Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Những thành tựu của thơ bang giao thời trung đại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (534.38 KB, 20 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
-----------------------------------

Nguyễn Thị Kim Anh

NHỮNG THÀNH TỰU
CỦA THƠ BANG GIAO
THỜI TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành : Văn học Việt nam
Mã số : 60 22 34

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC :
PGS.TS. Lê Thu Yến

Thành phố Hồ Chí Minh - 2006


Lời cảm ơn
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn khoa học tận
tình, chu đáo của PGS.TS Lê Thu Yến - người đã trực tiếp hướng dẫn
chúng tôi hoàn thành luận văn khoa học này.
Nhân đây, chúng tôi muốn gởi lời cảm ơn sâu sắc đến Ban
Giám hiệu, tập thể các thầy cô giáo khoa Ngữ văn và Phòng khoa
học công nghệ Sau đại học Trường Đ.H.S.P Thành phố Hồ Chí Minh,
đã tạo điều kiện thuận lợi và giúp đỡ chúng tôi trong suốt quá trình
học tập và nghiên cứu.
Chúng tôi cũng xin trân trọng bày tỏ sự thâm tạ về những đóng
góp quý báu của tất cả quý thầy cô trong Hội đồng thẩm đònh luận


văn khoá 2003 – 2006.
Cuối cùng, xin thêm vài chữ để ghi lại nơi đây lòng biết ơn và
gắn bó đến với đồng nghiệp, bạn bè cùng gia đình – những người đã
nhiệt tình động viên, khích lệ chúng tôi rất nhiều để luận văn này
được sớm hoàn thành.

Ninh Thuận, nửa đầu tháng 6 năm 2006
Nguyễn Thò Kim Anh


MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong các thời kỳ của tiến trình lòch sử, có thể nói thời trung đại (thế kỷ X đến thế kỷ XIX)
việc thực hiện nghóa tu hiếu (sửa việc giao hiếu) và đạo giao lân (việc giao thiệp với các nước
láng giềng) đã trở thành phép trò nước của các vương triều Việt Nam. Điều này đã được nhà bác
học Phan Huy Chú khẳng đònh: “Trong việc trò nước, hoà hiếu với các nước làng giềng là việc
lớn, mà những khi ứng thù lại rất quan hệ, không thể xem thường, cho nên nghóa tu hiếu chép ở
kinh Xuân thu, đạo giao lân chép ở hiền truyện, chính là đem lòng tin thực mà kết giao, người có
quyền trò nước phải nên cẩn thận.” [11, tr. 185]. Lời nhận đònh trên đã giúp ta hiểu được vì sao
trong văn học trung đại có nhiều người làm thơ trên đường đi sứ và tiếp sứ như vậy.
Thơ bang giao có một vò trí đáng kể trong lòch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước. Ngay
từ buổi đầu của các triều đại Việt Nam, lónh vực bang giao nói chung thơ bang giao nói riêng đã
gánh vác những nhiệm vụ hết sức nặng nề. Trong những trận phá cường đòch đem lại chiến công
hiển hách ngoài công đầu của mặt trận quân sự thì lónh vực ngoại giao cũng đóng góp không
nhỏ: “Nước ta đời nhà Trần ứng tiếp với sứ nhà Nguyên, khi cương khi nhu, đều là đắc thế cả, cho
nên từ năm Trùng hưng về sau mới có thể hết việc binh đao, mà Bắc sứ thường thường phải khuất
phục. Trong khoảng hơn trăm năm, ngăn được sự dòm ngó của Trung quốc mà tăng thêm thanh
danh cho văn hiến nước nhà, đó là nhờ sự giao tiếp đắc nghi giúp sức vậy.” [11, tr. 255]. Cùng
với bước đi của lòch sử, thơ bang giao cũng đã sớm hình thành, kòp thời ghi lại những nét son cả
những gian nan, nguy hiểm của cha ông trên lộ trình vạn dặm đến Yên Kinh. Vì thế, dựng lại

vóc dáng tiến trình văn học nước nhà không thể không nói đến dòng văn học bang giao này.
Thơ bang giao còn là một bộ phận quý giá trong di sản văn học dân tộc. Sứ giả nước Việt
thời cổ, đặt chân lên Bắc quốc kể có hàng trăm. Thơ văn bang giao, đi sứ kể có hàng vạn bài.
Thời xưa, người đi sứ luôn có dũng khí bảo vệ lợi ích và uy tín dân tộc; có nhân cách và học
vấn. Họ xứng đáng đại diện cho nền văn hiến dân tộc. Thơ đi sứ của Nguyễn Tông Khuê được
nhân só Triều Tiên – Lý Bán Thôn khen: “Cách luật nghiêm chỉnh, âm điệu cao siêu, nắn nót
từng câu từng chữ, thảy đều theo đúng khuôn phép thònh Đường. Dẫu Trung Hoa có tiếng hay thơ
cũng không hơn được” [64, tr. 42]. Thơ đi sứ của cụ Bảng Đôn cũng lừng danh ở cõi Bắc, trời
Nam. Phan Huy Chú (1782 – 1840) khen thơ của Đoàn Nguyễn Thục thì “phong nhã, điêu luyện,
thanh tao, phóng khoáng”. Những nhà thơ nổi tiếng thời Lê trung hưng như Phùng Khắc Khoan,


Nguyễn Tông Khuê, Nguyễn Kiều, Nguyễn Huy Oánh, Hồ Só Đống, Lê Q Đôn… đều là những
đại gia trong làng văn. Thời Tây Sơn, thơ đi sứ của Đoàn Nguyễn Tuấn, Ngô Thì Nhậm, Phan
Huy Ích, Võ Huy Tấn… thường thấm đẫm khí thế chiến thắng giặc thù, tự tin tự hào… Bấy lâu,
chất ngọc ấy bò lớp bụi vô hình của thời gian phủ mờ. Rọi lại trong văn học dân tộc, dòng văn
học bang giao, đi sứ dường như đã bò lãng quên trong các bộ sách lòch sử văn học Việt Nam.
Thực tế cũng có một số học giả đề cập đến. Song các bài viết ấy dường như chưa có một phác
thảo chung về diện mạo mà chỉ mới hướng tới một mặt, một vấn đề nào đó. Để nền văn học dân
tộc được toàn bích, thiển nghó việc tìm hiểu dòng thơ bang giao trung đại rất cần thiết đối với
thế hệ hôm nay.
Mặt khác, bang giao từ xưa đến nay luôn là một phương diện quan trọng đối với sự an
nguy, tồn vong, phát triển của một quốc gia. Thời đại hôm nay là thời đại của giao lưu, hoà nhập
khu vực và thế giới. Ngoài học vấn uyên bác, có văn tài, các vò sứ thần Đại Việt còn là những
người giỏi về ứng xử, có cốt cách và dũng khí. Việc tìm hiểu thơ bang giao chính là sự tích luỹ
cho mình những bài học ngoại giao khéo léo, tài tình cũng như tâm huyết và khí phách hào hùng
từ cha ông.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Thơ bang giao không kém về chất lượng, số lượng tác giả, thi tập, tác phẩm so với các bộ
phận thơ khác. Theo bước đầu tìm hiểu của nhóm biên soạn tập Thơ đi sứ thuộc Viện Hán Nôm

thì số lượng thơ bang giao có đến sáu mươi người đi sứ làm thơ với hàng trăm thi tập, ngót vạn
bài thơ từ thời Trần đến thời Nguyễn. Thế nhưng, các nhà nghiên cứu ít mặn mà với dòng thơ
này. Gần đây giới nghiên cứu có sự quan tâm hơn nhưng số lượng bài viết chưa nhiều.
Sớm nhất là bài viết của GS. Trần Thò Băng Thanh và Phạm Tú Châu: “Vài nét về văn thơ
bang giao đi sứ đời Trần trong giai đoạn giao thiệp với nhà Nguyên” in trong Tạp chí Văn học,
số 6-1974. Bài viết có hai phần: Phần đầu nói về các biểu chương thư từ của vua Trần gởi nhà
Nguyên. Phần sau tác giả đề cập đến thơ bang giao trong phạm vi đời Trần giao thiệp với nhà
Nguyên. Bài viết có nêu lên một số nội dung chính: trách nhiệm của sứ thần đối với tổ quốc,
lòng tự hào được gánh vác, làm tròn sứ mệnh của một sứ giả và lòng yêu chuộng hoà bình. Bài
viết cũng nói về nghệ thuật bằng một nhận xét rất chung: Nghệ thuật thơ ở cả hai đề tài không
ngoài những đặc điểm của thơ chữ Hán đời Trần nói chung.


Đến 1981, bài viết này được bổ sung và cụ thể hoá với đề mục “Văn học bang giao từ thế
kỷ X đến thế kỷ XIV” in trong cuốn “Văn học Việt Nam trên những chặng đường chống phong
kiến Trung Quốc xâm lược”, Nxb Khoa học xã hội, 1981. Cũng trong cuốn sách vừa dẫn trên có
bài viết “Văn học bang giao nửa đầu thế kỷ XIX.”, tác giả chọn một giai đoạn – thơ bang giao
đời Nguyễn và cũng nhấn mạnh về mặt nội dung của thơ bang giao thời này.
GS. Bùi Duy Tân với bài “Thơ vònh sử, thơ đi sứ và chủ nghóa yêu nước” in trong tập Văn
học Việt Nam thế kỷ X – nửa đầu thế kỷ XVIII, Nxb Giáo dục, 2000. Thực ra bài viết này được
ông viết vào tháng 12-1980 in trong bộ sách Lòch sử văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến nửa đầu
thế kỷ XVIII, tập II, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 1998. Về sau, lại được in trong
“Khảo và luận một số tác gia, tác phẩm văn học trung đại Việt Nam”, Nxb Giáo dục, Hà Nội,
1999 với đề tựa “Tình cảm yêu nước thương nhà trong thơ đi sứ thời Lê trung hưng”. Cũng như
các bài viết trên, tác giả khai thác phương diện nội dung của thơ đi sứ trong một giai đoạn – Lê
trung hưng.
Một bài nghiên cứu có tính khái quát, hệ thống bao quát được toàn bộ dòng thơ bang giao
từ thời Trần đến thời Nguyễn trên cả hai mặt nội dung và nghệ thuật là bài của GS. Mai Quốc
Liên “Thơ đi sứ, khúc ca của lòng yêu nước và ý chí chiến đấu” in trong Tạp chí Văn học, số 31979. Đến 1993, bài viết được bổ sung làm Lời giới thiệu của tập Thơ đi sứ do Phạm Thiều và
Đào Phương Bình chủ biên. Đáng chú ý hơn những bài nghiên cứu khác, bài này đi sâu vào

nhiều mặt của thơ bang giao: khái quát những đặc điểm chủ yếu của các giai đoạn thơ bang
giao; điểm qua những nội dung của thơ bang giao; vài nhận xét rất tinh tế về nghệ thuật: “Thơ đi
sứ nhiều bài có tứ thơ cao lời thơ lạ, cảm hứng thanh thoát đẹp đẽ thoát ra khỏi khuôn sáo”, “đi
sâu vào dòng thơ ấy, chúng ta sẽ thấy cái phong phú của hình thức nghệ thuật, tính nhiều vẻ của
phong cách, tính sáng tạo qua những đề tài cổ điển.”. Tuy vậy, với tính chất là một Lời giới thiệu
cho tập thơ nên bài viết chỉ dừng ở mức độ khái quát, gợi mở chưa phải là một công trình nghiên
cứu lớn hoàn chỉnh.
Ngoài ra, còn có một số bài nghiên cứu mà nội dung liên quan ít nhiều đến thơ bang giao
như:
Văn chương Bùi Văn Dò của Nguyễn Đình Chú đăng trong Tạp chí Văn học, số 8-1996.


Sứ thần Việt Nam Cao Bá Quát và nhận thức của ông qua chuyến đi công cán vùng Hạ
Châu của Claudine và Tạ Trọng Hiệp đăng trong Tạp chí Nghiên cứu lòch sư,û số 5-1996 và số 11997.
Góp thêm vài điểm về Nguyễn Trung Ngạn và cuốn Giới hiên thi tập của Hoàng Hiệu
đăng trong Tạp chí Văn học, số 4-1975.
Thơ Phạm Sư Mạnh của Hoàng Lê đăng trong Tạp chí Văn học, số 2-1973.
Một vài nét về Đoàn Nguyễn Tuấn qua Hải ông thi tập của Nguyễn Tuấn Lương đăng
trong Tạp chí Văn học, số 2-1978.
Nguyễn Tông Quai, sứ giả nhà thơ nổi tiếng thế kỷ XVIII của Bùi Duy Tân đăng trong
Tạp chí Văn học, số 6-1993.
Lạng Sơn trong hành trình thơ đi sứ của Trần Thò Băng Thanh đăng trong Tạp chí Văn
học, số 11-1996.
…..
Nhìn chung, các bài nghiên cứu về thơ bang giao chưa nhiều lắm và dường như còn đang
bỏ ngõ. Bài giới thiệu của tập Thơ đi sứ là đáng chú ý hơn cả vì tính chất bao quát và toàn diện
của nó. Còn lại các bài viết khác tuy chưa hoàn chỉnh nhưng vẫn là những bài viết có giá trò.
Những bài này đã gợi mở nhiều hướng đi, luận điểm, nội dung, có ý nghóa khoa học đối với mục
đích nghiên cứu của luận văn, là điểm tựa cho người viết luận văn đi đến đích. Vì thế, người
viết luận văn nghó rằng việc nghiên cứu đề tài Những thành tựu chủ yếu của thơ bang giao trung

đại Việt Nam là hữu ích, cần thiết cho nền thơ nói riêng và văn học Việt Nam nói chung. Không
có nhiều tham vọng nhưng người viết luận văn cho rằng nếu đề tài thành công thì bài viết như
góp thêm một bông hoa đẹp vào vườn văn học rực rỡ của dân tộc.
3. ĐÓNG GÓP CHÍNH CỦA LUẬN VĂN
Luận văn tổng hợp kết quả nghiên cứu và ghi nhận những nét khái quát của những người
đi trước về thơ bang giao.
Luận văn tập trung tìm hiểu diện mạo của thơ bang giao để đưa ra cái nhìn tương đối toàn
diện và hệ thống:
- Hành trình lòch sử của thơ bang giao.
- Thơ bang giao - những thành tựu chủ yếu về mặt nội dung.
- Thơ bang giao - những thành tựu chủ yếu về mặt nghệ thuật.


Từ đó, góp thêm vào nền văn học tiếng nói tích cực, lòng yêu nước, niềm tự hào với tinh
thần chiến đấu, nhân ái của người Việt. Và đây cũng là dòp giúp cho người viết và người đọc có
điền kiện đi sâu khám phá, tiếp cận, lónh hội được cái hay cái đẹp của mảng thơ cổ quý giá này.
4. ĐỐI TƯNG, PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn khảo sát chủ yếu các thi phẩm trong tập Thơ đi sứ do Phạm Thiều và Đào
Phương Bình chủ biên, Nxb KHXH, Hà Nội, 1993. Ngoài ra, để nội dung bài viết được đầy đủ,
luận văn còn sử dụng thêm một số thi phẩm bang giao nằm trong các tập thơ khác:
Nguyễn Du toàn tập, tập 1, Nxb Văn học, Trung tâm nghiên cứu Quốc học, 1996.
Thơ chữ Hán Cao Bá Quát, in lần 2, Nxb Văn học, 1976.
Thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn (Đào Phương Bình dòch), Nxb KHXH, Hà Nội, 1982.
Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam (thế kỷ X – XIX), tập 1, Nxb Giáo dục.
Ngô Thì Nhậm tác phẩm, tập 3, Nxb Văn học, Trung tâm nghiên cứu Quốc học, 2001.
Tổng tập văn học Việt Nam, tập 9A, Nxb KHXH, Hà Nội, 1993.
Tuyển tập Trần Nhân Tông (Lê Mạnh Thát dòch), Tp Hồ Chí Minh, 2000.

Tên gọi là Thơ bang giao tức là những bài thơ được các sứ thần sáng tác trong khi đi sứ

nhưng khi thực hiện luận văn, người viết mở rộng thêm đối tượng tìm hiểu: bộ phận thơ tặng
tiễn sứ thần hoặc thơ đối đáp giữa các sứ thần nước ngoài với sứ thần nước ta và bộ phận thơ
của một số sứ thần đi công cán, hiệu lực nước ngoài. Hướng khảo sát này cũng phù hợp với
quan điểm của nhóm biên soạn tập Thơ đi sứ.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu giới hạn trong những vấn đề có liên quan đến thơ bang giao trung đại
Việt Nam, cụ thể gồm ba nội dung chính:
Hành trình lòch sử của thơ bang giao.
Những thành tựu chủ yếu về mặt nội dung.
Những thành tựu chủ yếu về mặt nghệ thuật.
4.3. Phương pháp nghiên cứu:
4.3.1. Phương pháp xã hội học:


Thơ bang giao là một bộ phận trong văn học trung đại Việt Nam và mang tính đặc trưng
của văn học trung đại: văn – sử bất phân. Hay nói cách khác, văn học quấn qt chặt chẽ với
điều kiện lòch sử và không ở đâu mối quan hệ văn học – lòch sử lại thể hiện rõ rệt hơn ở dòng
thơ bang giao. Nhờ phương pháp này, ta có thể nhận ra được các giai đoạn thơ bang giao: thời
Trần, thời Lê – Tây Sơn, thời Nguyễn tuy có những điểm chung nhưng giữa chúng vẫn có những
điểm dò biệt. Điều này chủ yếu do hoàn cảnh lòch sử, thời đại quy đònh.

4.3.2. Phương pháp loại hình:
Thơ bang giao nói riêng và thơ ca trong văn học trung đại nói chung, phần lớn các tác giả
dùng chữ Hán hay chữ Nôm làm phương tiện sáng tác và đều sử dụng thể thơ Đường luật. Vì
thế, phương pháp khảo sát, phân tích thơ bang giao không giống cách phân tích tìm hiểu thơ hiện
đại. Người viết sử dụng phương pháp loại hình để thấy được đặc trưng của thơ bang giao là sử
dụng thể thơ Đường luật cổ kính trang nghiêm.
4.3.3. Phương pháp cấu trúc – hệ thống:
Ngoài những quan hệ hướng ngoại, tác phẩm văn học luôn tồn tại quan hệ hướng nội: quan
hệ giữa các yếu tố trong một chỉnh thể nghệ thuật. Mặt khác, thơ bang giao là một bộ phận của

thơ ca trung đại, rộng hơn thơ ca Việt Nam, có nghóa là nó tồn tại trong một hệ thống nhỏ trong
nhiều hệ thống tương quan: thơ trung đại, thơ hiện đại. Vì vậy, người viết luận văn dùng phương
pháp cấu trúc – hệ thống để thấy rõ mối quan hệ giữa các yếu tố trong cấu trúc bài thơ; giữa thơ
bang giao, thơ cổ điển và thơ hiện đại Việt Nam.
Các phương pháp trên được sử dụng thường xuyên trong luận văn kết hợp với các thao tác:
tổng hợp, phân tích, thống kê và so sánh đối chiếu.
5. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
2. Lòch sử vấn đề.
3. Đóng góp chính của luận văn.
4. Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu.
5. Kết cấu của luận văn.


NỘI DUNG
Chương 1: Hành trình lòch sử của thơ bang giao.
Chương 2: Thơ bang giao - những thành tựu chủ yếu về mặt nội dung:
2.1. Thơ bang giao – tiếng nói của lòng yêu nước.
2.2. Thơ bang giao – khúc hát nhớ nước thương nhà của người xa xứ.
2.3. Thơ bang giao – cảm quan mới về lòch sử.
2.4. Thơ bang giao – không gian của những nỗi buồn u ẩn.
Chương 3: Thơ bang giao - những thành tựu chủ yếu về mặt nghệ thuật.
3.1. Thể loại thơ Đường luật nghiêm trang, cổ kính.
3.2. Ngôn ngữ nghệ thuật.
3.3. Giọng điệu nghệ thuật.
KẾT LUẬN

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: HÀNH TRÌNH CỦA THƠ BANG GIAO.

1.1. Khái niệm thơ bang giao:
Văn học viết từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX chiếm một số lượng lớn là các thi tập lấy đề tài
từ lónh vực ngoại giao với các tên bắt đầu bằng Hoa trình 華程 như Hoa trình khiển hứng


華程遣興 của Hồ Só Đống 胡士棟 (1739 – 1785), Hoa trình ngẫu bút lục 華程偶筆錄 của Lê
Quang Viện, Hoa trình thi tập 華程詩集 của Nguyễn Gia Cát, Hoa trình tiêu khiển tập
華程消遣 của Nguyễn Đề, Hoa trình tục ngâm 華程俗吟 của Phan Huy Chú (1782 – 1840)
hoặc Sứ trình 使程 như Sứ trình chỉ lược thảo, Sứ trình đồ bản của Lý Văn Phức李文馥 (1785 –
1849), Sứ trình tân truyện của Nguyễn Tông Khuê, Sứ trình thi tập 使程詩集 của Phan Thanh
Giản 潘清簡 (1796 – 1867), Sứ trình vạn lý tập 使程萬里集 của Nguyễn Văn Siêu, Sứ trình yếu
thoại khúc của Bùi Quỹ… Đó là loại thơ do các sứ thần sáng tác trong khi đi sứ, phản ánh hoạt
động quan trọng trong lòch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.
Bên cạnh đó, thơ bang giao còn bao gồm cả bộ phận thơ tặng tiễn sứ thần nước ngoài của
vua quan và sứ thần đời Trần như: Tống Bắc sứ Trương Hiển Khanh của Trần Thái Tông, Tống
Bắc sứ Lý Trọng Tân của Trần Nhân Tông, Tống Bắc sứ Ngưu Lượng của Trần Nghệ Tông, Tống
Sài Nghiêm Khanh của Trần Quang Khải… hoặc thơ đối đáp với các sứ thần nước ngoài như Đáp
Kiều Nguyên Lãng vận của Trần Nhân Tông, Hoạ Minh quốc sứ Dư Quý, Hoạ Minh sứ Nhò Hà
dòch của Phạm Sư Mạnh… và cả những bài thơ của một số nhân vật đi công cán, hiệu lực nước
ngoài chứ không phải làm trên đường đi sứ dưới triều Nguyễn như Cao Bá Quát đi Indonésia,
Hà Tông Quyền 何宗權 (1798 – 1839) đi Nam Dương.
Đề tài thơ bang giao rất phong phú: tình yêu đất nước, tả cảnh, vònh sử, hoài cảm về quê
hương, nỗi buồn u ẩn… Đề tài không mới nhưng đi sâu vào nội dung của từng đề tài thì thơ bang
giao vẫn có nét đặc thù. Chẳng hạn, nói về niềm tự hào dân tộc thì loại thơ nào cũng có nhưng
trong thơ bang giao vì được nảy sinh trong hoàn cảnh đặc biệt nên nội dung cũng khác biệt. Đi
sứ là dòp để các sứ thần thực hiện một cuộc đấu tranh về văn hoá hay một cuộc biểu dương văn
hoá. Việc ứng đối và thù tạc trong bang giao đã trở thành vấn đề hết sức hệ trọng, không thể
xem thường. Khi đứng trước sân rồng Bắc quốc uy nghi cũng là lúc mà trí tuệ và bản lónh của
người đi sứ được thăng hoa cao nhất và vì thế, niềm tự hào dân tộc được biểu hiện trên nhiều
bình diện khác nhau, sáng tạo và linh hoạt.

Về nội dung hoài cảm quê hương, thơ bang giao cũng có sắc thái riêng. Ngày xưa đi sứ,
đường xa vạn dặm, một lần đi là mấy năm xa tổ quốc, xa quê hương, nỗi nhớ nhà lúc nào cũng
canh cánh trong lòng và được đẩy lên ở độ cao nhất. Vì thế, nỗi nhớ càng được ý thức sâu hơn.


Chính vì ý thức sâu hơn nên tình yêu ấy cứ dâng trào mãnh liệt, chân thật, trực tiếp không ẩn
giấu, không bóng gió xa xôi.
Về đề tài lòch sử, nếu thơ vònh sử chủ yếu lấy sự kiện, nhân vật từ Nam sử như Việt giám
vònh sử tập của Đặng Minh Khiêm hoặc Tư hương vận lục của Lê Quang Bí và Vũ Công Đạo thì
thơ bang giao chủ yếu lấy từ Bắc sử. Đó là những Chiêu Quân, Dương Quý Phi, Tam liệt nữ,
Hạng Võ, Nhạc Phi, Khuất Nguyên, Đỗ Phủ, Cù Thức Tró, Minh Thành Tổ, Tô Tần, Mã Viện,
Tần Cối…
Như vậy, thơ bang giao là loại thơ được làm ra trên đường đi sứ, trong lúc bang giao, thù
tạc với sứ thần nước ngoài, trong những chuyến đi dương trình hiệu lực. Thơ bang giao phong
phú về đề tài. Cũng là những đề tài truyền thống nhưng tình yêu nước, nỗi nhớ quê hương, vònh
sử… trong thơ bang giao có màu sắc, phong thái đặc biệt không lẫn lộn với bất cứ dòng thơ nào.
1.2. Các giai đoạn sáng tác:
Nói đến chuyện đi sứ và tiếp sứ thời xưa là chún g ta đề cập đến mối quan hệ ngoại giao
giữa nước ta và các nước lân bang. Mối quan hệ này chỉ có thể xuất hiện từ khi nước ta giành
được nền độc lập với chiến thắng Ngô Quyền (938) và chấm dứt khi đất nước bò nô lệ bởi ngoại
bang phương Tây (1884).
Việt Nam là một bán đảo vùng Đông Nam Á. Ba mặt Tây Nam Bắc đều giáp với các nước
lân bang nhưng trong lòch sử thì mối giao hiếu với phương Bắc là chủ yếu. Nguyễn Thế Long
cho biết việc đi sứ tiếp sứ có từ thời Đinh, tiền Lê, Lý: Năm 968, Đinh Tiên Hoàng lên ngôi
hoàng đế. Năm 972, Đinh Tiên Hoàng sai con là Đinh Liễn sang Tống xin phong vương. Năm
Kỷ Mão (979), Lê Hoàn cử hai sứ thần mang thư sang nước Tống giả là thư của Vệ Vương Toàn
xin nối ngôi cha là Đinh Tiên Hoàng, xin triều cống để tìm cách hoãn binh. Mùa xuân năm 983,
vua Lê Đại Hành cho sứ sang xin thông hiếu với nhà Tống để duy trì hoà bình cho đất nước.
Tháng 10 năm Bính Tuất (986), vua Lê Đại Hành tiếp sứ thần Tống là Lý Nhược Chuyết và Lý
Giác.[40, tr. 53 – 54]. Lúc này chưa xuất hiện thơ bang giao. Đến mùa xuân 987, vua Tống lại

sai Lý Giác sang nước ta. Vua Lê Đại Hành biết Lý Giác là người giỏi văn thơ nên đã sai sư Đỗ
Pháp Thuận giả làm người chèo đò ra đón sứ Lý Giác. Sư Đỗ Pháp Thuận cùng Lý Giác ngâm
bài thơ Vònh Nga. Cũng năm ấy, vua sai Khuông Việt đại sư làm bài thơ tiễn chân Lý Giác.
Nhưng đấy chỉ là truyền thuyết, là giai thoại dân gian. Thực sự chỉ từ sau cuộc kháng chiến
chống Nguyên Mông lần thứ nhất, nước Đại Việt bước vào giai đoạn quan hệ ngoại giao khó


khăn và phức tạp trong suốt hai mươi sáu năm (từ 1258 đến 1284). Trong thời gian đó, Đại Việt
cử đi khoảng ba mươi đoàn, sứ Mông Cổ sang nước ta khoảng ba mươi lăm đoàn, có năm vua
Trần cử hai đoàn sang, sứ Mông Cổ sang ba đoàn dồn dập. Như vậy, có thể nói từ thời Trần việc
đi sứ và đón tiễn sứ thần phương Bắc diễn ra thường xuyên hơn và một khối lượng lớn thơ đi sứ,
thơ tặng tiễn các sứ thần xuất hiện. Và thơ bang giao trung đại được tính từ đây. Mãi đến khi
Nguyễn Ánh lên ngôi và các vua kế vò vẫn đều đặn cử các sứ bộ sang triều Thanh. Đến năm
1853 thì tạm ngưng do quân Thái Bình Thiên Quốc chiếm các tỉnh Hoa Nam đường đi bò cắt đứt.
Đến năm 1868, việc bang giao mới bình thường trở lại và đến năm 1884 nước Việt Nam trở
thành thuộc đòa của Pháp mất hết chủ quyền độc lập. Triều đình chỉ là bù nhìn, mọi việc bang
giao đều do thực dân Pháp quyết đònh, không còn các sứ bộ ngoại giao nữa. Như vậy, trong
mười thế kỷ trung đại, việc bang giao chính thức được thiết lập từ thời Trần (1258) đến cuối
triều Nguyễn (1884). Căn cứ vào mốc thời gian đó, thơ bang giao có thể tạm chia làm 3 giai
đoạn:
Thơ bang giao thời Trần.
Thơ bang giao thời Lê – Tây Sơn.
Thơ bang giao thời Nguyễn.
1.2.1. Thơ bang giao thời Trần (thế kỷ XIII đến thế kỷ XIV).
Trong lòch sử ngoại giao giữa nước ta và Trung Quốc, cuộc bang giao giữa nhà Trần và
nhà Nguyên là giai đoạn đặc biệt khó khăn phức tạp. Tồn tại bên cạn h một nước lớn luôn tìm
cách xâm chiếm và đô hộ nước ta nên chính sách đối ngoại của các triều đại phong kiến Việt
Nam phải mềm dẻo, khôn khéo ngay từ khi lập quốc. Một mặt phải luôn giữ gìn độc lập, chủ
quyền dân tộc; mặt khác phải nhún nhường để giữ vững hoà bình. Vì vậy, từ vua Trần cho đến
các sứ thần Đại Việt đón tiếp sứ thần Mông Cổ hay đi sứ sang Mông Cổ đều tuân thủ những

nguyên tắc do triều đình đề ra là nhún nhường trong việc xưng hô, tiếp đãi nồng hậu nhưng
cương quyết giữ vững chủ quyền, biên giới lãnh thổ, độc lập tự chủ mọi công việc nội bộ. Dù
nước có nhỏ vua Trần cũng là vua của một nước. Cuộc đấu tranh ngoại giao tuy vất vả, cam go
nhưng luôn đem lại những thắng lợi vẻ vang, làm nền tảng cho đời sau. Chính vì thế, thơ bang
giao thời Trần chan chứa cảm hứng tinh thần tự hào dân tộc, lòng yêu nước thương dân và nhất
là những âm vang nóng bỏng của các trận thắng oanh liệt trong cuộc chiến đấu bảo vệ tổ quốc.
Thơ bang giao thời Trần không nhiều. Có thể do mất mát hoặc do bấy giờ mọi tâm lực còn phải


tập trung cho cuộc đấu tranh giành độc lập nên các sứ giả không mấy người sáng tác. Nói về thơ
bang giao thời Trần, Lê Quý Đôn, Phạm Đình Hổ và Phan Huy Chú (1782 – 1840) đều không
tiếc lời khen ngợi “Tinh vi, trong trẻo, có cái sở trường tột bậc của thơ đời Hán đời Đường bên
Trung Hoa” [72ù, tr.10]. Những sứ thần đời Trần đều là những nhà thơ nổi tiếng: Phạm Sư Mạnh,
Nguyễn Trung Ngạn, Mạc Đĩnh Chi, Đinh Củng Viên, Phạm Tông Mại, Hồ Quý Ly, Doãn Ân
Phủ và dòng dõi vua Trần (Trần Thái Tông, Trần Quang Khải, Trần Nhân Tông, Trần Minh
Tông, Trần Nghệ Tông)
Thơ của Nguyễn Trung Ngạn chan chứa lòng tự hào dân tộc, lòng yêu đất nước và thể
hiện khát vọng hoà bình giữa hai dân tộc (Quy hứng, Thái bình lộ, Bắc sứ tức Khâu ôn dòch):
Lão tang diệp lạc tàm phương tận,
Tảo đạo hoa hương giải chính nhi.
Kiến thuyết tại gia bần diệc hảo,
Giang Nam tuy lạc bất như quy.
(Quy hứng – Nguyễn Trung Ngạn)
(Lá dâu già rụng, tằm vừa chín hết,
Bông lúa sớm toả hương, cua đồng đang béo.
Nghe nói “ở nhà, dẫu nghèo vẫn thú”
Giang Nam tuy vui song không bằng trở về.)
Sau Nguyễn Trung Ngạn hơn 30 năm, thơ Phạm Sư Mạnh cũng tiếp nối nguồn mạch ấy.
Lòng yêu nước, lòng tự hào đất nước anh hùng tươi đẹp thể hiện trong thơ ông đậm đà, nhất
quán như Tống Nam quốc sứ, Hoạ Minh quốc sứ Dư Quý, Hoạ Minh sứ đê Nhò Hà dòch, đặc biệt

là bài Bắc sứ đăng Hoàng Lâu tẩu bút thò Đại Nguyên thò độc Dư Tân Gia. Bài thơ này Phạm Sư
Mạnh phóng bút viết khi lên Hoàng Lâu để đưa cho quan thò giảng nhà Nguyên là Dư Tân Gia
xem. Trước thiên nhiên hùng vó, trước những di tích về các nhân vật cự phách văn võ một thời
và trước quan của thượng quốc, ông vẫn hiên ngang tự khẳng đònh vò trí, nhân cách cá nhân
mình, tư thế đại diện quốc gia của mình. Tứ thơ thật hào hùng, sâu sắc:
Ngã gia viễn tại Giao Nam đầu,
Thủ trì ngọc tiết đăng Hoàng lâu.
Ma sa thạch khắc Pha công tự,
Như kim bất phụ bình sinh du.


(Bắc sứ đăng Hoàng Lâu tẩu bút thò Đại Nguyên thò độc Dư Tân Gia)
(Nhà ta xa tận đầu đất Giao Nam
Tay cầm tiết ngọc lên lầu Hoàng.
Tay sờ chữ Tô Đông Pha,
Như ta nay chẳng phụ chí du lòch bình sinh.)
Nói về thơ bang giao đời Trần phải nói đến những vần thơ tiếp sứ của dòng dõi vua Trần.
Đây đều là những vần thơ đẹp. Bằng phong độ lòch thiệp, tao nhã và lời thơ xướng hoạ tống tiễn
của nước nhỏ đối với thượng quốc, bài thơ đã khẳng đònh chủ quyền, truyền thống văn hoá dân
tộc mình một cách rất tế nhò như Đáp Kiều Nguyên Lãng vận (Trần Nhân Tông), Tống Bắc sứ
Ngưu Lượng (Trần Nghệ Tông), Tống Sài Nghiêm Khanh (Trần Quang Khải)… Trong đó, người
đọc không quên bài thơ chứa đựng hàm ý sâu xa lý thú, ý tại ngôn ngoại của vò tướng – vò anh
hùng dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông:
Nhất đàm tiếu khoảng, ta phân duệ,
Cộng xướng thù gian, tích đối sàng.
Vò thẩm hà thời trùng đòch diện,
Ân cần ác thủ tự huyên lương.
(Tống Sài Nghiêm Khanh - Trần Quang Khải)
(Vừa chốc lát nói cười, đã than thở dứt áo ra đi!
Trong cuộc ngâm nga thù xướng, tiếc khi giường đối diện nhau.

Chưa biết ngày nào lại cùng gặp mặt,
Để ân cần cầm tay kể chuyện hàn huyên.)
Tư tưởng “nhất đế một phương” chính là ý ở ngoài lời thơ mà Trần Quang Khải muốn gởi
gắm. Ngoài ra, còn có Đáp Bắc nhân vấn An Nam phong tục của Hồ Quý Ly. Dù không được
lòng dân nhưng thơ của ông dạt dào niềm tự hào dân tộc, nền văn hiến hiếm thấy trong thơ bang
giao và đó cũng là bài thơ khép lại phần thơ bang giao đời Trần.
1.2.2. Thơ bang giao thời Lê – Tây Sơn (thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII).
* Thơ bang giao thời Lê:
Gồm hậu Lê – phụ Mạc (1428 – 1527) và Lê trung hưng (1592 – 1789).
Giai đoạn hậu Lê – phụ Mạc:


Việc đi sứ tiếp sứ vẫn diễn ra bình thường. Các triều vua nhà Lê: Lê Thái Tổ, Lê Thái
Tông cử các sứ thần sang Bắc triều cầu phong vương, dâng biểu trần tình, tiến cống… để tiếp tục
bồi đắp hoà khí, dập tắt hoạ chiến tranh. Đầu năm 1428, Lê Thiếu Dónh lên đường sang tận Yên
Kinh để trao đổi về việc con cháu họ Trần. Kế đó, Đào Công Soạn, Lê Nhữ Lãm, Nguyễn
Thiên Tích… tiếp tục được cử đi sứ. Cả phía ta và phía nhà Minh đều có sứ bộ qua lại. Nhiệm vụ
bang giao không có gì khác với truyền thống: đấu tranh khéo léo, mềm dẻo với thiên triều để
nâng cao quốc thể, giữ vững quyền tự chủ, xác lập quan hệ bình đẳng giữa hai nước. Những
cuộc đấu tranh này, vào thời nào cũng vậy, không chút dễ dàng. Vì thế, bên cạnh những bài thơ
vònh cảnh, thơ bang giao đã có nhiều dòng thơ thể hiện tấm lòng “lo trước” của những người
mang “sứ tiết” như Nguyễn Đình Mỹ (Hoành Châu), Đỗ Cận (Thái Thạch vãn bạc), Trần Lô
(Quá quan thư hoài, Học thành hoạ nghệ tạ thi)…
Thơ bang giao thời Lê thật sự được khởi sắc từ Lê trung hưng.
Giai đoạn Lê trung hưng:
Trong các thế kỷ từ XVI đến gần hết thế kỷ XVIII, tình hình đất nước không được ổn đònh.
Tâm trạng của người đi sứ thường lo âu, suy nghó về cố quốc gia hương. Công việc bang giao
trong hoàn cảnh lòch sử như thế cũng khó khăn phức tạp. Trách nhiệm của người đi sứ cũng hết
sức nặng nề. Nét nổi bật thơ bang giao thời này thường tập trung vào hai ý đó. Tâm trạng này
luôn day dứt trong nhiều bài thơ bang giao:

Quy kỳ hữu hạnh toàn quân mệnh,
Trung hiếu sơ tâm thỉ mỹ tha.
(Bắc sứ thuật hoài – Nguyễn Quý Đức)
(Khi về may mắn làm tròn sứ mệnh nhà vua
Trung hiếu niềm xưa thề không đổi khác.)
Phụng mệnh hoàng hoa thượng thận chiên,
Bất từ nan sự sự xu tiên.
(Quá quan thư hoài - Trần Lô)
(Vâng mệnh vua đi sứ, phải rất thận trọng,
Việc khó không dám từ mà còn tranh làm trước mọi người.)


Dù đất khách là nơi phồn hoa đô thò, cảnh sắc say đắm lòng người nhưng tấm lòng lữ
khách luôn tróu nặng hướng về Nam với một ước muốn một khát vọng được trở về nhà khi hoàn
thành sứ mệnh vua giao:
Bắc Nam kim khánh nhất gia đồng,
Vạn lý quan hà sứ đạo thông.
(Nam sứ lưu đề – Phùng Khắc Khoan)
(Nay mừng Nam Bắc chung một nhà
Quan hà muôn dặm đường sứ lưu thông.)
Tình ý trên trở đi trở lại trong nhiều bài thơ của Phùng Khắc Khoan 馮克寬 (1528 – 1613)
(Nam sứ lưu đề, Quá quan), Nguyễn Quý Đức (Động đình tứ sắc, Bắc sứ thuật hoài), Nguyễn
Tiến Sách (Đăng chu), Nguyễn Kiều (Giang châu lữ khách), Nguyễn Tông Khuê (Lạng thành
hình thắng, Quá quan tự thuật), Nguyễn Huy Oánh (Quá La sơn phố cảm tác), Đoàn Nguyễn
Thục (Hồi quá Dương châu tái du)…
Thời Lê trung hưng, thơ bang giao là một hiện tượng văn học nổi bật với khối lượng lớn và
nhiều nhà thơ nổi tiếng: Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Công Hãng, Nguyễn Kiều, Nguyễn Quý
Đức, Nguyễn Tiến Sách, Đặng Đình Tướng, Nguyễn Tông Khuê, Nguyễn Huy Oánh, Hồ Só Đống...
Mỗi tác giả thời trung hưng đã đem lại những tìm tòi sáng tạo riêng, có nhiều đóng góp quý giá
đáng trân trọng. Trong đó phải kể đến nhà bác học, nhà văn hoá, nhà thơ Lê Quý Đôn 黎貴惇

(1726 – 1784). Ông là học giả có học vấn cao nhất của thời đại ấy và đã để lại một di sản văn
hoá đồ sộ, chứa đựng lượng tri thức bách khoa. Thơ đi sứ của ông bình dò nhưng dạt dào, sâu
lắng và thiết tha.
Một hiện tượng mới mẻ trong thơ bang giao thời này là mảng thơ chữ Nôm. Lời thơ Nôm
trong thơ Nguyễn Tông Khuê đã đạt đến sự trong sáng, uyển chuyển. Tiếng Việt đến đây đã
được nâng cao một bước so với thơ quốc âm của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm… Bài thơ
Nôm trường thiên Sứ trình tân truyện dài đến 670 câu lục bát là một áng thơ dân tộc quý giá,
“có thể xem như tiền thân của những câu thơ Kiều sau này” [33, tr. 176]. Thơ Nôm của Nguyễn
Tông Khuê là một bước phát triển mới trong sự phát triển của thơ dân tộc như Qua cửa quan tự
thuật, Đêm đông trên đường đi thuyền, Chiều mùa xuân trên sông Tiêu tương, Ngắm trời tuyết…


Đánh giá thơ bang giao thời Lê trung hưng, nhiều học giả tiền bối đã hết lời khen ngợi.
Ngô Thì Nhậm trong bài tựa tập thơ Tinh sà kỷ hành của Phan Huy Ích có viết:
"Đến như từ Lê trung hưng về sau, các nhà thơ danh tiếng thấy trong các tập thơ đi sứ.
Hoặc thăm chốn thanh u, viếng nơi cổ tích, gặp cảnh mà sinh tình. Hoặc xa cố quốc, nhớ quê nhà,
nhân việc mà tỏ ý… Hương thơm có thể nhuần thấm cho đời sau.” [72ù, tr. 11].
* Thơ bang giao thời Tây Sơn (1789 – 1802):
Vương triều Tây Sơn – Nguyễn Huệ có tuổi thọ ngắn nhất trong lòch sử các vương triều
nước ta (1789 – 1802) nhưng đấy lại là một thời đại huy hoàng và oanh liệt. Vương triều được
tạo lập trên cơ sở phong trào nông dân khởi nghóa rộng lớn chưa từng thấy trong lòch sử dân tộc.
Sau chiến thắng Đống Đa năm Kỷ Dậu (1789), Quang Trung phải tiến hành một chính sách
ngoại giao khôn khéo để tránh đương đầu bằng quân sự với nhà Thanh giữ vũng hoà bình kiến
thiết đất nước. Việc đi sứ dưới triều Tây Sơn trước hết nhằm tranh thủ hoà bình, giữ vững chủ
quyền dân tộc. Sau đó đòi nhà Thanh công nhận nền độc lập của nước ta, phong Quang Trung
làm An Nam quốc vương, đòi bỏ lệ cống người vàng… Như vậy, thời Tây Sơn là thời đại của
những chiến thắng vang dội trên mặt trận quân sự và ngoại giao. Chưa bao giờ trong lòch sử
ngoại giao của ta, thiên triều lại bò động và xuống thang như thế. Sứ thần Đoàn Nguyễn Tuấn
rất đỗi tự hào và tổng kết thành tựu đó trong câu: “Từ trước đến giờ, người mình đi sứ Trung
Quốc chưa có lần nào lạ lùng và vẻ vang như thế.” [40, tr. 294].

Thời đại ấy đã thổi luồng gió mới làm thay đổi tư tưởng nhận thức của các sứ thần – nhà
thơ thời Tây Sơn. Tuy số lượng không nhiều như thời Lê trung hưng, thời Nguyễn nhưng thơ
bang giao thời Tây Sơn có một vò thế riêng đáng nể. Phần lớn các nhà thơ thời kỳ này là những
cựu thần nhà Lê chòu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng, văn phong thời hậu Lê. Khi đi với Tây Sơn
Nguyễn Huệ, luồng ánh sáng mới của thời đại đã giúp thơ đi sứ của họ mang âm điệu mới lạ.
Thơ bang giao thời Tây Sơn ngoài những điểm chung giống như cảm xúc của những sứ thần thời
trước còn có những điểm đặc trưng. Đó là lòng tự hào, tự tin của người chiến thắng; khẳng đònh
chủ quyền thiêng liêng, có nền văn hiến không thua kém ai. Các sứ thần Tây Sơn được phái đi
lên cửa ải, đến Nam Ninh hay sang Yên Kinh đều nói lên cảm xúc của mình trong những vần
thơ đi sứ. Hai tập Hoàng Hoa đồ phả, Yên Đài thu vònh của Ngô Thì Nhậm chan chứa một lòng
tự hào về dân tộc, về người anh hùng Nguyễn Huệ (Hoản nhó ngâm, Vũ hành…); Hải ông thi tập
của Đoàn Nguyễn Tuấn mang hơi thở hào hùng của thời đại Tây Sơn chiến thắng, tình ý mạnh


mẽ khác thường; Hoa nguyên tuỳ bộ tập của Võ Huy Tấn cũng dạt dào âm điệu tự hào dân tộc;
Tinh sà kỷ hành của Phan Huy Ích thấm đẫm niềm vui của một sứ thần trong thời đại chiến
thắng (Xuất quan, Mạn thuật, Du Mai Lónh, Đề Đằng Vương các…).
1.2.3. Thơ bang giao thời Nguyễn (1802 – 1884).
Mở màn cho thế kỷ XIX ở Việt Nam là sự kiện Nguyễn nh lên ngai vàng trước cảnh đổ
vỡ cuối cùng của nhà Tây Sơn. Với Bắc quốc, do nhiều lần nếm mùi thất bại, giấc mộng thôn
tính đã có phần nguội lạnh. Bắc quốc sẵn sàng dành sự ưu đãi trong việc đặt quan hệ với triều
Nguyễn – người đã chiến thắng kẻ thù đáng sợ của họ là Tây Sơn. Tình hình này cũng được
phản ánh vào trong văn học nhất là dòng văn học bang giao. Thời Nguyễn cũng như các thời
vua trước, tiêu chuẩn chọn sứ thần là những nhà văn nhà thơ giỏi nếu không phải là những nhà
hùng biện để làm tròn trách nhiệm ứng phó trong bang giao. Những bài thơ của họ thường ca
ngợi quan hệ tốt đẹp giữa hai nước, hai dân tộc hoặc tỏ tình thân mật giữa các bạn cùng cảnh
bút nghiên, cùng đạo học với nhau.
Rõ nét hơn là Trònh Hoài Đức. Ông là nhà thơ nổi tiếng đất Gia Đònh. Thơ ông có nhiều
câu đẹp nói lên tình cảm giữa nhân dân Trung Quốc với sứ bộ Việt Nam mà ông là chánh sứ.
Không khí thân mật êm đềm nơi đất bạn là hình ảnh đậm nét trong thơ sứ trình của ông (Lữ thứ

hoa triêu, Hà Nam lộ trung lập thu, Hồ Nam đạo trung chu hành tạp vònh, Sứ bộ xuất Nam quan
hồi quốc khẩu chiếm…). Tinh thần yêu nước, niềm tự hào dân tộc cũng được bộc lộ sâu đậm
trong thơ bang giao thời Nguyễn như Sứ bộ xuất Nam quan hồi quốc khẩu chiếm (Trònh Hoài
Đức); Đề lầu Hoàng Hạc, Dạ Điểu, Phong tục ngâm, Đáp Cát Ngạn Anh tặng thi (Ngô Thì Vò);
Hồng Mao hoả thuyền ca (Cao Bá Quát); Lạng Sơn đạo trung (Nguyễn Văn Siêu); Để Hà Nội
(Bùi Dò)…Nhưng đến đây, thơ bang giao đã có những bước chuyển mới hẳn. Thời Nguyễn là một
giai đoạn, một triều đại phong kiến phản động, mục nát trong lòch sử Việt Nam. Vì thế, thơ
bang giao thời Nguyễn vang lên tiếng nói tố cáo hiện thực. Trên đường đi sứ hoặc khi ở Bắc
quốc, ngoài việc miêu tả những di tích thắng cảnh các sứ thần cũng không quên phản ánh xã hội
lầm than. Họ cảm thông với tình trạng đau khổ của lớp người nghèo dưới đáy xã hội. Ngoài bản
cáo trạng độc đáo Đoạn trường tân thanh, Nguyễn Du vẫn sử dụng ngòi bút sắc bén để khắc hoạ
những cảnh sống bi đát trong Bắc hành tạp lục – tập thơ đi sứ của ông. Nguyễn Văn Siêu cũng
thường dựng lại ở những cảnh sống đau khổ: Nguy cơ chết đói của dân chúng Ba Lăng, Lưỡng
Hồ rất đáng thương:


Trường đoạn Ba Lăng khất thực ca,
Lưỡng Hồ bách tính tại phong ba.
Quân Sơn thượng hữu trường sinh tửu,
Sổ túc như châu khả nại hà!
(Ba Lăng ca giả duyên lưu vãng lai văn chi cảm hoài – Nguyễn Văn Siêu)
(Nghe tiếng hát người ăn xin ở Ba Lăng cảm động đứt ruột,
Dân chúng Lưỡng Hồ đang trong cơn sóng gió.
Trên núi Quân Sơn còn có rượu trường sinh,
Nhưng thóc nước Sở đắt như hạt châu thì biết làm sao?)
Bùi Dò cũng thốt lên những lời than vãn thay vì ca ngợi thượng quốc. Bài thơ dài Hoàng
Hà cơ dân dục tử hành nói chuyện dân bán con tại vùng sông Hoàng Hà. Lời thơ có cái nhìn đau
xót. Mặt khác, các nhà thơ đi sứ cũng đã lớn tiếng lên án xã hội phong kiến thối nát bên ấy. Đó
là những đám quan liêu miệng ăn thòt người, đè đầu cưỡi cổ dân nghèo ( Phản chiêu hồn của
Nguyễn Du), là cảnh bọn quan lại kéo vây cánh, hối lộ, cầu cạnh, ức hiếp người (Phong tục

ngâm của Ngô Thì Vò). Tâm trạng u uẩn, bất lực trước hiện thực và tỏ lòng quan tâm đến thời
cuộc cũng là nội dung mới mẻ của thơ bang giao thời Nguyễn: Thơ của Nguyễn Thuật (Đăng
lầu Hoàng Hạc, Tức sự), thơ Cao Bá Quát (Hồng Mao hoả thuyền ca, Dạ quang thanh nhân hí
trường diễn hí…), thơ Phạm Chí Hướng (Đề miếu Vũ Mục vương), thơ Lý Văn Phức (Để Minh Ca
tân thứ an bạc), thơ Hà Tông Quyền (Ngẫu ngâm, Phái vãng dương trình hiệu lực, Bệnh trung
ngẫu đắc), thơ Phan Thanh Giản (Chính đòch lữ dạ).
Thơ bang giao thời Nguyễn giàu chất trữ tình và tính hiện thực. Âm điệu chua xót , buồn
bã, xốn xang là âm điệu chính. Thời đại đã đem lại cho thơ họ những tư tưởng sâu sắc và trên sứ
trình họ đã thể hiện những tư tưởng ấy một cách thắm thiết.
Nhìn chung, từ thời Trần đến thời Nguyễn, thơ bang giao – dòng sông nhỏ trong nguồn
nước lớn của văn học Việt Nam luôn gắn bó với vận mệnh đất nước, vận mệnh dân tộc, là người
bạn đồng hành của từng thời đại trong lòch sử dân tộc. Lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc là
dòng chủ lưu của thơ bang giao. Tiếng nói yêu nước, thương nhà khắc khoải trong từng nhòp thơ,
vần thơ. Tất cả đã làm nên giá trò đáng quý của thơ bang giao.
1.3. Lực lượng sáng tác:


Việc cử các sứ thần sang Trung Hoa ngoài mục đích triều cống, xin phong vương còn có
mục đích khác như sang mừng vua mới lên ngôi, mừng việc phong hoàng thái tử, tạ ơn vua
Trung Hoa đã cho áo mũ, lòch, phong vương v.v… Ngoài ra phải kể đến các sứ bộ Việt Nam sang
để điều đình việc các biên thần của thiên triều lấn chiếm đất đai vùng biên giới hoặc xin hoãn
binh hoặc giải quyết hậu quả chiến tranh giữa hai nước. Như vậy, việc đi sứ hết sức quan trọng
đối với vận mệnh của quốc gia. Chính vì thế, những người được cử đi sứ đều là những quan lại
tài giỏi. Nhiều người trong số đó là những trạng nguyên (Mạc Đónh Chi, Giáp Hải, Nguyễn Bỉnh
Khiêm), tiến só (Nguyễn Tiến Sách, Đặng Đình Tướng, Nguyễn Kiều, Nguyễn Công Hãng, Ngô
Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Võ Huy Tấn, Nguyễn Gia Cát, Hà Tông Quyền, Phan Thanh Giản,
Bùi Quỹ…), hoàng giáp (Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Tông Khuê, Đinh Nho Hoàn, Đoàn
Nguyễn Thục, Hồ Só Đống, Nguyễn Tư Giản…), bảng nhãn (Đào Công Chính, Lê Quý Đôn…),
thám hoa (Nguyễn Quý Đức, Nguyễn Huy Oánh…), hầu hết họ đều là những nhà văn hoá lớn.
Và đã là những nhà văn hoá lớn, các sứ thần Việt Nam phải biết làm thơ, làm thơ để thù tiếp

các quan lại đòa phương ra đón, làm thơ thù tạc với các quan lại trong triều, làm thơ mừng chúc
thọ vua, làm thơ đi đón tiếp sứ thần nước ngoài, làm thơ tiễn biệt… Biết làm thơ là một biểu hiện
của thần dân một nước có văn hiến. Việc làm thơ của các sứ thần thì có lẽ không lấy gì làm khó
khăn vì các sứ thần đều là những người đỗ đại khoa và vì thế lực lượng sáng tác thơ bang giao
rất phong phú. Đáng kể nhất trong lực lượng sáng tác là Nguyễn Trung Ngạn 阮忠彥 (1289 –
1370), Phạm Sư Mạnh 范師孟, Đỗ Cận 杜覲, Giáp Hải, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan,
Nguyễn Quý Đức 阮貴德 (1648 – 1730), Nguyễn Tông Khuê, Nguyễn Kiều, Đinh Nho Hoàn, Lê
Quý Đôn, Nguyễn Huy Oánh, Hồ Só Đống 胡士棟 (1739 – 1785), Đoàn Nguyễn Tuấn, Ngô Thì
Nhậm, Nguyễn Đề, Phan Huy Ích, Trònh Hoài Đức 鄭懷德 (1765 – 1825), Ngô Nhân Tónh, Lê
Quang Đònh 黎光定 (1760 – 1813), Ngô Thì Vò, Nguyễn Du 阮攸 (1765 – 1820), Phan Huy Chú
(1782 – 1840), Nguyễn Văn Siêu 阮文超 (1799 – 1872), Cao Bá Quát 高伯适 (? – 1854)…
Một điều hết sức thú vò trong lực lượng sáng tác thơ bang giao là ngoài các sứ thần vốn là
thi só vừa kể trên còn có cả vua, tướng lónh cũng là những thi só. Họ đã làm nên những vần thơ
thù tiếp và tống tiễn được các sứ thần phương Bắc hết lời khen ngợi và cảm phục. Đó là những



×