Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Thiên nhiên trong thơ nôm nguyễn khuyến

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.81 KB, 16 trang )

Thiên nhiên trong thơ Nôm Nguyễn Khuyến

A: PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài.
“Cổ thi thiên ái thiên nhiên mỹ,
Sơn thủy yên hoa tuyết nguyệt phong”
(Hồ Chí Minh)
Từ bao đời nay thiên nhiên tươi đẹp và giàu sức sống không chỉ làm say

đắm lòng người mà còn là đề tài bất tận của thơ ca. Thiên nhiên cũng đã từng thức
dậy ở Nguyễn Khuyến một nguồn thi hứng dạt dào và trong toàn bộ sáng tác, đặc
biệt là các sáng tác bằng chữ Nôm của ông, chúng ta tìm thấy một số lượng đáng
kể thơ về thiên nhiên. Mỗi bài thơ là một thanh sắc, một khối tình riêng. Nó làm
nên dư vị thơ Nguyễn Khuyến – nhà thơ của làng cảnh Việt Nam. Có thể nói, cho
đến hôm nay và mai sau, các bài thơ Nôm về thiên nhiên của Nguyễn Khuyến vẫn
có một giá trị vĩnh hằng, nó là cảnh sắc, là tâm hồn nước Việt.
Sáng tác của Nguyễn Khuyến nhờ đó đã tạo nên sức lôi cuốn, tác phẩm của ông là
đề tài thu hút sự suy nghĩ, tìm hiểu của nhiều cây bút thuộc nhiều thế hệ nghiên
cứu. Mặc dù vậy thì những hiểu biết về thơ văn Nguyễn Khuyến vẫn còn là một
ẩn số với nhiều người. Đặc biệt tính đến nay các công trình chuyên sâu đi tìm hiểu
về “thiên nhiên trong thơ Nôm Nguyễn Khuyến” vẫn chưa thành hệ thống. Vậy
thiên nhiên trong thơ ông được biểu hiện như thế nào? Và những tâm sự mà nhà
thơ gửi gắm đằng sau những bức tranh thiên nhiên ấy ra sao? Để tìm được câu trả
lời trọn vẹn nhất thì việc đi vào tìm hiểu đề tài “thiên nhiên trong thơ Nôm
Nguyễn Khuyến” là một việc làm có ý nghĩa thiết thực. Nó giúp ta hiểu sâu hơn
tác phẩm và những nét nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Khuyến, bổ sung thêm
kiến thức về một tác giả văn học lớn. Trên đây là những lý do chính để tôi lựa
chọn vấn đề trên làm đề tài nghiên cứu của mình.
2.



Lịch sử vấn đề.
Đối với đề tài “Thiên nhiên trong thơ Nôm Nguyễn Khuyến”, đã có rất

nhiều công trình nghiên cứu và bài viết của nhiều tác giả đề cập ở nhiều góc độ,
khía cạnh khác nhau. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu sau đây:

SVTH: Đỗ Thị Mai – 09CVH3

-1-


Thiên nhiên trong thơ Nôm Nguyễn Khuyến
Với công trình nghiên cứu “Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn
hóa”, Trần Nho Thìn đã dành một phần để đi sâu vào tìm hiểu “Từ những biến
động trong quy tắc phản ánh thực tại của văn chương nhà nho đến bức tranh sinh
hoạt nông thôn trong thơ Nguyễn Khuyến”. Ở đây, tác giả đã chỉ ra những mâu
thuẫn và day dứt trong tâm hồn nhà thơ Nguyễn Khuyến trước thời cuộc của đất
nước. Bên cạnh đó, ông đã đi sâu vào tìm hiểu và lý giải về bức tranh thiên nhiên
trong thơ văn Nguyễn Khuyến như sau: “Thiên nhiên làng quê không còn là
không gian thanh tĩnh, xa lánh vật dục, xa lánh chốn thị thành bon chen danh lợi
như không gian thơ nhà nho truyền thống nữa. Không đứng bên ngoài hay bên
trên để quan sát nữa, cụ Tam Nguyên Yên Đổ đã là người có mặt thật sự, hiện
diện thường trực trong cuộc sống hằng ngày ấy, tắm mình, đằm mình trong không
khí ấy” [11, 568].
Đặng Thị Hảo với bài viết “Đề tài thiên nhiên và quan niệm thẩm mĩ” đã
khẳng định: “…thơ thiên nhiên chỉ chiếm một phần ba trong tổng số hơn bốn trăm
bài thơ ông để lại, nhưng những cống hiến quan trọng của nhà thơ trên phương
diện này đã đưa ông lên vị trí những thi sĩ – danh họa tầm cỡ của thơ ca cổ điển
Việt Nam” [10, 258]. Tác giả bài viết còn chỉ ra sự kế thừa và phát triển của

Nguyễn Khuyến khi sáng tác về mảng đề tài thiên nhiên trong thơ ca trung đại
Việt Nam. Đồng thời chỉ ra những nét đặc sắc trong nghệ thuật miêu tả thiên nhiên
của nhà thơ như sau: “Nhà thơ tái hiện thiên nhiên bằng một bút pháp nghệ thuật
điêu luyện, bằng khiếu quan sát tinh tường, một trực giác nhạy bén trước vẻ đẹp
đa dạng của thiên nhiên, cùng với tình yêu quê hương hồn nhiên mà sâu sắc.
Dường như không phút nào nhà thơ ngừng theo dõi và tái hiện những bức tranh
thiên nhiên sống động quanh mình. Ông quan sát thiên nhiên, tắm mình trong thế
giới muôn ngàn màu sắc đó với niềm thích thú đặc biệt” [10, 260].
Nhìn chung, ở mỗi công trình đều có những phát hiện, khám phá rất mới
mẻ và vô cùng sâu sắc. Đây chính là nguồn tư liệu vô cùng phong phú để chúng ta
có thể tìm hiểu về tác gia Nguyễn Khuyến một cách trọn vẹn và đầy đủ nhất.

SVTH: Đỗ Thị Mai – 09CVH3

-2-


Thiên nhiên trong thơ Nôm Nguyễn Khuyến
3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu chính trong đề tài này là những biểu hiện của bức

tranh thiên nhiên trong thơ Nguyễn Khuyến.
Phạm vi nghiên cứu: Chủ yếu trong các tác phẩm thơ Nôm viết về thiên
nhiên của nhà thơ Nguyễn Khuyến.
4.

Phương pháp nghiên cứu.
Trong rất nhiều các phương pháp nghiên cứu về văn học, trong bài viết này


chúng tôi sử dụng những phương pháp sau:
Phương pháp hệ thống, thống kê: tập hợp những bài thơ Nôm viết về thiên
nhiên của Nguyễn Khuyến để làm dẫn chứng, chứng minh cho luận điểm đưa ra.
Phương pháp phân tích, tổng hợp: trên cơ sở những luận chứng đã tìm
được, chúng tôi tiến hành phân tích, tổng hợp để rút ra kết luận.
Đồng thời, trong bài nghiên cứu của mình, chúng tôi còn sử dụng thêm
phương pháp so sánh, đối chiếu để tìm ra những điểm tương đồng và dị biệt của
đối tượng nghiên cứu nhằm lý giải và kết luận cho nguồn gốc vấn đề nghiên cứu.
5.

Ý nghĩa của đề tài.
“Thiên nhiên trong thơ Nôm Nguyễn Khuyến” là một đề tài thú vị và hấp.

Với kết quả đạt được, tôi hy vọng bài viết này sẽ giúp cho người đọc có được cái
nhìn bao quát hơn về thơ ca Nguyễn Khuyến, mà cụ thể hơn nữa là thiên nhiên
trong các sáng tác của ông. Đề tài này còn là lượng kiến thức cơ bản, quan trọng
giúp ích cho chúng ta trong quá trình học tập và nghiên cứu sau này. Đồng thời
bồi đắp tình cảm, thái độ trân trọng với thiên nhiên đất nước.
6.

Bố cục đề tài.
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo; phần Nội

dung được chia thành hai chương chính:
Chương 1: Những vấn đề chung.
Chương 2: Khảo sát thiên nhiên trong thơ Nôm Nguyễn Khuyến.

SVTH: Đỗ Thị Mai – 09CVH3


-3-


Thiên nhiên trong thơ Nôm Nguyễn Khuyến

B: PHẦN NỘI DUNG.
Chương 1: Những vấn đề chung.
1.1 Nguyễn Khuyến – nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam.
Nguyễn Khuyến (1835 – 1909) quê tại thôn Văn Khuê, xã Yên Đổ, huyện
Bình Lục (nay thuộc xã Trung Lương, Bình Lục, Hà Nam). Thuở nhỏ, ông có tên
là Nguyễn Thắng, lớn lên ông được đổi tên thành Nguyễn Khuyến. Tên tự là Mẫn
Chi, hiệu Quế Sơn. Nguyễn Khuyến nổi tiếng là một người thông minh, hiếu học.
Ông để lại hai tác phẩm chính là Quế Sơn thi tập và Tam nguyên Yên Đổ thi ca.
Cuộc đời và văn chương Nguyễn Khuyến gắn rất chặt với đời sống thôn
quê. Trong toàn bộ di sản văn thơ của Nguyễn Khuyến, các bài về đề tài quê cảnh
chiếm một số lượng khá lớn. Nhiều bài (đặc biệt là thơ Nôm) thực sự là những bức
tranh thiên nhiên tuyệt tác. Đọc thơ quê cảnh của Nguyễn Khuyến, điều lý thú
trước hết là ở chỗ, ta bỗng nhận ra được vẻ đẹp quyến rũ lạ lùng của những cảnh
vật đã quá quen thuộc trong cái nhìn, cách cảm, cách nghĩ của chúng ta. Để làm
được điều này không hề đơn giản, chỉ dưới con mắt tinh tế và tấm lòng trân trọng
với quê hương đất nước như Nguyễn Khuyến mới mới thể làm được những điều
kỳ diệu ấy. Ông quả rất xứng đáng với lời phong tặng “Nhà thơ của quê hương
làng cảnh Việt Nam”.
1.2 Thiên nhiên trong thơ văn trung đại Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX.
Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIXlà một trong những giai đoạn phát
triển rực rỡ của nền văn học dân tộc trong suốt thời kỳ phong kiến. Thiên nhiên
trong giai đoạn văn học này cũng vô cùng phong phú, xuất hiện lần lượt với những
đặt sắc khác nhau. Thiên nhiên gắn liền với phong cách tác giả. Nhìn chung thiên
nhiên trong giai đoạn văn học này đã có sự tiến bộ vượt bậc so với các giai đoạn
trước. Thiên nhiên lúc bấy giờ đã có sự trau chuốt về mặt hình thức và hoàn thiện

về mặt nội dung. Đặc biệt, thiên nhiên trong thơ đã được các tác giả chú ý khai
thác để làm bộc lộ cho nội tâm nhân vật và cũng đồng thời giúp cho các nhà thơ có
thể bộc lộ tính cách và tài năng của mình. Như vậy qua việc tìm hiểu thiên nhiên
trong thơ văn trung đại giúp chúng ta đã có cái nhìn bao quát hơn về thiên nhiên
trong cách nhìn của các nhà thơ đương thời. Ở mỗi thời kỳ khác nhau thiên nhiên
SVTH: Đỗ Thị Mai – 09CVH3

-4-


Thiên nhiên trong thơ Nôm Nguyễn Khuyến
trong thơ văn đều mang những đặc điểm riêng, những nét đặc sắc riêng.Tính chất
công thức ước lệ nhìn chung được các tác giả sử dụng nhiều trong việc miêu tả
thiên nhiên nhưng nó cũng dần được các tác giả thay thế bằng những chất liệu của
đời sống hiện thực. Điểm qua một số đặc điểm của thiên nhiên trong thơ văn trung
đại sẽ tạo nền tảng cơ sở để chúng ta đi vào tìm hiểu thơ văn Nguyễn Khuyến. Từ
đó chúng ta sẽ thấy được sự kế thừa và phát huy của ông trong quá trình miêu tả
thiên nhiên.
Chương 2: Khảo sát thiên nhiên trong thơ Nôm Nguyễn Khuyến.
2.1. Bức tranh phong cảnh, đất trời.
2.1.1. Thiên nhiên bốn mùa.
Không biết từ bao giờ, bốn mùa của đất trời xuân, hạ, thu, đông đã trở
thành bến đợi của nhiều thi sĩ. Nguyễn Khuyến cũng không ngoại lệ! Trong tất cả
các bài thơ viết về thiên nhiên, làng cảnh Việt Nam, thì thiên nhiên bốn mùa luôn
được ông dành nhiều ưu ái hơn cả. mỗi bài thơ là một bức tranh tuyệt tác.
Chẳng hạn mùa Đông:
“Xương buốt, tai ù, mình tưởng mượn
Nón che tơi phủ khách thưa lời”
mùa Hạ:
“Bờ dậu mưa rào rung lá thắm

Non xa sấm động toát mây vàng”
mùa Xuân:
“Tựa cửa gió reo man mát mặt
Ngẩng đầu trời nắng hấp hay mi
Thoáng thơm cánh mũi hoa đâu nhỉ?
Ríu rít bờ tre có tiếng chi…”
Nhưng mùa thu lại là một mùa đẹp nhất trong thơ ông. Viết về mùa thu,
Nguyễn Khuyến đã gặp gỡ không chỉ thi ca truyền thống mà còn thi ca hiện đại,
không chỉ thi ca Việt Nam mà còn cả thi ca nước ngoài. Dường như mùa thu trở
thành nơi giao hòa cộng hưởng, là điểm hẹn của tâm hồn thi sĩ muôn phương,
ngàn đời. Tâm hồn nhà thơ vốn mẫn cảm trước cái đẹp, tinh tế nhận ra một nét thu
SVTH: Đỗ Thị Mai – 09CVH3

-5-


Thiên nhiên trong thơ Nôm Nguyễn Khuyến
buồn, một vẻ thu thơ mộng, mê say. Trước đất trời, cảnh vật mùa thu, Nguyễn
Khuyến đã để cung đàn cảm xúc của mình ngân lên, bùng cháy lên thành những
vần thơ tuyệt bút. Dường như mùa thu đã hút lòng thi sĩ, một bài thơ về mùa thu
chưa thỏa tình yêu và xúc cảm của thi nhân trước mùa thu. Chùm ba bài thơ về
mùa thu: Thu điếu, Thu vịnh, Thu ẩm ra đời thỏa mãn nỗi lòng Nguyễn Khuyến.
Vẫn là mùa thu làng cảnh Việt Nam bình dị nhưng dưới con mắt, tâm hồn cảm
nhận tinh tế của Nguyễn Khuyến, mùa thu hiện lên mang những gương mặt, dáng
diệu khác nhau. Nếu Thu điếu là bức tranh mùa thu xanh, sắc xanh trải ngàn, lênh
láng, Thu vịnh là bức tranh mùa thu của gió nhẹ trời cao xanh trong, của tâm trạng
hoài niệm thì Thu ẩm là bức tranh mùa thu đa vẻ đa diện được cảm nhận trong
nhiều thời điểm, nhiều không gian.
Vẫn là bầu trời thu xanh ngắt nhưng mỗi bài thơ là một sắc điệu riêng:
“Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao” – Thu vịnh

“Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt” – Thu ẩm
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt” – Thu điếu
Đến với thế giới mùa thu trong Thu điếu, ta cơ hồ nhận ra cái gì cũng nhỏ bé ,
cũng khẽ khàng:
“Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tý
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”
Cũng thể hiện sự nhẹ nhàng man mát của gió thu, tiết thu. Nguyễn Khuyến trong
Thu vịnh đã viết:
“Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu”
Hòa trong khí thu, tiết thu thanh cao, dịu nhẹ ấy, không gian khung cảnh
mùa thu cũng mở ra nhiều chiều nên thơ và say mê long người. Tập trung nhất
cảm nhận nét thu dịu dàng, thơ mộng nhất có lẽ là ở bài thơ Thu điếu.
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
SVTH: Đỗ Thị Mai – 09CVH3

-6-


Thiên nhiên trong thơ Nôm Nguyễn Khuyến
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối ôm cần lâu chẳng đặng,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”.
Vậy điều gì đã giúp cho chùm thơ thu này vượt qua sự băng hoại của thời
gian, tồn tại mãi trên dòng thơ ở tầng cao, ở chiều sâu của nó, chiếm lĩnh, ăn sâu
trong lòng bạn đọc? Phải chăng là bởi bài thơ đã được tinh luyện, chắt lọc từ hiện

thực cuộc đời đẹp đẽ, nên thơ xen lẫn cả những vất vả, lấm lem bùn đất? Hiện
thực vẻ đẹp quê hương qua lăng kính của nhà thơ đã khúc xạ, phát quang lên trang
viết. Hiện thực mà không sao chép, không quy chụp. Ngược lại, Nguyễn Khuyến
đã hút lấy phần tinh túy nhất nhất của hồn thơ, của tình người để tạo nên trang
thơ.
2.1.2 Cảnh thôn quê, dân dã.
Trước Nguyễn Khuyến, trong văn chương Việt Nam thỉnh thoảng có những
tác phẩm viết về nông thôn, nhưng hình ảnh nông thôn trong văn học nói chung
còn mờ nhạt. Có thể nói, đến với Nguyễn Khuyến bức tranh về nông thôn Việt
Nam mới thực sự đi vào văn học.
“Sớm trưa dưa muối cho qua bữa,
Chợ búa, trầu cau chẳng dám mua”
(Chốn quê)
Trong thơ Nguyễn Khuyến, thiên nhiên được miêu tả cũng là một thiên
nhiên nông thôn rất rõ. Cảnh mùa thu trong thơ của ông không phải là mùa thu ở
miền nào, thời nào, mà là mùa thu ở quê ông, vùng đồng chiêm Bắc Bộ lúc bấy
giờ. Ta có thể nhận thấy điều ấy qua cái màu "xanh ngắt" của bầu trời, đến cái
nước "trong veo" của ao cá; hay từ cái "Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt, Làn
ao lóng lánh bóng trăng loe". Và cũng phải đến Nguyễn Khuyến, trong thơ Việt
Nam mới có những buổi trưa đặc biệt nông thôn như.
“Chuông trưa vẳng tiếng người không biết,
Trâu thả sườn non ngủ gốc cây”
(Nhớ cảnh chùa Đọi)
SVTH: Đỗ Thị Mai – 09CVH3

-7-


Thiên nhiên trong thơ Nôm Nguyễn Khuyến
Viết về nông thôn với những tình cảm đằm thắm như thế, không phải trước

mà sau Nguyễn Khuyến cũng hiếm có người nào viết được như ông. Nông thôn
Việt Nam trong thơ Yên Đổ hiện lên với đầy đủ những âm thanh và màu sắc đặc
trưng từ ngàn đời, độc đáo mà gần gũi, thân quen mà đẹp đẽ đến diệu kỳ. Một
tiếng trẻ bi bô học bài, tiếng ếch kêu vang rền như tiếng trống của trẻ nhỏ, tiếng
chim ríu rít trên cành tre, một đêm trăng trữ tình, một con “trâu già cọ gốc phì hơi
nắng”. Đó còn là âm thanh và màu sắc của những ngày hội, ngày xuân, đêm hè:
“Ình ịch đêm qua trống các làng
Ai ai mà chẳng rước xuân sang”
Trước lũy nhấp nhô cò cụ Tổng
Cách ao lẹt đẹt pháo thày Nhang”
(Khai bút)
Hay:
“Năm gian nhà cỏ thấp le te
Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe”
(Thu ẩm)
Đó cũng là nông thôn với cảnh đời lam lũ, cái lo toan tất bật của công việc đồng
áng, vị chua mặn của giọt mồ hôi vất vả, cảnh lụt lội nước ngập trắng đồng
“Bóng thuyền thấp thoáng dờn trên vách
Tiếng sóng long bong vỗ trước nhà”
(Vịnh lụt)
Hoặc:
"Năm nay cày cấy vẫn chân thua
Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa
Phần thuế quan thu, phần trả nợ
Nửa công đứa ở nửa thuê bò
Sớm trưa dưa muối cho qua bữa
Chợ búa trầu cau chẳng dám mua”
(Nhà nông than thở)

SVTH: Đỗ Thị Mai – 09CVH3


-8-


Thiên nhiên trong thơ Nôm Nguyễn Khuyến
Chính sự hòa mình vào cuộc sống hồn nhiên nơi thôn dã đã giúp cho nhà
thơ giải tỏa được tâm trạng day dứt đau khổ và mặc cảm của mình. Nguyễn
Khuyến đã tìm thấy trong thiên nhiên, trong cuộc sống lam lũ của người nông dân
quê ông sự thanh thản của tâm hồn, niềm lạc quan yêu đời, tình cảm xóm làng
đằm thắm. Thế nhưng đằng sau những vần thơ ấy lại luôn chất chứa một nỗi niềm
nóng bỏng về vận mệnh của đất nước về cuộc sống của nhân dân.
2.1.3. Danh lam thắng cảnh.
Bên cạnh việc miêu tả phong cảnh thiên nhiên nơi thôn dã, Nguyễn
Khuyến còn miêu tả vẻ đẹp của những danh lam thắng cảnh mà nhà thơ đã từng
đặt chân đến. Nào là núi Tam Điệp, núi Dục Thúy, núi An Lão, núi Ngũ Hành, rồi
cảnh chùa Đọi, chợ trời Hương Tích, đền trên núi Dạ, sông Thạch Hãn…
Bức tranh thiên nhiên mà nhà thơ thể hiện ở mảng này không còn bó hẹp
trong phạm vi thôn Vị Hạ, xã Yên Đổ, huyện Bình Lục, Hà Nam nữa mà đã mở
rộng ra phạm vi danh lam thắng cảnh của đất nước. Mỗi tên núi, tên sông, tên chùa
đều được Nguyễn Khuyến miêu tả theo cách riêng. Nhưng qua cái nhìn của nhà
thơ, ta thấy từ sự quan sát thực tế đến khi đưa vào trong thơ, Nguyễn Khuyến đã
có sự lựa chọn và quan sát rất tinh tế. Chẳng hạn trong bài Vịnh núi An Lão.
“Mặt nước mênh mông nổi một hòn,
Núi già nhưng tiếng vẫn còn non,
Mảnh cây thưa thớt đầu như trọc,
Ghềnh đá long lay ngấn chửa mòn.
Một lá về đâu xa thăm thẳm,
Nghìn nhà trông xuống bé con con,
Dẫu già đã hẳn hơn ta chửa?
Chống gậy lên cao gối chẳng chồn!”

(Vịnh núi An Lão)
Bài thơ không chỉ vẽ nên phong cảnh trước mắt nhà thơ mà còn làm nổi bật tư thế,
và vị thế của tác giả khi đứng trước núi non hùng vĩ. Hay ở bài thơ Núi Tam Điệp
ta sẽ bắt gặp cái nhìn thật phóng khoáng của nhà thơ:

SVTH: Đỗ Thị Mai – 09CVH3

-9-


Thiên nhiên trong thơ Nôm Nguyễn Khuyến
“Phóng mắt đầu non Tam Điệp rõ,
Ngoảnh đầu dòng nước Cửu Long xa.
Xanh pha sườn núi màu cây lẫn,
Trắng lộn chân mây mặt bể mờ.
Những muốn ăn thề cùng suối đá,
Biết đâu suối đá có tin mà”.
( Núi Tam Điệp)
Một bên là núi, một bên là biển lại có màu xanh của cây và màu mây trắng mờ ảo
tạo nên một cảnh vừa hùng vĩ lại vừa nên thơ. Tầm nhìn tinh tế của nhà thơ đồng
thời cũng thể hiện tấm lòng yêu quý cảnh thiên nhiên, đất nước.
“Chim chiều đôi tiếng véo von,
Tình xưa gởi lại nước non bóng tà”.
Tiếng lòng của nhà thơ tưởng như đang hòa cùng cảnh sắc quê hương đất nước.
Tấm lòng ấy thật đáng quý, đáng trân trọng biết bao! Đằng sau những bài thơ viết
về danh lam, thắng cảnh, đất nước của Nguyễn Khuyến ta nhận ra tình yêu thiên
nhiên tha thiết và tấm lòng trân trọng cảnh đẹp quê hương, đất nước của nhà thơ.
2.2. Tình cảm, thái độ của nhà thơ với thiên nhiên.
2.2.1. Giao hòa cùng thiên nhiên.
Sống sâu sắc và nặng nghĩa, nặng tình với quê hương với con người,

Nguyễn Khuyến đã thấm vào trong máu thịt của mình tình quê, vẻ đẹp quê hương.
Các bài thơ viết về thiên nhiên của ông luôn thể hiện sự đồng điệu của tâm hồn với
thiên nhiên, giao hòa, say đắm cùng cảnh vật, quê hương. Nhà thơ mở rộng tâm
hồn mình ra để đón nhận niềm giao cảm với đất trời. Thiên nhiên với đầy đủ gió,
trăng, sương, khói, lại còn có núi non và xóm làng bên dưới. Tư thế của người
ngắm cảnh như đang vượt lên trên đỉnh núi chót vót, tưởng chừng có thể chạm
được vào mặt trăng và sờ thấy đám mây xanh trước mắt. Trong nhiều bài thơ Nôm
của Nguyễn Khuyến, ta thấy ông đã mở rộng lòng mình ra để thưởng thức thiên
nhiên bằng tất cả các giác quan.
“Gió đâu lọt chốn thư phòng,
Bên song hây hẩy, giấc nồng vừa tan.
SVTH: Đỗ Thị Mai – 09CVH3

- 10 -


Thiên nhiên trong thơ Nôm Nguyễn Khuyến
Ống tay thoang thoảng mùi lan,
Chén trà lóng lánh ánh lên mái hồi.
Cóc vồ con kiến tha mồi,
Chim rình bọ ngựa đang ngồi bắt ve.
Mảnh vườn cũng lắm thú ghê,
Ghế bên ngồi nghỉ tỉ tê một mình”.
(Vườn nhỏ)
Nhà thơ không chỉ quan sát thiên nhiên, lắng nghe những âm thanh của
cuộc sống mà còn lắng đọng tâm hồn mình trước những khung cảnh thôn quê gần
gũi, mộc mạc. Ông hóa thân vào thiên nhiên, vừa chan hòa vừa say sưa. Trước
cảnh đẹp của thiên nhiên, nhà thơ như quên đi mọi vất vả mệt nhọc đời thường.
Nguyễn Khuyến không nhìn thiên nhiên như một người ngắm cảnh bình
thường mà bằng cái nhìn thẩm mĩ, đầy tinh tế của một thi nhân với phong thái ung

dung, nhàn tản, say sưa với cảnh đẹp đất nước.
“Ngũ Hành rực rỡ, ngất tầng cao,
Mặt biển non tiên chẳng khác nào.
Thỏ mọc ác tà vòng trước động,
Cồn dâng sóng vỗ rộn lưng đèo.
Trời quang, vách dầm hơi nước,
Đêm vắng, hồi chuông rớt ngọn triều.
Ngắm cảnh non sông kỳ tuyệt ấy,
Nợ trời bỗng chốc chẳng còn đeo”.
(Lên núi Ngũ Hành lưu đề)
2.2.2. Tâm trạng ưu tư, day dứt.
Sống giữa thời kỳ nước mất nhà tan, Nguyễn Khuyến không đành nhìn đất
nước rơi vào tay giặc, lại không cam tâm ở lại triều đình để làm bù nhìn nên ông
quyết định xin cáo quan về ở ẩn. Những ngày ở ẩn tại quê hương là những ngày
tháng nhà thơ sống rất gần gũi, chan hòa với thiên nhiên. Thế nhưng bên cạnh
những bức tranh thiên nhiên tươi đẹp tràn trề sức sống của ông đôi khi ta vẫn bắt
gặp một vài bài thơ chất chứa nỗi niềm ưu tư, day dứt.
SVTH: Đỗ Thị Mai – 09CVH3

- 11 -


Thiên nhiên trong thơ Nôm Nguyễn Khuyến
“Hè này nóng khổ quá,
Cỏ khô, đầm cạn cả.
Lại thêm ngọn gió tây,
Vật gì chẳng tàn tạ.
…Than ôi! Khổ trăm chiều!
Sao lại còn nghiệt ngã?”
(Mùa hè năm Nhâm Dần)

Không gian bốn mùa trong thơ Nguyễn Khuyến không chỉ có tác dụng tả cảnh một
cách đơn thuần mà đó còn là cách kín đáo để nhà thơ bộc lộ tâm sự yêu nước của
mình. Nguyễn Khuyến rất riêng tư nhưng nhìn chung vẫn nằm trong phạm vi của
thi ca trung đại: tả cảnh ngụ tình, tỏ chí một cách kín đáo trong những uẩn ức tâm
trạng.
Tâm tình với đất nước, quê hương qua cảnh thu đã được gửi gắm trọn vẹn,
tạo cảm xúc đồng điệu của kẻ sĩ thời đại và làm rung động bao thế hệ. Cảm xúc
của Nguyễn Khuyến trong chùm thơ thu đều bắt nguồn từ cảnh vật. Ba bài thơ gắn
với chủ thể trữ tình là nhà nho Nguyễn Khuyến bất lực trước thực trạng đất nước,
với nỗi niềm kín đáo lan toả trong từng bài: nhân hứng nhưng thẹn với ông Đào
đành cất bút (Thu vịnh), câu cá mà giật mình “cá đâu đớp động dưới chân bèo”
(Thu điếu), uống rượu thì say nhè (Thu ẩm). Đằng sau bức tranh thu buồn bã, rõ
ràng có một nỗi uất ức thời cuộc hiện hình trong nhân vật trữ tình. “Tựa gối ôm
cần” là tư thế của người câu cá, cũng là một tâm thế nhàn, thoát vòng danh lợi.
Cái âm thanh “cá đâu đớp động”, gợi lên sự mơ hồ, xa vắng và chợt tỉnh. Người
câu cá ở đây chính là nhà thơ, một ông quan to triều Nguyễn, yêu nước thương
dân nhưng bất lực trước thời cuộc, không cam tâm làm tay sai cho thực dân Pháp
nên đã cáo bệnh, từ quan. Đằng sau câu chữ hiện lên một nhà nho thanh sạch trốn
đời đi ở ấn. Đang ôm cần câu cá nhưng tâm hồn nhà thơ như đang đắm chìm trong
giấc mộng mùa thu, bỗng chợt tỉnh trở về thực tại khi “cá đâu đớp động dưới
chân bèo”. Cho nên cảnh vật ao thu, trời thu êm đềm, vắng lặng như chính nỗi
lòng của nhà thơ vậy: buồn cô đơn và trống vắng. Chính trong không gian thu,

SVTH: Đỗ Thị Mai – 09CVH3

- 12 -


Thiên nhiên trong thơ Nôm Nguyễn Khuyến
khung cảnh thiên nhiên và tâm trạng thi sĩ được hiện lên một cách rõ nét nhất với

nghệ thuật gợi, chấm phá qua hình ảnh của trời thu. Cái trong veo của nước:
Nước biếc trông như tầng khói phủ (Thu vịnh);
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo (Thu điếu);
rồi lá vàng, tiếng ngỗng kêu, cần trúc lơ phơ cùng tâm sự thời thế của thi nhân khi
cảm thấy mình bất lực trước cuộc đời đã tạo nên bức tranh thu thiên nhiên và bức
tranh thu của lòng người mang những nỗi niềm sâu kín. Không gian thu là cả một
bức tranh vừa trong trẻo, xao xuyến, lặng buồn, vừa huyền ảo vừa thoáng đãng,
vừa như mang bao niềm hoài niệm, vừa chứa đựng nỗi bâng khuâng… hiện hình
rõ nét dần qua từng câu thơ điểm cảnh của nhà thơ. Trong những cơn hoạn nạn:
thiên tai địa ách, đói rét, ngoại xâm... giọng thơ của ông trở nên bi thiết trước số
phận của cộng đồng mà ông là một thành viên không tách rời:
“Quai Mễ Thanh Liêm đã lở rồi
Vùng ta thôi cũng lụt mà thôi!
Gạo dăm ba bát cơ còn kém
Thuế một vài nguyên dáng vẫn đòi...
Đi đâu cũng thấy người ta nói
Mười chín năm nay lại cát bồi!”
(Lụt Hà Nam)
Trước thảm cảnh của người dân, hơn ai hết, Nguyễn Khuyến ý thức được
trách nhiệm của mình đối với sự tồn vong của đất nước. Vì thế, tâm trạng của ông
lúc nào cũng ưu tư, khi đứng trước thiên nhiên.
“Có phải tiếc xuân mà đứng gọi,
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ.
Thâu đêm ròng rã kêu ai đó,
Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ”.
(Cuốc kêu cảm hứng)
Nhà thơ đã mượn tiếng cuốc kêu để thể hiện tâm trạng nhớ nước da diết, khắc
khoải của mình. Sống trên đất nước mà vẫn nhớ về đất nước, nhớ về những ngày
tháng thanh bình của dân tộc.
SVTH: Đỗ Thị Mai – 09CVH3


- 13 -


Thiên nhiên trong thơ Nôm Nguyễn Khuyến
2.3 Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong thơ Nôm Nguyễn Khuyến.
Cùng bắt nguồn từ hiện thực, vẻ đẹp thiên nhiên và tâm trạng trước cảnh
vật, đất trời. Nhà thơ luôn đặt mình trong hành trình khám phá, chinh phục và sang
tạo cái mới. Có còn gì chăng nếu thiên nhiên muôn đời vẫn thế trong thơ? Cảm
quan người nghệ sĩ tạo nên sự khác biệt mới lạ trong cách cảm nhận, thể hiện so
với các nhà thơ khác và mỗi người lại phải cố gắng không giẫm đạp lên dấu chân
người khác và không lặp lại chính mình. Nhờ thế mỗi bài thơ của Nguyễn Khuyến
là mỗi vẻ đẹp riêng, sức hấp dẫn riêng sống mãi. Phải chăng như Nguyễn Tuân
phát biểu: “thơ là mở ra một cái gì mà trước câu thơ đó, trước nhà thơ đó như là
vẫn phong kín”. Mới về nội dung, mới về cảm xúc và mới về nghệ thuật biểu hiện
nữa. Bởi như L. Lêônốp đã nói: “Mỗi tác phẩm văn học phải là một phát minh về
hình thức và một khám phá về nội dung”. Vẫn là cảnh ấy, tình ấy nhưng ở mỗi bài
thơ, Nguyễn Khuyến đã tìm cho mình hệ thống phương tiện ngôn ngữ riêng. Câu
chữ thay dổi, nét chữ cơ hồ cũng khác trước. Bài thơ câu thơ không lặp lại. Những
lớp nghĩa, những tầng nghĩa khép mở, đổi thay trong hình thức ngôn từ. có nhiêu
tin hoa của ngôn ngữ tiếng Việt trong sang, biểu cảm, Nguyễn Khuyến đã dành
trọn để thể hiện mùa thu làng quê. Câu chữ bình dị mà trong sang, hình ảnh gần
gũi mà giàu sức gợi, sức cảm. Nội dung hình thức thống nhất, quyện hòa, đan xen,
tạo nên sức hấp dẫn thu hút người đọc vào hành trình bất tận.
Vẻ đẹp chắt lọc từ cuộc đời, tình cảm chân thành mãnh liệt vút lên từ trái
tim cùng với sự sang tạo, đổi mới không ngừng trong sự sáng tạo, đổi mới không
ngừng trong cảm nhận và biểu hiện vẻ đẹp của thiên nhiên đã làm nên sức hấp dẫn
không gì cưỡng lại nổi của chùm thơ Nôm viết về thiên nhiên. Phải chăng đó cũng
là yêu cầu đặt ra đối với bất kỳ một tác phẩm văn học đích thực nào? Vẻ đẹp cuộc
đời sẽ nuôi dưỡng bồi đắp nguồn chất liệu sẽ xây nên tác phẩm, tạo nên niềm xúc

cảm chân thành, mãnh liệt mình cô đọng, mà tinh lọc nên trang văn. Nhưng hơn
hết, sự sáng tạo là không ngừng nghỉ. “văn chương không cần đến những người
thợ khéo tay, làm theo một kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những
người biết đào sâu, tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những gì
chưa có”. Một tác phẩm như thế tất sẽ tạo nên một lực đủ để nâng nó vượt lên trên
SVTH: Đỗ Thị Mai – 09CVH3

- 14 -


Thiên nhiên trong thơ Nôm Nguyễn Khuyến
mọi dập vùi của định kiến. Tác phẩm văn học thực sự có giá trị khi nó nói thật,
chân thành, xúc động và nhất là nói hay về một vẻ đẹp, một cảnh, một tình. Sự đòi
hỏi của văn chương là nghiệt ngã, là khắt khe. Chẳng thế mà Nguyễn bính từng
phải thốt lên:
“Ai bảo dính vào duyên bút mực
Suốt đời mang lấy số số long đong”
Tác phẩm có giá trị sẽ mãi trường tồn cùng thời gian. Cùng với nó, tên tuổi
của nhà văn, phong cách tác giả sống mãi. Mỗi tác phẩm văn học đích thực là một
động lực thúc đẩy sự phát triển của dòng văn học, của phong cách sáng tác và cả
nền văn học nói chung. Có thể nói, Nguyễn Khuyến bằng tài năng và trái tim
người nghệ sĩ đã cảm nhận và thể hiện tinh tế thiên nhiên với sắc vẻ riêng, nên thơ
và hấp dẫn lạ kỳ. Nó đã đạt được yêu cầu chung với bất kỳ một tác phẩm văn học
chân chính nào: “thơ là hiện thực, là cuộc đời và còn là thơ nữa”. Cuộc đời cộng
hưởng trong cái nhìn, cảm quan người nghệ sĩ tạo nên vốn tác phẩm làm thành tác
phẩm. Chất hồ dính nhào nặn nó chính là sức liên tưởng, tưởng tượng, sự sáng tạo
của riêng thi sĩ. Hơn thế nữa Nguyễn Khuyến còn là thi sĩ bậc thầy trong việc sử
dụng thơ Nôm để sáng tác, cộng thêm vốn ngôn ngữ phong phú, uyên bác và gần
giũi với nhân dân. Phải chăng vì thế mà các bài thơ thiên nhiên cùng với tê tuổi
Nguyễn Khuyến sống mãi. Thực tế văn học đặt ra yêu cầu bức thiết cho mỗi nhà

văn khi bước vào làng văn là phải sống thực sự mà đón nhận tinh lọc cuộc đời, đãi
cát tìm vàng giữa bể đời rộng lớn, tinh luyện nên chất muối cuộc đời từ sự kết hợp
nhuần nhuyễn giữa khách quan hiện thực và chủ quan nhà thơ, kết hợp cuộc đời
với trái tim giàu xúc cảm, dễ ngân dung của người sáng tác. Đó không chỉ là đòi
hỏi cá nhân nhà thơ mà cả với dòng thơ, nền thơ. Nhìn chung, nghệ thuật miêu tả
thiên nhiên trong thơ Nguyễn Khuyến đã góp phần rất lớn trong việc tạo nên thành
công cho những bức tranh phong cảnh của nhà thơ. Bút pháp tả thực làm cho bức
tranh thiên nhiên trở nên vô cùng tươi đẹp và gần gũi. Nghệ thuật tạo dựng hình
ảnh làm cho thiên nhiên trở nên có hồn và vô cùng sống động và những chất liệu
đời thường lại thể hiện được sự gắn bó tha thiết của nhà thơ đối với quê hương,
làng cảnh Việt Nam.
SVTH: Đỗ Thị Mai – 09CVH3

- 15 -


Thiên nhiên trong thơ Nôm Nguyễn Khuyến

C: PHẦN KẾT LUẬN
Là một thi sĩ mang trái tim giàu xúc cảm, những áng thơ viết về thiên nhiên
của Nguyễn Khuyến đều được viết nên, nhào nặn nên từ những gì rất thực, rất đời,
từ vẻ đẹp của quê hương. Nhưng hơn thế, cái để tác phẩm sống là tinh thần mà nhà
văn gửi gắm, trao trọn cho nó. Một trái tim yêu quê, một xúc cảm chân thành nồng
nhiệt trước cuộc đời, trước cái đẹp đã thăng hoa, vút lên thành những vần thơ.
Tình cảm cùng sự liên tưởng, chọn lựa của nhà thơ đã thổi phồng căng cánh diều
hiện thực của quê hương. Hồn thơ tung cánh, câu thơ vút lên, ngân nga như câu
hát. Để rồi những xúc cảm chân thành của nhà thơ lay động tới miền sâu nhất của
cảm xúc bạn đọc. Từ trái tim đến trái tim, tác phẩm thơ sống mãi, trường tồn, vượt
qua mọi thử thách của thời gian, sự cách trở cũng không gian, tri âm với triệu con
người


SVTH: Đỗ Thị Mai – 09CVH3

- 16 -



×