Tải bản đầy đủ (.doc) (122 trang)

Hoàn thiện kế toán nguyên vật liệu ở Công ty cổ phần tư vấn, đầu tư và xây dựng Hải Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.57 MB, 122 trang )

Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính
MỤC LỤC

CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH THỰC TẾ VỀ TỔ CHỨC KẾ TOÁN NGUYÊN VẬT LIỆU Ở CÔNG TY CỔ PHẦN
TƯ VẤN, ĐẦU TƯ VÀ XÂY DỰNG HẢI DƯƠNG.................................................................................37
2.1. Đặc điểm tổ chức sản xuất vầ tổ chức quản lý sản xuất ở Công ty cổ phần tư vấn, đầu tư và
xây dựng Hải Dương........................................................................................................................37
2.3.5.2 Hạch toán chi tiết nguyên vật liệu xuất kho.........................................................................80
- Các trường hợp xuất nguyên vật liệu ở Công ty : .........................................................................85
Bảng 2.2: Bảng tổng hợp nhập-xuất-tồn nguyên liệu tháng 1/2015................................................95
Kiểm kê nguyên vật liệu ở Công ty cổ phần tư vấn, đầu tư và xây dựng Hải Dương:...................109
CHƯƠNG III...................................................................................................................................110
PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN TỔ CHỨC CÔNG TÁC KẾ TOÁN NGUYÊN VẬT LIỆU Ở CÔNG TY CỔ
PHẦN TƯ VẤN, ĐẦU TƯ VÀ XÂY DỰNG HẢI DƯƠNG.....................................................................110
3.1. Nhận xét chung về quá trình tổ chức công tác kế toán nguyên vật liệu tại công ty cổ phần tư
vấn đầu tư và xây dựng Hải Dương...............................................................................................110
- Công tác phân tích tình hình quản lý và sử dụng nguyên vật liệu ở Công ty...............................113
KẾT LUẬN.......................................................................................................................................118

Sinh viên: Nguyễn Trung Kiên

i

Lớp: CQ49/21.10


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính


DANH MỤC SƠ ĐỒ

Sơ đồ 1.1:Trình tự kế toán theo phương pháp thẻ song song.........................................................24
Sơ đồ 1.2: Trình tự kế toán theo phương pháp sổ đối chiếu luân chuyển......................................26
Sơ đồ: 2.1 Bộ máy kế toán...............................................................................................................46
Sơ đồ: 2.2 Luân chuyển nguyên vật liệu nhập kho của Công ty.......................................................49
Sơ đồ 2.3: quy trình hình thành kế toán nguyên vật liệu.................................................................64
Sơ đồ 2.4: Trình tự kế toán theo hình thức Nhật kí chung............................................................102

Sinh viên: Nguyễn Trung Kiên

ii

Lớp: CQ49/21.10


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính
DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 2.1: Màn hình giao diện phần mềm Misa................................................................................56
Hình 2.2: Danh sách khách hang, nhà cung cấp của công ty cổ phần tư vấn, đầu tư và xây dựng Hải
Dương.............................................................................................................................................57
Hình 2.3: Màn hình khai báo chi tiết của một khách hàng...............................................................58
Hình 2.4 Danh sách vật liệu của công ty tư vấn, đầu tư và xây dựng Hải Dương............................60
Hình 2.6: Danh sách kho mã hóa của công ty..................................................................................63
Hình 2.7: Màn hình nhập liệu nghiệp vụ mua dầu diezel.................................................................71
Hình 2.8: Sổ chi tiết vật tư dầu diezel..............................................................................................74
Hình 2.9: Màn hình nhập liệu nguyên vật liệu nhập kho chưa thuế................................................78

Hình 2.10: Màn hình thao tác tính giá thành xuất kho vật tư..........................................................82
Hình 2.11: Màn hình khai báo công trình vụ việc trong Misa..........................................................83
Hình 2.12: Màn hình nhập liệu phiếu xuất vật tư thi công..............................................................91
Hình 2.13: Màn hình nhập liệu nghiệp vụ xuất bán nguyên vật liệu..............................................101

Sinh viên: Nguyễn Trung Kiên

iii

Lớp: CQ49/21.10


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính
LỜI MỞ ĐẦU

Trong những năm gần đây, xây dựng cơ bản đã và đang trở thành một
ngành sản xuất vật chất quan trọng đóng góp cho sự phát triển của nền kinh tế
quốc dân và là tiền đề vật chất cho xã hội. Ngày nay, trong điều kiện nền kinh tế
ngày càng phát triển hơn bao giờ hết ngành xây dựng ngày càng chiếm một vị trí
quan trọng trong việc tạo dựng và phát triển cơ sở hạ tầng của đất nước.
Vì vậy, để ngành xây dựng nói chung và công ty cổ phần tư vấn, đầu tư
và xây dựng Hải Dương nói riêng ngày càng phát triển và có đóng góp cho
nền kinh tế nước nhà thì mục tiêu hàng đầu là tăng lợi nhuận và cơ bản là hạ
thấp được giá thành sản phẩm. Muốn vậy Kế toán với tư cách là công cụ quản
lý phải ngày càng củng cố và hoàn thiện mục tiêu giảm chi phí Nguyên vật
liệu để từ đó có thể hạ thấp được chi phí sản xuất. Điều này đòi hỏi doanh
nghiệp phải quan tâm tới tất cả các khâu trong quá trình sản xuất từ khi bỏ
vốn ra cho đến khi thu hồi vốn, không ngừng tiết kiệm chi phí hạ giá thành

sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường mà vẫn thu được lợi nhuận.
Vật liệu trong doanh nghiệp sản xuất nói chung và doanh nghiệp xây
lắp nói riêng luôn là một trong nhưng yếu tố cơ bản là nên sản phẩm. Muốn
tối đa hóa lợi nhuận bên cạnh việc sử dụng đúng loại nguyên vật liệu đảm bảo
chất lượng sản phẩm doanh nghiệp còn phải biết sử dụng hợp lý hiệu quả
nguyên vật liệu. Hơn nữa vật liệu còn là một bộ phận quan trọng của hàng tồn
kho do đó cần hạch toán kiểm tra giám sát kịp thời xác định đúng mức tiêu
hao nguyên vật liệu dự trữ ngăn chặn sự lãng phí vật liệu. Như vậy có thể nói
việc quản lý nguyên vật liệu là cực kỳ cẩn thiết cụ thể thông qua cổng tác tổ
chức kế toán nguyên vật liệu ở công ty phải thực hiện tốt góp phần nâng cao
hiệu quả sản xuất, hạ thấp chi phí trong giá thành.
Xuất phát từ những lý do trên, đồng thời trong gian thực tập tại công ty
cổ phần tư vấn, đầu tư và xây dựng Hải Dương em đã thấy được tầm quan
Sinh viên: Nguyễn Trung Kiên

1

Lớp: CQ49/21.10


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

trọng của nguyên vật liệu đối với quá trình sản xuất và sự cấp thiết phải tổ
chức quản lý nguyên vật liệu và công tác kế toán ở công ty; với sự giúp đỡ
của các anh chị trong phòng Tài chính Kế toán, đặc biệt với sự hướng dẫn tận
tình của PGS.TS thầy Nguyễn Vũ Việt, em đã đi sâu vào nghiên cứu đề tài :
“Hoàn thiện kế toán nguyên vật liệu ở Công ty cổ phần tư vấn, đầu tư và xây
dựng Hải Dương”

Về mặt kết cấu luận văn bao gồm 3 chương chính:
Chương I: Những lý luận cơ bản về tổ chức công tác kế toán nguyên
vật liệu ở các doanh nghiệp sản xuất.
Chương II: Thực trạng tổ chức công tác kế toán nguyên vật liệu tại
công ty cổ phần tư vấn, đầu tư và xây dựng Hải Dương.
Chương III: Một số phương hướng và giải pháp hoàn thiện công tác kế
toán nguyên vật liệu tại công ty cổ phần tư vấn, đầu tư và xây dựng Hải
Dương.
Do trình độ và thời gian thực tập có hạn, công tác quản lý vật liệu rất
phức tạp nên bản luận văn này mới chỉ đi sâu vào tìm hiểu một số vấn đề cơ
bản và chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Vì vậy, em kính mong được sự đóng
góp ý kiến của thầy cô và các cô chú trong phòng Tài chính- Kế toán để hoàn
thiện đề tài hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

Sinh viên: Nguyễn Trung Kiên

2

Lớp: CQ49/21.10


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính
CHƯƠNG I:

NHỮNG VẦN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TỔ CHỨC CÔNG TÁC KẾ TOÁN
NGUYÊN VẬT LIỆU Ở CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT


1.1 Sự cần thiết tổ chức công tác kế toán nguyên vật liệu trong các doanh
nghiệp sản xuất
1.1.1 Khái niệm, bản chất, đặc điểm vị trí vai trò của nguyên vật liệu trong
doanh nghiệp sản xuất.
Vật liệu là đối tượng lao động đã được thay đổi do lao động có ích của
con người tác động vào. Theo lý luận của Mác tất cả những vật thể xung
quanh ta mà lao động nhưng không phải đối tượng lao động nào cũng là
nguyên vật liệu mà chỉ trong điều kiện đối tượng lao động mà do lao động
làm ra thì mới hình thành nên nguyên vật liệu.
Nguyên vật liệu là một trong ba yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất
tạo ra sản phẩm mới có đặc điểm chỉ tham gia vào 1 chu kì sản xuất được tiêu
dùng hoàn toàn không giữ nguyên trạng thái ban đầu về mặt giá trị nó chuyển
dịch một lần toàn bộ vào trong giá trị sản phẩm tạo ra. Nguyên vật liệu luôn
chiếm một tỉ trọng lớn giá thành sản phẩm. Vì vậy nguyên vật liệu không chỉ
quyết định đến mặt số lượng của sản phẩm mà còn ảnh hưởng trực tiếp tới
chất lượng sản phẩm. Nguyên vật liệu sản xuất phải đảm bảo chất lượng đúng
quy cách mới sản xuất ra được sản phẩm có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu
của người tiêu dùng mang lại uy tín cho doanh nghiệp.
Không chỉ vậy doanh nghiệp cũng cần quan tâm đến sự phát triển bền
vững cho chính mình. Đó là làm sao để sử dụng tiết kiệm nguyên vật liệu làm
cho chi phí hạ thấp giá thành hợp lý tạo nên sức cạnh tranh và đạt mức lợi
nhuận cao nhất có thể.

Sinh viên: Nguyễn Trung Kiên

3

Lớp: CQ49/21.10



Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

1.1.2. Vai trò kế toán nguyên vật liệu trong tổ chức quản lý sử dụng
Theo xu hướng nền kinh tế thị trường hiện nay,
Doanh nghiệp muốn tồn tại phải có năng lực sản xuất đáp ứng nhu cầu
của thị trường. Muốn làm được vậy cần phải tạo ra được sản phẩm đạt chất
lượng tốt đa dạng giá cả hợp lý. Những yêu cầu đó đều cần yếu tố quan trọng
là nguyên vật liệu. Vì vậy tổ chức quản lý nguyên vật liệu là một vấn đề cấp
thiết cầnd trong công tác quản lý của doanh nghiệp. Nhưng do phạm vi mức
độ và trình độ của các doanh nghiệp là khác nhau nên cách thức quản lý
nguyên vật liệu cũng khác nhau.
Với sự đa dạng và phong phú của nguyên vật liệu như hiện nay thì yêu
cầu quản lý doanh nghiệp đối với từng loại hình cụ thể cũng khác nhau nhưng
cơ bản vẫn dựa trên tinh thần tiết kiệm đúng mức, rõ ràng về số lượng và chất
lượng… để đạt hiệu quả cao trong quá trình sản xuất.
Xuất phát từ vai trò, đặc điểm trên việc quản lý nguyên vật liệu đòi hỏi
phải khách quan khoa học ở tất cả các khâu từ thu mua đến bảo quản dự trữ
và xuất ra sử dụng. Cụ thể:
- Khâu thu mua: Khối lượng nguyên vật liệu phải được đảm bảo
thường xuyên đúng đủ chủng loại số lượng, khối lượng để quá trình
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra bình thường. Hoạch
định kế hoạch thu mua đáp ứng nhu cầu sản xuất, thường xuyên
kiểm tra đánh giá tình hình thực tế từ đó đảm bảo số lượng giá cả và
chi phí thấp nhất.
- Khâu dự trữ: Quản lý nguyên vật liệu một cách hợp lý đúng yêu
cầu trách thất thoát đảm bảo cho quá trình sản xuất diễn ra liên tục
không bị gián đoạn tiết kiệm thời gian mà cũng không gây ra tình
trạng ứ đọng vốn tồn kho nguyên vật liệu quá nhiều.

- Khâu sử dụng: Đảm bảo sử dụng tiết kiệm hợp lý trên cơ sở định
mức có sẵn dự toán chi phí nhằm hạ thấp chi phí giảm giá thành
Sinh viên: Nguyễn Trung Kiên

4

Lớp: CQ49/21.10


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

nhưng vẫn giữ được chất lượng sản phẩm. Yêu cầu khâu này cần
phản ánh tốt tình hình xuất dùng và sử dụng nguyên vật liệu trong
doanh nghiệp.
Có thể thấy việc tổ chức quản lý nguyên vật liệu ở doanh nghiệp rất
quan trọng cần được quan tâm đúng mức tránh rủi ro. Vì vậy doanh
nghiệp cần cải tiến công tác quản lý nguyên vật liệu sao cho phù
hợp với tình hình thực tế.
1.1.3 Nhiệm vụ của kế toán
Kế toán doanh nghiệp cần thực hiện tốt các nhiệm vụ sau:
- Thực hiện phân loại đánh giá nguyên vật liệu theo những nguyên tắc
chuẩn mực có sẵn và theo yêu cầu của doanh nghiệp
- Vận dụng linh hoạt chứng từ tài khoản kế toán, sổ kế toán phù hợp
với phương pháp kế toán hàng tồn kho áp dụng trong doanh nghiệp
để ghi nhận phân loại tổng hợp đầy đủ kịp thời quá trình biến động
của nguyên vật liệu trong quá trình sản xuất kinh doanh để tập hợp
chi phí tính giá thành thành sản phẩm của doanh nghiệp
- Kiểm tra tình hình thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch về mua vật liệu,

kế hoạch sử dụng nguyên vật liệu cho từng mục đích khác nhau
Kế toán nguyên vật cần phải được tổ chức khoa học hợp lý để đáp ứng
kịp thời đầy đủ thông tin phục vụ cho nhu cầu quản trị của doanh nghiệp.

1.2 Một số vấn đề lý luận cơ sở cho kế toán nguyên vật liệu trong
doanh nghiệp
1.2.1 Một số vấn đề lý luận cơ sở cho kế toán doanh thu, chi phí và kết quả
kinh doanh trong doanh nghiệp
- Các khái niệm cơ bản của khoa học kế toán và giả định kế toán.
Sinh viên: Nguyễn Trung Kiên

5

Lớp: CQ49/21.10


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

Khái niệm đơn vị kế toán
Khái niệm này tương đồng với khái niệm đơn vị kinh doanh. Theo khái
niệm này, thông tin tài chính được phản ánh cho một đơn vị kế toán cụ thể.
Mỗi đơn vị kinh tế riêng biệt phải được phân biệt là một đơn vị kế toán độc
lập, có bộ báo cáo tài chính của riêng mình. Khái niệm đơn vị kế toán đòi hỏi
các báo cáo tài chính được lập chỉ phản ánh các thông tin về tình hình tài
chính của đơn vị kế toán mà không bao hàm thông tin tài chính về các chủ thể
kinh tế khác như tài sản riêng của chủ sở hữu hay các thông tin tài chính của
các đơn vị kinh tế độc lập khác. Nói cách khác khái niệm đơn vị kế toán quy
định giới hạn về thông tin tài chính mà hệ thống kế toán cần phải thu thập và

báo cáo.
Đơn vị thước đo tiền tệ
Thông tin do kế toán cung cấp phải được thể hiện bằng thước đo tiền tệ.
Kế toán lựa chọn và sử dụng một đơn vị tiền tệ làm thước đo. Thông thường
thước đo tiền tệ được lựa chọn là đơn vị tiền tệ chính thức của quốc gia mà
đơn vị kế toán đăng ký hoạt động. Mọi nghiệp vụ kinh tế phát sinh đều được
tính toán và ghi chép bằng thước đo tiền tệ này. Khi ghi chép các nghiệp vụ
kinh tế, kế toán chỉ chú ý đến giá thực tế tại thời điểm phát sinh mà không chú
ý đến sự thay đổi sức mua của đồng tiền. Đối với các đơn vị kinh tế Việt
Nam, thông thường kế toán phải dùng đồng Việt Nam trong quá trình tính
toán và ghi chép các nghiệp vụ kinh tế phát sinh và phải đặt giả thiết là sức
mua của đồng tiền có giá trị bền vững hoặc sự thay đổi về tính giá trị của tiền
tệ theo giá cả ảnh hưởng không đáng kể đến tình trạng tài chính của đơn vị
kinh tế. Tuy nhiên khi có sự biến động lớn về giá cả trên thị trường thì kế toán
phải dựa vào những quy định, hướng dẫn của nhà nước để tổ chức đánh giá
lại các tài sản có liên quan từ giá trị đã ghi sổ thành giá trị đương thời để làm
tăng ý nghĩa của báo cáo tài chính kế toán.
Sinh viên: Nguyễn Trung Kiên

6

Lớp: CQ49/21.10


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

Khái niệm kỳ kế toán
Hoạt động của doanh nghiệp là lâu dài và liên tục, nếu chờ cho tất cả

các hoạt động sản xuất kinh doanh ngưng lại và mọi tài sản đều được bán
xong kế toán mới lập báo cáo tài chính thì sẽ không có tác dụng gì trong việc
điều hành hoạt động của Ban Giám đốc. Để kịp thời cung cấp các thông tin
cần thiết cho việc quản lý doanh nghiệp, kế toán phải chia hoạt động lâu dài
của đơn vị thành nhiều kỳ có độ dài về thời gian bằng nhau, từ đó dễ dàng so
sánh, đánh giá và kiểm soát doanh thu, chi phí và lãi (lỗ) của từng kỳ. Giả
định này dựa trên giả thiết hoạt động của đơn vị sẽ ngưng lại vào một thời
điểm nào đó để kế toán có thể lập các báo cáo có tính chất tổng kết tình hình
hoạt động trong thời gian qua và cung cấp các thông tin về kết quả đạt được
lúc cuối kỳ.
Giả định hoạt động liên tục.
Kế toán phải đặt giả thiết là doanh nghiệp sẽ hoạt động liên tục trong
một thời gian vô hạn định hay sẽ hoạt động cho đến khi nào các tài sản cố
định hoàn toàn bị hư hỏng và tất cả trách nhiệm cung cấp sản phẩm, hàng hóa
hay dịch vụ của đơn vị đã được hoàn tất hoặc ít nhất là không bị giải thể trong
tương lai gần. Giả định này được vận dụng trong việc định giá các loại tài sản
đang sử dụng trong doanh nghiệp. Doanh nghiệp đang sử dụng cho nên chưa
bán hoặc không thể bán được do đó giá trị của những tài sản này sẽ được tính
toán và phản ánh trên cơ sở giá gốc và sự đã hao mòn do sử dụng. Tức là giá
trị tài sản hiện còn là tính theo số tiền mà thực sự doanh nghiệp đã phải trả khi
mua sắm hay xây dựng trừ đi giá trị đã hao mòn chứ không phải là giá mua
bán ra trên thị trường. Mặt khác giả thiết về sự hoạt động lâu dài của doanh
nghiệp còn là cơ sở cho các phương pháp tính khấu hao để phân chia giá phí
của các loại tài sản cố định vào chi phí hoạt động của doanh nghiệp theo thời
gian sử dụng của nó.
Sinh viên: Nguyễn Trung Kiên

7

Lớp: CQ49/21.10



Luận văn tốt nghiệp
-

Học viện Tài chính

Các nguyên tắc cơ bản của khoa học kế toán.

Nguyên tắc kế toán là những quy ước, chỉ dẫn, hướng dẫn xuyên suốt
trong quá trình thực hiện các công việc kế toán được nhiều người công nhận
ở một thời điểm. Nó xuất phát từ sự nhất trí rộng rãi của nhiều người am hiểu
về lý thuyết cũng như thực hành kế toán ở một thời điểm nào đó. Như vậy cần
lưu ý rằng các nguyên tắc kế toán này không phải là bất biến mà ngược lại nó
có thể thay đổi hoàn thiện hơn khi môi trường thay đổi, bởi nó là do các nhà
kế toán và các đơn vị kinh doanh đưa ra để đáp ứng nhu cầu của những người
làm quyết định.Hệ thống các nguyên tắc kế toán là lý thuyết có tính khả biến
và tương đối, tạo nền tảng cơ sở cho việc ghi nhận, đo lường các đối tượng kế
toán trong những hoàn cảnh điều kiện cụ thể. Tính chất khả biến của nguyên
tắc kế toán được hiểu là khả năng lựa chọn nguyên tắc kế toán này hoặc
nguyên tắc kế toán khác trong việc xử lí những nghiệp vụ kinh tế tài chính có
cùng bản chất trong hoàn cảnh tương tự. Để lựa chọn một nguyên tắc kế toán
thông thường phải căn cứ vào các tiêu chuẩn như tính hữu dụng, tính khách
quan và tính khả thi. Có thể phân chia khái quát các nguyên tắc kế toán thành
các nhóm như sau( theo Sách nguyên lí kế toán-học viện tài chính):
*Nhóm nguyên tắc kế toán là cơ sở cho việc tính giá các đối tượng kế
toán phát sinh từ các loại giá khác nhau có thể được kế toán lựa chọn để
lượng hóa đối tượng kế toán dưới dạng tiền tệ. tương ứng với giá gốc và giá
thị trường sẽ có 3 nguyên tắc tính giá: nguyên tắc giá gốc, nguyên tắc giá thị
trường và nguyên tắc giá thấp hơn giữa giá gốc và giá thị trường.

Nguyên tắc giá gốc cho phép kế toán ghi nhận các đối tượng theo giá
vốn ban đầu khi hình thành và không cần điều chỉnh theo sự thay đổi của giá
thị trường trong suốt thời gian tồn tại đối tượng kế toán đó ở đơn vị kế toán.
Nguyên tắc giá thị trường cho phép kế toán ghi nhận sự thay đổi giá
của các đối tượng kế toán theo thị trường.
Sinh viên: Nguyễn Trung Kiên

8

Lớp: CQ49/21.10


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

Nguyên tắc giá thấp hơn giữa giá gốc và gí thị trường cho phép kế toán
chọn giá thấp hơn giữa giá gốc và giá thị trường để phản ảnh các đối tượng kế
toán trên báo cáo kế toán.
*Nhóm các nguyên tắc là cơ sở ghi nhận và đo lường thu nhập, chi phí,
kết quả:
Nguyên tắc kế toán tiền cho phép kế toán ghi nhận và đo lường thu
nhập, chi phí khi và chỉ khi đơn vị kế toán thu hoặc chi tiền đối với các giao
dịch liên quan thu nhập và chi phí.
Nguyên tắc kế toán dồn tích cho phép kế toán ghi nhận thu nhập và
chi phí khi chúng phát sinh đủ điều kiện ghi nhận là thu nhập hoặc chi phí mà
không nhất thiết phải gắn với dòng tiền thu hoặc chi.
Nguyên tắc phù hợp yêu cầu thu nhập và chi phí của đơn vị kế toán
phải được ghi nhận một cách tương ứng trong kì kế toán nhằm đảm bảo việc
xác định kết quả của kì kế toán được chính xác và tin cậy.

Nguyên tắc trọng yếu cho phép kế toán bỏ qua những sự kiện có ảnh
hưởng không quan trọng đến kết quả. Trong trừng mực nào đó nguyên tắc này
có sự đối lập với nguyên tắc phù hợp
*Nhóm nguyên tắc kế toán là cơ sở định tính cho thông tin kế toán:
Nguyên tắc khách quan yêu cầu thông tin kế toán phải được thu thập,
xử lí và cung cấp trên cở sở có các bằng chứng để chứng minh các nghiệp vụ
kinh tế tài chính phát sinh và hoàn thành. Điều này đảm bảo cho thông tin kế
toán không bị chi phối bởi khuynh hướng chủ quan của người làm kế toán.
Mặt khác, nguyên tắc khách quan cũng yêu cầu các nghiệp vụ kinh tế tài
chính phải được ghi nhận theo đúng bản chất kinh tế của chúng, và theo đó
bản chất kinh tế của nghiệp vụ được tôn trọng hơn hình thức pháp lý.
Nguyên tắc nhất quán và công khai toàn bộ: nguyên tắc nhất quán
nhằm đảm bảo thông tin kế toán có giá trị so sánh. Tính nhất quán cần được
Sinh viên: Nguyễn Trung Kiên

9

Lớp: CQ49/21.10


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

duy trì trong việc áp dụng các nguyên tắc kế toán, các phương pháp đo lường,
ghi nhận các sự kiện và giao dịch cùng bản chất trong hoàn cảnh tương tự.
Khi cần thiết có sự thay đổi nguyên tắc kế toán, phương pháp kĩ thuật, xử lí
thông tin, đơn vị kế toán phải công khai các thông tin trọng yếu về bản chất
và lý do thay đổi, ảnh hưởng cảu sự thay đổi đến kế quả của kì kế toán hiện
tại, ảnh hưởng lũy kế của sự thay đổi đến kết quả quá khứ(áp dụng hồi tố).

Nguyên tắc thận trọng xuất phát từ yêu cầu về tính tin cậy của thông
tin kế toán. Một hệ thống thông tin kế toán có độ thận trọng cao sẽ đang tin
cậy hơn so với một hệ thống thông tin kế toán không thận trọng. Nguyên tắc
này đặt ra yêu cầu cơ bản đối với việc ghi nhận sự tăng giảm vốn chủ sở hữu
và do đó có ảnh hưởng nhất định đến việc ghi nhận thu nhập và chi phí. Kế
toán sẽ ghi nhận sự tăng lên của vốn chủ khi và chỉ khi có chứng cớ chắc
chắn. Ngược lại, sự giảm đi của vốn chủ sẽ được kế toán ghi nhận ngay khi có
chứng cớ cụ thể.
Các nguyên tắc kế toán mở ra cho kế toán khả năng linh hoạt trong
việc xử lí thông tin. Tuy nhiên, việc lạm dụng các nguyên tắc xử lí thông
tin khác nhau đối với các nghiệp vụ kinh tế tài chính cùng bản chất trong
hoàn cảnh tương tự vì một mục đích nào đó có thể làm cho tính linh hoạt
trở thành tùy tiện thiếu nhất quán và làm vô hiệu hóa tác dụng tích cực của
thông tin kế toán.

- Cơ sở kế toán
Hiện nay,Việt nam cũng như các quốc gia trên toàn thế giới thực hiện
công tác kế toán dựa trên 2 cơ sở: cơ sở tiền và cơ sở dồn tích. Mỗi cơ sở có
một nguyên tắc và quy định ghi sổ riêng.
Cơ sở dồn tích
Sinh viên: Nguyễn Trung Kiên

10

Lớp: CQ49/21.10


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính


Mọi nghiệp vụ kinh tế, tài chính của doanh nghiệp liên quan đến tài
sản, nợ phải trả, nguồn vốn chủ sở hữu, doanh thu, chi phí phải được ghi sổ kế
toán vào thời điểm phát sinh, không căn cứ vào thời điểm thực tế thu hoặc
thực tế chi tiền hoặc tương đương tiền. Báo cáo tài chính lập trên cơ sở dồn
tích phả ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp trong quá khứ, hiện tại và
tương lai.
Theo cơ sở này, các nghiệp vụ kinh tế phát sinh sẽ được kế toán ghi sổ
tại thời điểm phát sinh và hoàn thành giao dịch có chứng từ đảm bảo chứ
không phải thời điểm doanh nghiệp thực thu và chi tiền.
Cơ sở tiền
Mọi nghiệp vụ kinh tế, tài chính của doanh nghiệp liên quan đến
tài sản, nợ phải trả, nguồn vốn chủ sở hữu, doanh thu, chi phí phải được ghi
sổ kế toán vào thời điểm thực thu và thực chi tiền chứ không phải thời điểm
giao dịch phát sinh và hoàn thành.
Theo cơ sở này một giao dịch kinh doanh được xem là hoàn tất
khi thực tế có tiền thu vào và chi ra.
Hiện nay Việt Nam cũng như các quốc gia khác trên toàn thế giới đều
làm kế toán theo cơ sở dồn tích. Cơ sở tiền chỉ được sử dụng cho các nghiệp
vụ kế toán đặc thù của mỗi quốc gia và chính phủ nước đo phải có quy định
cụ thể cho các loại giao dịch kinh doanh ghi sổ kế toán theo cơ sở tiền.
Ở Việt Nam hiện nay, chế độ kế toán ở các kho bạc nhà nước
được thực hiện theo cơ sở tiền và bộ Tài chính Việt Nam đã ban hành những
quy định cụ thể kế toán theo cơ sở tiền tại kho bạc Nhà nước.
-

Khuôn khổ pháp lí về kế toán

Xét từ góc độ kế toán là công cụ quẩn lí kinh tế, trong lịch sử phát triển
kế toán đã từng có hai luận thuyết như sau:


Sinh viên: Nguyễn Trung Kiên

11

Lớp: CQ49/21.10


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

Luận thuyết thứ nhất đặt trọng tâm vào chủ thể quản lí vi mô do đó
nhấn mạnh tính kinh tế cảu kế toán khi nó được sử dụng để phản ánh các đối
tượng quản lí kinh tế tài chính của đơn vị
Luận thuyết thứ hai lại đặt trọng tâm vào chủ thể quản lý vĩ mô do đó
nhấn mạnh tính pháp lý của kế toán khi nó được Nhà nước thể chế hóa.
Trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn, việc chỉ theo đuổi một
trong hai luận thuyết trên đều dẫn đến những sai lầm. Khung hướng thứ hai
tồn sung pháp lý một mặt làm mờ nhạt đi ranh giới giữa hệ thống lý luận kế
toán với các quy định pháp luật về kế toán, mặt khác làm mất tính chủ động
của đơn vị kế toán trong việc thiết lập một hệ thống kế toán linh hoạt có khả
năng thích ứng với đặc điểm và điều kiện cụ thể của đơn vị trong từng giai
đoạn phát triển. Việc thể chế hóa kế toán một cách thái quá sẽ dẫn đến sự can
thiệp sâu của Nhà nước và Chính phủ vào hoạt động quản lí kinh tế của các
đơn vị, kế toán sẽ không thực hiện đúng, đầy đủ vai trò “ ngôn ngữ kinh
doanh” của nó thậm chí còn có thể gây ra hiệu ứng ngược. Tuy nhiên nếu chỉ
theo luận thuyết đầu tiên, khuynh hướng thoát ly khỏi sự dàng buộc về pháp
lý có thể làm cho kế toán rơi vào tình trạng lệ thuộc vào mục đích của chủ thể
quản lí vi mô, sự tự chủ thái quá của các đơn vị kế toán có thể dẫn đến tình

trạng tùy tiện, thiếu nhất quán và khả năng so sánh, kế toán sẽ nằm ngoài khả
năng kiểm soát của Nhà nước và Chính phủ và không còn tác dụng đối với
quản lý vĩ mô. Do đó kế toán phải gồm hai bộ phận quan hệ mật thiết với
nhau: bộ phận mang tính pháp lí và bộ phận mang tính kinh tế.
Hệ thống pháp lí là tập hợp các quy định pháp luật nhằm điều chỉnh
thực tiễn kế toán ở các đơn vị. Phạm vi thiết lập hệ thống pháp lí kế toán
thông thường là ở từng quốc gia với các bộ phận cấu thành theo hiệu ực pháp
lí giảm dần gồm Luật kế toán, Chuẩn mực kế toán, các chế độ kế toán. Theo
xu thế hội nhập , các thông lệ và chuẩn mực kế toán còn được mở rộng trên
phạm vi quốc tế. Việc thiết lập hệ thống pháp lí kế toán là xu thế tất yếu của

Sinh viên: Nguyễn Trung Kiên

12

Lớp: CQ49/21.10


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

các quốc gia trên thế giới nhằm mục đích hạn chế tính chủ quan và phát huy
vai trò tích cực của kế toán trong quản lí kinh tế.
Để tổ chức quẩn lí kế toán, các quốc gia đều có các văn bản quy định
và hình thành nên hệ thống pháp lí kế toán của quốc gia mình.Các quốc gia
khác nhau cũng có những quy định khác nhau nhất định về hệ thống pháp lí
kế toán. Nhưng nhìn chung hệ thống pháp lí kế toán của các quốc gia thường
bao gồm ba bộ phận sau: Luật kế toán, Chuẩn mực kế toán và Chế độ kế toán.
Luật kế toán là văn bản có tính pháp quy cao nhất do Quốc hội hoặc cơ

quan tương đương như Quốc vụ khanh, hoặc Thượng viện ban hành. Luật kế
toán quy định những vấn đề chung có tính nguyên tắc làm nền tảng cho các
quy định cụ thể ở Chuẩn mực kế toán và Chế độ kế toán của quốc gia. Chuẩn
mực kế toán là những quy tắc cơ bản và các quy định có tính mực thước về
phương pháp hạch toán, đánh giá, thuyết minh và trình bày thông tin, số liệu
kế toán được áp dụng để hạch toán và lập các báo cáo tài chính đảm bảo hoàn
toàn trung thực và khách quan về tình trạng hoạt động tài chính của đơn vị.
Hay nói cách khác, Chuẩn mực kế toán quy định và hướng dẫn những nội
dung, nguyên tắc, phương pháp và thủ tục kế toán cơ bản, chung nhất để làm
cơ sở ghi chép kế toán và lập báo cáo tài chính. Chế độ kế toán được quy định
và hướng dẫn những nội dung, phương pháp kế toán cụ thể mang tính chất
đặc thù trong một số lĩnh vực hoặc ngành nghề kinh doanh và loại hình đơn vị
kế toán cụ thể. Ở Việt Nam hệ thống pháp lí kế toán cũng bao gồm ba bộ
phận như trên.
-

Mối quan hệ giữa kế toán tài chính và kế toán quản trị

Kế toán tài chính là kế toán phản ánh hiện trạng và sự biến động về
vốn, tài sản của doanh nghiệp dưới dạng tổng quát hay nói cách khác là phản
ánh các dòng vật chất và dòng tiền tệ trong mối quan hệ giữa doanh nghiệp
với môi trường kinh tế bên ngoài. Sản phẩm của kế toán tài chính là các báo
cáo tài chính. Thông tin của kế toán tài chính ngoài việc được sử dụng cho
Sinh viên: Nguyễn Trung Kiên

13

Lớp: CQ49/21.10



Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

ban lãnh đạo doanh nghiệp còn được sử dụng để cung cấp cho các đối tượng
bên ngoài như: Các nhà đầu tư, ngân hàng, cơ quan thuế, cơ quan tài chính,
cơ quan thống kê.
Kế toán quản trị đưa ra tất cả các thông tin kinh tế đã được đo lường xử
lý và cung cấp cho ban lãnh đạo doanh nghiệp để điều hành hoạt động sản
xuất kinh doanh, hay nói cách khác kế toán quản trị giúp ban lãnh đạo doanh
nghiệp cân nhắc và quyết định lựa chọn một trong những phương án có hiệu
quả kinh tế cao nhất: phải sản xuất những sản phẩm nào, sản xuất bằng cách
nào, bán các sản phẩm đó bằng cách nào, theo giá nào, làm thế nào để sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực và phát triển khả năng sản xuất.
Sự giống nhau
* Cả hai loại kế toán đều có mối quan hệ chặt chẽ với thông tin kế
toán, đều nhằm vào việc phản ánh kết quả hoạt động của doanh nghiệp, đều
quan tâm đến doanh thu, chi phí và sự vận động của tài sản, tiền vốn.
* Cả hai loại kế toán đều có mối quan hệ chặt chẽ về số liệu thông tin. Các
số liệu của kế toán tài chính và kế toán quản trị đều được xuất phát từ
chứng từ gốc. Một bên phản ánh thông tin tổng quát, một bên phản ánh
thông tin chi tiết.

Sinh viên: Nguyễn Trung Kiên

14

Lớp: CQ49/21.10



Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

* Cả hai loại kế toán đều có mối quan hệ trách nhiệm của Nhà quản lý.
Sự khác nhau
* Mục đích:
- Kế toán quản trị có mục đích: Cung cấp thông tin phục vụ điều hành
hoạt động sản xuất kinh doanh. Kế toán tài chính: Cung cấp thông tin phục vụ
cho việc lập các báo cáo tài chính.
* Đối tượng phục vụ:
- Đối tượng sử dụng thông tin về kế toán quản trị là: Các nhà quản lý
doanh nghiệp (Hội đồng quản trị, ban giám đốc) Trong khi, đối tượng sử dụng
thông tin về kế toán tài chính là: Các nhà quản lý doanh nghiệp và các đối
tượng bên ngoài doanh nghiệp (Nhà đầu tư, ngân hàng, cơ quan thuế, cơ quan
tài chính, cơ quan thống kê)
* Đặc điểm của thông tin:
- Kế toán quản trị nhấn mạnh đến sự thích hợp và tính linh hoạt của số
liệu, thông tin được tổng hợp phân tích theo nhiều góc độ khác nhau. Thông
tin ít chú trọng đến sự chính xác mà mang tính chất phản ánh xu hướng biến
động, có tính dự báo vì vậy thông tin kế toán quản trị phục vụ cho việc đánh
giá và xây dựng các kế hoạch kinh doanh, thông tin được theo dõi dưới hình
thái giá trị và hình thái hiện vật. Còn kế toán tài chính phản ánh thông tin xảy
ra trong quá khứ đòi hỏi có tính khách quan và có thể kiểm tra được. Thông
tin chỉ được theo dõi dưới hình thái giá trị.
*Nguyên tắc cung cấp thông tin:
- Kế toán quản trị không có tính bắt buộc, các nhà quản lý được toàn
quyền quyết định và điều chỉnh phù hợp với nhu cầu và khả năng quản lý của
doanh nghiệp. Kế toán tài chính phải tôn trọng các nguyên tắc kế toán được
thừa nhận và được sử dụng phổ biến, nói cách khác kế toán tài chính phải

đảm bảo tính thống nhất theo các nguyên tắc và chuẩn mực kế toán nhất định
Sinh viên: Nguyễn Trung Kiên

15

Lớp: CQ49/21.10


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

để mọi người có cách hiểu giống nhau về thông tin kế toán đặc biệt là báo cáo
tài chính và kế toán tài chính phải tuân thủ các quy định của pháp luật hiện
hành, đặc biệt là những yêu cầu quản lý tài chính và các yêu cầu của xã hội
thông qua việc công bố những số liệu mang tính bắt buộc.
* Phạm vi của thông tin:
- Phạm vi thông tin của kế toán quản trị liên quan đến việc quản lý trên
từng bộ phận (phân xưởng, phòng ban) cho đến từng cá nhân có liên quan.
Phạm vi thông tin của kế toán tài chính liên quan đến việc quản lý tài chính
trên quy mô toàn doanh nghiệp.
* Kỳ báo cáo:
- Kế toán quản trị có kỳ lập báo cáo nhiều hơn: Quý, năm, tháng, tuần,
ngày. Kế toán tài chính có kỳ lập báo cáo là: Quý, năm
* Quan hệ với các môn khoa học khác:
Kế toán tài chính ít có mối quan hệ với các môn khoa học khác. Do kế
toán quản trị được cung cấp để phục vụ cho chức năng quản lý, nên ngoài
việc dựa vào hệ thống ghi chép ban đầu của kế toán tài chính thì kế toán quản
trị còn phải kết hợp và sử dụng nội dung của nhiều môn khoa học khác như:
Kinh tế học, thống kê kinh tế, tổ chức quản lý doanh nghiệp, quản trị đầu tư

để tổng hợp phân tích và xử lý thông tin.
* Tính bắt buộc theo luật định:
- Kế toán quản trị không có tính bắt buộc. Kế toán tài chính có tính bắt
buộc theo luật định. Kế toán tài chính có tính bắt buộc theo luật định có nghĩa
là sổ sách báo cáo của kế toán tài chính ở mọi doanh nghiệp đều phải bắt buộc
thống nhất, nếu không đúng hoặc không hạch toán đúng chế độ thì báo cáo đó
sẽ không được chấp nhận (tham khảo thêm về luật kế toán vừa ban hành).

Sinh viên: Nguyễn Trung Kiên

16

Lớp: CQ49/21.10


Luận văn tốt nghiệp
-

Học viện Tài chính

Chính sách kế toán

Bất kể một Doanh nghiệp nào cũng đều phải áp dụng các chính sách kế
toán trong quá trình hoạt động để đạt được mục tiêu chung của tổ chức. Bởi vì,
chính sách kế toán là các chủ trương và các hành động trên phương diện kế toán
Theo chuẩn mực kế toán số 8, chính sách kế toán bao gồm các quy
định, hướng dẫn, quy ước, nguyên tắc và các định mức được Doanh nghiệp áp
dụng trong việc lập và trình bày báo cáo tài chính .. Ví dụ như tại các doanh
nghiệp có các chính sách về: Hình thức kế toán áp dụng (Nhật ký chung,
chứng từ ghi số, nhật ký -chứng từ…), Chế độ kế toán áp dụng, Niên độ kế

toán, Lưu trữ tài liệu, Phần mềm kế toán, các nguyên tắc kế toán cơ bản cho
các nghiệp vụ kinh tế phát sinh… Việc áp dụng các chính sách kế toán như
thế nào phụ thuộc vào quy mô, đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh và
trình độ quản lý của doanh nghiệp, đơn vị kinh tế…Chính sách kế toán giới
thiệu về tình hình ứng dụng các nguyên tắc kế toán cơ bản cho từng loại
nghiệp vụ kinh tế đặc thù phát sinh trong doanh nghiệp. Khi báo cáo cho cổ
đông, mỗi doanh nghiệp cần áp dụng những chính sách kế toán thích hợp
với tình hình kinh doanh của doanh nghiệp nhằm đảm bảo báo cáo tài chính
của doanh nghiệp tuân thủ các nguyên tắc kế toán cơ bản đồng thời đảm bảo
báo cáo được trình bày một cách trung thực và khách quan.
1.2.2

Phân loại, nhận diện nguyên vật liệu
Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cần rất nhiều loại vật liệu với

công dụng tính chất đặc điểm khác biệt. Vì thế khi tiến hành tổ chức hạch
toán quản trị nguyên vật liệu doanh nghiệp cần phải tiến hành phân loại
nguyên vật liệu. Tuy nhiên do loại hình và phương thức tổ chức kinh doanh là
khác nhau nên tiêu thức phân chia nguyên vật liệu cũng khác nhau
Tùy theo tiêu thức phân loại nhất định mà nguyên vật liệu được phân
chia như sau:
Sinh viên: Nguyễn Trung Kiên

17

Lớp: CQ49/21.10


Luận văn tốt nghiệp


Học viện Tài chính

• Căn cứ và nguồn hình thành: Nguyên vật liệu chia thành
- Nguyên vật liệu nhập từ bên ngoài: do mua ngoài, nhận góp vốn
kinh doanh hoặc biếu tặng
- Nguyên vật liệu tự chế: do doanh nghiệp tự sản xuất .
• Căn cứ vào mục đích công dụng của nguyên vật liệu có thể chia
nguyên vật liệu thành:
- Nguyên vật liệu cho sản xuất kinh doanh gồm:
 Nguyên vật liệu dùng cho sản xuất chế tạo sản phẩm
 Nguyên vật liệu dùng cho quản lý ở các xưởng các bộ phận
liên quan như bán hàng quản lý doanh nghiệp
- Nguyên vật liệu dùng cho nhu cầu khác
 Nhượng bán
 Góp vốn liên doanh
 Đem quyên tặng
• Căn cứ nội dung kinh tế nguyên vật liệu chia thành các loại sau:
- Nguyên vật liệu chính là đối tượng lao động cấu thành chính nên
thực thể của sản phẩm được sản xuất ra như sắt thép gạch xi
măng… ở các doanh nghiệp xây dựng. Nửa thành phẩm mua ngoài
với đối tượng được sử dụng trực tiếp cho quá trình sản xuất
- Vật liêu phụ: là những vật liệu khi dùng chỉ có tác dung làm tăng
chất lượng sản phẩm, hoàn thiện hoặc đảm bảo cho các công cụ hoạt
động bình thường như vôi, ve …
- Nhiên liệu : Là những loại vật liệu có tác dụng cung cấp nhiệt lượng
cho quá trình sản xuất như xăng dầu.. phục vụ cho máy móc thiết bị
thi công
- Phụ tùng thay thế: là những vật tư, phụ tùng chi tiết được dùng để
thay thế sửa chữa máy móc thiết bị phương tiện vật tải
- Vật liệu khác: Là những loại vật liệu chưa được xếp hạng vào các

loại trên hay được loại ra từ quá trình sản xuất như sắt thép gỗ vụn
phế liệu thu hồi

Sinh viên: Nguyễn Trung Kiên

18

Lớp: CQ49/21.10


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

Ngoài các phân loại như trên để phục vụ cho nhu cầu quản lý được
chính xác khoa học đặc biệt với sự hỗ trợ của tin học phát triển kế toán cần
lập danh điểm vật liệu
Danh điểm vật tư là quy định cho mỗi thứ vật liệu một ký hiệu riêng
bằng hệ thống các chữ số kết hợp chữ cái thay thế cho tên gọi, quy cách, kích
cỡ của chúng. Tùy theo từng doanh nghiệp, hệ thống danh điểm vật tư có thể
được xây dựng theo nhiều cách khác nhau nhưng phải đảm bảo đơn giản hiệu
quả không trùng lặp. Các doanh nghiệp thường dùng ký hiệu tài khoản cấp 1,
cấp 2 để ký hiệu loại nhóm vật liệu kết hợp với chữ cái tên vật tư để ký hiệu
tên vật tư.
Danh điểm vật tư được sử dụng thống nhất giữa các bộ phận quản lý
liên quan trong doanh nghiệp nhằm thống nhất trong công tác quản lý từng
vật tư.
1.2.3. Tổ chức đánh giá, xác định giá trị nguyên vật liệu trong doanh nghiệp.
1.2.3.1.Nguyên tắc đánh giá nguyên vật liệu
Đánh giá nguyên vật liệu là việc xác định giá trị của vật liệu ở những

thời điểm nhất định và theo những nguyên tắc nhất định.
- Nguyên tắc giá gốc: Theo chuẩn mực 02 - Hàng tồn kho vật liêu
phải được đánh giá theo giá gốc. Giá gốc hay được gọi là trị giá vốn thực tế
của vật liệu là toàn bộ các chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra để có được
những vật liệu đó ở địa điểm và trạng thái hiện tại.
- Nguyên tắc thận trọng: Vật liệu được đánh giá theo giá gốc, nhưng
trường hợp giá trị thuần có thể thực hiện được thấp hơn giá gốc thì tính theo
giá trị thuần có thể được thực hiện. Giá trị thuần có thể thực hiện được là giá
bán ước tính của hàng tồn kho trong kỳ sản xuất, kinh doanh trừ đi chi phí
ước tính để hoàn thành sản phẩm và chi phí ước tính cần thiết cho việc tiêu
thụ chúng.
Sinh viên: Nguyễn Trung Kiên

19

Lớp: CQ49/21.10


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

- Nguyên tắc nhất quán: Các phương pháp kế toán áp dụng trong đánh
giá vật liệu phải đảm bảo tính nhất quán. Tức là kế toán đã chọn phương pháp
nào thì phải áp dụng phương pháp đó nhất quán trong suốt niên độ kế toán.
Doanh nghiệp có thể thay đổi phương pháp đã chọn, nhưng phải đảm bảo
phương pháp thay thế cho phép trình bày thông tin kế toán một cách trung thực
và hơp lý hơn, đồng thời phải giải thích được ảnh hưởng của sự thay đổi đó.
1.2.3.2 Các phương pháp đánh giá nguyên vật liệu
Sự hình thành trị giá vốn thực tế của nguyên vật liệu được phân biệt ở

các thời điểm khác nhau trong quá trình sản xuất kinh doanh:
a/Ở thời điểm nhập kho : Trị giá vốn thực tế của nguyên vật liệu nhập kho
được xác định theo từng nguồn nhập:
- Nhập kho do mua ngoài: Trị giá vốn thực tế nguyên vật liệu nhập kho
bao gồm giá mua, các loại thuế không được hoàn lại, chi phí vận chuyển, bốc
xếp, bảo quản trong quá trình mua và các chi phí khác có liên quan trực tiếp
đến việc mua nguyên vật liệu trừ đi các khoản chiết khấu thương mại và giảm
giá hàng mua do không đúng quy cách, phẩm chất
- Trường hợp nguyên vật liệu mua vào được sử dụng cho đối tượng
chịu thuế GTGT tính theo phương pháp khấu trừ thì giá mua là giá chưa có
thuế GTGT.
- Trường hợp nguyên vật liệu mua vào được sử dụng cho đối tượng
không chịu thuế GTGT tính theo phương pháp khấu trừ, hoặc sử dụng cho các
đối tượng không thuộc diện chịu thuế GTGT (VD: Cho mục đích phúc lợi,
cho các dự án, …) thì giá mua bao gồm cả thuế GTGT (tổng giá thanh toán).
-Nhập do tự sản xuất: Trị giá vốn thực tế của nguyên vật liệu nhập kho
là giá thành sản xuất nguyên vật liệu.
-Nhập do thuê ngoài gia công chế biến: Trị giá vốn thực tế nhập kho
của nguyên vật liệu là trị giá vốn thực tế của nguyên vật liệu xuất kho thuê
Sinh viên: Nguyễn Trung Kiên

20

Lớp: CQ49/21.10


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính


ngoài gia công chế biến cộng (+) số tiền phải trả cho người nhận gia công chế
biến cộng (+) các chi phí vận chuyển bốc dỡ khi giao nhận.
- Nhập vật tư do nhận vốn góp liên doanh: Trị giá vốn thực tế của
nguyên vật liệu nhập kho là giá do hội đồng liên doanh thỏa thuận cộng (+)
các chi phí khác khi tiếp nhận nguyên vật liệu.
- Nhập do được cấp: Trị giá vốn thực tế của nguyên vật liệu nhập kho
là giá ghi trên bản giao nhận cộng (+) các chi phí phát sinh khi nhận.
- Nhập do được biếu, tặng, tài trợ: Trị giá vốn thực tế của nguyên vật
liệu nhập kho là giá trị hợp lý cộng (+) các chi phí khác phát sinh.
b/Ở thời điểm xuất kho:
Nguyên vật liệu được nhập kho từ nhiều nguồn khác nhau, ở nhiều thời
điểm khác nhau nên có nhiều giá khác nhau. Do đó, khi xuất kho nguyên vật
liệu tùy thuộc vào đặc điểm hoạt động, yêu cầu, trình tự quản lý và điều kiện
trang bị phương tiện kỹ thuật tính toán ở từng doanh nghiệp mà lựa chọn một
trong các phương pháp sau đây để tính trị giá vốn thực tế xuất kho của
nguyên vật liệu:
* Phương pháp tính theo giá đích danh: Theo phương pháp này, khi
xuất kho nguyên vật liệu thì căn cứ vào số lượng xuất kho thuộc lô nào và
đơn giá thực tế của lô ấy để tính trị giá vốn thực tế của nguyên vật liệu xuất
kho. Phương pháp này được áp dụng cho những doanh nghiệp có chủng loại
vật tư ít và nhận diện được từng lô hàng.
* Phương pháp bình quân gia quyền: Theo phương pháp này, trị giá
vốn thực tế của nguyên vật liệu xuất kho được tính căn cứ vào số lượng
nguyên vật liệu xuất kho và đơn giá bình quân gia quyền, tính theo công thức:
Trị giá vốn thực tế
nguyên vật liệu

=

Số lượng


Xuất kho

Sinh viên: Nguyễn Trung Kiên

21

x

Đơn giá bình quân
gia quyền

Lớp: CQ49/21.10


Luận văn tốt nghiệp
Trị giá thực tế nguyên vật liệu

Đơn giá
bình quân

Học viện Tài chính

=

Tồn đầu kỳ
Số lượng nguyên vật liệu tồn

gia quyền


đầu kỳ

+
+

Trị giá vốn thực tế nguyên vật
liệu nhập trong kỳ
Số lượng nguyên vật liệu nhập
trong kỳ

Đơn giá bình quân gia quyền đựơc tính cho từng thứ nguyên vật liệu.
Nếu đơn giá bình quân gia quyền xác định cho cả kỳ đựơc gọi là đơn giá bình
quân cả kỳ hay đơn giá bình quân cố định. Theo cách tính này, khối lượng
tính toán có giảm nhưng chỉ tính được trị giá vốn thực tế của nguyên vật liệu
vào thời điểm cuối kỳ nên không thể cung cấp thông tin kịp thời.
Đơn giá bình quân cũng có thể được xác định sau mỗi lần xuất được gọi
là đơn giá bình quân liên hoàn hay đơn giá bình quân di động. Cách tính này xác
định trị giá vốn thực tế của nguyên vật liệu xuất kho hàng ngày, nên có thể cung
cấp thông tin một cách kịp thời. Tuy nhiên khối lượng công việc tính toán nhiều
cho nên nó chỉ thích hợp với những doanh nghiệp đã kế toán máy.
- Phương pháp nhập trước xuất trước: Phương pháp này dựa trên giả
định hàng nào nhập trước sẽ được xuất trước và lấy đơn giá xuất bằng đơn giá
nhập. Trị giá của nguyên vật liệu tồn kho cuối kỳ được tính theo đơn giá của
những lần nhập sau cùng.
- Phương pháp nhập sau xuất trước: Phương pháp này dựa trên giả
định hàng nào nhập sau được xuất trước, lấy đơn giá xuất bằng đơn giá nhập.
Trị giá nguyên vật liệu tồn kho cuối kỳ được tính theo đơn giá của những lần
nhập đầu tiên.
- Phương pháp tính theo giá hạch toán: Giá hạch toán của nguyên vật
liệu là giá do doanh nghiệp tự quy định(có thể lấy giá kế hoạch hoặc giá tại

một thời điểm mua nào đó) và được sử dụng thống nhất ở doanh nghiệp trong
một thời gian dài. Hàng ngày sử dụng giá hạch toán để ghi sổ chi tiết giá trị
nguyên vật liệu nhập kho, xuất kho. Cuối kỳ, kế toán tính ra trị giá vốn của
nguyên vật liệu xuất kho theo hệ số giá:

Sinh viên: Nguyễn Trung Kiên

22

Lớp: CQ49/21.10


×