Tải bản đầy đủ (.ppt) (29 trang)

Tiểu luận tôn giáo học đại cương: Lục độ ba la mật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (246.02 KB, 29 trang )

TÔN GIÁO HỌC ĐẠI CƯƠNG
Giảng viên: Bùi Trọng Tài
Nhóm thực hiện 07
Lớp NO5


Danh sách nhóm 5

1. Trần Thị Mai Lan
2. Vũ Kiều Oanh
3. Nguyễn Thu Trang
4. Nông Thúy Hằng
5. Nguyễn Thị Hà
6. Bùi Thị Lệ Nhài

7. Hoàng Thị Hải
8. Tống Đức Thanh
9. Trần Thị Mùi
10. Lý Thị Loan
11. Tạ Bích Huyền
12. Hoàng Thị Huyền


MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
Lục độ ba la mật.
1. Bố Thí.
1.1 Tài thí.
1.2 Pháp thí.
1.3 Vô úy thí.
2. Trì giới.


3. Tinh tấn.
4. Nhẫn nhục.
5. Trí tuệ.
6. Thiền định.
KẾT LUẬN


NỘI DUNG
Lục độ ba la mật.
Lục là sáu. Độ là vượt qua. Ba la mật nguyên
âm tiếng phạn là paramita, người Trung hoa dịch
nghĩa là “bỉ ngạn đáo” , nói theo tiếng việt là “ đến
bờ bên kia”.. Kẻ tu hành muốn đến bờ giải thoát
hoàn toàn, cần phải tu cả phước lẫn tuệ. Tu phước
gồm có: “ bố thí, trì giới, tinh tấn và nhẫn nhục” . tu
tuệ là “ thiền định và trí tuệ”


1.Bố Thí.
“Bố” nghĩa là rộng rãi, cùng khắp.
“Thí” là cho, là trao tặng.
Bố thí là cho, là tặng cùng khắp, tặng cho
tất cả mọi người, mọi vật, mọi nơi.
“ Bố thí ba la mật” gồm các loại sau
+Tài thí
+Pháp thí:
+Vô úy thí:
Ba yếu tố tạo ra bố thí : người cho, món
đồ và người nhận.



Ví dụ:
Ta có trong tay một món đồ mà
muốn cho người khác nhưng lại không
có ai nhận thì không có sự bố thí. Chúng
ta cần có một món đồ nhưng lại không
có người cho thì cũng không có sự bố
thí. Nhưng có người sẵn sàng nhận đồ
mà không ai cho thì cũng không có sự
bố thí.


1.1 Tài thí.
Tài thí tức là đem tiền bạc, của cải, vật thực
của mình ra cho người thiếu thốn. Đôi khi đem
những vật quý báu nhất của mình như thân mạng,
đời sống của mình để cứu vớt kẻ khác ra khỏi
nguy nan. Tài thí có hai loại: nội tài thí và ngoại
tài thí.
Nội tài thí: là bố thí những vật quý báu nhất
của mình như thân mạng, đời sống của mình.
Ví dụ: Trong cuộc sống hằng ngày, chúng
ta có thể bỏ ra công giúp sức như làm công quả
cho chùa, giúp đỡ người già mang vác vật nặng
hoặc tiếp máu cho bệnh nhân ở bệnh viện…


Ngoại tài thí: là bố thí những
vật thường dùng của mình như
thức ăn đồ mặc, tiền bạc, xe cộ,

ruộng vườn, nhà cửa v.v... Đem
những vật ấy ra cho những người
túng thiếu, nghèo khổ thì gọi là
thí ngoại tài.


1.2 Pháp thí.
Pháp thí tức là dùng lời hay, lẽ
phải, những chân lý đúng đắn, những
lời dạy quí báu của đức Phật để chỉ
bày, khuyên bảo người khác, hoặc
chính mình y theo giới luật của Phật
tu hành thành thật để làm khuôn mẫu
cho người bắt chước, bỏ dữ theo
lành, cải tà quy chánh.


Pháp thí không chân chính là giảng
dạy những giáo pháp ngoài đạo. Không đưa con
người tới vòng giải thoát luôn hồi.
Pháp thí chân chính là giảng dạy những
giáo pháp đưa con người đến giải thoát tối cao.
Pháp thí có hiệu quả lâu bền và có công năng
cứu độ hơn cả tài thí, tài thí chỉ giúp người khác
đỡ túng thiếu về phương diện vật chất trong một
thời gian hay nhiều nhất là cứu giúp một đời
người nhưng pháp thí giúp đỡ người rất nhiều về
tinh thần, không riêng gì đối với người nghèo
khó mà cả người giàu sang, chức quyền,không
chỉ có ảnh hưởng tốt trong một giai đoạn mà

gieo nhân lành cho nhiều đời sau.


1.3 Vô úy thí.
Vô úy: nghĩa là không sợ. Vô úy thí là lấy
lời nói hay việc làm giúp cho người khác đang
sợ hãi thành hết sợ. đem sự bình tĩnh và an vui
đến cho mọi người và mọi vật. đời sống đã khổ
lại càng thêm khổ vì sợ, cho nên làm cho người
hết sợ, chính là đã cứu cho họ bớt đi quá nửa
khổ đau trong kiếp sống.
Ví dụ: Khi nhỏ chúng ta sợ bị mắng, sợ
đánh đập, sợ ma quỉ... khi lớn lên lại sợ thiếu ăn,
thiếu mặc, sợ giặc, sợ thiếu công danh, sự
nghiệp; khi già thì sợ đau, sợ ốm, sợ già, sợ
chết... Chỉ toàn sợ và sợ.


2. Trì giới.
"Trì" là giữ chặt chẽ.
"Giới" là những điều răn dạy, ngăn
cấm, những qui luật mà đức Phật đã chế ra
để hướng dẫn các Ðệ tử của Ngài đi vào con
đường chánh đạo và tránh cho họ những tội
lỗi mà họ có thể rơi vào, trên con đường đi
đến thành quả của đạo phật.
Vậy trì giới ba la mật là một môn tu để
đi đến bờ giác ngộ bằng cách giữ gìn
nghiêm chỉnh, trọn vẹn giới luật mà đức
Phật đã răn dạy.



Vậy ở trì giới ba la mật thì
những ai phải theo giới luật?
Tùy chúng sinh và tùy phương
cách tu hành, Đức Phật đã chế ra rất
nhiều giới luật để họ nhìn theo đó để
tu hành. Trì giới được chia ra làm ba
cấp:

Giới tu tại gia.

Giới tăng sĩ.

Bồ- tát giới.


Trì giới thì gồm:Trì giới chấp tướng và trì
giới không chấp tướng.
Trì giới có một hiệu lực rất lớn lao
cho việc tu hành của người phật tử . Phật
tử thọ trì giới luật nghiêm trang thanh
tịnh thì lúc hiện tiền tâm được thảnh thơi,
an vui không có gì phải ân hận.Đối với
làng nước, người tu hành được niềm nở
kính nhường,nhất là đối với các tín đồ lúc
nào cũng được hoan hỷ,quý trọng.


3. Tinh tấn.

“Tinh” là thuần một thứ, chuyên một việc,
không có xen lẫn một thứ gì, một việc gì khác
vào.
“Tấn” là tiến tới mãi không dừng, không
gián đoạn hay thối lui.
Hai chữ này nói theo nghĩa thông thường là
siêng năng, chuyên cần tu tập để tiến tới con
đường Đạo.Người sống tiêu cực, uể oải, không
tinh tấn, dù trẻ tuổi và khỏe mạnh, vẫn lười biếng
và có tinh thần suy nhược, những người như thế
không có trí tuệ để ngộ đạo.


Ví dụ:
Người làm ruộng dù khỏe mạnh
mà không siêng năng cày cấy, bón
phân tát nước, thức khuya dậy sớm,
lo lắng mọi việc, thì đến mùa lúa,
chắc chắn sẽ bị thất bại. Cũng như
người đi buôn bán, không siêng năng
thức khuya dậy sớm, mua tảo bán
tần, thì sẽ bị lỗ vốn, dẫn đến mắc nợ,
nên phải thế chấp của cải…


Tinh tấn gồm:
- Tinh tấn ngăn các điều ác đừng sinh.
Nghĩa là các điều ác từ trước đến giờ mình
chưa làm đến, thì từ nay về sau cũng phải
tinh tấn không cho nó phát sinh thêm nữa.

Ví dụ: từ trước đến giờ, ta không hề sát
sinh hại vật, trộm cắp, nói lời dối trá và cờ
bạc rượu chè v.v... thì từ đấy về sau ta cũng
phải tinh tấn thêm lên, cố gắng giữ gìn cho
đừng sinh ra nữa.


- Tinh tấn diệt cho mau các điều ác đã
sinh. Nghĩa là các điều ác mình đã làm rồi, thì
phải tinh tấn diêt trừ cho nhanh.
Ví dụ: Ta lỡ giận giữ kiêu căng với người
khác thì nay ta phải tinh tấn đừng cho nó tăng
trưởng thêm nữa mà phải diệt trừ cho nhanh.
- Tinh tấn làm cho điều lành phát sinh.
Nghĩa là từ trước đến nay có những điều lành ta
chưa thực hiện được, thì nay ta phải tinh tấn để
thể hiện nó ra trong hành động.
Ví dụ: Từ trước đến giờ ta chưa làm việc
từ thiện , chưa giúp đỡ người nghèo thì từ nay ta
phải tinh tấn làm cho các điều này phát sinh.


- Tinh tấn làm cho các điều
lành tăng trưởng. Nghĩa là các
điều lành đã được phát sinh rồi
thì ta phải lam cho nó tăng
trưởng nhiều hơn.
Ví dụ: Ta đã làm những điều
thiện rồi thì ta càng phải làm
nhiều hơn nữa.

Tinh tấn gồm:Tinh tấn chấp tướng
và tinh tấn không chấp tướng


4. Nhẫn nhục.
Khái niệm: “Nhẫn” là nhịn, chịu
đựng những cảnh trái mắt , trái với lòng
mình.
“Nhục” là điều sỉ nhục, điều xấu hổ,
làm tổn thương đến lòng tự trọng của
mình. Nhẫn nhục ba la mật là nhẫn nhục
đến chỗ tột cùng không còn ai có thể nhẫn
nhục hơn thế.
Nhẫn nhục gồm: Thân nhẫn ( chịu đựng
về thể xác), khẩu nhẫn và ý nhẫn.


Nhẫn nhục cũng có hai phương diện.
Thứ nhất là nhẫn nhục có “chấp
tướng”. Đây là nhẫn nhục vì sợ quyền thế,
vì đang nằm trong hoàn cảnh bất lợi chua
trả thù được, hoặc mong cầu được người ta
khen hay được chức trọng quyền cao; vì
khinh bỉ đối thủ. Nhẫn nhục như thế là vì
còn do dục vọng “tham, sân, si, và mạn”
thúc đẩy.
Thứ hai là nhẫn nhục “không chấp
tướng” đây là nhẫn nhục do ý muốn diệt trừ
lòng sân hận, kiêu mạn, tham lam...



5. Trí tuệ.
Trí tuệ là gì? "Trí" phiên âm chữ phạn là Phã
na; "Tuệ" phiên âm chữ Phạn là Bát nhã. "Trí" có
nghĩa là quyết đoán; "Tuệ" có nghĩa là giản trạch. Tự
điển Phật học Trung Hoa định nghĩa như sau: "Trí là
biết Tục đế và Tuệ là thông hiểu Chân đế".
Trí tuệ ở đây là trí tuệ của đạo phật chứ không
phải là trí tuệ phổ thông thường dùng trong các sự
học hỏi hiểu biết, suy luận hằng ngày trong đời.
Theo triết học phật giáo, khả năng nhận thức có hai
loại: hiện lượng và tỷ lương.
Đứng về phương diện tính chất đạo phật chia trí tuệ
ra làm hai loại lớn là: căn bản trí và hậu đắc trí.


LÀM THẾ NÀO ĐỂ CÓ ĐƯỢC TRÍ TUỆ?
Muốn có được trí tuệ, đức Phật chế ra nhiều
pháp tu. Trong số nhiều pháp tu ấy thì "Văn, Tư Tu"
và "Giới, Định, Tuệ" là những pháp thường được
nhắc nhở và thực hành nhiều nhất.
Văn tuệ: là tuệ do tai nghe âm thanh,mắt thấy âm tự
của phật hay qua các kinh điển mà hiểu được chân
lý.
Tư tuệ: là tuệ do trí suy nghĩ, tìm tòi rõ được nghĩa
lý hiểu được sự thật.
Tu tuệ: là tuệ do tu hành thể nghiệm và thể nhập

chân lý mà giác ngộ, chứng được sự thật.



Văn, tư, tu rất tương quan mật thiết với nhau, ba
môn khuyết một không được.
Giới: là lời răn dạy của phật.
Định: là thiền định, giữ cho tâm lý không loạn
động.
Tuệ: là sự phát chiếu của trí sau khi đã tẩy sạch
phiền não và vô minh.
Giới, định, tuệ tương quan mật thiết với nhau: do trì
giới mà thân tâm không loạn, do thân tâm không
loạn động mà tâm trí được định, tâm trí khi đã định
thì trí tuệ phát triển.ngược lại trí tuệ phát chiếu thì
tâm dễ định, tâm đã định thì trì giới không khó
khăn.


CHỨC NĂNG CỦA TRÍ TUỆ
- Dứt trừ phiền não: Phiền não là do mê lầm phát sinh.
Khi trí huệ đã có thì mê lầm phải mất, như khi ánh sáng phát ra
thì bóng tối tất phải tan biến. Mê lầm đã mất thì phiền não tất
không còn phát sinh nữa.
- Chiếu sáng sự vật: Sự vật bị vô minh che khuất, như
màn sương sớm che phủ cảnh vật, nay trí tuệ phát chiếu vào sự
vật, chẳng khác gì khi ánh sáng mặt trời lên, thì màn sương ất
phải tan biến, lúc bấy giờ thực tướng thực tánh của sự vật được lộ
bày như thật.
- Thể nhập chân lý: Khi bị vô minh phủ lấp, ngăn che thì
ta với người, ta với vật tưởng như riêng biệt, sai khác. Nay nhờ trí
huệ soi sáng, thấy rõ được tâm cảnh đều chơn không, nên thể
nhập được chân lý, giác ngộ hoàn toàn.



×