Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Cải cách thị trường lao động Hàn Quốc ứng phó với ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.64 KB, 16 trang )

Mục lục

1


Lời mở đầu
Vào những năm 60 của thế kỉ trước, Hàn Quốc còn là một trong những nước
nghèo nhất thế giới; tuy nhiên, cho đến hiện nay, Hàn Quốc đã trở thành một trong bốn
con rồng châu Á với thu nhập bình quân đầu người tăng lên đến 350 lần. Có thể nói, kì
tích quốc gia này đạt được là nhờ những cải cách kinh tế sâu sắc, toàn diện của chính phủ
ngay cả trong những cuộc khủngVậy mà Hàn Quốc lại chuyển mình ứng biến với khủng
hoảng rất nhanh và đạt được những thành tích đáng ngưỡng mộ, đặc biệt là trên thị
trường lao động. Ở thời điểm hiện tại, khủng hoảng vẫn là một nỗi ám ảnh của cả nền
kinh tế thế giới, mang lại không ít hệ lụy lâu dài cho các quốc gia. Ngay cả các nền kinh
tế lớn cũng phải gồng mình gánh chịu, Mĩ và châu Âu phải chật vật khắc phục hậu quả
trong đó vấn đề công ăn việc làm luôn nóng hổi và nan giải.
Do đó, việc nghiên cứu đề tài “Cải cách thị trường lao động Hàn Quốc ứng phó
với ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997” không chỉ có ý nghĩa nâng
cao kiến thức vĩ mô mà còn mang ý nghĩa thực tiễn, làm tiền đề cho các nghiên cứu sau
về cách giải quyết thất nghiệp của một quốc gia, đặc biệt trong giai đoạn khủng hoảng.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là đem lại bức tranh khái quát thị trường lao động
giai đoạn khủng hoảng và sự thay đổi chính sách của chính phủ Hàn Quốc.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Trọng tâm là những cải cách trên thị trường lao
động Hàn Quốc.
Phạm vi nghiên cứu: Chính sách lao động của Hàn Quốc giai đoạn 1960-2000
Phương pháp nghiên cứu: sử dụng một số phương pháp như tổng hợp dữ liệu,
phân tích,so sánh …
Kết cấu của đề tài gồm 3 phần:
Phần 1: Tác động của cuộc khủng hoảng 1997 đến thị trường lao động Hàn Quốc
Phần 2: Những cải cách trên thị trường lao động Hàn Quốc ứng phó với ảnh hưởng của
cuộc khủng hoảng


Phần 3: Đánh giá hiệu quả của cuộc khủng hoảng

2


1. Tác động của cuộc khủng hoảng 1997 đến thị trường lao động Hàn Quốc
1.1. Tác động đến nền kinh tế nói chung
Vào thời điểm khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, Hàn Quốc có một gánh nặng
nợ nước ngoài khổng lồ. Các công ty nợ ngân hàng trong nước, còn ngân hàng trong
nước lại nợ ngân hàng nước ngoài. Với tình trạng kém cỏi sẵn có của hệ thống ngân hàng
bắt nguồn từ những khoản nợ kém hiệu quả rất lớn, ngày 28/11/1997, tổ chức đánh giá tín
dụng Moody đã hạ thứ hạng của Hàn Quốc từ A1 xuốn A3, sau đó váo 11/12 lại tiếp tục
hạ xuống B2. Điều này góp phần làm thị trường và giá chứng khoán sụt giảm.
Các nhà đầu tư nước ngoài bắt đầu rút khỏi thị trường chứng khoán Hàn Quốc
càng nhanh càng tốt dẫn đến đồng Won xuống thấp kỉ lục (từ 1000 xuống 1700 đổi 1
USD). Từ 6-12/1997, chính phủ đã phải bán ra 14 tỷ USD để kìm giữ tỷ giá, song đã phải
từ bỏ nỗ lực này khi dự trữ ngoại tệ giảm từ 34,1 tỷ USD xuống 20,4 tỷ USD. Ngày
14/12/1997 đồng won được thả nổi khiến 2000 Won mới đổi được 1 USD.
Nền kinh tế thể hiện rõ qua các biến số vĩ mô: tốc độ tăng trưởng từ 5,77% năm
1997 xuống -5,71% năm 1998; lạm phát từ 4,45 lên 7,5; tỉ lệ thất nghiệp từ 2,6% lên 7%
và sau khủng hoảng, nợ quốc gia của Hàn Quốc tăng gấp ba lần so với trước đó. Bên
cạnh đó là ảnh hưởng đến các doanh nghiệp. Năm 1998, Hyundai Motor mua lại Kia
Motors. Quỹ đầu tư mạo hiểm trị giá 5 tỉ USD của Samsung cũng giải thế do tác động
quá mạnh của cuộc khủng hoảng, tiếp đó Daewoo Motors phải bán lại cho General
Motors.
1.2. Tác động đến thị trường lao động
1.2.1. Thị trường lao động giai đoạn trước khủng hoảng
Từ năm 1962, các kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm mang đến rất nhiều công ăn việc
làm mới trong khu vực đô thị, và điều này tạo di cư ồ ạt của những người trẻ từ nông
thôn ra thành thị, cho phép Hàn Quốc để phát triển ngành công nghiệp của mình với chi

phí nhân công rất thấp cho đến giữa những năm 1970. Sự thành công của công nghiệp
hóa giúp tăng việc làm trong các ngành sản xuất, dịch vụ và giảm việc làm trong nông
nghiệp, lâm nghiệp và ngành công nghiệp đánh bắt cá. Thị trường lao động Hàn Quốc
trải qua kỷ nguyên "cung ứng lao động không giới hạn" với luồng lao động di cư ổn định
từ nông thôn ra thành thị cho phép sự tăng trưởng kinh tế cao liên tục mà không có tình
trạng thiếu lao động cho đến giữa những năm 1980, thậm chí còn là một trong những
nước xuất khẩu lao động.
Năm 1963, 63% lao động trong nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản, chỉ có 8,7%
được sử dụng trong khai thác mỏ và sản xuất; tỷ lệ thất nghiệp là 8,1%. Những khó khăn
trong việc tìm kiếm một công việc trong thị trường nội địa Hàn Quốc dẫn đầu để nhìn
vào thị trường lao động nước ngoài (như Tây Đức). Trong năm 1970, các công ty xây
dựng Hàn Quốc mở rộng kinh doanh của họ đến Trung Đông và rất nhiều công nhân Hàn
Quốc di cư sang các nước Trung Đông Điều này tạo ra tình trạng thiếu lao động có tay
nghề cao trong thị trường lao động Hàn Quốc vào giữa năm 1970.
Do sự tăng trưởng kinh tế cao liên tục và kết thúc của việc di cư từ nông thôn ra
thành thị, thị trường lao động Hàn Quốc đã bắt đầu phải đối mặt với tình trạng thiếu lao
động từ cuối năm 1980. Sự thiếu hụt nguồn cung lao động làm tăng nhanh mức lương của
người lao động Hàn Quốc. Mức độ tăng lương danh nghĩa 1987-1996 là 14,6% và tỷ lệ

3


tăng lương thực tế trong cùng thời kỳ là 8,1%. Các ngành sử dụng nhiều lao động như
ngành công nghiệp dệt may bắt đầu mất khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế và
không thể thu hút lao động trong nước với mức lương cung cấp cho họ. Lúc này, công
nhân có mức lương tương đối cao và cơ hội việc làm là đủ. Các công nhân không muốn
làm việc trong các lĩnh vực 3D (dirty, dangerous, difficult) như xây dựng và chế tạo. Từ
đó mở ra cơ hội cho nhiều người lao động nước ngoài từ Trung Quốc, Indonesia, Việt
Nam, Bangladesh, Philippines và các nước khác di cư sang Hàn Quốc tìm kiếm "giấc mơ
Hàn Quốc”.

1.2.2. Những tác động chủ yếu của cuộc khủng hoảng đến thị trường lao động
 Tỷ lệ thất nghiệp gia tăng và cơ cấu việc làm thay đổi
Ở giai đoạn đầu của cuộc khủng hoảng, nhu cầu trong nước cần phải được kiểm
soát và cần thu hút nhiều vốn nước ngoài nhằm bảo vệ cán cân dự trữ ngoại hối. Vì vậy,
lãi suất đã được nâng lên 30% trong nửa đầu năm 1998 và các khoản vay ngân hàng đã bị
cắt giảm. Các động thái này đã dẫn tới tình trạng phá sản hàng loạt, đặc biệt là các doanh
nghiệp nhỏ không có khả năng chi trả nợ lãi vay. Khu vực xây dựng và chế tạo đã mất đi
khoảng 1 triệu việc làm vào năm 1998, chứng tỏ rằng các công ty đặc thù (có tỷ lệ nợ
cao) ở các khu vực này đã phải chịu nhiều tác động hơn từ cuộc khủng hoảng tài chính.
Đồng thời cũng xuất hiện một sự dịch chuyển việc làm từ khu vực chế tạo và xây dựng
sang khu vực thương mại và dịch vụ.
Bảng 1: Thay đổi việc làm trong các ngành công nghiệp (1997-2001)
(Đơn vị:Nghìn lao động)
1997

1998

1999

2000

2001

2.385

2.480

2.349

2.288


2.193

26

21

20

18

19

4.482

3.898

4.006

4.244

4.199

77

61

61

63


56

Xây dựng

2.004

1.578

1.476

1.583

1.575

Bán hàng, khách sạn, nhà hàng

5.805

5.571

5.725

5.943

5.820

Giao thông vận tải, truyền thông

1.162


1.169

1.202

1.263

1.322

Tài chính, bảo hiểm, kinh doanh

1.900

1.856

1.925

2.089

1.838

Hành chính công

3.265

3.359

3.516

3.569


4.338

Nông nghiệp và đánh cá
Khai khoáng
Chế tạo
Dịch vụ công

Nguồn: Tổng cục Thống kê Quốc gia Hàn Quốc, điều tra dân số kinh tế
Đối tượng lao động chịu tác động của cuộc khủng hoảng nhiều hơn cả là những
lao động phổ thông (chưa qua đào tạo). Thợ thủ công giảm 620.000, lao động chân
tay giảm 254.000, thu ngân giảm 154.000,... trong khi số lao động kỹ thuật và
chuyên nghiệp mất việc làm không nhiều. Tỷ lệ mất việc làm nhiều nhất là ở nhóm
lao động có trình độ học vấn thấp từ phổ thông trung học trở xuống (mất tới hơn 1
triệu việc làm), và ở nhóm lao động trẻ vì tuyển dụng mới rất ít trong năm 1998.
Những thay đổi về việc làm kể từ sau năm 1999 chịu tác động bởi những thay đổi

4


về cơ cấu trong thị trường lao động, các việc làm dài hạn (trên 1 năm) tiếp tục
giảm đi trong khi các việc làm ngắn hạn (dưới 1 năm), tạm thời (dưới 1 tháng)
tăng lên. Luật Tiêu chuẩn lao động ở Hàn Quốc ngăn cấm việc ký hợp đồng lao
động có thời hạn cố định quá một năm. Vì vậy, các lao động dài hạn thường được
tuyển dụng dưới dạng một hợp đồng không có điều khoản thời hạn.
Theo Tổng cục Thống kê Hàn Quốc, tỷ lệ thất nghiệp đã tăng từ 2,5% năm
1997 lên 8,6% vào tháng 2/1999. Số người thất nghiệp tăng từ 0,5 triệu trước
khủng hoảng lên 1,5 triệu vào năm 1998 và 1,8 triệu vào tháng 2/1999. Dân số phi
hoạt động kinh tế tăng 5,5% (từ 13,13 triệu lên 13,85 triệu) trong khi dân số hoạt
động kinh tế giảm 0,9% (từ 21,60 triệu xuống 21,39 triệu) trong giai đoạn 1997 1998. Thời gian thất nghiệp bình quân cũng trở nên dài hơn. Tỷ trọng thất nghiệp

6 tháng hay dài hơn đã tăng từ 7,8% trong quí I/1998 lên 31,2% trong quí I/1999
(OECD, 2000).
Bảng 2: Các xu hướng trong cơ cấu việc làm, theo hiện trạng việc làm
(Đơn vị: Nghìn người)
9/2000

1999

1998

1997

Dân số ở độ tuổi lao động (tuổi 15+)

35.243

34.736

Dân số phi hoạt động kinh tế

13.853

13.123

Dân số hoạt động kinh tế

21.390

21.604


Dân số thất nghiệp

1.463

556

Dân số có việc làm

21.432

20.281

19.994

21.106

Lao động ngoài khu vực hưởng lương

8.269

7.759

7.804

7.880

Lao động tự làm chủ quản lý

6.223


5.841

5.776

5.981

Chủ quản lý có tuyển dụng

1.537

1.384

1.426

1.633

Lao động độc lập

4.686

4.457

4.350

4.348

Lao động gia đình

2.046


1.918

2.028

1.899

Lao động hưởng lương

13.163

12.522

12.191

13.226

Lao động thường xuyên (toàn thời gian + 10.808
tạm thời)

10.233

10.455

11.334

Lao động toàn thời gian

6.319

6.050


6.457

7.151

Lao động tạm thời

4.488

4.183

3.998

4.182

Lao động theo ngày

2.356

2.289

1.735

1.892

Nguồn: Tổng cục Thống kê Hàn Quốc, Hiện trạng việc làm năm 2000
Việc làm suy giảm dẫn tới sự suy giảm về tỷ trọng tiền công và tiền lương trong
thu nhập quốc gia trong khi tỷ trọng lợi nhuận và tỷ trọng thu nhập tự trả lại tăng. Hơn

5



nữa, sự suy giảm việc làm là không giống nhau giữa các khu vực và các nhóm lao động.
Nhóm nghèo và gần nghèo chịu tác động nhiều hơn và nhóm lao động không kỹ năng ở
khu vực thành thị là nhóm bị sa thải đầu tiên.
Tỷ lệ lao động theo ngày bị thất nghiệp đã tăng từ 17,5% lên 28,9%, và tỷ lệ thất
nghiệp ở nhóm lao động có trình độ dưới trung học phổ thông đã tăng từ 21,3% lên 28%,
và các lao động làm việc tại các doanh nghiệp nhỏ mới thành lập (có từ 9 công nhân trở
xuống) chiếm 61% tổng số thất nghiệp năm 1998.Theo cơ cấu độ tuổi, cơ hội việc làm
cho giới trẻ bị giảm đi và thời gian tìm việc kéo dài hơn.
Bảng 2: Xu hướng thất nghiệp theo giới, giáo dục và tuổi
(Đơn vị: %)
Tỷ lệ thất nghiệp

3/2000

1999

1998

1997

Tổng số

5,2

6,3

6,8


2,6

Nam

5,1

7,1

7,6

2,8

Nữ

4,2

5,1

5,6

2,3

Trung học cơ sở trở xuống

3,8

5,2

5,8


1,5

Trung học phổ thông

5,4

7,6

8,2

3,3

Cao đẳng và đại học

4,9

5,2

5,7

3,0

15 ~ 19 tuổi

15,3

19,7

20,9


9,9

20 ~ 29 tuổi

8,1

10,2

11,4

5,4

30 ~ 59 tuổi

3,8

5,2

5,5

1,6

60 tuổi trở lên

2,1

2,4

2,4


0,7

Nguồn: Tổng cục Thống kê Hàn Quốc, Hiện trạng việc làm năm 2000

 Tiền công giảm và bất bình đẳng gia tăng
Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính đối với thị trường lao động Hàn Quốc
còn được thể hiện ở sự suy giảm tiền công. Giai đoạn 1991-1996, tiền công danh nghĩa
bình quân ở các công ty có từ 10 công nhân trở lên đã tăng gấp đôi, tính trung bình tăng
15,3%/năm. Trong cùng giai đoạn này, tỷ lệ lạm phát hàng năm tăng 7,2%, tiền công thực
tế tăng 6,1% bình quân năm và năm 1996 tăng 36% so với năm 1991. Mức tăng tiền công
này đã đột ngột dừng lại vào năm 1998 khi mà mức tăng tiền công danh nghĩa giảm 2,5%
so với năm trước.
Lãi suất tăng mạnh vào giai đoạn đầu của cuộc khủng hoảng đã làm gia tăng bất
bình đẳng về thu nhập. Hệ số Gini về thu nhập đã từng suy giảm vào thập niên 1980, cho
thấy sự thu hẹp khoảng cách trong phân phối thu nhập, tuy nhiên hệ số này đã tăng dần
trở lại kể từ giữa thập niên 1990 và tăng vọt vào giai đoạn 1997-1998. Mặc dù nền kinh
tế đã bắt đầu phục hồi vào năm 1999 nhưng khoảng cách trong phân phối thu nhập vẫn
không thu hẹp so với năm 1998, cho thấy rằng tác động của cuộc khủng hoảng là lâu dài
chứ không phải nhất thời. Việc làm ở nhóm lao động có thu nhập thấp giảm đi trong khi
việc làm ở nhóm lao động có kỹ năng cao tăng lên cũng dẫn tới sự mất cân đối trong

6


phân phối thu nhập, bởi thu nhập sẽ tập trung vào nhóm lao động có kỹ năng cao, và
giảm đi ở nhóm có kỹ năng thấp.

Bảng 5: Các xu hướng trong phân phối thu nhập
(Đơn vị: %)
1996


1997

1998

1999

Hệ số Gini
Thu nhập toàn bộ

0,29

0,28

0,31

Lợi nhuận thu được

0,29

0,29

0,30

Nhóm 20% hộ gia đình giàu nhất

20,9

5,6


Nhóm 20% hộ gia đình nghèo nhất

- 8,2

0,30
0,36

Tăng trưởng thu nhập so với năm 1996

-10,3

3,7
- 8,4

Nguồn: OECD (2000, p.123)

2. Những cải cách trên thị trường lao động Hàn Quốc ứng phó với ảnh hưởng của
cuộc khủng hoảng
2.1. Khái quát một số chính sách về lao động giai đoạn trước khủng hoảng (19601997)
2.1.1. Giai đoạn 1960 – 1970
Những năm 60, phần lớn lao động Hàn Quốc tham gia vào các lĩnh vực nông – lâm –
ngư nghiệp chiếm tới 63% lực lượng lao động của cả nước. Chính phủ thực hiện chính
sách “phát triển trước, phân phối sau”: tập trung đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng, phân phối
thu nhập được tiến hành theo quy mô tái sản xuất của người lao động.Kết quả là đảm bảo
thu nhập cơ bản cho người lao động và đáp ứng nguồn nhân lực cho phát triển công
nghiệp.
2.1.2. Giai đoạn 1970 – 1980
Vào khoảng giữa thập niên 70, Hàn Quốc tăng trưởng mạnh mẽ, dư thừa nguồn cung
trên thị trường lao động. Tuy nhiên, từ năm 1977, Hàn Quốc thiếu hụt lao động trên quy
mô toàn quốc. Do sự phát triển mạnh mẽ của của ngành công nghiệp kéo theo làn sóng

lao động nông nghiệp từ nông thôn ra thành thị tìm kiếm việc làm trong các nhà máy
công nghiệp, gây ra thiếu lao động ở khu vực nông thôn. Mặt khác, những ngành công
nghiệp này sử dụng rất nhiều lao động nên cung lao động cũng không đáp ứng kịp. Chính
sách của Chính phủ là tập trung vào nguồn cung ứng lao động và đào tạo nhằm đáp ứng
nhu cầu phát triển kinh tế. Việc chú trọng tới nguồn lao động có tay nghề và bổ sung các

7


dịch vụ tìm kiếm việc làm cho các công nhân có tay nghề thấp .Kết quả là giảm nhẹ thiếu
hụt lao động gây ra bởi quá trình công nghiệp hóa vào năm 1977.
2.1.3. Giai đoạn 1980 – 1997
Từ nửa cuối những năm 80, việc chú trọng vào phát triển số lượng gây ra bất bình
đẳng trong các gia cấp tầng lớp và cùng miền đó trở nên bất cập. Xung đột lao động gia
tăng, các phong trào công đoàn phát triển mạnh mẽ. Chính sách: ban hành một số đạo
luật: Đạo luật Lương tối thiểu (1986), Đạo luật Tuyển dụng cụng bằng (1987) và Đạo luật
Xúc tiến việc làm và hội nhập nghề nghiệp cho người tàn tật (1990),..Đạo luật Bảo hiểm
việc làm (1993), Đạo luật Chính sách tuyển dụng cơ bản (1995) và Đạo luật Xúc tiến Đào
tạo nghề (1997),.. Kết quả: phát triển phúc lợi, tăng cường bình đẳng xã hội, giải quyết cả
hệ thống các vấn đề thất nghiệp do sự trì trệ trong kinh tế, tạo nền nền tảng cho các chính
sách về lao động.
2.2. Những cải cách chủ yếu trong chính sách lao động của Chính phủ
Các chính sách lao động giai đoạn trước khủng hoảng nhìn chung đã đem đến
những hiệu quả tích cực cho sự tăng trưởng kinh tế thông qua giải quyết vấn đề thất
nghiệp, nâng cao chất lượng lao động, đảm báo tính công bằng xã hội. Tuy nhiên, trước
thách thức toàn cầu hóa và đặc biệt là cuộc khủng hoảng tài chính 1997, những chính
sách lao động giai đoạn này đã không còn phù hợp nữa, gây nên sự trì trệ, kém linh hoạt
và lãng phí nguồn lực kinh tế. Chính vì vậy, để giải quyết vấn đề lao động trong và sau
thời kỳ khủng hoảng, Chính phủ đã thực hiện một cuộc cải cách lao động mang tính cách
mạng góp phần đưa nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng và vươn lên ngày càng mạnh mẽ.

2.2.1. Sự thành lập Ủy ban Ba bên
Nhận ra được sự kém hiệu quả của các chính sách trong các giai đoạn trước, “Chính
phủ của dân” đã thành lập nên một Uỷ ban Ba bên vào tháng 1/1998 với đại diện là người
lao động, doanh nghiệp và chính phủ. Với những thoả ước đạt được trên tất cả các mặt,
Uỷ ban này đã điều khiển để đạt được một sự đồng thuận rất sớm vào ngày 06/02/1998.

• Nội dung của Thỏa ước Ba bên (2-1998)
-

Minh bạch quản lý và tái cơ cấu công ty
Ổn định giá cả
Các chính sách thúc đẩy ổn định việc làm và chống thất nghiệp
Mở rộng và hợp nhất hệ thống an sinh xã hội
Thúc đẩy sự hợp tác quản lý - lao động và tôn trọng quyền đàm phán tập thể
Nâng cao các quyền lao động
Nâng cao tính mềm dẻo của thị trường lao động
Cải thiện xuất khẩu

• Mục đích: để đạt được các sự đồng thuận chung về các vấn đề liên quan đến lao động
-

Về mặt đối nội, góp phần làm giảm những xung đột và mâu thuẫn xã hội, tạo ra một sự
đồng thuận cần thiết cho cải cách cơ cấu và chia sẻ khó khăn.

8


-

Về mặt đối ngoại, đóng vai trò quan trọng trong việc khôi phục niềm tin của các nhà

đầu tư nước ngoài và các công ty trong nền kinh tế Hàn Quốc, đồng thời thể hiện khả
năng và mong muốn vượt qua khủng hoảng kinh tế của người Hàn Quốc.

• Ý nghĩa: Đây cũng là một sự kiện lịch sử làm nền tảng cho việc tái thiết nền kinh tế
Hàn Quốc, hướng tới sự đồng thuận giữa các bên trên tất cả các khu vực của cải cách
kinh tế nói chung, với khu vực lao động nói riêng. Thỏa ước được coi như một khuôn
khổ pháp lý cơ sở cho những cải cách về thị trường lao động tiếp theo. Nhờ những nỗ
lực của Uỷ ban ba bên, Đạo luật về tiêu chuẩn lao động (LSA) đã được sửa đổi nhằm
tạo ra một sự linh hoạt hơn về quản lý trong việc giải quyết những vấn đề lao động.
2.2.2. Chuyển đổi hệ thống quản lý nhân sự nhằm tăng cường tính linh hoạt
trong công việc
Để vượt qua cuộc khủng hoảng, nhiều công ty cần khôi phục lại tính cạnh tranh
thông qua tái cơ cấu. Chính vì vậy, Chính phủ đã hỗ trợ việc điều chỉnh bộ máy quản lý
bằng cách sửa đổi Luật Tiêu chuẩn Lao động vào tháng 2/1988 thông qua một thoả ước
chung giữa người lao động, giới quản lý và chính phủ. Luật sửa đổi này cho phép sa thải
nếu một công ty có sự quan tâm đúng mức đến lợi ích của người lao động. Trong suốt
giai đoạn này, bằng các phương pháp khác nhau, các tổ chức tài chính đã sa thải khoản
40% tổng số lao động của họ. Đặc biệt, sự luân chuyển nhân viên một cách tự nguyện
trong tập đoàn xuất hiện lần đầu tiên giúp gia tăng tính linh hoạt về lực lượng lao động.
Chính điều này đã xóa bỏ quan điểm tuyển dụng lâu dài ở công ty và thay thế bằng quan
điểm công việc lâu dài dựa trên khả năng làm việc.
Về tuyển dụng, nếu như trước đây trong giai đoạn chi phí lao động thấp và tốc độ
tăng trưởng cao, các tập đoàn áp dụng rộng rãi hệ thống tuyển dụng công khai, nhấn
mạnh tuyển dụng các sinh viên mới tốt nghiệp thì đến giai đoạn này, trước áp lực chi phí
cao, hoạt động tuyển dụng đã thay đổi để thích ứng với tuyển dụng lực lượng lao động có
kinh nghiệm, tìm kiếm và tuyển dụng công khai CEO. Ngoài ra, tỷ lệ thuê công nhân có
kinh nghiệm cũng tăng lên. Điều này có liên quan với chính sách cắt giảm lực lượng lao
động. Trong giai đoạn tăng trưởng cao trước đây, đảm bảo lực lượng lao động dư thừa
được coi là nhu cầu linh hoạt trong doanh nghiệp thì một trong những chính sách của
quản lý nhân sự trong giai đoạn khủng hoảng này là phân bổ các công nhân có kinh

nghiệm ở vị trí cần thiết hơn là đào tạo lực lượng lao động dư thừa. Trong quá trình cải
cách hệ thống quản lý nhân sự, việc sử dụng lao động thời vụ ngày càng tăng. Trong quan
điểm tuyển dụng, tuyển dụng lao động toàn thời gian được thay thế bằng tuyển dụng lao
động thời vụ.
Bảng: Tỉ lệ công nhân thời vụ
Năm

1988

1992

1996

1997

1998

1999

2000/8

Tỉ lệ (%)

44,3

43,1

43,3

46,1


47,2

51,7

58,4

Nguồn: Cơ quan thống kê quốc gia Hàn Quốc (2001)
Bằng việc cải cách và tái cơ cấu bộ máy quản lý nhân sự, các công ty Hàn Quốc
lớn đã được vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế và phát triển mạnh mẽ, có tầm ảnh

9


hưởng không chỉ ở trong nước mà còn trong khu vực và thế giới, điển hình như Samsung,
Huyndai,… Tuy nhiên, với việc tăng cường sử dụng lao động thời vụ thay vì lao động
toàn thời gian đã gây nên một số xung đột giữa các nhóm lao động với nhau.
2.2.3. Phổ biến trả lương và đánh giá lao động dựa theo hiệu suất
 Phổ biến trả lương dựa theo hiệu suất
Theo truyền thống, nhân viên được trả lương chủ yếu dựa theo thâm niên. Trong
hệ thống cũ, chế độ lương (không bao gồm tiền trợ cấp) gồm ba thành phần: lương cơ
bản (50% trên tổng số), các khoản phụ cấp (10%) và tiền thưởng (40%). Mức lương cơ
bản và phụ cấp phụ thuộc chủ yếu vào vị trí và thâm niên, tiền thưởng dựa trên hiệu suất
làm việc trong công ty. Tuy nhiên, do vấn đề không làm mà hưởng và hệ thống đánh giá
hiệu suất không hiệu quả nên không thể thúc đẩy cá nhân làm việc với hiệu suất cao. Vì
vậy, chính sách nhân sự mới đưa ra một điều khoản lớn là đưa đãi ngộ cho cá nhân vào
lương cơ bản. Hệ thống mới chia lương thành hai thành phần: lương cơ bản và lương
hiệu suất. Lương cơ bản phụ thuộc vào vị trí và thâm niên, lương hiệu suất phụ thuộc vào
sự phân loại dựa theo hiệu suất của cá nhân. Tỷ lệ của lương hiệu suất chiếm 68% lương
cơ bản cho các nhà quản lý, 64% cho chuyên viên cao cấp và 42% cho nhân viên mới.

Như những con số cho thấy, tỷ lệ thay đổi lớn hơn giữa các nhân viên ở những vị trí cấp
cao hơn. Đặc điểm của chương trình tiền lương mới là sự ra đời của đãi ngộ cho cá nhân
và sự thay đổi trong trả lương cao hơn cho các nhân viên ở vị trí cấp cao hơn.
Hơn thế nữa, kể từ cuộc khủng hoảng tiền tệ, các công ty Hàn Quốc áp dụng hệ
thống lương hàng năm một cách mạnh mẽ. Hệ thống lương hàng năm tăng kịch liệt từ
1.6% trong năm 1996 lên đến 32.3% trong năm 2002. Với mức lương hàng năm, hệ
thống tiền thưởng chuyển đổi từ cố định thành linh hoạt dựa trên hiệu quả như tiền
thưởng đặc biệt, tiền lãi, tăng lương, phân phối cổ phiếu dựa trên hiệu suất. Như vậy, có
thể thấy sự phát triển nhanh chóng của tiền lương hàng năm và hệ thống đãi ngộ là bằng
chứng thích hợp về việc chuyển đổi từ chế độ lương dựa trên thâm niên sang chế độ
lương dựa theo hiệu suất trong hoạt động quản lý nhân sự của Hàn Quốc.
 Thay đổi về đánh giá hiệu suất
Trong hệ thống cũ, các công ti không chú ý nhiều vào việc đánh giá hiệu suất vì sự
phân loại theo đánh giá không ảnh hưởng đến quyết định thăng chức và chế độ lương.
Tuy nhiên, theo chính sách nhân sự mới, thăng chức và chế độ lương đều phụ thuộc rất
nhiều vào phân loại theo hiệu suất. Để làm cho hệ thống đánh giá công bằng và đáng tin
cậy, nhiều thay đổi quan trọng đã được thực hiện:
- Đầu tiên, người giám sát được yêu cầu có một cuốn sổ ghi nhớ ("Ghi chú của người quản
lý") về việc hiệu suất, khiếu nại, và nhu cầu cải thiện của nhân viên. Điều này là để giúp
người đánh giá xem xét các hoạt động và hiệu suất của nhân viên trong suốt giai đoạn
đánh giá. Ngoài ra, người giám sát được khuyến khích chia sẻ sổ ghi nhớ với người lao
động để truyền đạt kỳ vọng, cung cấp thông tin phản hồi kịp thời và tăng độ tin cậy của
việc đánh giá hiệu suất.

10


-

-


-

-

-

-

Thứ hai, họ đưa ra đánh giá 360 độ. Người đánh giá hiện nay bao gồm người giám sát,
cấp dưới, khách hàng và nhà cung cấp. Đánh giá dựa vào nhiều loại người được thực hiện
lần đầu tiên cho nhóm quản lý và sẽ được mở rộng cho nhóm chuyên viên cao cấp.
Thứ ba, đưa ra một cuộc phỏng vấn đánh giá bắt buộc. Trong suốt "Tuần đánh giá" hàng
năm, họ tiến hành hai vòng đánh giá và phỏng vấn. Trong vòng đầu tiên, việc đánh giá
hiệu suất được tiến hành thông qua một cuộc phỏng vấn với người giám sát. Ở vòng thứ
hai, đánh giá năng lực được thực hiện thông qua một cuộc phỏng vấn khác với người
giám sát. Thông qua các cuộc phỏng vấn, nhân viên và giám sát viên trao đổi và thảo
luận về đánh giá và điều chỉnh sự khác biệt trong ý kiến của họ. Sau đó, họ đồng ý về
việc xếp hạng cuối cùng và ký vào tài liệu.
Những chính sách trả lương theo hiệu suất và những thay đổi về đánh giá theo
hiệu suất nói trên đã góp phần thúc đẩy các cá nhân làm việc tốt hơn và đạt hiệu quả tốt
hơn, tạo nên một môi trường làm việc mang tính cạnh tranh cao, từ đó thúc đẩy sự vươn
lên mạnh mẽ của các công ty Hàn Quốc sau giai đoạn khủng hoảng 1997.
2.2.4. Phá bỏ rào cản tuyển dụng lao động nữ
Các chính sách về giới và phụ nữ của Hàn Quốc có sự thay đổi từ tính ứng phó, bị
động sang chủ động mang tính hỗ trợ, thúc đẩy và tham gia. Chính phủ ban hành nhiều
đạo luật nhằm loại bỏ những trở ngại về mặt cơ cấu làm cản trở việc tuyển dụng lao động
nữ.
Phát triển hệ thống chăm sóc trẻ con cho người lao động nữ: chính phủ trợ cấp cho các
công ty có khu giữ trẻ ngay tại công ty và tăng cường chú trọng các dịch vụ chăm sóc trẻ

công
Cung cấp những khoản trợ cấp chi phí tuyển dụng lao động nữ, các khoản chi phí liên
quan tới sinh đẻ và nghỉ đẻ; trợ cấp những công ty thực hiện tái tuyển dụng lao động nữ;
Tạo ra các cơ hội việc làm ngắn hạn cho nữ giới trong các gia đình có thu nhập thấp, chủ
yếu là các công việc liên quan đến các dịch vụ xã hội và chăm sóc y tế.
Chính phủ còn đưa ra một số chỉ tiêu phát triển cơ hội nghề nghiệp cho nữ giới ở các vị
trí cao hơn trong chính phủ nhằm đạt được một con số phần trăm nữ giới nhất định. Ví
dụ, trong lĩnh vực hành chính và công tác công, tỷ lệ nữ giới phải đạt 20% trong năm
2002 so với 10% năm 1996.
2.2.5. Các biện pháp mang tính cải cách nhằm giải quyết vấn đề thất nghiệp
Bên cạnh chính sách tạo thêm việc làm qua các dự án công và thu hút vốn đầu tư
nước ngoài và mở rộng chương trình đào tạo nghề cho người thất nghiệp, chính phủ Hàn
Quốc đã đưa ra một số biện pháp khác mang tính cải cách so với giai đoạn trước khủng
hoảng:
Công nhận những hình thức nghề nghiệp mới: Để điều chỉnh cung về lao động theo sự
biến động của thị trường, thì cần phải phát triển những loại hình việc làm mới như việc
làm tạm thời, việc làm bán thời gian và việc làm tại nhà. Thoả ước ba bên cho phép sử
dụng rộng rãi hơn các dịch vụ việc làm tạm thời. Trước đây, các dịch vụ này chỉ xuất hiện
trong một số loại hình như vệ sinh làm sạch hay an ninh, mặc dù có rất nhiều tổ chức

11


hoạt động trong các lĩnh vực khác có nhu cầu cao. Việc làm này sẽ tạo cơ hội cho các
công nhân chuyên nghiệp, cho những người chưa có việc làm ở tuổi trung niên và các thợ
xây nhà thông qua việc bảo vệ quyền lợi và điều kiện làm việc cho các công nhân làm
việc tạm thời, đồng thời cho phép các công ty điều chỉnh dễ dàng qui mô nhân lực của
mình trong điều kiện kinh tế có nhiều biến động. Khái niệm làm việc tại nhà giai đoạn
này đã được xác định rõ ràng và được bảo vệ đầy đủ theo Đạo luật Tiêu chuẩn Lao động.
Những sửa đổi mới được phản ánh vào Đạo luật nhằm phân loại tiền công và thời gian

làm việc cho phù hợp với những người làm việc tại nhà và tạo lập nên một thị trường
việc làm hỗ trợ cho các công việc có thể làm tại nhà.

- Phát triển các trung tâm xúc tiến việc làm và dịch vụ hỗ trợ việc làm: Việc phát triển các

-

trung tâm việc làm là hết sức cần thiết để linh hoạt hoá một cách hiệu quả lực lượng lao
động. Bởi vây, chính phủ Hàn Quốc đã không ngừng nhân rộng các trung tâm việc làm
công, tuyển dụng các chuyên viên tư vấn việc làm chuyên nghiệp từ các khu vực tư nhân
nhằm cung cấp các dịch vụ chất lượng và thân thiện. Đa số các trung tâm đều được thành
lập ở những khu vực có nhu cầu tìm việc làm cao. Những qui định đối với các trung tâm
việc làm tư nhân sẽ được giảm thiểu nhằm tạo ra nhiều cơ hội việc làm hơn cho người lao
động.
Xây dựng mạng lưới an sinh xã hội trong thời kì khủng hoảng: Mạng lưới an sinh xã hội
chủ yếu dành cho người thất nghiệp, khuyến khích khả năng tự lực hơn là việc chỉ hỗ trợ
về mặt thu nhập nhằm duy trì động lực của công nhân và giảm thiểu chi phí. Để ứng phó
với tình trạng thất nghiệp kéo dài, chính phủ đã hỗ trợ đầy đủ những nhu cầu thiết yếu
cho những công nhân có thu nhập thấp và mới thất nghiệp như lương thực thực phẩm,
chăm sóc y tế và hỗ trợ về giáo dục tiểu học, trung học cơ sở cho con em họ. Bên cạnh
đó, một loạt các chính sách thất nghiệp phụ trợ cũng đã được hoạch định đối với một số
nhóm công nhân đặc thù như công nhân làm việc theo ngày, phụ nữ thất nghiệp, thanh
niên thất nghiệp, những người thất nghiệp có trình độ cao...
3. Đánh giá hiệu quả của cuộc cải cách
3.1. Thành công
Sau một năm thực hiện các cải cách, tỉ lệ thất nghiệp đã được đưa về mức 6.3%
năm 1999 và 4.4% năm 2000. Sự phục hồi của tiền công danh nghĩa năm 1999 là hình
ảnh phản chiếu những gì đã xảy ra vào năm 1998. Những khu vực có mức tiền công suy
giảm mạnh nhất vào năm 1998 đã phục hồi nhanh nhất vào năm 1999. Tương tự như vậy
trong cơ cấu tiền công, tiền công danh nghĩa đã giảm ở hầu hết trong giai đoạn 19971998 và nó đã tăng trở lại ở hầu hết các công ty này vào năm 1999. Mức tăng tiền công

bình quân năm 1999 đạt 12.1%. Tỉ lệ nữ giới tham gia vào các hoạt động kinh tế tăng lên
đến 49%. Chênh lệch thu nhập giữa lao động nam và nữ là không đáng kể thậm chí có xu
hướng thu hẹp do sự gia tăng của lực lượng lao động nữ có trình độ cao vào thị trường
lao động, và lực lượng lao động nữ trình độ thấp giảm đi.
Qua hỗ trợ đào tạo nghề, tỉ lệ lao động thất nghiệp tìm được việc làm sau khi được
đào tạo tăng gấp đôi từ năm 1998 đến 2000. Lao động linh động hơn và từ việc có khả
năng được tuyển dụng suốt đời sang có khả năng làm việc suốt đời. Ở Hàn Quốc, sự tập
trung phải chuyển từ an toàn nghề nghiệp tĩnh (gắn bó suốt đời với một công ty) sang an

12


toàn nghề nghiệp động nơi mà việc làm vẫn được đảm bảo ngay cả khi nghề nghiệp có
thể thay đổi.
3.2. Hạn chế
Các chính sách trong 4 năm 1998-2001 là sự cứu cánh trước mắt cho nạn thất
nghiệp thông qua việc giảm số người thất nghiệp và tạo công việc ngắn hạn, tạm thời mà
chưa mang tính dài hạn. Nó còn gây bất lợi cho lao động trẻ tuổi, đặc biệt là lao động
mới ra trường; khi mà tỉ lệ thất nghiệp ở khu vực này chưa được cải thiện đáng kể và còn
ở mức cao. Sự suy giảm tiền công và việc làm so với trước khủng hoảng nhiều hơn ở
nhóm lao động trẻ (20-29 tuổi) so với nhóm lao động trung niên (40-54 tuổi). Bên cạnh
đó, lao động lại không đáp ứng được yêu cầu vào các tập đoàn, công ti lớn chứng tỏ lao
động chất lượng cao chưa được quan tâm cần thiết.

Theo báo cáo của WB, tỉ lệ này cao nhất năm 1998 ở mức 16% và năm 1999 là
14%, sau đó giảm từ từ ở các năm sau nhưng còn cao so với tỉ lệ thất nghiệp chung là 67%. Điều này là do lao động trong độ tuổi 15-24 còn thiếu kinh nghiệm và trong thời kì
khủng hoảng, doanh nghiệp thì e ngại thuê trong khi chính phủ chú trọng tìm kiếm việc
làm ngắn hạn cho lao động tay nghề, chất lượng cao và chống thất nghiệp tăng lên ở
những lao động đang có việc.
Tỉ lệ thất nghiệp dài hạn sau khi ở mức 1,5% năm 1998 đã tăng lên 3.8% năm

1999 và giữ ở mức trên 2% trong 3 năm sau đó. Điều này do những chính sách chính phủ
khi khuyến khích lao động ngắn hạn, tạm thời để linh hoạt công việc. Đây là một vấn đề
nghiêm trọng vì những người này sẽ mất đi những kĩ năng công việc và tái trở lại thị
trường lao động khó khăn hơn.
Những cải cách ở lĩnh vực lao động đã góp phần to lớn vào sự phục hồi nhanh
chóng của kinh tế Hàn Quốc. Tuy nhiên, để thực hiện hàng loạt cải cách như vậy chính
phủ Hàn Quốc đã phải viện trợ đến những khoản vay khổng lồ từ IMF, điều này gây áp
lực cho chính phủ phải tuân theo các biện pháp thắt lưng buộc bụng mà IMF đưa ra và
gây nên sự phụ thuộc về nguồn vốn từ IMF và các nhà đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó,
những chính sách nhân sự kiểu Mỹ mà Hàn Quốc buộc phải áp dụng giai đoạn này đi
ngược lại với các giá trị văn hóa, vì thế tạo nên sự phản đối của một bộ phận người lao
động.

13


14


Kết luận
Các chính sách lao động mà chính phủ Hàn Quốc đưa ra là một hệ thống những
thay đổi kịp thời mang tính thời sự, phù hợp với hoàn cảnh thực tế và gắn liền với mục
tiêu trọng tâm là lợi ích của người lao động và doanh nghiệp là song song. Đây được gọi
là cuộc cải cách do nó thể hiện những nhận thức mới của chính quyền trong việc đối phó
với khủng hoảng là phải đạt được sự đồng thuận của mọi thành phần liên quan, qua đó
mới thực hiện được hiệu quả các chính sách cụ thể. Bên cạnh đó là quan tâm tới tạo công
ăn việc làm cho lực lượng lao động đã từng ít được chú ý đến, hay thay đổi cách tính
lương để thúc đẩy năng suất người lao động, phát triển chất lượng lao động để đảm bảo
khả năng có việc làm suốt đời… Tất cả những chính sách nêu trên tuy vẫn còn một số
hạn chế nhưng thành công đem lại là rất lớn khi thị trường lao động Hàn Quốc có biến

chuyển rất tốt trong một thời gian ngắn, qua đó là nhân tố quan trọng giúp nền kinh tế
phục hồi trở lại mức tăng trưởng cao.
Có thể nói, lao động luôn là một thành phần quan trọng trong mọi nền kinh tế, là
yếu tố đầu vào quyết định đến sự phát triển kinh tế. Ổn định thị trường lao động là một
trong những vấn đề vĩ mô quan trọng nhất và luôn làm cho các nhà hoạch định chính
sách đau đầu khi có những biến động. Trong khi các nước đang tìm các giải pháp cải
thiện công ăn việc làm cho người dân kéo dài từ sau khủng hoảng.

15


Tài liệu tham khảo
1. />2. Vấn đề việc làm ở Hàn Quốc, />3. />5.
6.

7.

8.

thi-truong-lao-dong-han-quoc-va-cac-bien-phap-cai-cach-cua-chinh-phu.html
/>Kil-Sang Yoo, Financial crisis and foreign workers in Korea,
/>Insoo Jeong, Unemployment Schemes since the Financial Crisis in Korea:
Achievements and Evaluations, 12/2001,
/>key=220&bbsNo=31&nttNo=100666&searchY=&searchCtgry=&searchDplcCtgr
y=&searchCnd=all&searchKrwd=&pageIndex=10&integrDeptCode=
Jai-Joon HUR, 5/2001, Economic crisis, Income support, and employment
generating programs: the Korea’s experience,
/>key=220&bbsNo=31&nttNo=100665&searchY=&searchCtgry=&searchDplcCtgr
y=&searchCnd=all&searchKrwd=&pageIndex=10&integrDeptCode
OECD Recommendations on Labor Issues and Korean Compliance with

Evaluations - Labor Law, Relations, Market, and Social Security
/>key=222&bbsNo=33&nttNo=100869&searchY=&searchCtgry=&searchDplcCtgr
y=&searchCnd=all&searchKrwd=&pageIndex=1&integrDeptCode=

16



×