Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Chính sách đối ngoại của obama với châu á TBD tiểu luận cao học môn quan hệ quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.44 KB, 26 trang )

A.

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Bước sang thập kỷ mới của thế kỷ XXI tình hình thế giới và khu vực có
nhiều biến chuyển ảnh hưởng mạnh đến hòa bình và an ninh thế giới. Cuộc khủng
hoảng kinh tế thế giới năm 2008 đã làm nhiều nước tại châu Âu, Châu Mỹ lâm
vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng dẫn đến chính quyền sụp đổ khắp nơi. Tuy
nhiên trong hoàn cảnh đó, những quốc gia thuộc Châu Á- Thái Bình Dương ( CATBD) lại nhanh chóng thoát khỏi khủng hoảng và vươn lên thành siêu cường, chi
phối nền kinh tế thế giới đặc biệt là Trung Quốc. Bên cạnh đó tại nơi này xung đột
lãnh thổ, biên giới được tích tụ lâu ngày dần lộ diễn và nổ ra sau hàng loạt những
sự kiện khơi mào của Trung Quốc. Tranh chấp chủ quyền biển đảo diễn ra nóng
hơn bao giờ hết tại Biển Đông giữa năm nước một bên; giữa Nhật-Trung; TrungHàn; Nhật- Hàn. Và trầm trọng hơn là xung đột trên bán đảo Triều Tiên có dấu
hiệu leo thang sau hàng loạt vụ nổ súng, đấu khẩu của 2 bên. Tất cả những điều
này đã biến nơi đây thành địa điểm dễ xảy ra chiến tranh thế giới thứ 3.
Hơn thế nữa sự nổi lên của Trung Quốc trong những năm gần đây cả về
kinh tế và quân sự; đặc biệt qua những phát ngôn, hành động đã làm cộng đồng
quốc tế e ngại. Trung Quốc trở thành nơi tập trung chú ý của hành động quốc tế.
Chính trong hoàn cảnh đó, Mỹ tuyên bố quay trở lại khu vực Châu Á- Thái Bình
Dương sau nhiều năm vắng bóng với những chính sách cụ thể, rõ ràng. Vậy vì sau
Obama lại quay trở lại vào thời điểm này?; nó có tác động gì đến tình hình khu
vực và thế giới không? Tất cả sẽ được thể hiện trong tiểu luận “ Chính sách đối
ngoại của Obama với khu vực Châu Á- Thái Bình Dương hiện nay”
Tiểu luận còn nhiều sai sót, có những đánh giá mang tính chủ quan. Mong
được sự đóng góp của thầy cô!

1


2. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu


Nhiệm vụ nghiên cứu: cần phải làm rõ khu vực Châu Á- Thái Bình Dương
vì sao lại nhận được sự quan tâm đặc biệt của cộng đồng quốc tế, Mỹ như vậy?
Chính sách đối ngoại của Obama tại đây là gì?; Nó có điểm gì khác so với chính
sách của người tiền nhiệm? Và Tác động của chính sách này đến khu vực và trên
thế giới.
Mục đích nghiên cứu: Với tiểu luận này tôi mong muốn cung cấp cho các
bạn những cái nhìn chung nhất về chính sách của Obama với Châu Á- Thái Bình
Dương
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Các nước trong khu vực Châu Á- Thái Bình Dương
Phạm vi nghiên cứu: Chính sách đối ngoại của Obama với khu vực châu ÁThái Bình Dương từ sau khi lên cầm quyền (2008 đến nay)
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Tiểu luận được làm trên cơ sở đọc những bài phân tích về
chính sách đối ngoại của Obama, Bush cả tiếng việt lẫn tiếng nước ngoài; đọc báo,
….
Phương pháp nghiên cứu: Để tiểu luận mang tính khách quan và chính xác
phương pháp nghiên cứu được sử dụng là phương pháp phân tích, logic,tổng hợp
và phương pháp nghiên cứu các tài liệu liên quan tới đề tài chủ yếu là các website
có nguồn chính thống
5. Kết cấu đề tài
Chương I: Khái quát về khu vực Châu á – Thái bình dương
Chương II: Chính sách đối ngoại của Obama đối với Châu Á giai đoạn hiện nay
Chương III: Sự triển khai chính sách của Obama ở khu vực Châu Á – Thái Bình
Dương
2


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ KHU VỰC CHÂU Á- THÁI BÌNH DƯƠNG.
CA-TBD là một khu vực rộng lớn nằm ở phía Tây Thái Bình Dương bao

gồm nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ Đông Á, Đông Nam Á, Australasia và châu
Đại Dương. Đôi khi thuật ngữ này còn được sử dụng để chỉ những quốc gia
vùng Nam Á, Nga, Nam Mỹ và Bắc Mỹ dù các nước này nằm xa hoặc gần như
không có liên hệ đến vùng Thái Bình Dương.
1.1. Vị trí địa lý- Điều kiện tự nhiên:
Vị trí địa lý:
Khu vực CA-TBD nằm ở phía Đông lục địa Châu Á, tiếp giáp Thái Bình
Dương. Từ xa trong lịch sử nơi đây đã trở thành địa bàn giao tranh của nhiều lực
lượng lớn trên thế giới do vị trí chiến lược của mình.
Nơi đây có những cường quốc phát triển bậc nhất thế giới như Trung Quốc,
Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore,… với tiềm năng kinh tế, quân sự cực kỳ mạnh.
Đặc biệt tại đây còn có các căn cứ quân sự khổng lồ của Mỹ những đồng minh
thân thiết như Nhật, Hàn, Đài Loan, Philippin,Austrailia.
Có tuyến đường vận tải biển then chốt nối liền Châu Á với Châu Mỹ. Đặc
biệt Biển Đông là con đường chiếm tới 60% lượng hàng hóa, nguyên nhiên liệu
cung cấp cho các nước lớn. Chiếm giữ được khu vực này sẽ chi phối cả vùng
Châu Á, Châu Mỹ, Thái Bình Dương rộng lớn.
Tài nguyên thiên nhiên giàu có, đa dạng, phong phú đặc biệt là dầu mỏ, khí
đốt,… đã gây ra sức cạnh tranh rất lớn giữa các cường quốc đặc biệt là trong thế
kỷ XXI khi mà nguồn năng lượng này đang cạn kiệt dần.
CA-TBD cũng là khu vực tập trung sự trỗi dậy về kinh tế của nhiều nước,
điển hình là Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc cũng những con rồng châu Á đang
có sức phát triển như vũ bão như Singapore, Hồng Kong, Đài Loan… Bên cạnh
3


đó, đây cũng là một khu vực đa dạng về thể chế chính trị với nhiều quốc gia theo
đuổi con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội như CHDCND Trung Hoa, CHXHCN
Việt Nam, CHDC Triều Tiên, CHDCND Lào.
Điều kiện tự nhiên:

Nằm ở vị trí chiến lược nên khu vực CA-TBD cũng có nhiều thuận lợi về
mặt điều tự nhiên. Đây là khu vực có địa hình đa dạng với phần diện tích rộng lớn.
Đây là khu vực có tài nguyên thiên nhiên phong phú trong đó rừng là một
trong những nguồn tài nguyên giàu có của khu vực này. Khu vực Đông Nam Á
đặc trưng với loại rừng nhiệt đới trong đới khí hậu nhiệt đới- xích đạo. Đông Á
với đặc trưng rừng lá rộng, rừng cận nhiệt đới gió mùa.

1.2. Tình hình kinh tế- xã hội khu vực CA-TBD từ 2000 đến nay:
Kinh tế:
Trước thế kỷ XXI kinh tế khu vực CA-TBD mặc dù phát triển mạnh nhưng
vẫn đứng sau EU-Châu Âu. Tuy nhiên bước sang thế kỷ XXI CA-TBD là một khu
vực trụ cột của nền kinh tế thế giới. Châu Á – Thái Bình Dương chiếm 36% tỷ
trọng kinh tế toàn cầu. Châu Âu đứng thứ hai và Bắc Mỹ thứ ba. Khu vực này là
động cơ tăng trưởng kinh tế toàn cầu với những nền kinh tế lớn như Trung Quốc,
Nhật Bản, Hàn Quốc… hay những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ như
Singapore, Hồng Kong, Đài Loan…
Trong thập niên đầu thế kỷ 21, thế giới trải qua một cuộc khủng hoảng kinh
tế trầm trọng năm 2008. Sau cuộc khủng hoảng kéo dài, khu vực CA-TBD vươn
lên trở thành khu vực dẫn đầu về phục hồi kinh tế. CA-TBD trở thành khu vực
phục hồi nhanh nhất và đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất sau những tác động sâu
sắc của cuộc khủng hoảng tài chính- kinh tế toàn cầu.
Dù vậy cũng không thể phủ nhận rằng cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008
đã ảnh hưởng nặng nề đến khu vực CA-TBD. Kể từ khi cuộc khủng hoảng toàn
4


cầu diễn ra tình trạng bất ổn về chính sách kinh tế ở khu vực đồng tiên chung
Châu Âu và Hoa Kỳ đã làm cho GDP khu vực CA-TBD bị giảm sút 3% tương
đương thiệt hại 870 tỷ USD giá trị sản lượng.
Do vậy có thể tổng kết sự thay đổi của kinh tế khu vực CA-TBD như sau:

Thứ nhất, sức mạnh chính trị và tốc độ phát triển kinh tế của khu vực này
tăng lên nhanh chóng so với các khu vực khác trên thế giới. Hiện nay, xuất khẩu
của khu vực châu Á-Thái Bình Dương chiếm 30% tổng lượng xuất khẩu của thế
giới, kim ngạch thương mại mỗi năm giữa khu vực châu Á-Thái Bình Dương và
Mỹ vượt 1000 tỉ USD, dự trữ ngoại hối chiếm 2/3 tổng lượng của thế giới.
Thứ hai, sự trỗi dậy của Trung Quốc một mặt đã đem đến cơ hội để kinh tế
các nước xung quanh phát triển. Trung Quốc trở thành công xưởng của thế giới
sau khi đã vượt Pháp, Anh và Đức nhờ mức tăng trưởng kinh tế bình quân khoảng
10%/năm trong hai thập kỷ qua. Quý III/2010, Trung Quốc chiếm ngôi vị á quân
kinh tế của Nhật Bản xét về Tổng sản phẩm quốc nội (GDP. Nhưng mặt khác nó
gây ra sự e ngại và lo lắng đối với các nước trên thế giới trước sự cạnh tranh gay
gắt thậm chí là sự lấn át trên nhiều phương diện.
Thứ ba, cơ chế hợp tác đa phương khu vực không ngừng tăng làm cho khả
năng xuất hiện nhất thể hóa khu vực cũng có phần tăng lên, cho dù để điều đó trở
thành hiện thực còn là câu chuyện của tương lai.
Xã hội:
Mức sống người dân: Khu vực CA-TBD có số dân số khoảng gần 4 tỷ
người (1/2 dân số thế giới) vì vậy mà nhu cầu cực kỳ lớn trở thành thị trường thu
hút đầu tư, sự cạnh tranh của các doanh nghiệp. Bên cạnh đó bước sang thế kỷ 21,
CA-TBD đang khẳng định là nơi có mức sống cao nhất trên thế giới. Số triệu phú
đô la ở khu vực này đã lên tới 3 triệu người trong năm 2009, tăng 25,8% so với
năm 2008 và lần đầu tiên vượt châu Âu. Tỷ lệ nghèo đói trên toàn khu vực tiếp tục
giảm với số lượng người sống bằng số tiền ít hơn 2 USD là 565 triệu vào 2010.
5


Tôn giáo: CA-TBD là khu vực có một bức tranh tôn giáo vừa đa sắc vừa
đặc biệt. Tại đây có sự xuất hiện của hầu hết những tôn giáo lớn trên thế giới.
Chính bởi sự phong phú như vậy nên vấn đề dân tộc, tôn giáo ở đây cũng không
kém phần phức tạp. Xung đột sắc tộc luôn khiến cho khu vực này rơi vào tình

trạng mất ổn định đặc biệt là trên lĩnh vực an ninh chính trị, ảnh hưởng đến sự ổn
định phát triến của khu vực.
Văn hóa: Châu Á Thái Bình Dương là cái nôi của nhiều nền văn minh cổ
đại rực rỡ như văn minh Lưỡng Hà, Ấn Độ, Trung Hoa. Một thời gian dài trong
lịch sử các quốc gia khu vực CA-TBD trở thành thuộc địa của các nước đế quốc
phương Tây, đời sống nhân dân rơi vào cảnh lầm than. Từ sau chiến tranh thế giới
thứ II các phong trào giải phóng dân tộc của các nước trong khu vực diễn ra mạnh
mẽ, các quốc gia dần dần xây dựng được nền độc lập. Hiện nay có những nước
trong khu vực tiến lên con đường XHCN, nhiều nước khác theo con đường TBCN.
An ninh chính trị
Bán đảo Triểu Tiên: Tình hình căng thẳng ở đây luôn là vấn đề quan tâm
chú ý của dư luận thế giới, từ đầu những năm 90 thế kỉ XX đến nay trên bán đảo
này luôn xuất hiện hiện tượng đan xen phức tạp giữa căng thẳng và hòa dịu. Từ
cuối năm 2002 trở lại đây sau một thời gian dài hòa dịu tình hình bán đảo Triều
Tiên lại có chiều hướng nóng lên xung quanh cuộc khủng hoảng hạt nhân ở
CHDCND Triều Tiên, đặc biệt từ sau năm 2010 với vụ nã pháo của Triều Tiên vào
đảo Yeonpyong của Hàn Quốc đã đẩy quan hệ 2 nước đến vực thẳm. Hàng loạt vụ
thử tên lửa đạn đạo, phóng vệ tinh, tập bắn đạn thật diễn ra đã châm ngòi cho
chiến tranh. Vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên kéo dài và không giải
quyết được đã trở thành mối lo ngại an ninh hàng đầu ở khu vực Đông Bắc Á, là
mối quan tâm không chỉ của các bên liên quan mà của cả dư luận thế giới.
Đài Loan: Từ năm 2000 vấn đề ở khu vực này càng thêm căng thẳng, nóng
bỏng nhạy cảm và phức tạp trong quan hệ giữa Trung Quốc với một số nước lớn ở
khu vực CA-TBD đặc biệt là Mỹ. Các chính sách của Đài Loan gây quan ngại sâu
6


sắc như chính sách “loại bỏ Trung Quốc hóa” từ phương diện văn hóa- xã hội.
Tiến hành xây dựng chiến lược quân sự riêng. Trong khi đó Trung Quốc quan
niệm rằng Đài Loan độc lập đồng nghĩa với chiến tranh, sự viện trợ quân sự ủng

hộ hoạt động Đài Loan độc lập đồng nghĩa với sự xâm lược.
Biển Đông là một điểm trong yếu địa chiến lược giữ vai trò quan trọng và
đang gây tranh chấp. Có vị trí chiến lược về giao thông vận tải biển, là con đường
huyết mạch trong vận tải biển quốc tế từ Ấn Độ Dương sang Thái Bình Dương.
Chứa đựng trong nó nguồn tài nguyên to lớn về trữ lượng dầu mỏ ước tính là 4 tỷ
m3 và khoảng 300 tỷ m3 khí đốt. Độc chiếm biển Đông là mục tiêu lâu dài của
Trung Quốc tại Đông Nam Á. Nước này đã áp dụng rấy nhiều các biện pháp chiến
lược có tính hai mặt khôn khéo để đạt được điều này. Sự phức tạp của vấn đề biển
Đông mang tính tổng hợp, tranh chấp ở biển Đông được coi là điểm dễ bùng nổ
trong khu vực Đông Nam Á nói riêng và CA-TBD nói chung.

1.3. Những điểm nổi bật của khu vực Châu Á- Thái Bình Dương hiện nay
Lý do thứ nhất, xuất phát từ việc Mỹ ngày càng chuyển trọng tâm chiến
lược sang khu vực châu Á - Thái Bình Dương sau hơn nửa thế kỷ tập trung vào
châu Âu (thời Chiến tranh lạnh) và một thập niên tập trung vào Trung Đông (thời
chống khủng bố). Ngay từ khi đưa ra chiến lược xoay trục từ Tây sang Đông, Mỹ
đã không úp mở khi thừa nhận rằng tương lai của Mỹ cũng như thế giới sẽ phụ
thuộc vào châu Á - Thái Bình Dương, ít nhất trong vài ba thập niên tới. Chính khu
vực này, chứ không phải bất cứ nơi nào khác trên thế giới, trở thành thao trường
củng cố, hay ở góc độ nào đó cũng sẽ thách thức, vị thế siêu cường số 1 của Mỹ.
Trong năm qua, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã nhiều lần tiến hành các
chuyến thăm, đôi lúc cấp tập, tới các nước châu Á. Chỉ 2 tuần sau khi tái đắc cử
nhiệm kỳ 2, Tổng thống Mỹ Barack Obama cũng đã chọn đi thăm 3 nước châu Á
gồm Thái Lan, Myanma và Campuchia. Các chuyến thăm này không chỉ giúp Mỹ
7


củng cố quan hệ với các đồng minh cũ, tìm kiếm thêm các đồng minh mới, mà còn
tăng cường quan hệ hợp tác với các đối tác trên cả ba lĩnh vực: Kinh tế, chính trị
và quân sự.

Lý do thứ 2, Trung Quốc lúc nào cũng khẳng định chủ trương phát triển một
cách hòa bình, phát triển trong hòa bình và phát triển hướng tới hòa bình nhằm
xây dựng một thế giới hòa bình thực sư nhưng những việc xảy ra trong năm 2012
thì hoàn toàn khác hẳn. Với mưu toan chiếm cả Biển Đông và Biển Hoa Đông,
Trung Quốc đã không nề hà gây hấn, đe dọa hết nước này đến nước khác, liên tiếp
đưa tàu đánh cá, tàu hải giám đến bãi đá cạn Scarborough/Hoàng Nham tranh chấp
với Philíppin, quần đảo Senkaku/Điếu Ngư tranh chấp với Nhật Bản; thành lập và
xây dựng cơ sở hạ tầng của cái gọi là “thành phố Tam Sa” và cho lưu hành hộ
chiếu “đường lưỡi bò” ôm trọn vùng biển này. Trung Quốc còn tuyên bố sẽ “chặn
giữ, lục soát và khám xét” các tàu bè hoạt động ở Biển Đông bắt đầu từ ngày
1/1/2013.
Lý do thứ 3, các nước trong khu vực ngày càng tỏ rõ thái độ mạnh mẽ trước
những hành vi gây hấn của Trung Quốc. Nhật Bản và Philíppin là những nước có
phản ứng quyết liệt nhất, khi cùng tuyên bố sẽ kiên quyết ngăn chặn âm mưu
“xâm lấn”, đồng thời tích cực đẩy mạnh liên minh với Mỹ để tăng cường năng lực
quốc phòng.
Lý do thứ tư, những đột phá trên biển, trên không và vũ trụ đồng loạt “nở
rộ” ở châu Á - Thái Bình Dương trong năm 2012. Trong năm qua, Trung Quốc
chính thức ghi tên vào danh sách 10 quốc gia sở hữu tàu sân bay, chính thức khởi
động nghiên cứu thử nghiệm máy bay chiến đấu thế hệ thứ năm, còn Triều Tiên
tạm thời được coi là thành viên câu lạc bộ các cường quốc vũ trụ sau vụ phóng vệ
tinh hôm 12/12/2012. Sự xuất hiện của tàu sân bay đầu tiên của Trung Quốc
không khỏi khiến Mỹ và nhiều nước trong khu vực, đặc biệt là Nhật Bản, Hàn
Quốc và Philíppin lo ngại. Không chỉ thế, nước này còn cấp tốc đẩy mạnh kế
8


hoạch sắm 4 tàu sân bay thông thường vào năm 2015, một tàu sân bay hạt nhân
vào năm 2020 và tiến hành thử nghiệm chiến đấu cơ J-31 thế hệ 5 đầu tiên.
Lý do thứ năm: 2012 là năm bản lề cho việc hình thành một trật tự thế giới

mới. Ở Nga, Trung Quốc và Mỹ đều sẽ diễn ra cuộc chuyển giao quyền lực, chứng
kiến những đổi thay to lớn và điều đó sẽ ảnh hưởng đến tham vọng chính trị và vị
trí của các nước này trên chính trường quốc tế. Sức mạnh nổi lên của Trung Quốc,
sự phục hồi của Nga tiếp tục làm cho Mỹ bận tâm. Nhưng quan trọng không kém,
mỗi nước đều đối mặt với những vấn đề khổng lồ về kinh tế, nhất là sau cuộc
khủng hoảng nợ công tại Mỹ và các biến động lớn về kinh tế, tài chính trên toàn
thế giới.
Có thể nói, 2012 là năm khởi đầu thế trận mới ở châu Á - Thái Bình Dương
với những sự kiện đáng chú ý với cả các nước trong khu vực và thế giới. Với
những diễn biến đó, cộng thêm những chuyển động chính trị phức tạp tại khu vực
này trong thời gian tới sau khi cả cả ba nước Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc
đều đã bầu ra ban lãnh đạo mới giữ quan điểm cứng rắn, chắc chắn châu Á - Thái
Bình Dương sẽ vẫn là “điểm nóng” của thế giới trong năm 2013 và có thể cả nhiều
năm tiếp theo.

9


CHƯƠNG 2: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA OBAMA VỚI CHÂU Á
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1. Đôi nét về chính sách đối ngoại của tổng thống Mỹ G.Bush đối với khu
vực châu Á- Thái bình dương
George Walker Bush sinh ngày 6 tháng 7 năm 1946 là chính khách và tổng
thống thứ 43 của Hoa Kỳ. Ông thuộc Đảng cộng hòa và là thành viên của một gia
đình danh giá và quyền thế nhất nước Mỹ. Năm 2000 ông được đảng Cộng hòa
chọn làm ứng cử viên tổng thống và trở thành ông chủ Nhà Trắng sau khi đánh bại
ứng cử viên Al Gore của đảng Dân chủ. Năm 2004, ông lại một lần nữa giữ chức
Tổng thống khi tái đắc cử sau khi thắng Thượng nghị sĩ John Kerry.
Trong thời kỳ Bush làm tổng thống, Mỹ xác định CA-TBD chính là điểm
trọng yếu số một sau khi “xoay trục” chính sách đối ngoại từ Âu sang Á. Các

chính sách và các động thái của Mỹ thể hiện sự quan tâm ngày càng tăng của Mỹ
đối với khu vực CA-TBD là điều không thể phủ nhận và nó được thể hiện khá
nhất quán trong chính sách của tổng thống B.Clinton đến tống thống G.Bush kế
nhiệm với mức độ ngày càng tăng. Đó chính là việc lấy châu Âu làm trọng điểm
chỗ dựa chiến lược, lấy CA-TBD làm trọng điểm tiến thủ chiến lược.
Chính quyền G.Bush đã thực thi chủ nghĩa hiện thực truyền thống và đã
được thể hiện rõ trong chính sách đối ngoại như nâng cấp quan hệ Mỹ- Nhật lên vị
trí số một, coi Trung Quốc là đối thủ chiến lược quan trọng, coi eo biển Đài Loan
là khu vực tác chiến chủ yếu, hâm nóng quan hệ Mỹ- Ấn, làm dịu quan hệ với
Triều Tiên, thúc đẩy nhanh việc xây dựng hệ thống kiềm chế và bao vây chiến
lược lấy đồngminh Mỹ- Nhật làm trung tâm, coi quan hệ quân sự song phương và
đa phương làm điểm tựa, hệ thống phòng thủ tên lửa chiến trường và vũ khí hạng
nặng mới làm lực lượng răn đe. Tất cả đều nhằm mục đích tăng nhanh mức độ
kiểm soát đối với khu vực CA-TBD.
10


Nhằm thực hiện các lợi ích chiến lược của mình ở khu vực CA-TBD là loại
bỏ các nước xã hội chủ nghĩa còn lại cũng như các nước không đứng về phía Mỹ,
lợi dụng và kiềm chế Trung Quốc cùng một số cường quốc khác, Mỹ tăng cường
quan hệ đồng minh truyền thống với Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Philipines,
Singapores, Malaysia, NewZealand và Australia, thao túng Đài Loan, lôi kéo Ấn
Độ, Pakistan liên minh với Mỹ, hình thành thế cô lập Nga, bao vây kiềm tỏa Trung
Quốc. Siết chặt vòng cung an ninh từ Nhật đến Philipin để bao vậy Trung Quốc,
Nga.
Với Đài Loan: Mỹ công khai sự không ủng hộ hoạt động ly khai của chính
quyền Đài Loan, tuy nhiên Mỹ vẫn khẳng định sẽ dùng mọi biện pháp hỗ trợ Đài
Loan phòng vệ. Duy trì hiện trạng căng thẳng giữa hai bờ eo biển Đài Loan trong
khuôn khổ “Trung Quốc không sử dụng vũ lực, Đài Loan không được độc lập”.
Đối với khu vực Đông Nam Á, chính quyền G.Bush nhận định đây là khu

vực bất ổn về chính trị và mong manh về kinh tế, Đông Nam Á vẫn quan trọng đối
với an ninh quốc gia của nước Mỹ, Mỹ có lợi ích kinh tế rất lớn và đang gia tăng
thương mại lẫn đầu tư ở Đông Nam Á. Ở một khía cạnh nào đó, chính sách của
chính quyền Bush vẫn là sự kế thừa các định hướng đã được xác lập dưới thời
Clinton. Tuy nhiên do chống khủng bố được coi là ưu tiên chiến lược hàng đầu,
nên chính sách an ninh quân sự đối với khu vực được nhân mạnh hơn cả so với
các lĩnh vực khác như kinh tế, dân chủ nhân quyền.
Tuy nhiên có thể khẳng định dưới thời Tổng thống Mỹ Bush, chính sách
hướng về CA-TBD chưa thực sự rõ rêt, mạnh mẽ. Nó chỉ được khẳng định từ cuối
thời Bush, nhất là sau khi Obama lên làm tổng thống.

2.2. Chính sách đối ngoại của Obama với Châu Á – Thái Bình Dương
2.2.1. Sơ qua về Tổng thống Obama và chính sách đối ngoại của ông
Barack Hussein Obama sinh ngày 4 tháng 8 năm 1961, là Tổng thống
đương nhiệm Hoa Kỳ. Ông là người Mỹ gốc Phi đầu tiên được bầu vào chức vụ
11


này. Năm 2004, Obama gây tiếng vang toàn quốc khi đọc bài diễn văn then chốt
tại Đại hội Toàn quốc Đảng Dân chủ vào tháng 7, sau đó vào tháng 11, ông đắc cử
vào Thượng viện Hoa Kỳ. Trong chiến dịch tranh cử tổng thống khởi đầu từ năm
2007, đến năm 2008, Obama thắng sít sao Hillary Rodham Clinton để nhận sự đề
cử của Đảng Dân chủ. Ông đánh bại ứng cử viên Cộng hòa John McCain trong
cuộc tổng tuyển cử, và tuyên thệ nhậm chức Tổng thống Hoa Kỳ ngày 20 tháng 1,
2009. Đến năm 2012, ông đắc cử nhiệm kỳ thứ hai sau chiến thắng trước ứng cử
viên Đảng Cộng hòa Mitt Romney.
Các chính sách đối ngoại của Obama rất rõ ràng, ông và bộ máy của mình
liên tục thực hiện những chuyến công du nhằm công bố một “kỷ nguyên mới”
trong bang giao giữa Hoa Kỳ với Nga và Châu Âu. Chính quyền Obama đã tìm
cách né tránh hay ít ra hạn chế chủ nghĩa đơn phương và quân phiệt mà chính

quyền G.Bush đã theo đuổi trước đó. Biểu hiện là B.Obama đã quyết định đóng
cửa nhà tù Vịnh Guantanamo đặt ra thời hạn cho quân đội Mỹ rút khỏi Iraq, trở lại
đàm phán về biến đổi khí hậu, tiến hành ngoại giao “vươn bàn tay” với các nước
như Iran, CHDCND Triều Tiên, Cuba, Venezuela và Myanmar đồng thời nỗ lực
cải thiện quan hệ với thế giới Hồi giáo.
Phương châm của ngoại giao Mỹ dưới thời tổng thống Obama là thêm đối
tác, bớt đối thủ. “Mỹ muốn là bạn của tất cả các nước”, xem Liên hợp quốc là tổ
chức quốc tế quan trọng nhất và sẽ hợp tác chặt chẽ với tổ chức lớn nhất này vì
nền hòa bình và ổn định của thế giới. Điều này thể hiện rất rõ rang trong việc cải
thiện mối quan hệ giữa Mỹ với các nước lớn.
2.2.2. Chính sách đối ngoại với Châu Á- Thái Bình Dương của Obama
Ngay từ khi mới lên nhâm chức tổng thống, Obama đã phải đối mặt với một
nhiệm vụ đối ngoại khó khan và nặng nề. Đối với khu vực CA-TBD, tổng thống
da màu phải kiềm chế tham vọng hạt nhân của CHDCND Triều Tiên, giải quyết
bài toán chiến lược với Trung Quốc, đưa ra những quyết sách hợp lí với khu vực
12


“nhạy cảm” Đông Nam Á… Gánh nặng đối ngoại trong bối cảnh khủng hoảng tài
chính, suy thoái kinh tế toàn cầu buộc chính quyền tổng thống B.Obama phải tìm
ra hướng tiếp cận mới.
Quan hệ lợi ích không thể loại bỏ giữa Mỹ và khu vực châu Á-Thái Bình
Dương và rất nhiều thách thức sẽ phải đối mặt ở khu vực này là bối cảnh cơ bản
để Chính quyền Obama thiết lập chiến lược an ninh châu Á-Thái Bình Dương. Sau
khi lên cầm quyền, trước tiên, Chính quyền Obama đã đưa ra những điều chỉnh
lớn về quan niệm, do vậy Mỹ không những nhấn mạnh mình là một quốc gia ở
châu Á-Thái Bình Dương, mà còn nhấn mạnh mình là một nhà nước châu Á. Bộ
trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Gates tuyên bố rõ ràng rằng “Mỹ không phải là
một khách mời của châu Á, mà là một nước cư trú ở châu Á”, và cách nói này
nhiều lần được các nhà lãnh đạo khác của Mỹ trích dẫn trong các trường hợp công

khai. Ngày 21 tháng 1 năm 2010, tại cuộc điều trần trước quốc hội, Trợ lí Ngoại
trưởng phụ trách các vấn đề châu Á-Thái Bình Dương Kurt M. Campbell nói rất
rõ: “nhân dịp thế kỷ của châu Á-Thái Bình Dương đang đến, trong môi trường
quốc tế mới, Mỹ cần phải tăng cường và làm sâu sắc hơn nữa vai trò lãnh đạo và
sự tham gia chiến lược của mình ở khu vực này.” Từ đó có thể thấy, mục tiêu chủ
yếu của chiến lược an ninh châu Á Thái Bình Dương của mình là: muốn tăng
cường quyền lãnh đạo và quyền khống chế của mình đối với khu vực châu Á-Thái
Bình Dương.
Ngày 12 tháng 1 năm 2010, trong bài phát biểu ở Honolulu, Hillary Clinton
đã trình bày rõ ràng trọng điểm và nguyên tắc công việc của Mỹ ở khu vực châu
Á-Thái Bình Dương, trên thực tế những nguyên tắc và trọng điểm này là nội dụng
cơ bản của chiến lược an ninh châu Á-Thái Bình Dương của Mỹ:
Một là, tăng cường hệ thống liên minh của Mỹ ở khu vực châu Á-Thái Bình
Dương, và thúc đẩy quan hệ đối tác của Mỹ ở khu vực này. Mỹ coi các nước đồng
minh như Nhật Bản, Hàn Quốc, Philíppin và Thái Lan là lực lượng dựa vào chủ
13


yếu để Mỹ tiếp tục duy trì và phát huy tầm ảnh hưởng ở khu vực châu Á-Thái
Bình Dương. Vì vậy, trên cơ sở đó Mỹ không cắt giảm quân đồn trú ở khu vực
châu Á-Thái Bình Dương, không ngừng cải tiến chất lượng quân đồn trú của Mỹ ở
khu vực này. Tháng 2 năm 2009, Mỹ và Nhật Bản đã ký “Hiệp định quốc tế về đảo
Guam”, kế hoạch trong 6 năm tới sẽ chuyển sĩ quan, binh lính và người thân của
đội hải quân lục chiến Mỹ đồn trú ở căn cứ Futenma tại Okinawa về đảo Guam.
Mỹ tích cực hợp tác với Hàn Quốc trong vấn đề thuyết phục Triều Tiên từ bỏ hạt
nhân và đàm phán 6 bên, khích lệ Hàn Quốc phát huy vai trò tích cực trong việc
duy trì ổn định an ninh khu vực Đông Bắc Á và xóa bỏ hoàn toàn hạt nhân. Để mở
rộng lại ảnh hưởng ở châu Á, Chính quyền Obama còn chú trọng phát triển quan
hệ với các nước không phải đồng minh của Mỹ. Hillary nêu rõ: “Ngoài hiệp ước
đồng minh, Mỹ sẽ tăng cường quan hệ với các nước chủ chốt khác, chúng tôi sẽ

tiến hành đối thoại chiến lược với Ấn Độ, triển khai đối thoại chiến lược và kinh tế
với Trung Quốc, xây dựng quan hệ đối tác toàn diện với Inđônêxia. Chúng tôi
đang tăng cường quan hệ với các đối tác mới và đối tác lâu dài của chúng tôi,
chẳng hạn như quan hệ với Việt Nam và Singapore.”
Hai là, tích cực tham gia cơ chế hợp tác kinh tế và an ninh khu vực, bao
gồm các cơ chế như ngăn ngừa phổ biến hạt nhân, xung đột khu vực, chạy đua vũ
trang và hàng rào thuế quan.
Ba là, nhấn mạnh ý nghĩa quan trọng của việc “hợp tác có kết quả”. Hillary
nói: “Kết quả thu được của những tổ chức hiện có quan trọng hơn nhiều so với kết
quả được thu được của những tổ chức mới. Hiện nay, trong cơ chế đa phương, đối
thoại là vô cùng quan trọng. Với tư cách là một quốc gia ở châu Á đang ngày càng
có vai trò quan trọng trong khu vực và trên thế giới, chúng tôi sẽ phải hành động
nhiều hơn nữa. Các tổ chức nên có quy tắc và đánh giá một cách chân thành đối
với sự tiến bộ của các cơ chế, đồng thời cũng nhấn mạnh tất cả các thành viên đều
nên có trách nhiệm trong việc phát huy vai trò tích cực.”
14


Bốn là, tăng cường tính linh hoạt và tính sáng tạo của Mỹ trong việc tham
gia vào cơ chế hợp tác đa phương. Hillary nhấn mạnh: “Chỉ cần có ý nghĩa, Mỹ sẽ
can dự vào sự sắp xếp không chính thức đối với các thách thức đặc biệt và sẽ ủng
hộ hoạt động của các cơ chế tiểu khu vực để thúc đẩy lợi ích cá nhân.”. Chính
quyền Obama tích cực phát triển quan hệ với các nước thuộc lưu vực sông MêKông, tiếp tục triển khai đối thoại chiến lược ba bên với Ôxtrâylia và Nhật Bản,
Nhật Bản và Hàn Quốc. Mỹ còn hy vọng xây dựng đối thoại ba bên giữa TrungMỹ-Nhật và Nhật-Mỹ-Ấn, từ đó hình thành cơ chế hợp tác khu vực châu Á-Thái
Bình Dương đều có Mỹ can dự.
Năm là , bảo đảm các cơ chế mà khu vực châu Á-Thái Bình Dương đã xây
dựng sẽ bao hàm bên lợi ích liên quan, đặc biệt là sự can dự của Mỹ, điểm này đặc
biệt quan trọng đối với Mỹ.
Tóm lại, chiến lược an ninh châu Á-Thái Bình Dương của Chính quyền
Obama có thể được gọi là “chiến lược can dự trở lại”, chiến lược này được đưa ra

là dựa trên cơ sở xem xét lại chính sách ngoại giao và chính trị cường quyền của
chủ nghĩa đơn phương Bush con; là sự mở rộng và khẳng định lại đối với chiến
lược an ninh châu Á-Thái Bình Dương của Chính quyền Clinton. Phạm vi tư duy
của chiến lược này là chủ nghĩa tự do mới, tức là nhấn mạnh hợp tác ngoại giao,
chứ không phải đe dọa bằng vũ lực; coi trọng việc tiếp xúc hiểu biết lẫn nhau, chứ
không phải đối kháng cô lập; thừa nhận lợi ích chung, chứ không phủ nhận mâu
thuẫn, xung đột; nhấn mạnh việc phát triển cơ chế đa phương, chứ không đơn
thuần dựa vào liên minh quân sự song phương, từ đó đạt được mục tiêu cuối cùng
là tăng cường quyền lãnh đạo và khống chế của Mỹ ở khu vực châu Á-Thái Bình
Dương.

15


CHƯƠNG 3: SỰ TRIỂN KHAI CHÍNH SÁCH CỦA OBAMA Ở KHU VỰC
CHÂU Á- THÁI BÌNH DƯƠNG.
3.1. Triển khai chính sách từ đầu nhiệm kỳ.
Ngay từ nhiệm kỳ tổng thống đầu tiên vào năm 2008, Tổng thống Mỹ
Obama đã "sửa sai" những hậu quả đối ngoại ở khu vực CA-TBD mà chính
quyền tiền nhiệm Bush để lại. Cách tiếp cận của Oa-sinh-tơn dựa trên một "lý lẽ"
đơn giản: Mỹ là một cường quốc Thái Bình Dương, có những quyền lợi không thể
tách rời khỏi trật tự kinh tế, an ninh và chính trị của châu Á, do đó, sự thành công
của Mỹ trong thế kỷ 21 gắn liền với sự thành công của châu Á.
Trong tình thế vừa thúc đẩy hợp tác, lại vừa e ngại trước sự trỗi dậy của
"đối thủ chiến lược" Trung Quốc, việc điều chỉnh chính sách của Oa-sinh-tơn đối
với khu vực châu Á - Thái Bình Dương được các nhà quan sát cho rằng, đây là
hành động vừa nhằm cân bằng tầm ảnh hưởng của Mỹ, lại vừa nhằm đích "kìm
hãm" tầm ảnh hưởng của Bắc Kinh đối với khu vực. Hàng loạt đồng minh và đối
tác đã được Oa-sinh-tơn "mời gọi" để tham gia "cuộc trở lại" ngoạn mục và nhiều
toan tính tại châu Á - Thái Bình Dương. Trong số này phải kể đến Ô-xtrây-li-a, Ấn

Ðộ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Phi-li-pin, Mi-an-ma... Trong bối cảnh Oa-sinh-tơn thực
hiện hàng loạt bước đi nhằm triển khai chính sách "trở lại châu Á - Thái Bình
Dương", một điều dễ hiểu là chính sách đối ngoại chiến lược của các quốc gia kể
trên đã và sẽ có những thay đổi để phù hợp thời kỳ mới.
Ưu tiên chiến lược của chính quyền Obama không khác so với chính quyền
tiền nhiệm nhưng trong quan hệ với từng khu vực, thì đã một số điều chỉnh. Đối
với CA-TBD, chính quyền Obama tiếp tục chính sách của G.Bush là ưu tiên củng
cố quan hệ đồng minh chiến lược và đối tác truyền thống: “Mỹ sẽ cùng các nước
này thúc đẩy lợi ích chung và cùng giải quyết thách thức trong khu vực”. Ngoài
Nhật Bản, Mỹ coi Hàn Quốc là “xương sống” trong chính sách đối với khu vực,
liên minh Mỹ- Hàn là “hòn đá tảng cho hòa bình và ổn định trên bán đảo Triều
16


Tiên và Đông Bắc Á”, nâng quan hệ hai nước lên tầm “liên minh chiến lược toàn
cầu” thông qua tăng cường hợp tác thương mại và thúc đẩy việc phê chuẩn Hiệp
định Thương mại tự do Mỹ- Hàn đã được ký kết.
Trung Quốc:
Xét về tổng thế, chính sách Trung Quốc của tổng thống B.Obama có phần
mềm dẻo hơn của tổng thống G.Bush. Điều đó thể hiện qua các cuộc thăm viếng
và tiếp xúc của lãnhđạo cấp cao hai nước. Ngoại trưởng H.Clinton thăm Trung
Quốc trong chuyến công du nước ngoài đầu tiên trên cương vị của mình vào tháng
2/2009 và Tổng thống Obama thăm nước này vào cuối năm đó nhân dự Hội nghị
thượng đỉnh Mỹ- ASEAN (11/2009). Qua các chuyến thăm hai bên khẳng định
quan hệ hai nước đã “thiết lập được cơ sở vững chắc”, cam kết tăng cường đối
thoại mạnh mẽ “mối quan hệ mật thiết” giữa hai bên
Chính quyền Obama cũng sẽ hợp tác với các nước khác cùng quan tâm để
ràng buộc chính phủ Trung Quốc vào các chuẩn mực nhằm hạn chế tin tặc và gián
điệp bắt nguồn từ nước này. Tại khu vực CA-TBD, Mỹ chủ trương hợp tác với
Trung Quốc trong chống cướp biển, chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt;

tranh thủ ảnh hưởng của Trung Quốc trong các đối sách với CHDCND Triều Tiên
để duy trì sự ổn định trên bán đảo Triều Tiên. Mặt khác, Mỹ chú ý theo dõi sự phát
triển của quân đội Trung Quốc, không để làm mất cân bằng trong cán cân lực
lượng giữa Trung Quốc và Đài Loan. Mỹ đặc biệt lo ngại về quy mô và mục tiêu
chiến lược của chương trình hiện đại hóa quân đội Trung Quốc cũng như hành
động của Trung Quốc trong vũ trụ, trong không gian áo, trên Hoàng Hải và biển
Đông. Do đó, Mỹ sẽ sẵn sang thể hiện ý chí và đầu tư nguồn lực để đối phó với
hành động của Trung Quốc đe dọa lợi ích của Mỹ cũng như an ninh cuả các đồng
minh của Mỹ ở CA-TBD.
Nhật Bản:
Vào cuối nhiệm kỳ của tổng thống G.Bush, quan hệ Mỹ Nhật tồn tại mối
bất đồng trong chính sách với CHDCND Triều Tiên. Nhưng khi B.Obama lên cầm
17


quyền, ông đã nhanh chóng giải tỏa một số quan ngại trên nhằm củng cố quan hệ
đồng minh với Nhật Bản qua các chuyến thăm, tuyên bố và một số thỏa thuận cụ
thể. Ngoại trưởng Clinton khẳng định Nhật Bản tiếp tục là đồng minh quan trọng
số một của Mỹ, quan hệ Mỹ- Nhật là “hòn đá tảng” trong chính sách của Mỹ trong
khu vực CA-TBD và trong “nỗ lực toàn cầu của Mỹ”.
Trước xu thế muốn độc lập hơn trong nội bộ Nhật Bản, tổng thống Obama
nhấn mạnh yếu tố “bình đẳng” trong quan hệ đồng minh và khẳng định đây là
“nền tảng” cho an ninh và thịnh vượng của cả Mỹ và Nhật Bản. Cụ thể, Mỹ cam
kết sẽ tiếp tục bảo vệ Nhật Bản và giải quyết vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều
Tiên một cách tổng thể, trong đó có cả vấn đề người Nhật bị bắt cóc, ủng hộ Nhật
Bản là thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an LHQ, tăng cường trao đổi
thông tin và phối hợp trong Đàm phán 6 bên về vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều
Tiên, hợp tác giải quyết các vấn đề khủng hoảng kinh tế, năng lượng sạch, an ninh,
biến đổi khí hậu và các vấn đề toàn cầu khác.
Đông Nam Á:

Với ASEAN, Mỹ chủ động tăng cường quan hệ với tổ chức này, tích cực
tham gia các hoạt động ngoại giao mà chính quyền G.Bush đã từ chối tham dự.
Ngoại trưởng Clinton bỏ thông lệ quen thuộc thăm châu Âu mà đi thăm Đông
Nam Á ngay sau khi nhậm chức, thăm chính thức Trụ sở ban thư ký ASEAN tại
Giacacta; ký thỏa thuận chính thức tham gia Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác với
ASEAN (sau 17 năm). Tổng thống Obama dự Hội nghị thượng đỉnh Mỹ- ASEAN
lần đầu tiên tại Singapore tháng 11/2009.
Bên cạnh đó chính quyền Obama cũng chú trọng đẩy mạnh sự hợp tác giữa
các nước trong tiểu vùng song Mekong; đưa Lào và Campuchia ra khỏi “danh
sách đen” thương mại
Trong vấn đề Myanmar Mỹ chủ động giảm căng thẳng để ngỏ khả năng từ
bỏ trừng phạt kinh tế, nới lỏng cấm vận, tăng viện trợ gắn với điều kiện về cải
cách chính trị. Từ sau chuyến thăm lần đầu tiên của một nghị sĩ Mỹ vào tháng
18


8/2009, quan hệ hai bên có dấu hiệu cải thiện. Mỹ dỡ bỏ lệnh cấm vận thị thực đối
với các quan chức Myanmar
Biển Đông: Tại diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) ngày 23/7/2010 tại Hà
Nội, ngoại trưởng Clinton tuyên bố “Mỹ phản đối việc sử dụng hay đe dọa vũ lực
của bất cứ bê tuyên bố chủ quyền nào. Trong khi Mỹ sẽ không đứng về bên nào
trong các tranh chấp lãnh thổ ở biển Đông, chúng tôi tin rằng các bên nên theo
đuổi những tuyên bố chủ quyền và các quyền về không gian biển phù hợp với
Công ước LHQ về Luật biển. Mỹ có lợi ích thiết yếu trong khu vực và trong trong
việc giải quyết hòa bình các tranh chấp chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa tại biển Đông”. Điều này gây ra sự phản ứng bất bình của Trung Quốc,
Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì đã phản bác cho rằng ý kiến có vẻ như
công bằng của Clinton thực ra là “một đòn tấn công vào Trung Quốc”. Tại Hội
nghị ADMM+ 12.1.2010, một lần nữa Mỹ khẳng định lập trường về biển Đông.
Tại hội nghị này bộ trưởng Bộ quốc phòng Mỹ nêu rõ: “Quan điểm của Mỹ về an

ninh hàng hải rất rõ ràng. Chúng tôi có lợi ích quốc gia về tự do hàng hải, phát
triển kinh tế và thương mại không bị cản trở và tôn trọng luật pháp quốc tế. Chúng
tôi tin rằng luật pháp và tập quán quốc tế, như đã phản ảnh trong Công ước của
LHQ về Luật biển đã đưa ra hướng dẫn rõ ràng về việc sử dụng thích hợp lĩnh vực
hàng hải và quyền tiếp cận nó. Bằng cách tôn trọng những hướng dẫn này, chúng
ta có thể bảo đảm rằng tất cả các nước đều được quyền sử dụng vùng biển quốc tế
một cách công bằng”.
Mở rộng quan hệ thương mại và đầu tư với khu vực:
Nhằm thực hiện mục tiêu tăng gấp đôi xuất khẩu của Mỹ vào 2015, Mỹ
đang tìm kiếm cơ hội để tăng cường quan hệ kinh tế với khu vực (năm 2010, kim
ngạch xuất khẩu của Mỹ tới châu Á là 320 tỷ USD, tạo ra 850 nghìn việc làm).
Mỹ đang hướng tới các hiệp định thương mại mới với Hàn Quốc (giảm 95% thuế
đối với xuất khẩu của Mỹ và giúp tạo ra 70 nghìn việc làm trong 5 năm tới, giúp
19


tăng 10 tỷ USD xuất khẩu hàng năm của Mỹ). Với hiệp định TPP, Mỹ không chỉ
nhằm tạo ra tăng trưởng kinh tế, mà tăng trưởng với chất lượng cao hơn.
Bên cạnh đó, Mỹ tiếp tục thông qua APEC, G20 và các quan hệ song
phương để thúc đẩy mở cửa thị trường, giảm rào cản thương mại, tăng cường
minh bạch và thực hiện cam kết thương mại công bằng.
3.2. Chính sách từ cuối 2012 đầu 2013:
Cùng với sự sụt giảm về tăng trưởng, thay đổi ê kíp lãnh đạo ở nhiều nước
cuối năm 2012, những va chạm liên tục trên biển Hoa Đông hay Biển Đông liên
quan tới chủ quyền, tình trạng căng thẳng trên bán đảo Triều Tiên trong suốt mấy
tháng đầu năm 2013 đang góp phần tạo ra những xáo trộn tại châu Á – Thái Bình
Dương.
Đặc biệt, những diễn biến vừa qua cho thấy, những toan tính, dự định của nhiều
nước đang dần bộc lộ và một hệ quả tất yếu là, dường như, châu Á – Thái Bình
Dương đang bắt đầu bước vào một guồng quay mới. Chính vì vậy ngay từ đầu

nhiệm kỳ 2, Tổng thống Obama đã đẩy mạnh sức ảnh hưởng của Mỹ đối với khu
vực này.
Sự thay đổi đầu tiên là việc Mỹ bắt đầu tăng cường triển khai quân sự tại
Đông Bắc Á và kèm theo những cam kết rõ ràng về trách nhiệm với đồng minh
Hàn Quốc cũng như Nhật Bản. Ông John Kerry tuyên bố Mỹ sẽ tiếp tục dựa vào
mạng lưới đồng minh trong khu vực để duy trì hòa bình và ổn định khu vực cũng
như toàn cầu. Tuy nhiên trước những sức ép của dư luận nhất là nhân dân Nhật
Bản về việc đóng quân của Mỹ, Washington đã nỗ lực giảm căng thẳng với Nhật
Bản về việc triển khai quân tại Okinawa bằng cách nhất trí thu hồi 9.000 lính thủy
quân lục chiến. Hơn nữa, chính quyền Obama khẳng định sẽ không để cho chi tiêu
quốc phòng của Mỹ tại khu vực này bị ảnh hưởng trong khi vẫn tiến hành cắt giảm
chi tiêu chung. Nhưng điều này sẽ khó thực hiện hơn việc rút bớt lực lượng quân
Mỹ đồn trú trên mặt đất.
20


Tình trạng “báo động khẩn cấp” trên bán đảo Triều Tiên vừa bắt buộc Mỹ
phải có “nghi lễ” đáp trả nhưng cũng tạo cơ hội để tổng thống Obama triển khai
cam kết “tăng cường can dự” mà ít phải giải thích với các nước trong khu vực.
Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là người Mỹ đang lựa chọn các biện pháp “cứng” để
khẳng định vai trò trong khu vực. Tại bán đảo Triều Tiên, trong thời điểm mà
chính ngoại trưởng J. Kerry nhận định: “Không cho phép sai lầm đáng tiếc từ bất
cứ một bên nào, bởi điều đó có thể dẫn đến chiến tranh”, việc Mỹ tiếp tục các cuộc
tập trận với Hàn Quốc hay tăng cường hiện diện quân sự (điều pháo đài bay B52,
máy bay tàng hình B2 hay tiểu đoàn chống phóng xạ 23 đến Hàn Quốc) cùng với
những tuyên bố cứng rắn “sẵn sàng đáp trả”, v.v. chẳng khác gì là “đổ thêm dầu
vào lửa”.
Quan hệ với Trung Quốc: Trong lúc rất cần Trung Quốc hợp tác để giải
quyết các tranh chấp trên biển hay gây sức ép với chính phủ Triều Tiên, chính phủ
Mỹ lại thi hành những biện pháp có tính “trừng phạt” thương mại nước này (ngày

26-3-2013 Tổng thống Obama quyết định thông qua đạo luật hạn chế nhập hàng
công nghệ từ Trung Quốc; ngày 8-4-2013 chính phủ Mỹ lại tiếp tục cấm nhập hơn
70.000 mô tô và xe địa hình ATV do Trung Quốc sản xuất).
Biển Đông: Hoa Kỳ đã có những động thái hợp tác chặt chẽ hơn với quân
đội Việt Nam và Philipine, hai nước có tranh chấp với Trung Quốc về lợi ích tại
Biển Đông.
3.3. Tác động của chính sách đối ngoại của Obama với châu Á- Thái Bình
Dương
Trung Quốc: Đối với Bắc Kinh, chính sách chuyển trọng tâm của tổng
thống Obama là tàn dư của ý tưởng Chiến tranh lạnh đã lỗi thời. Bắc Kinh tin rằng
do lo sợ về sự trỗi dậy của Trung Quốc mà Washington đang cố tìm cách đổ thêm
dầu vào các cuộc căng thẳng ở khu vực để cô lập Trung Quốc và khích lệ các nước
mà Trung Quốc có tranh chấp lãnh thổ. Phía Trung Quốc khẳng định một chiến
21


lược nhằm kiềm chế Trung Quốc chắc chắn sẽ thất bại. Những năm gần đây, Mỹ
rõ ràng đã thực hiện chiến thuật bao vây Trung Quốc thông qua chiến lược quân
sự. Cùng với ý đồ làm suy yếu Trung Quốc, là nước giữ vai trò lãnh đạo khu vực,
Mỹ cũng tăng cường ủng hộ về ngoại giao đối với những nước có tranh chấp lãnh
thổ với Trung Quốc, thậm chí muốn đóng vai trò trung gian hòa giải trong cuộc
xung đột này. Mỹ càng công khai ý đồ can dự vào tranh chấp lãnh thổ giữa Trung
Quốc với các nước láng giềng, thì càng có khả năng làm tình hình căng thẳng hơn,
dẫn đến xung đột quân sự.
Nhật Bản: Sự trỗi dậy mạnh mẽ này của Trung Quốc cũng ảnh hưởng không
nhỏ đến người đồng minh thân cận nhất của Mỹ- Nhật Bản. Hiện nay, vụ tranh
chấp quần đảo Điếu ngư/Senkaku giữa Nhật Bản và Trung Quốc ngày càng căng
thẳng. Sự hiện diện gần như liên tục của các tàu Trung Quốc xung quanh các đảo
này đã làm cho lực lượng bảo vệ bờ biển Nhật Bản bị căng mỏng hết cỡ.. Giữa
tình hình đó, Mỹ thận trọng không đứng về bên nào, vì lo sợ bị cuốn vào cuộc

chiến chủ nghĩa dân tộc, sự thù địch trong lịch sử và trò chơi chính trị dân túy
chính điều này đã làm cho đồng minh Nhật Bản hết sức phiền lòng về các động
thái của Mỹ. Nhiều người Nhật thực sự tức giận bởi phản ứng không rõ ràng của
Mỹ. Tuy nhiên đến đầu năm 2013 Thượng viện Mỹ đã ủng hộ Nhật Bản trong
tranh chấp lãnh hải với Trung Quốc “Mỹ thừa nhận quyền cai quản quần đảo
Sensaku của Nhật Bản và hành động đơn phương của một bên thứ 3 sẽ không ảnh
hưởng tới Mỹ trong công nhận chủ quyền của Nhật Bản với quần đảo Sensaku.
Chính điều này đã tạo ra bước ngoặt lớn trong vấn đề tranh chấp quần đảo
Sensaku.
ASEAN: Trong suốt nhiệm kỳ đầu tiên của mình, Obama đã thành công
trong việc tạo dựng niềm tin đối với phần lớn giới lãnh đạo ASEAN. Trên thực tế,
ASEAN muốn tổ chức tiếp một cuộc họp giữa lãnh đạo khối với Obama. Bên cạnh
đó, họ cũng muốn Obama tham dự Hội nghị thượng đỉnh Đông Á tại Phnom Penh
hồi cuối năm 2012. Đây là cuộc gặp mặt quan trọng giữa lãnh đạo ASEAN với
22


lãnh đạo các cường quốc Mỹ, Nga, Trung Quốc, Ấn Độ và Obama đại diện cho sự
tiếp tục cam kết của Mỹ đối với châu Á.
Về vấn đề biển Đông, Mỹ đã đưa ra lập trường có tính không can dự với
cuộc tranh chấp. Mỹ không can dự nên cuối cùng Philipines cuối cùng đã phải rút
các tàu của mình khỏi bãi cạn tranh chấp Scarborough nhưng các tàu chiến Trung
Quốc vẫn còn đóng ở đó cho đến giờ. Tuy nhiên trước sự can thiệp của Mỹ
Đài Loan, trong khi Trung Quốc ngày càng mạnh lên và có tầm quan trọng
lớn đối với kinh tế Mỹ thì Washington ngày càng cảm thấy tiến thoái lưỡng nan
trong việc coi Đài Loan. Đây rõ ràng là một sự thay đổi to lớn trong chính sách
CA-TBD của Mỹ từ đầu thế kỷ XXI đến nay bởi từ khi tổng thống G.Bush còn tại
vị Mỹ ủng hộ và ra mặt bảo vệ Đài Loan còn bây giờ sự hợp tác giữa hai bên bị
hạn chế bấy nhiêu. Trước đây Mỹ ra sức bán các loại vũ khí phục vụ cho Đài Loan
nhưng giờ đây các lọa vũ khí hiện đại như máy bay chiến đấu F-16 và các tàu

ngầm chạy dầu diesel mà giới chức Đài Loan thực sự cần thì Mỹ đã không bán.
Bán đảo Triều Tiên: Sau khi lãnh đạo mới của Triều Tiên lên nắm quyền thế
giới bên ngoài hầu như không biết gì nhiều, một chương trình hạt nhân và tên lửa
đạn đạo thường được đưa ra để làm căng thẳng khu vực và một thái độ ngang tàng
đối với Mỹ. Nhưng có một thực tế không thể phủ nhận là Mỹ vẫn đang tiếp tục
can thiệp vào tình hình căng thẳng trên bán đảo này. Hiện nay Mỹ có khoảng
28.500 quân đóng ở HÀn Quốc và 70% vũ khí của nước này nhập từ Mỹ. Hiện
nay khi căng thẳng đang leo thang, Triều Tiên tuyên bố tình trạng chiến tranh
trong nước và các bên liên tục có những cuộc tập trận thì Mỹ lại càng can thiệp
sâu hơn. Hàn Quốc và Mỹ liên tục có những cuộc tập trận chung. Tổng
thống Mỹ Obama từng khẳng định, không ai muốn có chiến tranh với Triều Tiên,
nhưng sẽ làm tất cả những gì có thể để tự vệ. Mỹ cũng hối thúc Trung Quốc và
Nga tích cực hơn nữa trong việc gây ảnh hưởng với Triều Tiên. Mỹ và Trung
Quốc cũng đã nhất trí cùng thực hiện một nỗ lực chung để duy trì hòa bình, ổn
định và thúc đẩy phi hạt nhân hóa trên bán đảo Triều Tiên. Cũng có nhiều chỉ trích
23


dành cho chính sách của Mỹ tại bán đảo Triều Tiên, đặc biệt là việc tình hình bán
đảo Triều Tiên trong năm 2010 xấu đi hoàn toàn là do lỗi của Mỹ. Tuy nhiên, đến
năm 2011, Chính quyền Obama đã ý thức được rằng sách lược dùng vũ lực đế gây
sức ép với Bắc Triều Tiên là không khả thi, vì thế Mỹ đã bổ nhiệm đặc phái viên
mới của ngoại trưởng phụ trách Triều Tiên và Trưởng đoàn đàm phán của Mỹ
tham gia Đàm phán Sáu bên về vấn đề hạt nhân của bán đảo Triều Tiên để khôi
phục lại sự tiếp xúc giữa Mỹ và Bắc Triều Tiên.

24


C.


KẾT LUẬN

Sau hơn 4 năm quay trở lại khu vực Châu Á- Thái Bình Dương với chính
sách đối ngoại của mình, Obama đang dần tự khẳng định uy thế của Hoa Kỳ nơi
đây. Những chính sách này góp phần kiềm chế Trung Quốc- quốc gia đang có âm
mưu vươn lên, nguyên nhân của hầu hết xung đột hiện nay. Tuy nhiên nó cũng
khiến tình hình khu vực căng thẳng hơn đặc biệt là vấn đề Triều Tiên và Biển
Đông. Nếu không giải quyết tốt thì một cuộc chiến quy mô lớn xảy ra là điều
không quá khó hiểu.
Trong những năm tới, Mỹ chắc chắn vẫn sẽ tiếp tục thi hành chính sách của
mình tại Châu Á- Thái Bình Dương. Với sự biến chuyển của tình hình thế giới
chúng ta có thể mong một khu vực hòa bình, ổn định hơn trong tương lai.

25


×