Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

skkn một số biện pháp giáo dục hành vi ứng xử tích cực cho học sinh tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.29 MB, 18 trang )

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Kính gửi: Hội đồng Sáng kiến tỉnh Ninh Bình.
Chúng tôi:
T
T

Họ tên

Ngày
tháng
năm
sinh

1

Trần Thị Kiều Phương

1963

2 Hoàng Thị Thu

1972

3 Lương Thị Oanh

1970


4 Đỗ Thị Như Thanh

1976

Nơi công tác

Trường TH
Lê Hồng Phong
TPNB

Chức danh

Trình
độ
chuyên
môn

Tỉ lệ %
đóng
góp vào
việc tạo
ra sáng
kiến

Hiệu trưởng

Đại học

25


Phó HT

Đại học

25

Phó HT

Đại học

25

Phó HT

Đại học

25

Là nhóm tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến: “Một số biện pháp
giáo dục hành vi ứng xử tích cực cho học sinh tiểu học”
I. LĨNH VỰC ÁP DỤNG SÁNG KIẾN: Phương pháp dạy học tiểu học.
II. CHỦ ĐẦU TƯ SÁNG KIẾN: Các tác giả sáng kiến
III. THỜI GIAN ÁP DỤNG: từ tháng 8/2015.
IV. MÔ TẢ BẢN CHẤT CỦA SÁNG KIẾN

Giáo dục hành vi ứng xử tích cực cho học sinh là một trong những nội
dung thực hiện giáo dục nhân cách toàn diện cho học sinh. Nhân cách con người
được hình thành và phát triển trong quá trình sống, giao tiếp, học tập, lao động.
Quá trình hình thành và phát triển nhân cách chịu sự chi phối của nhiều yếu tố,
trong đó tính tích cực của cá nhân giữ vai trò quyết định.

Giáo dục hành vi ứng xử tích cực là một yêu cầu cấp thiết đối với ngành
giáo dục hiện nay. Đặc biệt đối với bậc tiểu học, phần lớn các em học hai buổi ở
trường với sách vở và lí thuyết, rất ít khi được tiếp xúc với thực tiễn. Các em có
thể làm toán giỏi, viết văn hay, sử dụng máy tính thành thạo nhưng khi đối mặt
với các tình huống thực tiễn lại lúng túng trong cách ứng xử.
Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta còn gặp nhiều hành vi mang tính
tiêu cực của các em như: ứng xử thiếu văn hóa trong giao tiếp nơi công cộng;
khó khăn trong thể hiện nhu cầu, cảm xúc bản thân; thu mình, chống đối, phản
1


ứng bất cần, hung tính, nói dối; chưa có ý thức bảo vệ môi trường, giữ gìn vệ
sinh nơi công cộng;... Việc vận dụng kĩ năng đã học vào cuộc sống chưa tốt, có
khi biết nhưng ngại thể hiện quan điểm của mình dẫn đến những phản ứng trái
chiều và việc làm chống đối, chiếu lệ. Khi bị phê bình, áp đặt suy nghĩ, lòng tự
trọng của các em dễ bị tổn thương; hoặc do thất vọng từ bạn bè, gia đình,... có
em đã chọn những hành vi tiêu cực, tước bỏ mạng sống của mình để lại nỗi đau
cho người thân, thầy cô, bạn bè và trở thành vấn đề nhức nhối trong xã hội.
Sống tích cực là con đường dẫn tới thành công. Với mong ước giúp học
sinh biết suy nghĩ và hành động lịch thiệp, văn minh, đối xử với con người công
bằng, khoan dung, hữu ái, biết tự bảo vệ mình và ứng phó với các tình huống
xảy ra một cách tích cực, tôi đã cùng đồng nghiệp trực tiếp tham gia công tác
giáo dục hành vi ứng xử tích cực cho học sinh. Trong 02 năm học vừa qua, chúng
tôi đã áp dụng “Một số biện pháp giáo dục hành vi ứng xử tích cực cho học
sinh tiểu học” ở trường tiểu học Lê Hồng Phong và đã thu được thành công nhất
định. Cụ thể như sau:
1. Nội dung sáng kiến
a) Giải pháp cũ
Trong những năm qua, việc giáo dục kĩ năng sống nói chung, giáo dục
hành vi ứng xử tích cực nói riêng được thực hiện dưới hình thức dạy học trên

lớp. Tài liệu là cuốn “Bài tập thực hành kĩ năng sống” của nhà xuất bản Đại học
Sư phạm. Một số nội dung lồng ghép vào môn đạo đức và một số bài có nội
dung liên quan ở các môn học khác.
Tài liệu kĩ năng sống ở tiểu học, sách bài tập soạn thảo mỗi khối từ 6 đến
8 chủ đề, mỗi chủ đề dạy trong 2 tiết, dạy 1 tiết/tuần vào tiết tự học.
Cách thức tiến hành: giáo viên hướng dẫn học sinh hoàn thành các bài tập
dưới hình thức hoạt động cá nhân, hoạt động theo nhóm và một số trò chơi. Học
sinh trình bày kết quả từng bài tập, nêu ý kiến nhận xét, bổ sung. Giáo viên tổng
hợp nội dung bài và nhắc học sinh vận dụng trong thực tế cuộc sống. Ở các môn
học khác, tùy vào nội dung từng bài và yêu cầu tích hợp để hướng dẫn dưới
dạng câu hỏi hoặc nêu luôn nội dung cần truyền đạt.
Ưu điểm của giải pháp cũ:
Là phương pháp giáo dục dễ thực hiện vì tài liệu đã có sẵn; Phòng Giáo
dục và Đào tạo thành phố Ninh Bình đã có công văn hướng dẫn cách thức thực
hiện, giáo viên không cần chuẩn bị thêm về nội dung và hình thức tổ chức giờ
trên lớp nên việc giảng dạy khá thuận lợi.
2


Việc quan tâm đến giáo dục kĩ năng sống đã tác động đến nhận thức của
các em, phần nào phát huy được tính tự giác, chủ động, độc lập khi học tập;
mạnh dạn, tự tin hơn trong giao tiếp.
Một số hạn chế, bất cập và nhược điểm của giải pháp cũ:
+ Về nội dung chương trình:
Việc giáo dục hành vi ứng xử tích cực cho học sinh được thực hiện trong
quá trình giảng dạy kĩ năng sống, nhìn chung còn nặng về lí thuyết, tính thực
hành không cao nên mới chỉ tác động được đến nhận thức, chưa kiểm soát được
đến hành vi trong thực tiễn.
Phạm vi của nội dung giáo dục hẹp, chưa mang tính thực tiễn của từng địa
phương. Do đó hạn chế sự sáng tạo của giáo viên và học sinh.

+ Sách giáo khoa:
Cuốn “Bài tập thực hành kĩ năng sống” của nhà xuất bản Đại học Sư
phạm, soạn thảo chung cho giáo viên và học sinh, mỗi khối từ 6 đến 8 chủ đề,
mỗi chủ đề dạy trong 2 tiết, dạy 1 tiết/tuần nên việc giáo dục hành vi ứng xử tích
cực không thường xuyên, liên tục.
Bài tập chủ yếu là tình huống giả định, không tạo ấn tượng cho học sinh.
+ Giáo viên: Giáo viên tiểu học không được đào tạo kiến thức chuyên sâu
về giáo dục kĩ năng sống. Bên cạnh đó, họ còn phải dạy nhiều môn học khác nên
ít có thời gian đầu tư, nghiên cứu. Vì vậy, giáo viên thường phụ thuộc vào nội
dung tài liệu mà ít quan tâm đến những tình huống xảy ra hàng ngày.
+ Phương pháp dạy học theo giải pháp cũ còn bộc lộ nhiều nhược điểm:
Dạy học còn nặng về tính thuyết trình, hỏi đáp. Hành vi ứng xử tích cực
chỉ hình thành khi người học được trải nghiệm qua các tình huống thực tế, khi
tự làm việc chứ không chỉ nói về việc đó. Do đó dẫn đến tình trạng học sinh
lúng túng trong xử lí tình huống hoặc ”nói đúng mà làm không đúng”.
Hình thức dạy học trên tạo ra những giờ học “trật tự” một cách nặng nề,
áp lực đối với học sinh.
Chưa phát huy được tư duy sáng tạo; giáo viên lệ thuộc tài liệu có sẵn, học
sinh học tập thụ động nên chưa tạo động lực cho học sinh thói quen rèn hành
vi ứng xử tích cực. Việc dạy học theo hướng trên sẽ làm cho học sinh cảm thấy
kĩ năng sống chỉ là “môn phụ” đơn thuần, những kĩ năng ứng xử trở nên xa vời,
không thiết thực; không hấp dẫn và khó ghi nhớ.
3


Có thể khẳng định: Những hạn chế, bất cập của chương trình, tài liệu và
nhược điểm của giải pháp cũ đã hạn chế hiệu quả giáo dục kĩ năng sống nói
chung và hành vi ứng xử tích cực nói riêng; học sinh chưa có nhận thức đầy đủ
về tầm quan trọng của việc rèn thói quen ứng xử tích cực; làm hạ thấp vị thế của
kĩ năng sống và cơ bản chưa đáp ứng được mục tiêu của chương trình, nhất là

trong tình hình đất nước hiện nay.
b) Giải pháp mới
* Mô hình hóa:
GIẢI PHÁP
1
Nâng cao
nhận thức để
hình thành
thói quen suy
nghĩ tích cực

Thay
đổi
cách
nhìn
nhận
tích
cực
về
mọi
vấn
đề

Hình
thành

suy
nghĩ
thể
hiện

thái
độ
tích
cực
trong
mọi
hoàn
cảnh

3

2

Thường

xuyên
rèn
luyện
thói
quen
suy
nghĩ
tích
cực

Kiểm soát
cảm xúc và
không vội
vàng phán
xét


Vì sao
phải
kiềm
chế
cảm
xúc và
không
phán
xét
người
khác

Cần
làm gì
để
kiềm
chế
cảm
xúc và
không
phán
xét
người
khác

4

Gần gũi,
đồng cảm và

ứng xử khoan
dung, nhân ái

Làm
thế
nào
để
gần
gũi và
đồng
cảm

Rèn
cách
ứng
xử
khoan

dung,

nhân
ái

Rèn thói
quen ứng xử
tích cực
trong mọi
tình huống

Duy

trì và
phát
huy
thái
độ
tích
cực
của
học
sinh

Ghi
nhận,
khích
lệ và
khen
ngợi
kịp
thời
hành
vi
ứng
xử
tích
cực

Tăng
cường

tổ

chức
các
hoạt
động
ngoại
khóa,
rèn ý
thức
trách
nhiệm

* Mô tả cụ thể:
Giáo dục hành vi ứng xử tích cực cần tiến hành từ giáo dục nhận thức.
Nhận thức đúng về hành vi ứng xử tích cực là cơ sở tạo ra sự đồng tình với chủ
thể có hành vi ứng xử tích cực; phê phán, đấu tranh với những hành vi không
4


phù hợp chuẩn mực, hình thành hứng thú tìm tòi, học hỏi; từ đó hình thành tính
tự giác rèn luyện thói quen hành vi ứng xử tích cực cho bản thân. Giáo dục hành
vi ứng xử tích cực giúp học sinh giải quyết tốt những tình huống và có lựa chọn
lành mạnh, khuyến khích sự tiến bộ trong học tập và trong cuộc sống. Song song
với giảng dạy các môn học chính khóa, việc giáo dục hành vi ứng xử tích cực
cho học sinh được thực hiện thường xuyên, liên tục, gắn với các hình thức hoạt
động ngoài giờ lên lớp. Trong quá trình đó, chúng tôi đã tiến hành áp dụng một
số giải pháp sau để giáo dục hành vi ứng xử tích cực cho học sinh:
1. Giải pháp 1: Nâng cao nhận thức để hình thành thói quen suy nghĩ
tích cực
Suy nghĩ tích cực có sức mạnh to lớn, là tiền đề cho các hành vi ứng xử
tích cực. Khi gặp những chuyện không tốt, những tình huống khó khăn trong

cuộc sống đòi hỏi mỗi người cần có nghị lực, tinh thần vượt khó để đối mặt hoặc
vượt qua các trở ngại, nếu mỗi cá nhân có suy nghĩ tích cực sẽ hình thành niềm
tin, tinh thần phấn chấn, tâm trạng vui tươi để giải quyết khó khăn, thách thức.
Trước tiên, giáo viên giúp học sinh thay đổi cách nhìn nhận tích cực về
mọi vấn đề.
Hướng dẫn học sinh cách suy nghĩ tích cực về những tình huống xảy ra,
khai thác ý nghĩa tích cực ở từng chi tiết, từng điểm tốt đẹp mà sự việc đó mang
lại. Việc hướng dẫn được thực hiện ở tất cả các tiết học và chương trình ngoại
khóa, đặc biệt qua bài tập thực hành kĩ năng sống (BTTHKNS) lớp 2 chủ đề 5;
lớp 3 chủ đề 4; lớp 4 chủ đề 5; lớp 5 chủ đề 3 và 4. Vào tiết sinh hoạt lớp, giáo
viên kết hợp kể “Câu chuyện cái bình nứt” (Nguồn ngoisao.net - Phần phụ lục).
Giúp học sinh hiểu: tất cả mọi người ưa chuộng sự toàn mĩ. Chiếc bình
nứt luôn mang trong người mặc cảm khi tự so sánh nó với chiếc bình lành. Thật
vậy, có biết bao khiếm khuyết khiến chúng ta mặc cảm về bản thân mình.
Nhưng đằng sau những khiếm khuyết ấy, mỗi người vẫn luôn có giá trị riêng.
Giống như nước chảy ra từ khe nứt của chiếc bình không lành lặn kia đã gieo
mầm sống cho những cây hoa đẹp đẽ bên đường.
Đối diện với những khiếm khuyết của chính mình, mỗi người cần học
cách chấp nhận, đồng thời hướng đến những điều tốt đẹp của bản thân. Bởi vì
cuộc sống của mỗi chúng ta đều có thể như chiếc bình, dù không hoàn toàn lành
lặn nhưng vẫn có ích cho đời, làm cho cuộc sống phong phú hơn.
Tiếp theo, giáo viên giúp học sinh hình thành những suy nghĩ thể hiện
thái độ tích cực trong mọi hoàn cảnh.
5


Giáo viên kể chuyện về tấm gương Nguyễn Ngọc Ký, dù liệt hai tay
nhưng vẫn đi học và học giỏi; câu chuyện về một người bị kẹt trong thang máy
đã cố gắng xoay sở để tìm sự giúp đỡ;... Qua đó, học sinh hiểu: Khi gặp khó
khăn trở ngại, cần bình tĩnh, tự tin cố gắng hết khả năng của mình để giải quyết.

Hoạt động nhóm: Kể cho nhau nghe những câu chuyện, những tình huống
nói về thái độ tích cực vượt qua khó khăn, mặc cảm để vươn lên. Chia sẻ với
bạn về các suy nghĩ tích cực khi gặp tình huống khó khăn của chính mình.
Giúp học sinh thường xuyên rèn luyện thói quen suy nghĩ tích cực.
Ở các tiết học kĩ năng sống, ngoài việc cung cấp kiến thức trong bài, giáo
viên đều có thể rèn cho học sinh thói quen suy nghĩ tích cực.
Ví dụ 1: BTTHKNS lớp 3, chủ đề 1 “Kĩ năng tự phục vụ”.
Ở bài tập 4: chuẩn bị đồ dùng cá nhân. Vận dụng thực tiễn: Em đã chuẩn
bị sách vở và đồ dùng học tập cho mỗi ngày đi học như thế nào? Học sinh chia
sẻ cảm xúc khi chuẩn bị không đủ sách vở, đồ dùng học tập. Từ đó, hình thành
suy nghĩ: cần chuẩn bị đồ dùng cá nhân trước khi đi ngủ để buổi sáng thức dậy
không vội vàng và muộn giờ đến lớp. Rút ra bài học: thường xuyên tự làm lấy
những việc phục vụ cho học tập và sinh hoạt hàng ngày của bản thân giúp chúng
ta tự tin, sảng khoái, tinh thần hăng hái khi bắt tay vào hoạt động mới.
Giáo viên cho học sinh ứng dụng ngay trên lớp: sắp xếp lại đồ dùng cá
nhân, sau đó nhận xét quang cảnh lớp học và chia sẻ cảm xúc của mình. Sau thời
gian ngắn, giáo viên kiểm tra đột xuất và nhận xét việc sắp xếp đồ dùng cá nhân.
Việc làm này có ý nghĩa củng cố, tạo thói quen suy nghĩ tích cực cho học sinh.
Ví dụ 2: Kĩ năng giao tiếp là một trong những nội dung chủ đạo của giáo
dục kĩ năng sống cho học sinh tiểu học, xuất hiện trong hầu hết các chủ đề.
Trong đó, sách biên soạn riêng chủ đề rèn kĩ năng giao tiếp ở lớp 3, chủ đề 2 “Kĩ
năng giao tiếp với bạn bè và mọi người”, lớp 4 chủ đề 2, lớp 5 chủ đề 1.
Giúp học sinh suy nghĩ đến những hành vi ứng xử tích cực khi giao tiếp:
Lời nói nhẹ nhàng, lời cảm ơn hay xin lỗi với nét mặt cử chỉ vui vẻ, chân thành;
biết lắng nghe, phản hồi; lời nói, cử chỉ hài hước;... có thể mang lại nhiều ảnh
hưởng tích cực đối với những người xung quanh. Cách sống lạc quan, hài hước
luôn cho những suy nghĩ tích cực.
Quá trình lặp đi lặp lại những suy nghĩ tích cực sẽ tạo thành thói quen.
Giáo viên thường xuyên khuyến khích học sinh nuôi dưỡng những suy nghĩ tích
cực và lành mạnh để kích hoạt tiềm năng hành vi tích cực.

6


2. Giải pháp 2: Kiểm soát cảm xúc và không vội vàng phán xét
Cảm xúc là những thái độ rung cảm của con người đối với sự vật, hiện
tượng trong cuộc sống. Cảm xúc có tính tích cực và tiêu cực, là động lực cho
mọi hành vi diễn ra. Khi không kiểm soát được cảm xúc, con người thường có
phản ứng tiêu cực mà biểu hiện cơ bản nhất là đổ lỗi và phán xét người khác.
Phán xét có thể bằng ngôn ngữ nói, ngôn ngữ viết, bằng cử chỉ, thái độ,
có khi chỉ dừng lại trong suy nghĩ. Phạm vi phán xét rất rộng, đa dạng về nhiều
mặt như: ngoại hình, tính cách, hành động, tình cảm, tư tưởng,... Thông thường,
khi không kiểm soát được cảm xúc, nhất là những cảm xúc tiêu cực, con người
rất dễ buông lời phán xét tiêu cực.
Giáo viên giúp học sinh hiểu vì sao cần thay đổi thói quen phán xét. Khi ai đó
mắc sai lầm, gặp rắc rối, có cá tính hay hình dáng đặc biệt,... cái họ cần là sự
giúp đỡ, cảm thông chứ không phải là phán xét, chê bai. Nỗi sợ bị phán xét tạo
nên tâm lí bất an và cảm xúc lo lắng, dẫn đến những ứng xử mang tính tiêu cực.
Ví dụ: Trong trích đoạn truyện “Cô bé bán diêm” (BTTHKNS lớp 4, chủ
đề 6 - Kĩ năng kiểm soát cảm xúc)
Câu chuyện kể về em bé mồ côi mẹ phải đi bán diêm trong đêm giao thừa
rét buốt. Chẳng dám về nhà khi chưa bán hết diêm vì sợ bố mắng, em đành ngồi
nép vào góc tường, liên tục quẹt diêm để sưởi và hi vọng vào những ảo ảnh. Đói
rét, đau buồn, em bé chết trong giấc mơ cùng bà nội lên trời.
Ngoài giá trị nhân văn sâu sắc mà câu chuyện mang lại, câu chuyện còn
mang ý nghĩa giáo dục khác. Giá như ông bố trong câu chuyện biết kiểm soát
cảm xúc, không hay nóng giận và đánh mắng em; giá như em bé kiềm chế được
nỗi sợ hãi để tìm giải pháp tích cực;... câu chuyện đã không có cái kết đau lòng.
Câu chuyện “vết thương” (BTTHKNS lớp 4, chủ đề 6 - Kĩ năng kiểm soát
cảm xúc) cho chúng ta thấy: Khi giận dữ, chúng ta dễ có những lời nói, hành
động không tốt. Nếu đó là những lời phán xét thiếu suy nghĩ, nó sẽ làm thương

tổn đến tâm hồn và sẽ theo người ta đến suốt cuộc đời. Chính vì thế, trước khi
phán xét điều gì, ta cần phải suy xét thật cẩn thận. Và quan trọng nhất là đừng
bao giờ nói ra bất cứ điều gì trong lúc ta giận dữ, bởi đó luôn là những lời nói
đầy ác ý làm tổn thương người khác.
Học sinh chia sẻ theo nhóm: Bạn đã từng bị phán xét chưa? Cảm xúc của
bạn khi đó như thế nào? Bạn đã làm gì khi bị phán xét? Từ đó, giúp học sinh rút
ra kết luận: biết kiềm chế cảm xúc và không phán xét người khác.
Vậy cần làm gì để kiềm chế cảm xúc và không phán xét người khác?
7


Thứ nhất, tạo một khoảng thời gian thư giãn và thả lỏng.
Thứ hai, nghĩ về những điều tích cực mà sự việc đó mang lại.
Thứ ba, lựa chọn giải pháp tích cực nhất.
Tuy nhiên, kiểm soát cảm xúc không có nghĩa là trốn tránh cảm xúc tiêu
cực. Những cảm xúc buồn bã, chán nản, tức giận,... đôi khi cũng có tác dụng xoa
dịu tâm hồn. Khi đó có thể khóc thật nhiều cho vơi bớt nỗi buồn, có thể tức giận
để nhận ra điều mình không thích, biết sợ hãi để tránh những nguy hiểm và biết
phân biệt để chọn ra cái tốt và xấu cho bản thân. Hãy làm lắng dịu những cảm
xúc, lựa chọn giải pháp tích cực có lợi cho bản thân hơn là tìm cách loại bỏ nó.
Thực tế, đã có học sinh đã tức giận vì bị bạn xô ngã, buồn vì bị bạn nói
xấu, coi thường bạn học kém,... Dựa vào tình huống đã xảy ra, giáo viên giúp
học sinh hiểu: Khi bản thân gặp chuyện không tốt do người khác mang lại cũng
không nên quá tức giận, phán xét hoặc nói xấu họ. Nếu không thể thông cảm,
cũng đừng làm tổn thương, cố gắng hết sức để tránh xung đột xảy ra. Đôi khi chỉ
một lời phán xét, chế giễu cũng đủ tạo nên nhiều hành vi ứng xử tiêu cực.
Giáo viên tuyệt đối không được phê bình, phán xét khi các em làm chưa
tốt. Bởi nếu vậy sẽ làm mất sự chủ động, tự tin và hoà nhập cùng bạn bè, các em
sẽ không đủ dũng cảm để thể hiện mình, lâu dần không thể hình thành những
hành vi ứng xử tích cực cho các em. Chuyên gia tâm lí học người Nga Dorothy

Holte đã nói: “Nếu trẻ sống với sự phê bình, thì trẻ sẽ học cách chỉ trích”.
3. Giải pháp 3: Gần gũi, đồng cảm và ứng xử khoan dung, nhân ái
Gần gũi và đồng cảm giúp cho con người thấu hiểu và hòa nhập với thực
tại. Đồng cảm để hiểu cảm xúc của người trong cuộc, ứng xử tinh tế, phù hợp
với từng hoàn cảnh. Từ đó, học sinh biết chia sẻ, giúp đỡ những người xung
quanh và tôn trọng sự khác biệt của người khác.
Giáo viên cần có sự đồng cảm, thiện chí trong giao tiếp với học sinh;
thông cảm với việc bộc lộ cảm xúc hồn nhiên, ngây thơ, đôi khi thiếu kiểm soát
của học sinh, đặc biệt là học sinh đầu lớp 1. Cách ứng xử của giáo viên trước
học sinh cũng chính là giúp học sinh học bằng trải nghiệm thực tế.
Giáo viên có thể thay một số bài tập tình huống trong sách bằng tình
huống thực tiễn. Ví dụ: “Bạn Vũ Anh Kiệt lớp 4E bị mắc bệnh tự kỉ. Hãy hình
dung cách ứng xử của các bạn trong trường với bạn Kiệt và trình bày trước lớp
theo hình thức tiểu phẩm”. Học sinh cần hiểu rõ tính cách, suy nghĩ, hành động
của nhân vật mình đóng vai, tìm ra điểm tốt hoặc chưa tốt của nhân vật. Chia sẻ
trung thực những suy nghĩ, cảm nhận, quan điểm cá nhân.
8


Khi đóng vai, giáo viên hướng dẫn học sinh các bước như sau:
- Bước 1: Tìm hiểu nội dung tiểu phẩm.
- Bước 2: Phân tích tiểu phẩm: Làm việc theo nhóm, thảo luận thể hiện ý
tưởng, nội dung. Phân vai, độc thoại hoặc đối thoại.
- Bước 3: Các nhóm lên đóng vai.
- Bước 4: Phát biểu ý kiến, cảm nhận cá nhân. Học sinh khái quát những
nội dung đã học, viết bài học rút ra từ tiểu phẩm.
Giáo viên phỏng vấn học sinh đóng vai: Để lựa chọn cách ứng xử này,
em đã suy nghĩ như thế nào?
Cả lớp thảo luận, nhận xét: Cách ứng xử đã phù hợp hay chưa phù hợp?
Chưa phù hợp ở điểm nào? Vì sao?

Lưu ý: Tình huống nên mở, không cho trước phần kết. Dành thời gian phù
hợp cho các nhóm chuẩn bị đóng vai. Nên khích lệ học sinh nhút nhát tham gia.
Trong cuộc sống, các em có thể đồng cảm với cảnh ngộ gần gũi: Bạn
đang trực nhật một mình, bác lao công trong trường, những người có hoàn cảnh
khó khăn,... Xa hơn là người dân sống nơi thiên tai, người bị tai nạn,... từ đó
hình thành ý thức, hành vi giúp đỡ, chia sẻ khó khăn với người khác.
Gần gũi và đồng cảm dẫn đến biểu hiện của lòng khoan dung và nhân ái.
Khi đối xử khoan dung, nhân ái, những người có lỗi lầm dễ nhận ra sai trái và có
cơ hội để sửa. Ngay bản thân mình cũng cảm thấy thanh thản, yêu đời, tích cực
làm nhiều việc tốt. Nhưng khoan dung không có nghĩa là bao che, dung túng cho
việc cố tình sai trái, gây tổn hại tới chuẩn mực đạo đức con người.
Trong các tiết học kĩ năng sống ở tiểu học, không có tiết học dành riêng
để rèn kĩ năng này. Giáo viên có thể tùy nội dung từng bài để bổ sung kiến thức
và giúp học sinh rèn cách ứng xử khoan dung qua các hoạt động hàng ngày.
Ví dụ 1: BTTHKNS lớp 4, chủ đề 6 “Kĩ năng kiểm soát cảm xúc”. Giáo
viên cho học sinh hiểu rõ: khi kiểm soát được cảm xúc, con người dễ dàng tha
thứ và từ đó hành vi ứng xử tích cực sẽ thay thế tiêu cực.
Ví dụ 2: BTTHKNS lớp 5, chủ đề 2 “Kĩ năng ứng phó với căng thẳng”.
Học sinh hoàn thành yêu cầu bài tập 3, tình huống 1: “Bị Tâm từ chối cho chép
bài, Quân tức giận gọi Tâm là “đồ tồi” và xui các bạn không chơi với Tâm...”,
giáo viên có thể hỏi thêm: “Nếu em là Tâm, em sẽ ứng xử với Quân như thế
nào?” Từ đó hướng dẫn học sinh cách ứng phó với căng thẳng cho mình mà vẫn
khoan dung, độ lượng và giúp bạn tiến bộ.
9


Trong thực tế, học sinh gặp rất nhiều tình huống tương tự: cãi nhau do
hiểu lầm, tranh trò chơi trên sân, bạn mượn sách không trả,... Các em cần có
cách ứng xử thích hợp hoặc giúp bạn giải quyết mang tính khoan dung, độ
lượng. Do đó, không chỉ trong các hoạt động diễn ra hàng ngày trên lớp mà

trong tất cả các hoạt động ngoại khóa, giờ nghỉ giải lao, lúc ăn trưa,... giáo viên
thường xuyên theo dõi, kịp thời giúp đỡ, khuyến khích các em thể hiện lối sống
khoan dung, nhân ái. Đó cũng là một biểu hiện của hành vi ứng xử tích cực.
1.2.4. Giải pháp 4: Rèn thói quen ứng xử tích cực trong mọi tình huống
Rèn thói quen ứng xử tích cực là việc làm rất cần thiết được thực hiện
trong quá trình lâu dài và liên tục với vai trò quan trọng của người giáo viên.
Thứ nhất, giáo viên cần duy trì và phát huy thái độ tích cực của học sinh.
Học sinh tiểu học thường hay bắt chước, học theo hành động của người
mà mình yêu mến, quý trọng. Các em luôn xem giáo viên là “thần tượng”,
“chuẩn mực tuyệt đối”. Vì vậy ngoài việc thực hiện 3 giải pháp nêu trên, bằng
những hành động, cử chỉ, lời nói cách cư xử hàng ngày, giáo viên tác động liên
tục đến nhận thức, tình cảm và hành vi của mỗi học sinh. Những gì giáo viên
thường xuyên làm quan trọng hơn nhiều so với những gì giáo viên nói. Muốn
học sinh có hành vi ứng xử tích cực, giáo viên hãy làm như thế. Nếu những
người xung quanh có thái độ không nhất quán và tiêu cực, các em cũng sẽ học
theo với thái độ tương tự. Do đó, giáo viên kết hợp với gia đình học sinh để tạo
môi trường thuận lợi cho việc hình thành thói quen ứng xử tích cực cho các em.
Thứ hai, giáo viên ghi nhận, khích lệ và khen ngợi kịp thời hành vi ứng
xử tích cực; nhắc nhở, điều chỉnh hành vi ứng xử chưa phù hợp của học sinh.
Giáo viên nên khen ngợi đúng lúc và thiết thực ngay khi học sinh có hành
vi tích cực. Khi khen học sinh, để đạt được kết quả tốt nhất, giáo viên cần:
- Thể hiện cảm xúc khi khen học sinh: nhìn khích lệ, mỉm cười, gật đầu,...
- Sử dụng nhiều hình thức khen ngợi. Khen bằng lời kết hợp với hành vi
cử chỉ có tính khích lệ, động viên: “Thật đáng ngạc nhiên!”, “Thật tuyệt!”
“Đúng là một niềm vui to lớn!”,... hoặc đơn giản hơn như: tốt, tốt lắm, tuyệt,...
Ví dụ: BTTHKNS, chủ đề 1 lớp 1 và 3: Phần thực hành học sinh đạt kết
quả tốt, giáo viên khích lệ bằng lời khen: “Hôm nay cả lớp đã sắp xếp đồ dùng
cá nhân rất gọn gàng. Điều đó thật tuyệt vời. Cô rất tự hào về các em!”.
- Tập trung vào các việc học sinh làm tốt. Nếu có cả hành vi tốt và không
tốt, giáo viên tập trung vào việc tốt, không nên trách mắng hay phản ứng ngay.

10


- Không so sánh học sinh với các bạn khác. Chỉ cho học sinh thấy sự tiến
bộ hoặc việc làm không tốt của mình bằng cách so sánh hành vi trước đây và
hiện nay của các em.
- Đặt ra các mục tiêu để học sinh tiếp tục phấn đấu. Ví dụ: Bài “Kĩ năng
hợp tác” (Chủ đề 7 lớp 3; chủ đề 3 lớp 5). Giáo viên có thể nói: “Thật vui mừng
khi các em đã tích cực hợp tác với các bạn. Cô sẽ ngạc nhiên và tự hào lắm nếu
các em biết vận dụng kĩ năng này vào tất cả các các tiết học sau”.
- Sử dụng vai trò của tập thể trong khen ngợi học sinh: khen trước lớp,
khen nơi đông người,...
Khen ngợi giúp học sinh định hướng được hành vi đúng, sai và là động
lực giúp học sinh tự tin phấn đấu. Tuy nhiên, trong một số tình huống đặc biệt,
giáo viên phải phê bình để học sinh nhận ra hành vi ứng xử chưa phù hợp. Lưu ý
luôn “khen ngợi rồi mới phê bình”. Hãy luôn dành cho học sinh những lời khen
thích hợp, đúng lúc để phát huy những hành vi ứng xử tích cực ở học sinh.
Thứ ba, tăng cường tổ chức hoạt động ngoại khóa, rèn ý thức trách nhiệm.
Khuyến khích học sinh tham gia các hoạt động sinh hoạt tập thể, trải
nghiệm kỹ năng sống. Qua đó rèn kỹ năng phối hợp, kỹ năng giao tiếp, tinh thần
trách nhiệm,... cho các em.
Rèn ý thức trách nhiệm sẽ hỗ trợ cho học sinh trong việc tiếp nhận các kĩ
năng trong chương trình học kĩ năng sống như: Kĩ năng ra quyết định và giải
quyết vấn đề (lớp 1); Kĩ năng đảm nhận trách nhiệm (lớp 3); Kĩ năng ra quyết
định và giải quyết vấn đề; kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ khi khó khăn (lớp 4); Kĩ
năng ứng phó với căng thẳng, kĩ năng hợp tác, kiên định và từ chối, kĩ năng lập
kế hoạch (lớp 5);...
Cần làm cho học sinh hiểu: không được đổ lỗi, viện cớ mà cần phải thừa
nhận lỗi khi không hoàn thành nhiệm vụ. Để hình thành ý thức trách nhiệm, học
sinh cần rèn tính kỉ luật, biết lập kế hoạch, học cách hợp tác để giải quyết công

việc và cởi mở trong việc tiếp nhận phê bình. Để phát triển ý thức trách nhiệm
thành thói quen tốt, học sinh cần chủ động đặt mục tiêu và chủ động thực hiện.
Ngoài ra, trong quá trình giảng dạy, giáo viên giao nhiệm vụ cụ thể hoặc
hướng dẫn các em tự đảm nhận, từ nhiệm vụ đơn giản đến nhiệm vụ phức tạp,
khó khăn hơn như: trực nhật lớp, hoàn thành nhiệm vụ trong hoạt động nhóm,...
Khi giao nhiệm vụ, giáo viên lưu ý: ngoài giao việc trực tiếp, giáo viên có
thể giao việc theo cách gián tiếp để tránh gây áp lực cho học sinh và có thể kiểm
tra sự tiến bộ trong việc thể hiện thái độ tích cực của mỗi cá nhân.
11


Ví dụ: Để giúp các em rèn ý thức tự giác bảo vệ môi trường, giáo viên có
thể thực hiện theo ba bước cơ bản sau:
Bước 1: Rèn ý thức bảo vệ môi trường.
Giáo viên chủ nhiệm kết hợp với Liên đội, giao nhiệm vụ cụ thể: 5 phút
sạch trường. Học sinh toàn trường vệ sinh trường trong 5 phút. Chia sẻ cảm xúc,
nêu biện pháp rèn ý thức trách nhiệm của mỗi học sinh với môi trường.
Bước 2: Hình thành ý thức tự giác bảo vệ môi trường.
Sau một vài tuần thực hiện bước 1, giáo viên giao nhiệm vụ gián tiếp:
Trong giờ ra chơi, ngoài việc tham gia các trò chơi thật vui vẻ, các em hãy quan
sát và cho biết nhận xét của em về vấn đề vệ sinh trong trường.
Sau giải lao, học sinh tự do chia sẻ: “Nêu nhận xét về vệ sinh sân trường
và việc em đã làm (nếu có) để làm sạch sân trường”. Có thể có nhận xét sau
(Giáo viên ghi nhanh nhận xét và số lượng học sinh có nhận xét đó lên bảng):
- Sân trường sạch sẽ.
- Còn có giấy rác do một số bạn ăn sáng không bỏ rác đúng nơi quy định.
- Thấy bạn vứt vỏ kẹo ở sân, em phê bình và nhắc bạn bỏ rác vào thùng.
- Có giấy ăn ở gần cổng trường. Nhóm em đã nhặt và bỏ vào thùng rác.
Đề nghị:
- Tự giác giữ vệ sinh trường, lớp, khu vệ sinh;

- Đi vệ sinh đúng nơi quy định và nhớ xả nước;...
Bước 3: Không giao nhiệm vụ, nhưng chia sẻ việc các em đã tự giác làm được.
Học sinh chia sẻ việc đã làm và cảm xúc khi ngôi trường thêm sạch đẹp.
Giáo viên khen ngợi và khẳng định: Vệ sinh trường lớp, không vứt rác bừa bãi
là việc làm tích cực thể hiện ý thức trách nhiệm trong việc bảo vệ môi trường.
Với ba bước, giáo viên theo dõi được số lượng học sinh tích cực trong
việc bảo vệ môi trường tăng hay giảm, thường xuyên hay không thường xuyên
để tiếp tục hình thành thói quen tốt cho các em. Giáo viên khen ngợi những học
sinh và nhóm học sinh có trách nhiệm, tự giác bảo vệ môi trường.
2. Khả năng áp dụng của sáng kiến
Những giải pháp của sáng kiến: “Một số biện pháp giáo dục hành vi
ứng xử tích cực cho học sinh tiểu học” đã được áp dụng có hiệu quả ở các lớp
của trường Tiểu học Lê Hồng Phong, năm học 2014-2015 và 2015-2016.
12


Việc sử dụng các biện pháp giáo dục hành vi ứng xử tích cực là điều cần
thiết, phù hợp với nhận thức của học sinh, tác động tích cực đến việc hình thành
nhân cách, giúp trẻ phát triển toàn diện, năng động, cách ứng xử nhanh nhẹn,
tinh tế, phù hợp với quá trình phát triển của xã hội hiện nay.
Qua thực tế giảng dạy và giáo dục, chúng tôi có thể khẳng định: sáng kiến
có thể áp dụng được với tất cả các lớp trong các trường Tiểu học của thành phố
Ninh Bình nói riêng và các địa phương khác nói chung.
Các giải pháp của sáng kiến có thể áp dụng hiệu quả trong các giờ dạy kĩ
năng sống và còn sử dụng trong cả quá trình giảng dạy và hoạt động ngoại khóa.
V. ĐIỀU KIỆN CẦN THIẾT ĐỂ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN

Giáo dục hành vi ứng xử tích cực cho học sinh tiểu học cần thực hiện ở
mọi nơi mọi lúc, trong nhà trường, ở gia đình và ngoài xã hội và thực hiện càng
sớm càng tốt. Giáo dục hành vi ứng xử tích cực không đồng thời đạt được kết

quả như nhau ở tất cả các đối tượng. Do đó, giáo viên cần kiên trì áp dụng để tác
động đến đồng thời các quá trình: nhận thức - hình thành thái độ - thay đổi hành
vi - thói quen ứng xử, tạo cơ hội cho các em vận dụng tự nhiên và linh hoạt vào
các tình huống thực trong cuộc sống.
VI. ĐÁNH GIÁ LỢI ÍCH THU ĐƯỢC DO ÁP DỤNG SÁNG KIẾN

Trong năm học qua, nhờ áp dụng sáng kiến, chúng tôi đã nhận được sự
ủng hộ nhiệt tình từ phía phụ huynh và thu được kết quả đáng khích lệ. Cụ thể:
- Học sinh tích cực hơn trong mọi hoạt động, đồng thời hiệu quả giáo dục ở
tất cả các môn học ngày càng được nâng cao, góp phần tạo nên lớp thanh niên
nhiệt tình, năng động, tích cực vươn lên trong cuộc sống.
- Việc áp dụng sáng kiến sẽ giảm bớt thời gian giáo viên tự học, tự nghiên
cứu và kinh phí cho việc tập huấn cho đội ngũ giáo viên tiểu học.
Do đó, hiệu quả kinh tế sáng kiến mang lại rất lớn, khó có thể tính toán.
Một số hiệu quả cụ thể của sáng kiến:
1. Khắc phục được một số hạn chế, bất cập của nội dung, chương trình
và tài liệu kĩ năng sống cấp tiểu học
Việc giáo dục hành vi ứng xử tích cực cho học sinh đã được thực hiện
song song giữa lí thuyết và thực hành tác động được đến tất cả quá trình nhận
thức - hình thành thái độ - thay đổi hành vi - thói quen ứng xử. Giáo viên kiểm
soát được hành vi của học sinh trong thực tiễn để điều chỉnh cho phù hợp.
13


Phạm vi của nội dung giáo dục mang tính thực tiễn cao do sử dụng tình
huống xảy ra hàng ngày, do đó phát huy triệt để kĩ năng đã học của học sinh.
Việc giáo dục hành vi ứng xử tích cực diễn ra thường xuyên, liên tục nên
thuận lợi cho việc hình thành thói quen ứng xử tích cực cho học sinh.
Phát huy được tư duy sáng tạo của giáo viên. Học sinh nhận thấy việc rèn
thói quen ứng xử tích cực là thiết thực nên chủ động trong mọi hoạt động.

2. Hiệu quả trong việc nâng cao chất lượng học sinh giỏi
Những năm học vừa qua, học sinh đã tham gia khá nhiều cuộc thi: Thi giải
toán qua mạng internet, thi giải toán bằng tiếng Anh, Thi Tiếng Anh, cuộc thi “
Em nói giỏi Tiếng Anh”,... số lượng và chất lượng các cuộc thi tăng lên rõ rệt.
Tổng hợp kết quả như sau:
SỐ LƯỢNG HỌC SINH ĐẠT GIẢI
NĂM
HỌC

2013-2014

CẤP THÀNH PHỐ
Nhất

Nhì

Ba

KK

Nhất

Nhì

Ba

KK

6


8

8

11

0

6

4

5

1 HS đạt Huy chương
Đồng cấp Quốc gia

4

3

6

18

1 HS đạt Huy chương
Vàng cấp Quốc gia

11


14

16 23

9 HS dự thi, 1 HS đạt
Huy chương Đồng

2014-2015
2015-2016

GHI CHÚ

CẤP TỈNH

17

37

31 23

3. Hiệu quả trong việc giáo dục toàn diện cho học sinh
+ Học sinh hiểu biết về các chuẩn mực hành vi đối với bản thân, có hành vi
ứng xử tích cực; mạnh dạn, tự tin, ý thức tự quản tốt hơn.
+ Tăng thêm tình cảm yêu trường mến lớp, hứng thú học tập, tích cực thi
đua thực hiện tốt các hoạt động của trường, lớp.
+ Học sinh có tiến bộ rõ rệt trong học tập và rèn luyện, phát huy được năng
lực cá nhân.
+ Chấp hành tốt nề nếp học tập, nội quy trường lớp, giảm đáng kể số học
sinh vi phạm nội quy, quy định của trường.
+ Tích cực tham gia các hoạt động ủng hộ, đóng góp làm từ thiện.

14


+ Học sinh có ý thức xây dựng môi trường học tập thân thiện, bảo vệ môi
trường sống, biết giữ gìn và bảo vệ đồ dùng cá nhân, tài sản của lớp, của trường.
Trên đây là sáng kiến mà chúng tôi đã áp dụng khi thực hiện công tác giáo
dục hành vi ứng xử tích cực cho học sinh trường tiểu học Lê Hồng Phong và đã
mang lại những kết quả thiết thực. Với những kết quả đạt được, chúng tôi hy
vọng có thể áp dụng kinh nghiệm này với tất cả giáo viên, ở bất cứ lớp nào cấp
Tiểu học để thực hiện tốt nhiệm vụ, mục tiêu giáo dục tiểu học hiện nay. Chúng
tôi rất mong nhận được sự góp ý của các cấp lãnh đạo, các thầy cô và đồng
nghiệp để sáng kiến của chúng tôi được hoàn thiện hơn.
Chúng tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự
thật và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật./.
Ninh Bình, ngày 28 tháng 4 năm 2016
TÁC GIẢ SÁNG KIẾN

Hoàng Thị Thu

ĐỒNG TÁC GIẢ

Trần Thị Kiều Phương

Lương Thị Oanh

Đỗ Thị Như Thanh

TRƯỜNG TH LÊ HỒNG PHONG - THÀNH PHỐ NINH BÌNH

Xác nhận

...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THÀNH PHỐ NINH BÌNH
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................

15


PHẦN PHỤ LỤC
1. Truyện kể: Cái bình nứt
Một người gùi nước ở Ấn Độ, có hai cái bình gốm lớn, mỗi cái được cột vào
đầu của một sợi dây và rồi được đeo lên vai anh ta để mang về nhà. Một trong hai
cái bình thì còn rất tốt và không bị chút rò rỉ nào cả. Cái còn lại bị nứt một chút nên
nước bị vơi trên đường về nhà, chỉ còn lại có hai phần ba.
Hai năm trời anh ta vẫn sử dụng hai cái bình gùi nước đó, mặc dù lượng
nước mà anh ta mang về nhà không còn nguyên vẹn. Và lẽ dĩ nhiên, cái bình tốt tỏ
vẻ hãnh diện, trong khi cái bình nứt thì cảm thấy vô cùng xấu hổ.
Một ngày nọ, cái bình nứt đã thưa chuyện với người gùi nước:
- Tôi rất xấu hổ về bản thân và muốn nói lời xin lỗi ông về thời gian đã qua.
- Sao lại phải xin lỗi? Mà ngươi xin lỗi về chuyện gì? - Anh ta hỏi lại cái bình.

- Suốt hai năm qua, do vết nứt của tôi mà nước đã bị rò rỉ trên đường về nhà, ông
đã phải làm việc chăm chỉ nhưng kết quả mang lại cho ông đã không hoàn toàn như
ông mong đợi - Cái bình nứt đáp.
Với lòng trắc ẩn của mình, người gùi nước rất thông cảm với cái bình nứt,
ông ta nói: "Khi chúng ta trên đường về nhà, ta muốn ngươi chú ý đến những bông
hoa tươi đẹp mọc bên vệ đường".

Chiếc bình luôn mặc cảm với vết nứt của mình...
Quả thật, cái bình nứt đã nhìn thấy những bông hoa tươi đẹp dưới ánh nắng
mặt trời ấm áp trên đường về nhà và điều này khuyến khích được nó đôi chút.
Nhưng khi đến cuối đường mòn, nó vẫn cảm thấy rất tệ bởi nước đã chảy ra rất
nhiều, một lần nữa nó lại xin lỗi người gùi nước.
Người gùi nước liền nói: "Ngươi có thấy rằng những bông hoa kia chỉ nở
một bên vệ đường, chỉ phía bên ngươi không? Thật ra, ta đã biết rất rõ về vết nứt
của ngươi, và ta đã lấy điểm yếu đó để biến nó thành điều có ích. Ta đã gieo một số
hạt hoa ở vệ đường phía bên ngươi, và mỗi ngày trong khi ta gùi nước về nhà, ta đã
tưới chúng từ những chỗ rò rỉ của ngươi. Giờ đây, ta có thể hái những bông hoa
tươi tắn ấy để trang trí nhà cửa của ta. Không có vết nứt của ngươi, ta đã không có
những bông hoa duyên dáng để làm đẹp ngôi nhà của mình".
(Theo ngoisao.net)

16


2. Một số hình ảnh về giáo dục hành vi ứng xử tích cực ở trường Tiểu
học Lê Hồng Phong, thành phố Ninh Bình

Cán bộ, giáo viên và học sinh trường tiểu học Lê hồng Phong
tham gia nhận giải “Tài năng Tiếng Anh”cấp toàn quốc


Hoạt
động
trải
nghiệm: Một nhóm
học sinh lớp 2C mua
sắm ở siêu thị chuẩn
bị cho buổi liên hoan

17


Trò chơi “Kéo co”

Chăm sóc cây, bảo vệ
môi trường

18



×