Tiểu luận lòch sử Đảng
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------QUÁ TRÌNH THÀNH LẬP ĐẢNG.
Hoàn cảnh lòch sử.
Vào giữa TK XIX, nước Việt Nam ta đã bò thực dân Pháp xâm lược, mở đầu bằng cuộc
tiến công vào cảng Đà Nẵng (1-9-1858). Sau khi hoàn thành việc xâm lược và bình đònh vũ
trang, thiết lập bộ máy thống trò, thực dân Pháp tiến hành những cuộc khai thác thuộc đòa nhằm
cướp đoạt tài nguyên, bóc lột nhân công rẻ mạt, cho vay nặng lãi, mở rộng thò trường tiêu thụ
hàng hóa của chính quốc. Chính sách thuộc đòa của Pháp ở Việt Nam và cả Đông Dương là bóc
lột nặng nề về kinh tế, chuyên chế về chính trò, kìm hãm nô dòch về văn hóa, nhằm đem lại lợi
nhuận tối đa cho bọn tư bản lũng đoạn Pháp chứ không phải đem đến cho nhân dân các nước
Đông Dương sự “khai hóa văn minh”.
Để tiến hành khai thác thuộc đòa thì phải xuất khẩu tư bản đến thuộc đòa. Từ 1860 đến
1912, qua hình thức cho vay, chính phủ Pháp và các tập đoàn tư bản ngân hàng Pháp đã đầu tư
vào Đông Dương 499 tỷ phrăng. Hậu quả của sự xuất khẩu tư bản và du nhập CNTB theo kiểu
thực dân vào nước ta đã đem lại những biến đổi sâu sắc về kinh tế, xã hội, chính trò và giai cấp.
Với lòng yêu nước truyền thống nồng nàn, tinh thần anh hùng bất khuất, nhân dân ta đã
liên tục đứng lên kháng chiến để bảo vệ nền độc lập. Các phong trào kháng chiến đã diễn ra
liên tiếp, sôi nổi dưới nhiều hình thức và màu sắc khác nhau nhưng cuối cùng đều bò thất bại và
nguyên nhân là do thiếu một giai cấp tiên tiến có khả năng đề ra đường lối đúng đắn cho Cách
mạng (CM) Việt Nam. Xã hội Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc về đường lối.
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời:
Trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào CM trong nước thì những đồng chí hội viên
tiên tiến của Việt Nam thanh niên CM đồng chí hội ở Bắc Kỳ đã tiến hành họp tại số nhà 5D
Hàm Long Hà Nội vào đầu 3-1929 để tiến hành thành lập ra chi bộ CS đầu tiên ở trong nước và
chi bộ này đã ra nghò quyết: phải thành lập ra Đảng CS. Cuối 3-1929 ĐH kì bộ Bắc Kỳ của Việt
Nam thanh niên CM đồng chí hội cũng được tiến hành và ĐH này đã thông qua chủ trương thành
lập Đảng của chi bộ CS đầu tiên đồng thời ĐH cũng cử đại biểu đi dự ĐH thanh niên toàn quốc
và giao nhiệm vụ cho các đồng chí đại biểu: phải đấu tranh để chủ trương thành lập Đảng được
chấp thuận tại ĐH thanh niên toàn quốc.
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Tiểu luận lòch sử Đảng
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------Ngày 1-5-1929: ĐH lần thứ I của Việt Nam thanh niên CM đồng chí hội được tiến hành
tại Hương Cảng Trung Quốc. Tại ĐH này, đoàn Đại biểu Bắc Kỳ đưa ra vấn đề thành lập Đảng
nhưng lại không được ĐH chấp thuận. Vì thế, các đồng chí đã tự động rút về nước và thành lập
ra tổ chức CS đầu tiên là Đông Dương CS Đảøng (6-1929) do đồng chí Hồ Tùng Mậu làm bí thư.
7-1929: Thành lập An Nam CS Đảng.
9-1929: Thành lập Đông Dương CS liên đoàn.
Trước sự xuất hiện 3 tổ chức CS ở trong nước thì quốc tế CS đã viết thư kêu gọi những
người CS ở Việt Nam là phải nhanh chóng hợp nhất 3 tổ chức CS, thành lập Đảng CS đồng thời
giao nhiệm vụ cho đồng chí Nguyễn i Quốc là thay mặt quốc tế CS hợp nhất 3 tổ chức CS
thành lập ra Đảng CS. Sau chỉ thò của quốc tế CS đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã bắt tay ngay vào
việc chuẩn bò các văn kiện cho hội nghò hợp nhất và khi mọi công tác chuẩn bò đã hoàn tất thì
hội nghò hợp nhất 3 tổ chức CS tiến hành 3 đến 7-2-1930 tại Hương cảng Trung Quốc: Hội nghò
thảo luận bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, quyết đònh thành lập Đảng CS và lấy tên là Đảng CS
Việt Nam, thông qua chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, điều lệ tóm tắt và lời kêu gọi của
đồng chí Nguyễn Ái Quốc nhân dòp thành lập Đảng, bầu Ban chấp hành trung ương lâm thời.
Hội nghò được coi như là hội nghò thành lập Đảng và các văn kiện do Hội nghò thông qua chính
là cương lónh đầu tiên của Đảng.
Đảng CS Việt Nam ra đời là một tất yếu lòch sử, là bước ngoặc vó đại trong phong trào
CM Việt Nam. Nó chứng tỏ giai cấp Công nhân Việt Nam đã trưởng thành. Đảng CS Việt Nam
ra đời là sự kết hợp giữa Chủ nghóa Mác-Lenin và phong trào Công nhân. Đây là quy luật thành
lập Đảng của giai cấp Công nhân Việt Nam.
Cương lỉnh đầu tiên của Đảng :
Vạch rõ dường lối chung cho cách mạng Việt Nam : là cuộc cách mạng trải qua hai giai
doạn : Cách mạng Dân quyền kiểu mới và Cách mạng Xã hội chủ nghóa . Mối quan hệ giữa hai
giai đoạn này không có bức tường thành ngăn cách ; nghóa là kết thúc giai đoạn một cũng là mở
đầu cho giai đoạn hai
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Tiểu luận lòch sử Đảng
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------Nêu rõ nhiệm vụ chiến lược của Cách mạng Việt Nam : chống đế quốc và chống phông
kiến : trong đó nhiệm vụ chống đế quốc được đặt lên hàng đầu còn nhiệm vụ chống phông kiến
htực hiện từng bước theo từng giai đoạn của đất nước.
Nêu rõ lực lượng lảnh đạo, động lực của cách mạng : giai cấp tiến trình cách mạng gồm
hai giai cấp công nhân và nông dân, lực lượng cách mạng gồm bốn giai cấp công , nông , tư sản
và tiểu tư sản cách mạng
Phương pháp cách mạng :sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng giành chính quyền
gồm : lực lượng chính trò và đấu tranh chính trò ; lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang
Đấu tranh khi có tình thế và thời cơ: giáo dục giác ngộ quần chúngtrưởgn thành khi có
thời cơ xuất hiên vấn đề giành chính quyềntrực tếp đặt ra
Mối quan hệ giữa cácn mạng Việt Nam và cách mạng thế giới: cách mạng Việt nam là
một bộ phận của cách mạng thế giới chòu sự lảnh đạo trực tiếp cách mạng thế giới nhưng đồng
thời phải tích cực chophong trào cách mạng thế giới
Vai trò lảnh đạo của Đảng: trong nước Đảng Đảng có nhiêm vụ vận động và tổ chức
quần chúng đấu tranh, bên ngoài liên lạc với các giai cấp vô sản thống nhất hành động.
QUÁ TRÌNH LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
QUA CÁC THỜI KỲ CÁCH MẠNG:
Quá trình Đảng lảnh đạo nhân dân ta đấu tranh giành chính quyền CM (1930 -1945)
*Hội nghò TW lần I (10-1930) tại Hương Cảng Trung Quốc với nội dung:
-
Đổi tên Đảng CS Việt Nam thành Đảng CS Đông Dương.
-
Thông qua luận cương chính trò do đồng chí Nguyễn i Quốc soạn thảo.
-
Bầu ban chấp hành TW, đồng chí Trần Phú làm tổng bí thư.
*Hội nghò TW 7-1936 tại Thượng Hải Trung Quốc do đồng chí Lê Hồng Phong làm chủ
trì với nội dung:
Tạm gác khẩu hiệu chiến lược CM Việt Nam là “ chống đế quốc và chống
-
phong kiến”, đưa ra khẩu hiệu mới là “ chống phản động thuộc đòa, chống chiến
tranh, đòi dân sinh dân chủ, đòi tăng lương, giảm giờ làm việc, giảm siêu, giảm
thuế”.
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Tiểu luận lòch sử Đảng
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------Chủ trương chuyển hướng về mặt tổ chức và hình thức đấu tranh: từ bí mật
không hợp pháp trở thành hợp pháp và nửa hợp pháp. Vì thế mà hội nghò quyết đònh
thành lập hội “Tương Tế”, hội “i Hữu”.
*Hội nghò TW 6 (11-1939) tại Bà Điểm Hoóc Môn do đồng chí Nguyễn Văn Cừ làm chủ
trì với nội dung:
-
Hội nghò nhận đònh: chiến tranh thế giới lần này sẽ nung nấu CM Đông Dương
bùng nổ.
-
Chủ trương đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, quyết đònh thành
lập mặt trận phản đế Đông Dương thay cho mặt trận dân chủ Đông Dương và thay đổ
khẩu hiệu: “ tòch thu ruộng đất của phong kiến và đế quốc ” thành “ tòch thu
ruộng đất của đế quốc và tay sai”.
-
Đặt võ trang bạo động giành chính quyền nhưng không vạch được bước đi của
khởi nghóa vũ trang.
*Hội nghò TW 7 (11-1940) tại Đình Bảng-Từ Sơn-Bắc Ninh do đồng chí Trường Chinh
chủ trì với nội dung:
-
Xác đònh kẻ thù của CM Đông Dương lúc này là phát xít Nhật và thực dân
Pháp, thay khẩu hiệu “ đánh đuổi thực dân Pháp” thành “ đánh Pháp đuổi Nhật”.
-
Tán thành hội nghò 6 về việc đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
-
Đặt võ trang bạo động vào chương trình nghò sự. Cụ thể là hoãn cuộc khởi
nghóa Nam Kỳ duy trì lực lượng khởi nghóa Ba Sơn.
*Hội nghò TW 8 (5-1941) tại Cao Bằng do đồng chí Nguyễn i Quốc chủ trì với nội
dung:
-
Nhận đònh được chiến tranh thế giới lần trước đẻ ra Liên Xô - một nước
XHCN thì chiến tranh thế giới lần này đẻ ra cả hệ thống XHCN nên CM nhiều nước
thành công.
-
Hội nghò tán thành với hội nghò 6,7 về việc đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc
lên hàng đầu nhưng hội nghò chủ trương giải quyết về vấn đề dân tộc ở khuôn khổ
mỗi nước Đông Dương để thành lập mặt trận riêng cho từng nước.
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Tiểu luận lòch sử Đảng
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------Chủ trương đặt võ trang bạo động là nhiệm vụ trung tâm của hội nghò và vạch
ra bước đi của khởi nghóa võ trang từ từng phần lên tổng khởi nghóa.
* Hội nghò đã trực tiếp chỉ đạo phong trào CM nước ta qua các thời kỳ và giai đoạn:
-
Với cao trào 30, 31 và Xô Viết Nghệ Tónh đã khẳng đònh được đường lối của
Đảng là đúng đắn, để lại cho nhân dân niềm tin về sự lãnh đạo đúng đắn của giai
cấp công nhân và để lại cho quần chúng công nông một điều tự tin về sức mạnh CM
của mình, đây thực sự là cuộc diễn tập đầu tiên của Đảng và để lại cho Đảng một bài
học kinh nghiệm q giá.
-
Với cuộc đấu tranh nhằm khôi phục lại phong trào (1932-1935) đã bảo vệ
được chân lý của Đảng đồng thời cũng đã giáo dục được nhiều Đảng viên quốc dân
Đảng đi theo đường lối của Đảng CS và nhiều người sau này trở thành Đảng viên
CS, cuộc đấu tranh trên báo chí công khai diễn ra trên hai lónh vực: triết học và văn
học và trên nghò trường. Phong trào CM Việt Nam cuối 1934 đầu 1935 phát triển,
nhiều cuộc bãi khóa, đình công lại liên tục nổ ra trên cả nước.
-
Với cao trào dân chủ Đông Dương (1936-1939) buộc nhà cầm quyền Pháp ở
Đông Dương phải ban bố một số nghò đònh tạm thời: thời gian làm việc của Công
nhân từ 12h / 1 ngày xuống còn 8h / 1 ngày và được nghỉ ngày Chủ nhật, thả một số
tù chính trò. Đây là cuộc diễn tập thử lần hai thiết thực chuẩn bò về mọi mặt cho việc
giành chính quyền CM của Đảng.
Sang đầu năm 1945 tình hình chiến tranh thế giới lần 2 cũng bước vào giai đoạn kết
thúc: Hồng quân Liên Xô sau khi tiêu diệt phát xít Đức đã quay lại đánh đạo quân Quan
Đông của Nhật làm cho bọn lính Nhật ở Đông Dương hoang mang lo sợ thực dân Pháp đứng
ở phía sau đảo chính lật đổ Nhật chiếm lấy Đông Dương. Vì thế, đêm 9-3-1945 Nhật đã tiến
hành trước cuộc đảo chính lật đổ Pháp chiếm Đông Dương. Hội nghò TW 8-3-1945 tại Tân
Trào đã diễn ra đúng lúc Nhật tiến hành đảo chính Pháp đã xác đònh kẻ thù của ta lúc này là
phát xít Nhật, thay đổi khẩu hiệu “ đánh đuổi Pháp-Nhật” thành “ đánh đuổi phát xít
Nhật” và dự kiến thời cơ khởi nghóa. Hội nghò ra chỉ thò Nhật-Pháp bắn nhau và hành động
của chúng ta. Thực hiện chủ trương của TW cao trào kháng Nhật đã diễn ra sôi nổi trên cả
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Tiểu luận lòch sử Đảng
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------nước. Nhiều cuộc khởi nghóa từng phần đã diễn ra và giành thắng lợi ở một số đòa phương
nên thời cơ tổng khởi nghóa đang đến gần. Vì vậy, 13-8-1945 Đảng đã tiến hành hội nghò
toàn quốc tại Tân Trào và 15-8-1945 phát xít Nhật đã tuyên bố đầu hàng đồng minh vô điều
kiện. Hội nghò quyết đònh phát động tổng khởi nghóa giành chính quyền trên cả nước, bầu ra
ủy ban lãnh đạo khởi nghóa do đồng chí Trường Chinh làm trưởng ban. Tối 15-8 hội nghò
toàn quốc của Đảng kết thúc. Sáng 16-8 cũng tại Tân Trào ĐH quốc dân lại được triệu tập
chủ trương phát động tổng khởi nghóa của Đảng và bầu ra chính phủ CM lâm thời do chủ tòch
Hồ Chí Minh đứng đầu, ĐH đã thông qua đường lối đối nội, đối ngoại của chính phủ, thông
qua quốc kỳ, quốc ca của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Sau ĐH quốc dân Tân Trào cuộc
tổng khởi nghóa tháng 8 đã diễn ra mạnh mẽ trên phạm vi cả nước. Đây thực sự là cuộc nổi
dậy của toàn dân được kết hợp giữa đấu tranh chính trò với đấu tranh vũ trang, có nơi mở đầu
cuộc khởi nghóa tại thành phố và kết thúc tại nông thôn nhưng có nơi thì ngược lại. Thắng lợi
của 3 thành phố lớn: Hà Nội(19-8), Huế(23-8), Sài Gòn(25-8) đã quyết đònh toàn bộ cuộc
tổng khởi nghóa tháng 8.
Sau khi CM tháng 8 giành thắng lợi, Bác và TW trở về thủ đô Hà Nội, 2-9-1945 tại quảng
trường Ba Đình, Bác đã đọc bản tuyên ngôn độc lập công bố trước toàn thể thế giới là nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa ra đời.
Đảng lãnh đạo nhân dân kháng chiến chống Pháp (1946 – 1954)
Với sự giúp đỡ của Liên Xô, một loạt nước ở Châu u được giải phóng và đi lên CNXH
từ đó hình thành hệ thống XHCN, phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới phát triển mạnh
làm lung lay hệ thống thuộc đòa của chủ nghóa đế quốc. Mỹ ra sức lôi kéo Anh và Pháp vào mặt
trận bao vây Liên Xô và chống phá phong trào CM thế giới. Việt Nam trở thành một trong
những tiêu điểm chống phá quyết liệt của chủ nghóa đế quốc trong khi đã gặp phải những khó
khăn to lớn về mọi mặt. Kẻ thù lấy danh nghóa là đồng minh để chống phá phong trào CM.
Chính quyền CM vừa mới được thành lập còn non trẻ, lực lượng vũ trang chưa phải là chính qui
hiện đại có khả năng bảo vệ chính quyền. Tất cả những khó khăn trên đã nói lên một điều là:
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Tiểu luận lòch sử Đảng
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------vận mệnh dân tộc ta đang đứng trước những thử thách nghiêm trọng, nền độc lập dân tộc có thể
bò thủ tiêu và nhân dân ta có khả năng trở lại cuộc sống nô lệ.
Trước tình hình đó Đảng đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ, 25-11-1945
Đảng ra chỉ thò “ kháng chiến kiến quốc”. Đảng phát động phong trào Nam Tiến để tăng cường
cho cuộc kháng chiến. Thực hiện chủ trương của Đảng, cuộc kháng chiến được duy trì và phát
triển đã đánh tan âm mưu của thực dân Pháp chỉ thôn tính Miền Nam(MN) Việt Nam. Đảng đẩy
mạnh sản xuất để giải quyết khó khăn về mặt kinh tế, đẩy mạnh phong trào bình dân học vụ với
chủ trương người biết chữ dạy cho người không biết chữ , tổ chức tổng tuyển cử bầu quốc hội
trong cả nước và kết quả bầu được 333 đại biểu . Đây thực sự là cuộc động viên chính trò rộng
lớn của toàn dân nhằm biểu dương sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc. Cuộc tổng tuyển cử đã tạo
ra một cơ sở pháp lý cho chúng ta chống kẻ thù trên mặt trận ngoại giao.
Để tập trung lực lượng của CM vào kẻ thù chủ yếu trước mắt là thực dân Pháp xâm lược
ở MN, Đảng chủ trương “ hoà với Tưởng” tạm thời chấp nhận 1 số yêu cầu của Tưởng nhưng
phải giữ được chính quyền CM và vai trò lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền. Đưa ra khẩu
hiệu “ Hoa-Việt thân thiện” tiếp xúc thân thiện với Tưởng, sách lược này đạt kết quả. Lúc này,
Pháp đẩy mạnh công cuộc lấn chiếm Nam Bộ, bọn Tưởng muốn nhanh chóng thôn tính Miền
Bắc (MB) nước ta nên cử tên Hà Ứng Khâm sang Hà Nội. Đảng ta đã cử 30 vạn dân Việt Nam
xuống đường hô hào khẩu hiệu” nước Việt Nam thuộc người Việt Nam ủng hộ chính phủ CM
do Hồ Chí Minh đứng đầu” làm Hà Ứng Khâm kinh hoàng từ bỏ ý đònh thôn tính MB. Ở Trung
Quốc, phong trào CM do Đảng CS lãnh đạo lại phát triển mạnh mẽ, buộc quân Tưởng phải rút
quân về nước để đối phó tình hình trong nước. Nhưng trước khi về nước Tưởng đã kí hoà ước với
Pháp: chấp nhận cho quân Pháp vào thay Tưởng ở MB Việt Nam và ngược lại Pháp nhường cho
Tưởng đường xe lửa ở Vân Nam và một số quyền lợi khác.
Sau khi hòa ứơc Hoa-Pháp được kí kết, Pháp đã tràn vào nước ta và chiếm đóng tại Lai
Châu đồng thời thực dân Pháp ở MN lại ráo riết chuẩn bò tàu chiến đưa quân đổ bộ lên vònh Bắc
Bộ và cảng Hải Phòng. Đảng đưa ra sách lược “ hòa với Pháp” và kí với Pháp hiệp đònh sơ bộ,
nhưng Pháp vi phạm hiệp đònh nên Đảng phát động phong trào đình công, bãi khóa trên cả nước,
buộc Pháp đàm phán chính thức. Thực dân Pháp lộ rõ âm mưu xâm lược nước ta. Cuối 5-1946
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Tiểu luận lòch sử Đảng
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------Bác lại lên đường sang Pháp, ở Đông Dương bọn thực dân Pháp thực hiện “chính sách đã rồi”
với âm mưu lật đổ chính phủ CM, thành lập chính phủ bù nhìn tay sai và chủ trương chia để tự
trò. Trước tình hình đó, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta kiên quyết đấu tranh chống lại những hành
động vi phạm hiệp đònh của Pháp đồng thời vạch mặt bọn phản động tay sai trừng trò trước pháp
luật. Trước sức mạnh của dân tộc ta buộc thực dân Pháp chấp nhận đàm phán chính thức nhưng
cũng không đạt được thỏa thuận nào vì Pháp quyết tâm xâm lược nước ta. Khi Bác trở về nước,
Pháp liên tục vi phạm các điều khoản của hiệp đònh. Giữa 12-1946 Pháp cho quân đánh chiếm
Hà Nội và gởi tối hậu thư cho chính phủ ta đòi tước vũ khí của đội tự vệ. Mọi khả năng hòa
hoãn với Pháp không còn nữa, tối 19-12-1946 Bác đọc lời kêu gọi và phát động cả nước đứng
lên kháng chiến chống Pháp và rút ra được đường lối kháng chiến đúng đắn, đánh lâu dài trong
3 giai đoạn: phòng ngự, cầm cự, tổng tiến công và dựa vào sức mình là chính vì ban đầu đòch
mạnh ta yếu, ta phải có thời gian chuyển hóa so sánh lực lượng đó.
Dưới ánh sáng của đường lối kháng chiến chống Pháp, ngay trong tháng đầu tiên quân và
dân Hà Nội đã tiêu diệt hơn 1000 tên đòch. Sang 1947 Đảng chủ trương mở chiến dòch MB và
trong một thời gian ngắn đã giải phóng được xã Lai Châu và tỉnh Lai Châu. Cuộc kháng chiến
diễn ra một giai đoạn khác (cầm cự và tổng tiến công), lực lượng vũ trang của nhân dân ta phát
triển mạnh về số và chất lượng đồng thời các khu du kích và căn cứ du kích cũng ra đời ở nhiều
nơi trên phạm vi cả nước. Sang 1950 Đảng chủ trương mở chiến dòch biên giới và thắng lợi đã
để lại cho Đảng ta những bài học kinh nghiệm q giá về chỉ đạo chiến tranh. Đồng thời, Liên
Xô, Trung Quốc và các nước XHCN ở Đông Âu bắt đầu công nhận và đặt ngoại giao với nước
ta. Kể từ đây, cuộc kháng chiến của nhân dân ta nhận được sự viện trợ về vật chất cũng như tinh
thần của hệ thống XHCN
ĐH toàn quốc lần thứ II của Đảng được tiến hành vào 2-1951 tại xã Vónh Tế-Chiêm
Hóa-Tuyên Quang. Sau ĐH toàn quốc lần thứ II thì Đảng phải giải quyết một loạt các mâu
thuẩn và hội nghò TW 9-1951 đề ra chủ trương chỉnh Đảng và chỉnh quân nên sang 1953 thì tình
hình so sánh lực lượng giữa ta và đòch trên chiến trường đã có sự thay đổi rõ rệt.
Đế quốc Mỹ đã ráo riết chuẩn bò mọi điều kiện để thay chân Pháp nhảy vào Đông Dương
nhưng mục đích của chiến lược toàn cầu không cho phép Mỹ nhảy vào Đông Dương ở thời điểm
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Tiểu luận lòch sử Đảng
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------này nên Mỹ đã tiến hành viện trợ cho Pháp và ép Pháp tiếp tục cuộc chiến tranh ở Việt Nam.
Sau khi Pháp nhận được viện trợ của Mỹ, Pháp đã cử tên tướng Nava làm tổng chỉ huy quân
Pháp ở Đông Dương và ông ta đã lập ra kế hoạch Nava. Để thực hiện kế hoạch này, Pháp đã đổ
thêm 12 tiểu đoàn xuống vònh Bắc Bộ, và trở thành nơi tập trung binh lực lớn nhất của Pháp ở
Đông Dương. Đảng ta chủ trương mở cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân (1953-1954), 1-1953
bộ đội ta bắt đầu tiến công lên Tây Bắc, chỉ trong thời gian ngắn đã giải phóng thò xã Lai Châu
và tỉnh Lai Châu buộc Nava phải điều quân lên Lai Châu, cho quân đổ bộ xuống Điện Biên Phủ
đồng thời xây dựng thành căn cứ quân sự mạnh nhất của Pháp ở Đông Dương và là nơi tập trung
lực lượng lớn thứ 2 ở Đông Dương. Đảng ta phối hợp giải phóng thò xã ATôBơ, đòch tập trung
quân lên ATôBơ và là nơi tập trung lực lượng lớn thứ 3 ở Đông Dương. Quân ta tiếp tục tiến
đánh thò xã PhôngXaLỳ và cao nguyên BôLôVen, Nava điều quân từ Bắc Bộ lên và nơi này trở
thành nơi tập trung lực lượng lớn thứ 4 ở Đông Dương. Đảng ta tập trung lực lượng đánh cứ điểm
Điện Biên Phủ và để đánh lạc hướng đòch 1-1954 ta đánh KomTum và trở thành nơi tập trung
lực lượng đứng thứ 5 ở Đông Dương. Sau khi mọi công tác chuẩn bò cho chiến dòch Điện Biên
Phủ hoàn tất, 13-3-1954 tiếng súng đầu tiên bắt đầu nổ. Trải qua 55 ngày đêm chiến đấu liên
tục với 3 đợt tiến công đến 7-5-1954 thì giành thắng lợi hoàn toàn. Sau thắng lợi Điện Biên Phủ
8-5-1954 hội nghò Giơ-Ne bắt đầu họp và bàn về việc thiết lập lại hòa bình cho dân tộc Việt
Nam. Đồng chí Phạm Văn Đồng dẫn đầu phái đoàn đi dự đại hội với cương quyết giữ vững độc
lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc ta. 27-7-1954 hiệp đònh Giơ-Ne được kí kết lập
lại hòa bình cho Việt Nam với nội dung chính: lấy vó tuyến 17 làm vó tuyến tạm thời để tập trung
lực lượng giữa hai bên. Sau 2 năm sẽ tiến hành tổng tiền cử đòa phương và thống nhất đất nước.
Đảng lãnh đạo nhân dân kháng chiến chống Mỹ(1957_1975)
Đất nước tạm thời chia làm 2 miền với 2 chế độ chính trò khác nhau. Vì thế, cùng một lúc
Đảng phải lãnh đạo 2 nhiệm vụ chiến lược ở 2 miền khác nhau. Đây là nét độc đáo của CM
Việt Nam vì chưa có một nước nào trên thế giới cùng một lúc thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược ở
2 miền khác nhau: kẻ thù của nước ta không phải là đế quốc Pháp mà là đế quốc Mỹ nhưng ta
lại chưa hiểu gì về nó cả, đế quốc Mỹ lúc này lại thông qua tay sai Ngô Đình Diệm thông báo
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Tiểu luận lòch sử Đảng
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------khướt từ hiệp ước thống nhất đất nước mà tiến hành khủng bố, đàn áp những người CS CM Việt
Nam với phương châm “thà giết lầm còn hơn bỏ sót”. Phong trào CS thế giới lúc này lại đi vào
con đường hòa hoãn làm cản trở trực tiếp phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới trong đó có
nước ta. Sau thất bại ở Điện Biên Phủ thì đế quốc Mỹ đã tìm mọi cách để gạt Pháp ra và nhảy
vào MN nước ta xâm lược bằng chủ nghóa thực dân kiểu mới tức là xâm lược thông qua bộ máy
ngụy quân ngụy quyền – thông qua tay sai Ngô Đình Diệm nhanh chóng gạt Pháp và bọn tay sai
của Pháp ra khỏi MN. Vì thế, ở MN từ 1954 đến 1956 đã diễn ra một cuộc giành giật giữa chủ
nghóa thực dân cũ và thực dân mới. Và được sự bảo trợ của Mỹ 5-1-1955 Diệm đã tiến hành
cách chức Nguyễn Văn Hinh (tổng tham mưu trưởng tay sai Pháp), tiến hành thành lập mặt trận
quốc gia toàn lực bao gồm các giáo phái (Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên) và kể từ đây Diệm
đã nắm được lực lượng công an, quân đội. Mỹ cũng bắt đầu cài hệ thống cố vấn từ TW đến cơ
sở. Diệm tuyên bố khướt từ hiệp thương thống nhất đất nước và tiến hành “trưng cầu dân ý”,
phế truất Bảo Đại, lên ngôi tổng thống. Bắt đầu từ đây chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm chóa
mũi nhọn vào việc đàn áp và tiêu diệt CS Việt Nam. Tình hình chính trò ở Việt Nam khủng
hoảng sâu sắc.
Trước tình hình đó, Đảng ta chủ trương chuyển CM sang thế giữ gìn lực lượng: tận dụng
mọi khả năng hợp pháp để khéo che dấu, bảo toàn lực lượng của mình. Vì thế, hình thức đấu
tranh lúc này là lấy đấu tranh chính trò làm chủ yếu – chỉ diễn ra trong điều kiện hợp pháp và
không phải lật đổ chính quyền Diệm. Nhưng Diệm lại tăng cường khủng bố, đàn áp những người
CM . Đồng chí Lê Duẩn cùng với các đồng chí TW cục MN tiến hành soạn thảo ra đề cương CM
Việt Nam (1957). 1-1959 hội nghò TW lần thứ 15 đã đề ra đường lối CM dân tộc dân chủ nhân
dân ở MN. Sau khi nghò quyết lần thứ 15 được triển khai đến cơ sở MN nó đã dấy lên một phong
trào đấu tranh rộng khắp mà đỉnh cao là thắng lợi phong trào Đồng Khởi và kết quả là sự ra đời
của mặt trận dân tộc giải phóng MN(20-12-1960). Thắng lợi của Đồng Khởi đã để lại cho Đảng
ta một bài học kinh nghiệm quý báu về vận dụng thời cơ khởi nghóa.
Sau khi, chiến lược chiến tranh đơn phương của đế quốc Mỹ thất bại, Mỹ chuyển sang
chiến tranh đặc biệt với âm mưu nhằm tiêu diệt phong trào nổi dậy và tiến công của đồng bào ta
ở MN. Để thực hiện âm mưu đó, Mỹ đã tăng cường bình đònh, dồn dân lập ấp chiến lược để tách
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Tiểu luận lòch sử Đảng
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------dân ra khỏi CM đưa vào thế kèm kẹp của Mỹ ngụy, tăng cường đôn quân bắt lính, trang bò huấn
luyện cho quân ngụy thành đội quân có khả năng cơ động chiến lược mạnh. Đảng chủ trương
qua nghò quyết TW 12-1962 : đấu tranh vũ trang song song đấu tranh chính trò, chia 3 vùng chiến
lược (nông thôn-rừng núi, nông thôn-đồng bằng và thành thò) để căn cứ vào so sánh lực lượng
giữa ta và đòch ở từng vùng mà tìm phương pháp chiến tranh thích hợp cho từng vùng. Trên
chiến trường MN, quân và dân giành liên tục những thắng lợi to lớn. Chính quyền tay sai Ngô
Đình Diệm tỏ ra bất lực, Mỹ tiến hành lật đổ Diệm đưa Dương Văn Minh rồi Nguyễn Khánh lên
thay nhưng tình hình chính trò ở MN cũng không ổn đònh, khi Kenedy bò ám sát, Jonhson lên đưa
ra kế hoạch Manamara: bình đònh MN trong vòng 2 năm nhưng có trọng điểm đó là 8 tỉnh của
đồng bằng sông Cửu Long. Trước tình hình đó, Đảng mở đường dây 559 để đưa lực lượng MB
vào MN và cử đồng chí Nguyễn Chí Thanh vào MN làm bí thư cục MN, lực lượng của ta tập hợp
thành đơn vò lớn và nhằm vào chủ lực quân ngụy để tiêu diệt. 3 chiến thắng: Bình Giả (121964), Ba Gia (5-1965), Đồng Xoài (6-1965) đã làm cho quân ngụy có nguy cơ bò tiêu diệt hoàn
toàn và chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ càng bò thất bại hoàn toàn. Vì thế, Mỹ đã ồ ạt
đưa quân viễn chinh Mỹ và chư hầu vào MN để cứu vãn sự sụp đổ của ngụy.
Trước thất bại của chiến lược chiến tranh đặc biệt, Mỹ buộc phải chuyển hướng sang
chiến tranh cục bộ với âm mưu: Đối với MB, từ 8-1964 Mỹ cho không quân, hải quân bắn phá
phá hoại công cuộc xây dựng CNXH và xây dựng đất nước, ngăn chặn sự chi viện của MB cho
MN, đánh gục ý chí đánh Mỹ của nhân dân ta ở MB. Đối với MN, đưa quân vào MN tiêu diệt
lực lượng vũ trang của nhân dân ta và đẩy lực lượng vũ trang của ta ra xa biên giới, từ đó làm
cho cuộc chiến tranh của nhân dân ta tàn lụi dần, Mỹ ồ ạt đưa 20 vạn lính Mỹ và chư hầu vào
MN để đánh lừa dư luận Mỹ và thế giới nhưng mục đích vẫn sử dụng chiến lược chủ nghóa thực
dân kiểu mới. Đảng phát động cả nước đứng lên kháng chiến chống Mỹ và vạch ra đường lối
kháng chiến, thể hiện qua nghò quyết TW 12-1965, từ đó nêu ra phương pháp đánh Mỹ chính là
chiến lược tiến công, tìm Mỹ mà đánh, tìm ngụy mà diệt, đánh lâu dài dựa vào sức mình là
chính. Trên chiến trường MN quân và dân ta đã liên tục giành những thắng lợi to lớn trong 2
mùa khô 1965-1966 và 1966-1967, đặc biệt, 1967, ta đã đánh tan 3 cuộc hành quân của MỹNgụy và hội nghò TW 12-1967 đã chủ trương mở mặt trận ngoại giao để tiến công đòch nhưng
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Tiểu luận lòch sử Đảng
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------thắng lợi của mặt trận ngoại giao thì bao giờ cũng do thắng lợi của chiến trường quyết đònh. Vì
thế, hội nghò bộ chính trò 1-1968 đã quyết đònh mở cuộc tiến công chiến lược mùa xuân 1968 với
ý đồ đánh gục ý chí xâm lược của giặc Mỹ buộc đế quốc Mỹ phải đi vào bàn đàm phán với
chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa để rút quân Mỹ ra khỏi chiến trường MN từ đó ta tiến lên
giành thắng lợi hoàn toàn. Đúng 0h 30,31-1-1968, 64 thành phố, thò trấn, thò xã trên toàn MN đã
nổi dậy tiến công quân đòch. Kết quả, ta buộc đế quốc Mỹ chấp nhận đi vào bàn đàm phán tại
Pari có sự tham dự của chính phủ CM lâm thời MN Việt Nam và Ngô Đình Diệm. Mỹ buộc
ngưng ném bom bắn phá MB và thắng lợi 1968 đã làm phá sản hoàn toàn chiến lược chiến tranh
cục bộ của đế quốc Mỹ.
Sau khi thất bại trong chiến tranh cục bộ, 1969 khi bước vào nhà trắng NickShon đã đưa
ra học thuyết Việt Nam hóa chiến tranh: “dùng người Việt Nam đánh người Việt Nam và dùng
người Đông Dương đánh người Đông Dương”. Mỹ đã rút quân Mỹ ra khỏi MN và giao MN lại
cho chính quyền Nguyễn Văn Thiệu nhưng để có thời gian vực quân Ngụy mạnh lên thì Mỹ
không tiến hành rút quân ào ạt mà tiến hành rút quân nhỏ giọt đồng thời chủ trương đẩy mạnh
đôn quân bắt lính, tăng quân Ngụy lên đến 1 triệu tên đồng thời trang bò quân Ngụy thành đội
quân chính quy, hiện đại, có khả năng cơ động chiến lược mạnh. Đảng chủ trương đẩy mạnh hơn
nữa tiến công của bộ đội chủ lực và nhắm vào chủ lực của quân Ngụy tiêu diệt, đồng thời phát
động phong trào chiến tranh nhân dân đòa phương rộng khắp trên toàn MN dưới sự chi viện tích
cực của hậu phương MB. Trên chiến trường MN chúng ta đã liên tục giành được những thắng lợi
lớn, đặc biệt, sang đầu năm 1970 quân và dân ta ở MB đã đập tan 2 cuộc hành quân chiến lược
của quân Ngụy. Trước thắng lợi 1970, sang năm 1972, Đảng ta tiếp tục mở chiến dòch Nguyễn
Huệ với chủ trương “kết thúc chế độ đế quốc nước ngoài xâm lược nước ta”. Chiến dòch thắng
lợi đã buộc đế quốc Mỹ phải chấp nhận ký nghò đònh sẽ ký hiệp đònh Pari để lập lại hòa bình
cho Việt Nam nhưng trước khi ký Mỹ đã tập kích chiến lược B52 từ 18 đến 30-12-1972 với ý đồ
đưa thủ đô Hà Nội trở lại thời kỳ đồ đá để buộc nhân dân ta quỳ gối đầu hàng theo các điều
kiện do Mỹ đặt ra. Mỹ thất bại và buộc phải kí hiệp đònh Pari 27-1-1973. Sau khi hiệp đònh Pari
được kí kết chính quyền tay sai Nguyễn Văn Thiệu đã không chấp hành hiệp đònh: chúng liên
tục hô hào binh lính tràn ngập lãnh thổ, mở các cuộc hành quân càng quét lực lượng ta. Tuy vậy,
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Tiểu luận lòch sử Đảng
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------việc kí kết hiệp đònh Pari đã làm cho so sánh lực lượng giữa ta và đòch trên chiến trường lúc này
đã có sự thay đổi to lớn có lợi cho CM MN. Trước tình hình đó Đảng ta chủ trương đẩy mạnh hơn
nữa sức mạnh tiến công của bộ đội chủ lực và trên chiến trường MN bộ đội ta liên tục giành
được những thắng lợi lớn, đẩy quân Ngụy vào thế khủng hoảng toàn diện và đặc biệt là chiến
thắng Phước Long 8-1-1975 mở ra một khả năng là trên thực tế ta có thể tiến lên giải phóng
hoàn toàn MN. Hội nghò bộ chính trò họp 8-1-1975 và chủ trương tập trung lực lượng cả 2 miền
để nhanh chóng giải phóng MN trong 2 năm 1975-1976, ta đã mở chiến dòch Tây Nguyên được
mang tên là chiến dòch A375 do trung tướng Hoàng Minh Thảo làm tư lệnh trưởng và mở đầu là
trận đánh vào Buôn Mê Thuộc 10-3-1975. Trước thắng lợi của thò xã Buôn Mê Thuộc, bộ đội
quyết đònh tập trung lực lượng trước mùa mưa 1975, mở chiến dòch Huế và chiến dòch Đà Nẵng.
26-3-1975 , ta giải phóng Huế và 29 – 3 – 1975 giải phóng Đà Nẵng, xóa bỏ toàn bộ quân khu
của đòch và đẩy đòch vào thế khủng hoảng toàn diện. Bộ chính trò đã chỉ thò tập trung lực lượng
giải phóng Sài Gòn trước 5-1975, 19-4-1975 tại căn cứ bộ tư lệnh miền ở Tà Thiết đã thành lập
bộ chỉ huy chiến dòch đánh vào Sài Gòn – Gia Đònh, mang tên chiến dòch Hồ Chí Minh và đồng
chí Văn Tiến Dũng làm tư lệnh trưởng, đồng chí Phạm Hùng làm chính ủy. Chiến dòch Hồ Chí
Minh mở đầu bằng trận đánh của quân đoàn 4 vào thò xã Xuân Lộc, xé tan tác giáp bảo vệ Sài
Gòn ở phía Đông, 26-4-1975 , bộ đội ta lại tiếp tục giải phóng thò xã Biên Hòa đồng thời lực
lượng ta khống chế và bao vây Sài Gòn trên tất cả các hướng. Đêm 29 rạng 30, các quân đoàn
chủ lực của ta theo 5 hướng tiến công vào Sài Gòn, 10h30’ xe tăng húc đổ cánh cửa dinh Độc
Lập, tiến vào buộc Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. 11h30’ lá cờ CM cắm trên nóc dinh
Độc Lập, kết thúc thắng lợi hoàn toàn chiến dòch Hồ Chí Minh, tạo điều kiện cho các tỉnh còn
lại của MN tiến lên giành chính quyền.
Đảng lảnh đạo nhân dân cả nước xây dựng CNXH (từ năm 1975 đến nay)
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ đã đưa nước ta vào giai đoạn mới( từ chiến
tranh chuyển sang hòa bình, từ 2 chiến lược CM sang 1 chiến lược CM, xây dựng CNXH trên
phạm vi toàn quốc). Với những thuận lợi: nước ta đã hoàn toàn thống nhất chấm dứt tình trạng
chia cắt, nhân dân ta có tinh thần tự lực, tự cường, lao động cần cù, thông minh, sáng tạo, có
nguồn lao động dồi dào, tập trung và có đội ngũ trí thức đáng kể – đất nước ta có nguồn tài
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Tiểu luận lòch sử Đảng
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------nguyên phong phú – Đảng ta có nhiều kinh nghiệm rút ra trong lao động CM XHCN ở MB và
được sự giúp đỡ của hệ thống XHCN. Bên cạnh đó còn có những khó khăn: nền kinh tế lạc hậu,
phổ biến là sản xuất nhỏ, năng xuất lao động thấp và bản thân nền kinh tế trải qua nhiều năm
chiến tranh tàn phá, những di chứng để lại nặng nề.
Đảng ta triệu tập ĐH Đảng lần thứ IV nhằm đề ra đường lối của CM VN bước vào giai
đoạn mới, ĐH thống nhất nước nhà bước vào thời kì xây dựng CNXH theo mô hình của CNXH
cũ. Nắm vững chuyên chế vô sản, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, tiến hành
đồng thời 3 cuộc CM: CM về quan hệ sản xuất, CM KHKT, CM tư tưởng và văn hóa, trong đó
CM KHKT là then chốt, đẩy mạnh CNH XHCN là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng nền sản xuất
lớn XHCN, xây dựng chế độ làm chủ tập thể XHCN, xây dựng nền văn hóa mới và con người
mới XHCN, xóa bỏ chế độ bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, không ngừng đề cao cảnh giác, thường
xuyên củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trò và trật tự xã hội nhằm xây dựng thành công
Tổ quốc Việt Nam hòa bình.
ĐH Đảng lần thứ V ( 1982) , chúng ta đang ở chặng đường đầu của thời kì quá độ nên
thành tựu của thời kì này sẽ để lại những dấu ấn quan trọng. Đảng đề ra những chính sách và
biện pháp phù hợp để thực hiện những nhiệm vụ mà ĐH IV đề ra. ĐH V đề ra cách thức CNH,
giải quyết mối quan hệ của Công nghiệp và Nông nghiệp. Trong 5 năm đầu (81-85) và những
năm 80 cần tập trung sức phát triển mạnh Nông nghiệp, coi Nông nhiệp là mặt trận hàng đầu và
đưa Nông nghiệp lên sản xuất XHCN. Ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây
dựng một số ngành Công nghiệp nặng quan trọng. Coi Nông nghiệp là hàng đầu không có nghóa
chỉ tập trung làm Nông nghiệp vì bản thân Nông nghiệp có thể tự làm thay đổi bộ mặt của mình.
Trong 10 năm đầu ta đã đạt được những thành tựu: Đảng đã ngăn chặn được đà giảm sút
của sản xuất Nông nghiệp và Công nghiệp những năm 79-80 và ta đã tự trang trải được lương
thực. Ta đã thống nhất nước nhà về mặt nhà nước và bảo vệ được Tổ quốc. Công cuộc cải tạo
XHCN cũng giành được những thành tựu quan trọng. Sự nghiệp giáo dục và y tế cũng phát triển.
Bên cạnh những thành tựu, nền kinh tế xã hội nước ta còn gặp những khó khăn: sản xuất tuy có
tăng nhưng tăng chậm không xứng với công sức ta bỏ ra, không đáp ứng được nhu cầu của ta là
nhanh chóng ổn đònh đời sống nhân dân. Một số chỉ tiêu quan trọng ta không đạt được đã ảnh
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Tiểu luận lòch sử Đảng
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------hưởng đến toàn bộ hoạt động kinh tế và đời sống lao động. Những mặt mất cân đối lớn chậm
được thu hẹp, có mặt còn gay gắt hơn trước, quan hệ sản xuất chậm được củng cố, vai trò chủ
đạo của kinh tế quốc doanh suy yếu, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, tiêu cực xã hội
phát triển, công bằng xã hội bò vi phạm. Quần chúng giảm lòng tin đối với sự lãnh đạo của Đảng
và đất nước ta rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội.
ĐH Đảng lần thứ VI ( 12-86) với tinh thần đổi mới tư duy, phong cách, nhìn thẳng vào sự
thật đã chỉ ra những sai lầm và nguyên nhân dẫn tới những sai lầm đó mà rút ra những bài học
có ý nghóa. Đổi mới là xu thế của thời đại ngày nay đòi hỏi phải đổi mới tư duy, xây dựng
CNXH ở mọi nước đều cần một hình thái xã hội mới và con đường đến hình thái đó ở mỗi quốc
gia là riêng và không bằng phẳng, thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn: về lương thực thực phẩm
thì lương thực phải đảm bảo đủ ăn cho toàn xã hội và có dự trữ, mức tiêu dùng lương thực thực
phẩm phải đảm bảo tái sản xuất mức lao động, về hàng tiêu dùng thì sản xuất phải đáp ứng
được nhu cầu bình thường của người dân về những sản phẩm công nghiệp thiết yếu, về xuất
khẩu thì tạo ra được một số mặt hàng xuất khẩu đạt kim ngạch xuất khẩu, đáp ứng được phần
lớn nhu cầu nhập khẩu vật tư, máy móc, phụ tùng và những hàng hóa cần thiết. Sử dụng và cải
tạo đúng đắn một số thành phần kinh tế, coi nền kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng
khách quan của thời kì quá độ lên CNXH ở nước ta. Văn kiện ĐH VI chưa đi vào cuộc sống,
chưa kòp phát huy tác dụng nên tình hình kinh tế xã hội nước ta chưa có sự chuyển biến đáng kể
thậm chí về mặt kinh tế còn có những gay gắt hơn trước. Tuy nhiên, ta cũng giành được những
thành tựu: từ thiếu ăn triền miên ta đã vươn lên đáp ứng nhu cầu trong nước và còn có dự trữ
xuất khẩu, cải thiện cán cân xuất nhập khẩu, hàng tiêu dùng dồi dào, đa dạng, lưu thông tương
đối thuận lợi. Kinh tế trong nước phát triển nhanh, mở rộng về quy mô hình thức. Cơ chế quản lý
kinh tế của nhà nước cũng bắt đầu hình thành theo xu hướng dần xóa bỏ cơ chế tập trung, quan
liêu chuyển sang hoạch toán XHCN. Đời sống nhân dân đã ổn đònh và cải thiện. Giáo dục xác
đònh rõ mục tiêu, có phương pháp tiến bộ. Giữ vững hòa bình, từng bước xóa bỏ thế bao vây về
kinh tế, cô lập chính trò, mở rộng quan hệ quốc tế, tạo ra thắng lợi cho công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Tiểu luận lòch sử Đảng
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------ĐH Đảng lần VII (6-1991) diễn ra trong sự biến đổi sâu sắc của bối cảnh quốc tế, nước ta
lại chòu ảnh hưởng của cuộc CM khoa học công nghệ. Cuộc CM ảnh hưởng đến đời sống các
dân tộc, tạo ra thời cơ cho các quốc gia đồng thời cũng đặt ra những thử thách gay gắt nhất đối
với các nước lạc hậu về mặt kinh tế. Cuộc khủng hoảng ở các nước XHCN, sự sụp đổ của
CNXH ở Liên Xô, Đông u đã tác động đến toàn bộ đời sống chính trò, kinh tế, xã hội. Mỹ bao
vây, cấm vận nước ta. Mặc dù, ta còn có những điểm yếu luôn cần khắc phục, nhiều thành tựu
mà ta đạt được đã và đang tạo ra những tiền đề để đưa đất nước chuyển sang thời kì phát triển
mới. Đảng ta có đường lối đúng đắn, đoàn kết nhất trí, nhân dân ta có tinh thần yêu nước, bản
lónh chính trò vững vàng, có ý chí CM kiên cường, có lực lượng vũ trang trung thành với Đảng
với nhân dân, chúng ta đã tạo ra được thế và lực mới để tiếp tục phát triển cuộc CM KHKT và
xu thế hòa bình hợp tác phát triển. Tuy nhiên, nước ta cũng đứng trước nguy cơ tụt hậu xa hơn so
với các nước trong khu vực và trên thế giới, chệch hướng XHCN, nạn tham nhũng và quan liêu,
diễn biến hòa bình.
ĐH Đảng lần VIII (8-1996) khẳng đònh nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kì
quá độ là chuẩn bò tiền đề cho CNH đã hoàn thành và cho phép ta chuyển sang thời kì CNHHĐH đất nước. ĐH đề ra chỉ tiêu năm 2000 thông qua mục tiêu đến năm 2000 là xây dựng nước
ta trở thành nước Công nghiệp, cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ
sản xuất tiến bộ phù hợp với tốc độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh
thần cao, an ninh quốc phòng vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------