, số 01/2010;
+ “Hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về các tội xâm phạm
nhân phẩm, danh dự của con người”, tác giả Đỗ Đức Hồng Hà, Tạp chí Nghiên cứu
lập pháp, số 08 (169) năm 2010;
+ “Một số ý kiến trao đổi về tội giao cấu với trẻ em”, tác giả Phạm Văn Nhớ,
Tạp chí Kiểm sát, số 11/2010;
+ “Bàn về một số dấu hiệu pháp lý của tội hiếp dâm”, Tác giả Bùi Thị
Quyên, Tạp chí Toà án nhân dân, số 23/2012;
+ “So sánh dấu hiệu định tội của tội hiếp dâm trong Bộ luật hình sự Việt
Nam hiện hành với Bộ luật hình sự của một số nuớc và một số kiến nghị”, tác giả
Dương Tuyết Miên, Bùi Thị Quyên, Tạp chí Toà án nhân dân, số 7/2013;

Nhóm D2-2

4

Khoa pháp luật kinh tế


Vũ Vinh Quang- KT33D048

+ “Truy cứu trách nhiệm hình sự tội hiếp dâm, hiếp dâm trẻ em – khó khăn,
vướng mắc và kiến nghị”, tác giả Hoàng Quảng Lực, Tạp chí Toà án nhân dân, số

13/2014;
+ “Một số vướng mắc trong xét xử trường hợp phạm tội hiếp dâm trẻ em
chưa đủ 13 tuổi có tính chất loạn luân”, Tác giả Vũ Hải Anh, Tạp chí Nghề Luật,
số 01/2015;
+ “Về quy định đối với các tội hiếp dâm - hiếp dâm trẻ em”, Tác giả Trần Hà
Bảo Khuyên, Tạp chí Toà án nhân dân, số 11/2015;
+ “Bình luận về các tội phạm về tình dục trong chương các tội xâm phạm
tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự con người trong dự thảo Bộ luật hình sự
(sửa đổi)”, tác giả Dương Tuyết Miên, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Số chuyên
Sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự 2015.

+ “Một số điểm mới của Bộ luật hình sự năm 2015 về nhóm các tội phạm
tình dục”, tác giả Vũ Hải Anh, tạp chí Nghề luật, sô 3/2016.
Ngoài ra, các giáo trình của các cơ sở đào tạo luật trên cả nước đều đề cập đến
nhóm các tội xâm phạm tình dục như: Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, tập 1 của
Trường ĐH Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2010; Giáo trình Luật Hình
sự Việt Nam của Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội,
2007; Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, phần các tội phạm của Học viện Cảnh sát
nhân dân, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội, năm 2012. Một số sách bình luận khoa học
về BLHS cũng đề cập đến nhóm tội này…
Các công trình trên ở các mức độ khác nhau đã làm rõ về vấn đề lí luận cũng
như thực tiễn áp dụng, vướng mắc ở một sô tội phạm tình dục hoặc một tội nhất định.
Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện về các tội phạm tình dục theo
BLHS năm 1999 có so sánh với BLHS một số nước trên thế giới, đồng thời cũng có sự
liên hệ đánh giá quy định tương ứng của BLHS năm 2015, đề xuất những giải pháp góp
phần hoàn thiện quy định của các Bộ luật này. Vì lí do đó, việc tác giả lựa chọn đề tài
“Các tội phạm tình dục theo quy định của Luật hình sự Việt Nam và một số nước
trên thế giới” là hoàn toàn cần thiết.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu


Nhóm D2-2

5

Khoa pháp luật kinh tế


Vũ Vinh Quang- KT33D048

Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ một cách có hệ thống và toàn
diện những quy định của BLHS Việt Nam hiện hành, có sự liên hệ, đánh giá với
BLHS năm 2015 và BLHS của một số nước trên thế giới về các tội phạm tình dục.
Do BLHS hiện hành (BLHS năm 1999) vẫn đang được áp dụng, do vậy, tác giả sẽ
đề xuất những giải pháp hoàn thiện luật Bộ luật hiện hành trên cơ sở chỉ ra những
bất cập của Bộ luật này. Bên cạnh đó, BLHS năm 2015 tuy đã được Quốc hội thông
qua nhưng đã bị lùi hiệu lực do phát hiện có một số sai sót, do vậy, tác giả cũng sẽ
nghiên cứu BLHS năm 2015, đề xuất giải pháp hoàn thiện trên cơ sở đánh giá bất
cập của bộ luật này, từ đó, góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động đấu tranh
chống và phòng ngừa tội phạm tình dục trên thực tế.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, tác giả đặt ra những nhiệm vụ sau:
- Phân tích các dấu hiệu định tội, đường lối xử lý của các tội xâm phạm tình dục
theo BLHS năm 1999, tìm ra những bất cập của Bộ luật này khi quy định về các tội
trên;
- Đánh giá quy định của BLHS năm 2015 đối với các tội xâm phạm tình dục, chỉ
ra những điểm mới cũng như những bất cập còn tồn tại;
- Phân tích các dấu hiệu định tội, đường lối xử lý đối với các tội phạm tình
dục của BLHS một số nước. Qua đó, rút ra bài học kinh nghiệm cho nước ta trong
việc quy định về các tội phạm tình dục.

- Tìm ra được giải pháp hoàn thiện BLHS năm 1999 và đặc biệt là BLHS
năm 2015.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của BLHS Việt Nam năm
1999, BLHS năm 2015 đối với các tội phạm tình dục. Bên cạnh đó, luận văn cũng
nghiên cứu qui định của BLHS của một số nước trên thế giới về các tội phạm tình dục.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dưới góc độ luật hình sự. Tác giả tập trung nghiên
cứu quy định của BLHS năm 1999 về các tội phạm tình dục. Bên cạnh đó, tác giả
cũng liên hệ đánh giá về quy định của BLHS năm 2015 về nhóm tội này.

Nhóm D2-2

6

Khoa pháp luật kinh tế


Vũ Vinh Quang- KT33D048

Tác giả cũng có nghiên cứu quy định của BLHS một số nước (Liên bang
Nga, Trung Quốc) về các tội phạm tình dục.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận tác giả sử dụng nghiên cứu luận văn là phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh,
các quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về hình sự và cải cách tư pháp.
Phương pháp nghiên cứu được tác giả sử dụng là phương pháp phân tích, so
sánh, tổng hợp…
6. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, bảng chữ viết tắt và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm 2 chương:
Chương 1: Quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 về các tội phạm
tình dục
Chương 2: Quy định của Bộ luật hình sự một số nước trên thế giới về các tội
phạm tình dục và phương hướng hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam về nhóm tội
này

Nhóm D2-2

7

Khoa pháp luật kinh tế


Vũ Vinh Quang- KT33D048

CHƯƠNG 1
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999
VỀ CÁC TỘI PHẠM TÌNH DỤC
......................
Các tội xâm phạm tình dục là những hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm
phạm đến quyền được tôn trọng và bảo vệ về nhân phẩm, danh dự của con người
(trong đó chủ yếu là phụ nữ)2.
Trong phạm vi chương 1, tác giả sẽ phân tích quy định của BLHS Việt Nam
hiện hành (BLHS năm 1999) về dấu hiệu định tội, đường lối xử lý đối với các tội
xâm phạm tình dục, đồng thời chỉ ra bất cập còn tồn tại của Bộ luật này.
BLHS hiện hành quy định 7 Điều luật về các tội phạm tình dục. Đó là các
tội:
- Tội hiếp dâm (Điều 111 BLHS);

- Tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112 BLHS);
- Tội cưỡng dâm (Điều 113 BLHS);
- Tội cưỡng dâm trẻ em (Điều 114 BLHS);
- Tội giao cấu với trẻ em (Điều 115 BLHS);
- Tội dâm ô đối với trẻ em (Điều 116 BLHS);
- Tội mua dâm người chưa thành niên (Điều 256 BLHS).
Sau đây, tác giả sẽ phân tích cụ thể từng tội danh.
1.1. Tội hiếp dâm, tội hiếp dâm trẻ em (Điều 111, Điều 112 BLHS)
1.1.1. Dấu hiệu định tội của tội hiếp dâm, tội hiếp dâm trẻ em
*Tội hiếp dâm (Điều 111 BLHS)
Căn cứ khoản 1 Điều 111 BLHS có thể hiểu: “Tội hiếp dâm là hành vi dùng
vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn
nhân hoặc bằng thủ đoạn khác giao cấu với nạn nhân trái ý muốn của họ”.3

2

Xem Dương Tuyết Miên, Về các tội phạm tình dục trong Luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Luật học số
6/1998, tr44.
3
Xem Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (tập 1), Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội, 2010, tr423.

Nhóm D2-2

8

Khoa pháp luật kinh tế


Vũ Vinh Quang- KT33D048


Khách thể của tội hiếp dâm là quyền bất khả xâm phạm về tình dục của
người phụ nữ. Đây là một quyền hết sức quan trọng được pháp luật ghi nhận và bảo
vệ. Do đó, bất kì hành vi xâm phạm tình dục nào cũng là vi phạm pháp luật và đều
phải chịu sự trừng phạt nghiêm khắc của pháp luật.
Chủ thể của tội phạm theo Luật hình sự Việt Nam phải là người có năng lực
trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu TNHS. Thực tiễn xét xử ở Việt Nam từ trước
đến nay đều thừa nhận chủ thể của tội hiếp dâm là chủ thể đặc biệt - nam giới. Nữ
giới chỉ có thể tham gia trong vụ đồng phạm hiếp dâm với vai trò là người xúi giục,
giúp sức hay tổ chức.
Hành vi khách quan của tội hiếp dâm được mô tả ở khoản 1 Điều 111 BLHS
năm 1999 quy định: “Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng
tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc bằng thủ đoạn khác giao cấu
với nạn nhân trái ý muốn của họ …”. Như vậy, hành vi khách quan của tội hiếp
dâm là hành vi giao cấu với người phụ nữ trái với ý muốn của họ bằng thủ đoạn
dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn
nhân hoặc bằng thủ đoạn khác.
Ví dụ: Khoảng 21h ngày 24/2/2007 (tức ngày mồng 8 tết) Luận, Doanh,
May, Động đi chơi, tới gần đường rẽ vào nghĩa trang gặp đôi nam nữ thanh niên là
Tùng và Thu. Luận, Doanh, May, Động đã chặn đôi nam nữ lại. Động và May lôi
chị Thu về phía bờ ruộng gần đó, cả hai khống chế lột hết quần áo của chị Thu và
lần lượt thực hiện hành vi giao cấu trái với ý muốn của nạn nhân mặc dù nạn nhân
đã van xin xin tha. (Theo Bản án số 21/2008/HSST ngày 28/10/2008 của Tòa án
nhân dân huyện Mỹ Đức, TP Hà Nội).
CTTP tội hiếp dâm đòi hỏi người phạm tội phải có hành vi giao cấu với nạn
nhân, nhưng không đòi hỏi hành vi giao cấu phải đã kết thúc về mặt sinh lí. Tội hiếp
dâm là tội phạm có CTTP hình thức vì nhà làm luật chỉ mô tả dấu hiệu hành vi
trong mặt khách quan và không quy định hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của CTTP.
Hành vi giao cấu trái ý muốn của người phạm tội được thực hiện bằng một
trong các thủ đoạn sau:


Nhóm D2-2

9

Khoa pháp luật kinh tế


Vũ Vinh Quang- KT33D048

- Thủ đoạn dùng vũ lực là dùng sức mạnh vật chất đè bẹp sự kháng cự của
nạn nhân chống lại việc giao cấu như xô ngã, vật ngã, túm tóc, bóp cổ, trói, đánh,
đấm, đá, đạp…
- Thủ đoạn đe dọa dùng vũ lực là làm cho ý chí của người phụ nữ bị tê liệt,
buộc họ phải chịu sự giao cấu mà không dám kháng cự như dọa giết, dọa gây
thương tích cho nạn nhân...
- Thủ đoạn lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân là lợi
dụng người phụ nữ vì lý do nào đó không thể chống cự được hành vi giao cấu trái
với ý muốn của mình như lợi dụng người phụ nữ đang trong tình trạng ốm đau, bị
ngất, bị bệnh tâm thần, bị tàn tật…
- Thủ đoạn khác là những thủ đoạn (ngoài ba thủ đoạn trên) giúp cho người
phạm tội có thể thực hiện được việc giao cấu với nạn nhân trái ý muốn của họ. Theo
thực tiễn xét xử, những thủ đoạn này có thể là lợi dụng người phụ nữ đang trong
tình trạng không có khả năng biểu lộ ý chí đúng đắn như say rượu, bị cho sử dụng
các chất ma túy gây ảo giác, bị dùng chất kích dục… Tình trạng này có thể do hoặc
không do người phạm tội gây ra. Do không thể bao quát được hết các thủ đoạn mà
người phạm tội sử dụng để thực hiện việc giao cấu trái với ý muốn của nạn nhân,
nhà làm luật quy định về “thủ đoạn khác” là cần thiết tránh việc bỏ lọt tội phạm.
Đối với đa phần các tội phạm về tình dục, người phạm tội đều có hành vi
giao cấu. Trong đó, hành vi giao cấu ở các tội này chỉ khác nhau ở thái độ của nạn

nhân đối với hành vi. Theo đó, thái độ của nạn nhân đối với hành vi giao cấu của
người phạm tội ở tội hiếp dâm là trái ý muốn (tội cưỡng dâm là miễn cưỡng, tội
giao cấu với trẻ em là thuận tình). Vì vậy, nội hàm của khái niệm giao cấu có thể
được xác định chung cho những tội luật có quy định về hành vi giao cấu.
Cho đến nay, ở nước ta chỉ có một văn bản duy nhất mô tả cụ thể thế nào là
hành vi giao cấu. Đó là Bản tổng kết và hướng dẫn đường lối xét xử tội hiếp dâm và
một số tội phạm khác về mặt tình dục số 329-HS2 ngày 11/5/1967 của TANDTC.
Văn bản này đã định nghĩa giao cấu là: “sự cọ sát trực tiếp dương vật vào bộ phận
sinh dục của người phụ nữ (bộ phận từ môi lớn trở vào) với ý thức ấn sâu vào trong
không kể sự xâm nhập của dương vật là sâu hay cạn, không kể có xuất tinh hay

Nhóm D2-2

10

Khoa pháp luật kinh tế


Vũ Vinh Quang- KT33D048

không”4.Cách định nghĩa tại văn bản này ở thời điểm ra đời đã thể hiện quan điểm
rất tiến bộ, góp phần bảo vệ tốt hơn danh dự, nhân phẩm của nữ giới. “Tuy nhiên,
hiện nay hành vi tình dục của con người ngày càng đa dạng, không chỉ nhằm mục
đích sinh sản mà còn nhằm đem lại những khoái cảm bằng nhiều hình thức khác
nhau. Vì thế, hành vi tình dục không chỉ diễn ra ở bộ phận sinh dục mà còn có thể
diễn ra ở bộ phận khác trên cơ thể”.5 Do đó, xuất phát từ mục đích bảo vệ quyền
bất khả xâm phạm về tình dục không nên bó hẹp khái niệm giao cấu ở “sự cọ sát
dương vật vào bộ phận sinh dục của người phụ nữ...” vì trong các trường hợp như
nam giới đưa dương vật vào miệng hoặc hậu môn của nữ giới hoặc trường hợp nam
giới đưa miệng, tay, vật thể vào âm hộ hoặc hậu môn của phụ nữ ... thì quyền bất

khả xâm phạm về tình dục của nữ giới cũng đã bị xâm hại. Hoặc trong nhiều trường
hợp hành vi của người phạm tội về bản chất đã xâm phạm đến quyền bất khả xâm
phạm về tình dục của nạn nhân, khiến nạn nhân tổn thương sâu sắc nhưng lại không
bị xử lý hình sự hoặc bị xử lý về tội nhẹ hơn tội hiếp dâm. “Thực tế ở Việt Nam đã
xảy ra trường hợp nam giới dùng vũ lực có hành vi đưa dụng cụ tình dục, tay vào
âm đạo nạn nhân trái ý muốn của nạn nhân nhưng lại xử về tội làm nhục người
khác”6 trong khi thực chất hành vi này là phạm tội hiếp dâm theo quy định của
nhiều nước trên thế giới. Như vậy, rõ ràng việc quy định nội hàm của hành vi giao
cấu theo cách hiểu truyền thống như hiện nay không còn phù hợp với thực tiễn, dẫn
đến việc xử lý chưa nghiêm minh, bỏ lọt tội phạm. Cho nên, theo tác giả cần coi
những trường hợp nêu trên thuộc nội hàm của giao cấu và khái niệm giao cấu cần
phải được mở rộng để đáp ứng yêu cầu thực tiễn của tình hình tội phạm hiện này.
Mặt khác, chuẩn mực quốc tế khi đề cập đến tội hiếp dâm cũng như hiếp dâm trẻ
em cũng xác định giao cấu theo nghĩa rộng. Công ước của Hội đồng Châu Âu đã
mô tả về hành vi giao cấu của tội hiếp dâm cũng như hiếp dâm trẻ em là: hành vi
thực hiện một cách có chủ ý thuộc một trong các trường hợp: “a) ép buộc quan hệ
tình dục bằng cách thâm nhập âm đạo, hậu môn hay bằng miệng của người khác

4

Xem Tòa án nhân dân tối cao, Hệ thống hóa các văn bản về hình sự, Hà Nội, năm 1975, trang 389
Xem Bùi Thị Quyên, Bàn về một số dấu hiệu pháp lý của tội hiếp dâm, Tạp chí Tòa án nhân dân, số
12/2013, tr28-36
6
Xem Dương Tuyết Miên, Bình luận về các tội phạm về tình dục trong chương các tội xâm phạm tính mạng,
sức khỏe, nhân phẩm, danh dự con người trong dự thảo Bộ luật hình sự (sửa đổi), Tạp chí Dân chủ và pháp
luật, Số chuyên Sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự/2015, tr131
5

Nhóm D2-2


11

Khoa pháp luật kinh tế


Vũ Vinh Quang- KT33D048

bằng bất kì bộ phận nào của cơ thể hay bằng bất kì vật thể nào mà không được sự
đồng ý của nạn nhân, b)ép buộc thực hiện quan hệ tình dục với người khác mà
không được sự đồng ý của họ, c) ép buộc người khác quan hệ tình dục với người
thứ ba mà không có sự đồng ý của người đó.”7
Hành vi giao cấu chỉ bị coi là phạm tội hiếp dâm khi được thực hiện trái với
ý muốn của nạn nhân. Thái độ trái ý muốn xảy ra khi người phụ nữ không chấp
nhận sự giao cấu hoặc hành vi giao cấu xảy ra không có ý muốn của người phụ nữ (
họ đang trong tình trạng không thể biểu lộ ý chí đúng đắn). Biểu hiện của thái độ
trái ý muốn là người phụ nữ chống cự, khóc lóc, van xin, kêu cứu… Vấn đề đặt ra là
thái độ trái ý muốn của người phụ nữ xảy ra vào thời điểm nào thì hành vi giao cấu
của nam giới bị coi là phạm tội hiếp dâm? Hiện chưa có một văn bản pháp luật nào
ở nước ta quy định về vấn đề này. “Ở một số nước như Anh, Australia, Xcolen, xứ
Uên, pháp luật quy định rõ thái độ trái ý muốn của người phụ nữ phải xảy ra trước
khi có hành vi giao cấu. Nếu người đàn ông đang giao cấu, người phụ nữ mới biểu
lộ thái độ trái ý muốn thì trường hợp này người đàn ông không phạm tội hiếp dâm,
vì thái độ trái ý muốn của người phụ nữ không phải là trái ý muốn thực sự”8 . Tác
giả đồng ý với ý kiến trên. Hành vi giao cấu chỉ bị coi là trái ý muốn nạn nhân khi
người phụ nữ thể hiện thái độ trái ý muốn trước khi nam giới thực hiện hành vi này.
Như vậy mới thể hiện được thái độ trái ý muốn thực sự của người phụ nữ.
Lỗi của người phạm tội hiếp dâm là lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội biết
hành vi giao cấu của mình là trái với ý muốn của người phụ nữ nhưng vẫn mong
muốn thực hiện hành vi đó bằng việc sử dụng thủ đoạn dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ

lực, lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác.
Trong thực tiễn áp dụng luật hình sự đã từng có một số vụ án gây tranh luận
của giới chuyên môn liên quan đến việc giao cấu trái ý muốn người chuyển giới
bằng một trong các thủ đoạn nói trên. Tác giả xin nêu vụ án điển hình. Nguyễn Văn
Tình, Phạm Văn Ánh và Lê Quang Toản sau khi nhậu xong trở về nhà thì đã 11h30
đêm. Đến khu vực ngoại ô của thành phố Đồng Hới, bọn chúng nhìn thấy một phụ

7

Xem “Nghiên cứu các chuẩn mực quốc tế về xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ”, Tài liệu do UN Women và
UNODC phát hành, Bản tiếng Việt, tháng 12/2014.
8
Xem Dương Tuyết Miên, Về các tội phạm tình dục trong luật hình sự Việt Nam”, Tạp chí Luật học số
6/1998, tr47

Nhóm D2-2

12

Khoa pháp luật kinh tế


Vũ Vinh Quang- KT33D048

nữ đang đi một mình vừa đi vừa khóc. Cả ba tên đã bắt người phụ nữ lên xe máy
đưa đến cánh đồng vắng và dùng vũ lực thay nhau làm nhục nạn nhân, mặc cho nạn
nhân khóc lóc, van xin. Sau đó, bọn chúng để mặc nạn nhân một mình trên cánh
đồng vắng và bỏ đi. Sau đó, nạn nhân đã đến đồn công an trình báo. Cơ quan điều
tra xác minh nạn nhân gốc là nam giới nhưng đã phẫu thuật chuyển giới (giấy tờ
vẫn tên là nam giới, nhưng cơ thể thì đã phẫu thuật chuyển giới). Cơ quan điều tra

cũng đã tìm hiểu và đã xác minh ba tên Tình, Ánh và Toản khi xâm hại tình dục nạn
nhân, bọn chúng đều không biết nạn nhân gốc là nam giới mà vẫn nghĩ đó là phụ nữ
(nạn nhân có âm đạo nhân tạo)9. Vụ án này dẫn đến tranh luận giữa các cơ quan tiến
hành tố tụng.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, do nạn nhân trên giấy tờ thể hiện là nam giới,
gốc gác là nam giới, do vậy, không xử lí hình sự ba tên Tình, Ánh và Toản về tội
hiếp dâm được vì nạn nhân của tội này phải là nữ giới.
Quan điểm thứ hai cho rằng vẫn xử lí hình sự ba tên Tình, Ánh, Toản được
vì cả 3 tên này khi xâm hại tình dục nạn nhân đã sử dụng thủ đoạn dùng vũ lực và
giao cấu trái ý muốn nạn nhân, 3 tên này khi giao cấu trái ý muốn nạn nhân vẫn
nghĩ rằng đó là phụ nữ, không biết đó là người chuyển giới.
Tác giả đồng ý với quan điểm thứ hai bởi lẽ, trong khoa học luật hình sự có
đề cập đến trường hợp chưa đạt vô hiệu. “Chưa đạt vô hiệu là trường hợp phạm tội
chưa đạt mà nguyên nhân khách quan của việc chưa đạt gắn với công cụ, phương
tiện, với đối tượng tác động của tội phạm”10. Trường hợp chưa đạt vô hiệu có liên
quan đến đối tượng tác động của tội phạm thực chất là trường hợp sai lầm về đối
tượng tác động. Đó là trường hợp đối tượng tác động không có tính chất hoặc đặc
điểm nhất định mà người phạm tội tưởng lầm là có. Trường hợp nói trên, ba tên
Tình, Ánh, Toản khi xâm hại nạn nhân đã lầm tưởng nạn nhân là phụ nữ và bọn
chúng đã giao cấu trái ý muốn với nạn nhân bằng thủ đoạn dùng vũ lực, bọn chúng
không biết nạn nhân là nam giới đã làm phẫu thuật chuyển giới. Bọn chúng đã lầm
tưởng nạn nhân là phụ nữ thực sự (do đặc điểm cơ thể của người chuyển giới từ
9

Xem bài viết “Hiếp dâm tập thể người chuyển giới, 5 năm vẫn chưa xử được”, tại nguồn
truy cập
ngày 15/7/2016
10
Xem Trường ĐH Luật Hà Nội, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Tập I, NXB Công an nhân dân, năm
2006, trang 159.


Nhóm D2-2

13

Khoa pháp luật kinh tế


Vũ Vinh Quang- KT33D048

nam sang nữ giống như phụ nữ thực sự), do vậy, phải xác định 3 tên Tình, Ánh,
Toản phạm tội hiếp dâm mới đúng (thuộc trường hợp chưa đạt vô hiệu). Vì vậy, tác
giả đồng tình với quan điểm: “Các bị can đã nhầm đối tượng tác động. Trong ý chí
chủ quan của các bị can đã xác định nạn nhân là nữ nên mới hiếp...”11
*Tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112 BLHS)
Căn cứ theo khoản 1 Điều 112 và Điều 111 BLHS có thể hiểu tội hiếp dâm
trẻ em là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không
thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu với trẻ em từ đủ 13 tuổi
đến dưới 16 tuổi trái với ý muốn của họ hoặc lợi dụng tình trạng không có khả năng
thể hiện ý chí đúng đắn của trẻ em dưới 13 tuổi để giao cấu với họ.
Tội hiếp dâm trẻ em xâm hại đến quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ là
quyền bất khả xâm phạm về tình dục, danh dự, nhân phẩm của trẻ em. Đồng thời,
hành vi hiếp dâm trẻ em còn xâm phạm đến sự phát triển bình thường về tâm sinh lý
của trẻ em, làm băng hoại các giá trị đạo đức xã hội, gây nên sự bất bình trong nhân
dân. Ngoài ra, hành vi hiếp dâm trẻ em còn có thể gây ra những tổn thương về sức
khỏe và có trường hợp có thể nguy hiểm đến tính mạng của trẻ.
Tội hiếp dâm trẻ em là một trường hợp đặc biệt của tội hiếp dâm. Trước đây,
tội hiếp dâm trẻ em là một khung tăng nặng của tội hiếp dâm nhưng sau đó được
nhà làm luật tách ra thành tội độc lập nhằm thể hiện chính sách hình sự nghiêm
khắc đối với hành vi phạm tội này cũng như nhằm bảo vệ trẻ em được tốt hơn, vì lẽ

đó, BLHS năm 1999 đã không mô tả lại dấu hiệu định tội của tội hiếp dâm trẻ em
tại Điều 112. Vì vậy, khi nghiên cứu về tội phạm này, những điểm giống nhau với
tội hiếp dâm tác giả sẽ không trình bày lại mà chỉ tập trung phân tích điểm khác biệt
của tội hiếp dâm trẻ em so với tội hiếp dâm. Điểm khác biệt lớn nhất của hai tội này
đó là về đối tượng tác động.
Đối tượng tác động của tội hiếp dâm trẻ em là trẻ em gái dưới 16 tuổi, còn
đối tượng tác động của tội hiếp dâm là phụ nữ, tức là người từ đủ 16 tuổi trở lên.
Điều 112 BLHS đã chia nạn nhân của tội hiếp dâm trẻ em làm hai trường hợp, cụ
thể:
11

Xem bài viết “Hiếp dâm tập thể người chuyển giới, 5 năm vẫn chưa xử được”, tại nguồn
truy cập
ngày 15/7/2016

Nhóm D2-2

14

Khoa pháp luật kinh tế


Vũ Vinh Quang- KT33D048

+ Đối với trường hợp đối tượng bị xâm hại tình dục là người từ đủ 13 tuổi
đến dưới 16 tuổi: Điều 112 BLHS năm 1999 quy định: “Người nào hiếp dâm trẻ
em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm”.
Mặc dù, Điều luật không quy định rõ nhưng ở đây có thể hiểu người phạm tội đã có
hành vi giao cấu trái với ý muốn của nạn nhân là trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16
tuổi bằng thủ đoạn dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lợi dụng tình trạng không thể

tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác. Như vậy, BLHS hiện hành quy định
thái độ của trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi đối với hành vi giao cấu của người
phạm tội là “trái ý muốn” và quy định này giống với hành vi phạm tội ở tội hiếp
dâm.
Ví dụ: Nhờ quen biết nên Sáng xin được số điện thoại của My (15 tuổi), mục
đích để rủ My đi chơi. Khoảng 21 giờ 30 phút Sáng rủ My ra bờ ao chơi, My đồng
ý. Ngồi nói chuyện một lúc, Sáng quay lại ôm My, My giằng co với Sáng, van xin
Sáng bỏ ra và cho My về. Nhưng Sáng không nghe rồi vật My xuống bên đường
cạnh đống rơm của thôn Hưng Nông và hiếp dâm My. (Bản án số 01/2014/HSST
ngày 10/01/2014 của Tòa án nhân dân huyện Mỹ Đức, TP Hà Nội)
+ Đối với trường hợp đối tượng bị xâm hại tình dục là trẻ em dưới 13 tuổi:
khoản 4 Điều 112 BLHS quy định: “Mọi trường hợp giao cấu với trẻ em chưa đủ
13 tuổi là phạm tội hiếp dâm trẻ em…”. Như vậy, có nghĩa là bất kể hành vi giao
cấu với trẻ em dưới 13 tuổi cho dù nạn nhân có trái ý muốn hay được sự đồng ý của
nạn nhân đều coi là hành vi hiếp dâm trẻ em. Quy định này xuất phát từ cơ sở khoa
học cho rằng ở độ tuổi dưới 13 tuổi, trẻ em nhận thức còn non nớt, chưa có khả
năng biểu hiện ý chí đúng đắn, dễ bị người khác lợi dụng, lôi kéo, rủ rê. Do đó, có
thể coi đây là một thủ đoạn của tội hiếp dâm trẻ em – thủ đoạn lợi dụng tình trạng
không thể biểu lộ ý chí đúng đắn của người dưới 13 tuổi. Quy định của Điều luật
cho thấy rằng hành vi giao cấu đối với nạn nhân càng nhỏ tuổi thì tính nguy hiểm
cho xã hội càng lớn và pháp luật cần phải bảo vệ một cách nghiêm khắc hơn.
Ví dụ: Do là bạn thân nên Nguyễn Văn Điệp thường đến nhà Hoàng Văn
Thắng chơi và ngủ lại qua đêm. Từ đó, giữa Điệp và cháu Hoàng Thị Hạnh. (12
tuổi, cháu của Thắng) nảy sinh tình cảm. Cuối tháng 8/2015, khi đến nhà bạn chơi,
thấy Hạnh ở nhà một mình nên Điệp nảy sinh ý định giao cấu và đã dụ dỗ Hạnh vào

Nhóm D2-2

15


Khoa pháp luật kinh tế


Vũ Vinh Quang- KT33D048

phòng và đồng ý cho Điệp quan hệ tình dục. Sau lần đó, Điệp tiếp tục quan hệ tình
dục với cháu Hạnh thêm nhiều lần nữa (Bản án HSTT số 94/2015 ngày 14/12/2015
của tòa án nhân dân tỉnh Đắc Lắc).
Người phạm tội thực hiện hành vi hiếp dâm trẻ em với lỗi cố ý trực tiếp. Tuy
nhiên, trong thực tiễn áp dụng pháp luật, việc xác định, chứng minh ý thức chủ quan
của người phạm tội hiếp dâm trẻ em đối với trường hợp trẻ em ở lứa tuổi giáp ranh
giữa trẻ em và người thành niên còn phức tạp. Cụ thể, ở độ tuổi này nhiều em gái đã
dậy thì nên có bề ngoài cao lớn như thanh niên, xử sự giống người lớn. Mặt khác,
bản thân nạn nhân có thể cố tình che giấu độ tuổi thật của mình làm cho người
phạm tội lầm tưởng là người đã thành niên và thực hiện hành vi giao cấu với các
em. Do vậy, quá trình áp dụng luật đòi hỏi các cán bộ áp dụng luật phải nghiên cứu
kĩ hồ sơ vụ án, nắm vững quy định của luật để đảm bảo áp dụng chính xác
Tóm lại, qua việc nghiên cứu dấu hiệu định tội của tội hiếp dâm, tội hiếp
dâm trẻ em theo quy định tại Điều 111, Điều 112 BLHS năm 1999, tác giả nhận
thấy vẫn còn tồn tại bất cập. Cụ thể:
Thứ nhất, nội hàm của giao cấu hiện nay còn quá hẹp và chỉ hiểu theo cách
truyền thống “giao cấu là sự cọ sát dương vật vào bộ phận sinh dục của người phụ
nữ...”. Do quan niệm về nội hàm của giao cấu quá hẹp nên đã dẫn đến hệ lụy là
nhiều trường hợp, hành vi của người phạm tội về bản chất là phạm tội hiếp dâm
nhưng lại không bị xử lý hình sự về tội này hoặc bị xử lý về tội nhẹ hơn. Do xã hội
ngày càng phát triển, sự giao lưu với văn hóa phương Tây ngày càng mở rộng thì
hành vi giao cấu ở Việt Nam ngày càng đa dạng, phức tạp, vì vậy, để đảm bảo xử lí
hình sự nghiêm minh thì nội hàm của giao cấu cần được mở rộng và quy định cụ thể
ngay trong luật. Qua đó, góp phần quan trọng trong việc đấu tranh phòng chống tội
phạm về tình dục, nhằm giảm đáng kể tội phạm này, tránh bỏ lọt tội phạm.

Thứ hai, nhà làm luật không mô tả dấu hiệu định tội của tội hiếp dâm trẻ em
trong Điều 112 mà trên thực tế, nội dung này được hiểu và áp dụng giống như ở tội
hiếp dâm. Tuy nhiên, để thuận lợi cho cơ quan áp dụng luật và đảm bảo nguyên tắc
“công khai, minh bạch” trong quy định, nhà làm luật cần mô tả rõ dấu hiệu định tội
của tội này trong Điều 112, không nên hành văn chung chung như quy định của
BLHS hiện hành.

Nhóm D2-2

16

Khoa pháp luật kinh tế


Vũ Vinh Quang- KT33D048

1.1.2. Đường lối xử lý đối với tội hiếp dâm, tội hiếp dâm trẻ em
*Đường lối xử lý đối với tội hiếp dâm
Thể hiện đường lối xử lý đối với tội hiếp dâm, BLHS quy định 4 khung hình
phạt khác nhau được phép áp dụng cho tội này với mức hình phạt thấp nhất là 02
năm tù và hình phạt cao nhất là tù chung thân.
Khung cơ bản có 2 mức. Mức phạt tù từ 2 năm đến 7 năm được áp dụng cho
trường hợp phạm tội không có tình tiết định khung tăng nặng và nạn nhân là người
thành niên. Mức phạt tù từ 5 năm đến 10 năm được áp dụng cho trường hợp phạm
tội không có tình tiết định khung tăng nặng và nạn nhân là người chưa thành niên
(đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi).
Khung tăng nặng thứ nhất có mức phạt tù từ 7 năm đến 15 năm. Khung này
được áp dụng cho trường hợp phạm tội có một trong những tình tiết định khung
tăng nặng sau:
- Phạm tội có tổ chức (điểm a khoản 2 Điều 111 BLHS)

Đây là trường hợp có sự câu kết chặt chẽ giữa những người đồng phạm.
Trong trường hợp hiếp dâm này, tất cả những người đồng phạm đều bị áp dụng tình
tiết tăng nặng định khung này. Tuy nhiên, TNHS đối với mỗi người lại phụ thuộc
vào vai trò và hành vi của họ trong vụ án.
- Phạm tội đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo
dục, chữa bệnh (điểm b khoản 2 Điều 111BLHS)
Đây là trường hợp phạm tội mà giữa người phạm tội và nạn nhân có quan hệ
đặc biệt với nhau. Trong đó, người phạm tội là người có trách nhiệm chăm sóc, giáo
dục, chữa bệnh cho nạn nhân. Trách nhiệm này phát sinh do những cơ sở pháp lí
khác nhau như: người được cơ quan, tổ chức xã hội hoặc họ hàng thân thích giao
trách nhiệm chăm sóc nạn nhân về ăn uống, sinh hoạt, vệ sinh cá nhân; thầy giáo,
người làm công tác giáo dục, bác sĩ điều trị cho bệnh nhân… Tuy nhiên không phải
trường hợp phạm tội hiếp dâm nào mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc,
giáo dục, chữa bệnh đều áp dụng tình tiết này mà chỉ được áp dụng tình tiết khi
hành vi phạm tội của người có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh đã lợi
dụng việc chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh để hiếp dâm người được chăm sóc, được

Nhóm D2-2

17

Khoa pháp luật kinh tế


Vũ Vinh Quang- KT33D048

giáo dục, được chữa bệnh. Nếu hành vi hiếp dâm không liên quan đến việc chăm
sóc, giáo dục, chữa bệnh thì không thuộc trường hợp này.
- Nhiều người hiếp một người (điểm c khoản 2 Điều 111 BLHS)
Đây là trường hợp đồng phạm hiếp dâm trong đó có nhiều người có hành vi

giao cấu trái ý muốn với cùng một nạn nhân. Trong một vụ đồng phạm, nếu có từ
hai người trở lên cùng giao cấu trái với ý muốn với một nạn nhân thì áp dụng tình
tiết nhiều người hiếp một người, còn nếu có sự phân công chặt chẽ giữa nhiều người
như: người bịt mồm, người giữ chân tay, người thực hiện hành vi giao cấu với nạn
nhân thì áp dụng tình tiết phạm tội có tổ chức. Quy định tình tiết này trong khung
tăng nặng là cần thiết. Bởi lẽ, do có nhiều người cùng thực hiện hành vi giao cấu
trái với ý muốn của nạn nhân nên không những xâm phạm nghiêm trọng nhân
phẩm, danh dự của nạn nhân mà còn có khả năng gây tổn hại nghiêm trọng cho sức
khỏe của nạn nhân.
- Phạm tội nhiều lần (điểm d khoản 2 Điều 111 BLHS)
Xét về mặt lý luận, phạm tội nhiều lần là phạm cùng một tội từ hai lần trở lên
trong đó mỗi lần đều thỏa mãn CTTP và chưa lần nào bị đưa ra xét xử. Trường hợp
người phạm tội đã phạm tội nhiều lần mà nạn nhân ở những lần phạm tội là khác
nhau thì áp dụng cả hai tình tiết định khung tăng nặng: đối với nhiều người và phạm
tội nhiều lần.
- Đối với nhiều người (điểm đ khoản 2 Điều 111 BLHS)
Đây là tình tiết định khung tăng nặng mới được quy định trong BLHS năm
1999. Phạm tội đối với nhiều người là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi
hiếp dâm từ hai nạn nhân trở lên và những lần phạm tội đó đều chưa bị đưa ra xét
xử. Nếu một người phạm tội thực hiện hành vi hiếp dâm với hai người trở lên và tất
cả các nạn nhân chỉ bị xâm hại một lần thì người phạm tội chỉ bị truy cứu trách
nhiệm hình sự theo khung tăng nặng này. Nếu có nạn nhân bị xâm hại một lần, có
nạn nhân bị xâm hại nhiều lần, thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự
về cả hai tình tiết tăng nặng là “phạm tội nhiều lần” và “phạm tội đối với nhiều
người”.
- Có tính chất loạn luân (điểm e khoản 2 Điều 111 BLHS)

Nhóm D2-2

18


Khoa pháp luật kinh tế


Vũ Vinh Quang- KT33D048

Tình tiết hiếp dâm có tính chất loạn luận được áp dụng khi giữa người phạm
tội và nạn nhân có quan hệ cùng dòng máu về trực hệ hoặc có quan hệ là anh chị em
cùng cha mẹ, anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha. Việc quy định
tình tiết này trong khung tăng nặng là cần thiết. Bởi lẽ, về mặt xã hội thì hành vi
quan hệ sinh lý giữa những người này là hành vi đi ngược lại đạo đức, luân lý,
truyền thống, lễ giáo, là biểu hiện của sự suy đồi nghiêm trọng về đạo đức… nên bị
xã hội kịch liệt lên án. Đồng thời hành vi hiếp dâm còn gây ảnh hưởng nghiêm
trọng đến danh dự, tinh thần của nạn nhân nói chung và của trẻ em nói riêng.
Tuy nhiên, theo tác giả việc sử dụng thuật ngữ “có tính chất loạn luận” như
BLHS hiện hành là chưa chuẩn xác vì chưa mô tả rõ lỗi của người phạm tội. Quy
định này, có thể dẫn đến cách hiểu là người phạm tội có thể không biết đến mối
quan hệ trực hệ này mà phạm tội. Theo khoa học luật hình sự, đối với các tội có
CTTP hình thức, lỗi của người phạm tội phải là lỗi cố ý trực tiếp. Hơn nữa, việc áp
dụng biện pháp TNHS đối với người phạm tội chỉ có ý nghĩa khi người đó biết giữa
họ và nạn nhân có quan hệ huyết thống. Do đó, tác giả cho rằng nên sửa tình tiết “có
tính chất loạn luân” thành “Biết là loạn luân mà vẫn phạm tội” như vậy mới thể hiện
rõ lỗi của người phạm tội trong trường hợp này chỉ có thể là lỗi cố ý trực tiếp đồng
thời đảm bảo sự phù hợp giữa quy định của BLHS và thực tiễn xét xử.
- Làm nạn nhân có thai (điểm g khoản 2 Điều 111 BLHS)
Tình tiết này đòi hỏi việc nạn nhân mang thai phải là kết quả của việc giao
cấu giữa nạn nhân với người phạm tội, tức là có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi
giao cấu và hậu quả nạn nhân có thai. Nếu nạn nhân tuy bị hiếp dâm nhưng việc nạn
nhân mang thai đó là kết quả của việc giao cấu với người khác thì người phạm tội
không phải chịu trách nhiệm hình sự về tình tiết này.

- Gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến
60% (điểm h khoản 2 Điều 111 BLHS)
Căn cứ để áp dụng tình tiết tăng nặng này là kết quả giám định thương tật
của nạn nhân do Hội đồng giám định pháp y kết luận. Trong trường hợp này, cần
xác định rằng lỗi của người phạm tội đối với hậu quả gây thương tích là lỗi vô ý.
Nếu trước hoặc trong khi phạm tội hiếp dâm, người phạm tội còn cố ý gây ra
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân thì ngoài việc phải chịu

Nhóm D2-2

19

Khoa pháp luật kinh tế



×