Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

tiểu luận cao học lý luận của lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội quá trình nhận thức và vận dụng lý luận này trong việc lựa chọn con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội của đảng ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.75 KB, 25 trang )

A.

PHẦN MỞ ĐẦU

Trong văn kiện Đảng X đã đưa ra: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng,
Nhà nước và nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao,
dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt
Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước
trên thế giới”.
Vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tổng kết thực tiễn
quá trình cách mạng Việt Nam, nhất là trong hai mươi năm đổi mới, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã hình thành một quan niệm tổng quát về xã hội xã hội
chủ nghĩa.
Có thể xem đây là mô hình chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Những đặc
trưng trong mô hình vừa phản ánh tính phổ biến theo tinh thần học thuyết
Mác-Lênin về xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa thể hiện tính đặc thù của dân
tộc, có tính đến các đặc điểm của thời đại. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề
cần được tiếp tục nghiên cứu sâu và cụ thể hoá.
Đó là lý do mà em chọn đề tài: “Lý luận của Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Quá trình nhận thức và vận dụng lý luận này trong việc lựa chọn con
đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta.” làm đề tài nghiên cứu.

1



B.

PHẦN NỘI DUNG

Chương 1: QUAN ĐIỂM CỦA V.I.LÊNIN VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
VÀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ ĐI LÊN
1. Những phát triển mới của Lênin về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ.
1.1. lý luận về khả năng thắng lợi của cách mạng vô sản trước tiên ở một số
nước, thậm chí ở một nước TBCN riêng lẻ.
Trong điều kiện CNTB trước độc quyền, Mác và Ph. Angghen rút ra kết luận:
cách mạng vô sản ko thể ko xảy ra trong tất cả các nước văn minh, ít
nhất cũng phải cùng xảy ra ở Anh, Pháp, Đức. Luận cứ cho các kết luận
đó của các ông là: đại công nghiệp, do đã tạo nên thị trường thế giới
nên đã nối liền các dân tộc trên trái đất lại với nhau, tất cả là các dân
tộc văn minh, khiến cho cách mạn gở mỗi dân tộc đều có quan hệ phụ
thuộc vào tình hình cách mạng xảy ra ở mỗi dân tộc khác. Sau nữa, đại
công nghiệp đã san bằng sự phát triển XH ở tất cả các nước văn minh,
vì vậy, cuộc cách mạng vô sản không những có tính chất dân tộc mà
còn có tính chất quốc tế và sẽ đồng thời xảy ra ở các nước văn minh.
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn phát triển của CNTB trong giai đoạn mới
là cực kì ko đều. Quy luật phát triển không đềuvề kinh tế và chính trị
của các nước trong thời kỳ đế quốc chủ nghĩa đã làm cho cách mạng vô
sản phát triển ko đều, tạo ra những khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền
TBCN khiến cho giai cấp vô sản ở những nước đó có thề chọc thủng
mặt trận TBCN thế giới.
1.2. Lý luận về thời đại mới và khả năng quá độ đi lên CNXH trên
phạm vi toàn thế giới.
Những dự báo của Mác và Angghen về sự quá độ từ CNTB lên CN cộng
sản là xuất phát từ điều kiện CNTB đang ờ thời kỳ tự do cạnh tranh, sự phát
2



triển của CNTB tương đối ổn định. Theo VLenin, việc xã hội hóa lao động
ngày càng tăng nhanh dưới nhiều hình thức đã biểu hiện rõ rang ở sự phát
triển của đại công nghiệp và cả ở sự phát triển ghê gớm của quy mô và thế lực
TB tài chính đã làm cho những mâu thuẫn của CNTB trở nên hết sức gay gắt.
CN đế quốc đã tạo nên những tiền đề vật chất làm cơ sở hiện thực cho sự thay
thế CNTB bằng CNXH trên phạm vi toàn thế giới. Những tiền đề ấy chứng tỏ
“ CNXH đến gần, đã dễ thực hiện, đã có khả năng thực hiện, đã cần kíp rồi”.
Với sự bắt đầu của thời đại mới, mọi quốc gia dù phát triển hay kém phát
triển về kinh tế đều có khả năng khách quan để vượt qua thời đại TBCN và
bước vào thời đại XHCN.
Có thể làm cuộc cách mạng XHCN với các đều kiện sau:
Sự thống trị của giai cấp vô sản trong nước.- sự ủng hộ kịp thời của cách
mạng XHCN ở 1 nước hay một số nước tiên tiến.
Sự liên minh giữa giai cấp vô sản đang nắm chính quyền với đại đa số
nông dân. Trong đều kiện chưa có sự giúp đỡ kịp thời của cách mạng vô sản
thế giới thì sự liên minh giữ công dân và nông dân càng có ý nghĩa quan trọng
sống còn.
1.3. Lý luận về tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội:
Theo Lenin sự cần thiết khách quan phải có thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội là do đặc điểm ra đời, phát triển phương thức sản xuất cộng sản chủ
nghĩa và cách mạng vô sản quy định.
Quan hệ SX phong kiến và quan hệt SX TBCN đều dựa trên chế độ tư
hữu về tư liệu SX. Do vậy, quan hệ sản xuất TBCN có thể ra đờ từ trong lòng
XH phong kiến.Sự phát triển của phương thức SX TBCN đến một trình độ
nhất định sẽ làm sâu sắc thêm mâu thuẫn của XH phong kiến, cách mạng TS
sẽ bùng nổ.
Cách mạng vô sản co điểm khác biệt với cách mạng tư sản. Do quan hệ

SX TBCN dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu SX, còn quan hệ SX XHCN dựa
3


trên chế độ công hữu về tư liệu SX, nên chủ nghỉa XH không thể ra đời trong
lòng từ XH TB. Phương thức SX cộng sản chủ nghĩa chỉ ra đời sau khi cách
mạng vô sản thành công.
Sự phát triển của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa là một thời
kỳ lâu dài, không thể ngay 1 lúc có thể hoàn thành dc. Để phát triền lực lượng
sản xuất , tăng năng xuất lao động, xây dựng chế độ công hữu XHCN về tư
liệu SX , xây dựng kiểu XH mới, cần phải có thời gian.Nói cách khác, tất yếu
phải có thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.Thời kỳ quá độ đi lên CNXH là
thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để , toàn diện , từ xã hội cũ sang xã
hội mới và kết thúc khi xây dựng thành công các cơ sở của XH – XHCN về
vật chất – kỹ thuật, kinh tế, văn hóa, tư tưởng. Luận điểm về việc giành lấy
chính quyền làm điều kiện tiên chiến để xây dựng tiền đề kinh tế cho CNXH.
Luận điểm về thời kỳ quá độ với một loạt những bước quá độ: không thể
quá độ trực tiếp lên CNXH mà phải qua con đường gián tiếp chứ ko thề “quá
vội vàng, thẳng tuột, ko thể chuẩn bị”+ những bước quá độ ấy theo Lênin là
CNTB nhà nước và chủ nghĩa XH. Bước quá độ từ CNTB nhà nước được thể
hiện trong “chính sách kinh tế mới” mà việc trao đổi hàng hóa được coi là
“đòn xeo chủ yếu”. - luận điểm về quá độ tiến thẳng lên chủ nghĩa XH bỏ qua
giai đoạn phát triển của TBCN. Có 2 loại tiến thẳng lên CNXH: quá độ từ
CNTB lên CNXH: phản ánh quy luật phát triền tuần tự của XH loài người.
Quá độ từ các hình thái kinh tế - xã hội trc CNTB lên CNXH: phản ánh quy
luật phát triển nhảy vọt của XH loài người.
2. Quan điểm của Chủ Nghĩa Mác Lê Nin về thời quá độ lên CNXH
Sau khi đập tan mưu toan của các nước đế quốc và các lực lượng phản
cách mạng trong nước nhằm tiêu diệt chính quyền Xô-viết, Lê-nin tuyên bố:
Trọng tâm toàn bộ hoạt động của Đảng và Nhà nước Xô-viết chuyển sang

việc tổ chức công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thế nhưng, những năm
chiến tranh đã làm cho nền kinh tế của nước Nga Xô-viết rơi vào tình trạng vô
cùng suy sụp và kiệt quệ. Lợi dụng những khó khăn trong nước và sự bất mãn
4


của nhân dân lúc bấy giờ, những phần tử phản cách mạng theo phái dân chủ
lập hiến, "xã hội chủ nghĩa cách mạng", men-sê-vích, dân tộc chủ nghĩa tư
sản, chủ nghĩa vô chính phủ đã điên cuồng chống phá chính quyền cách
mạng. Thực tế trên cộng với sự dao động của một bộ phận đảng viên càng
làm cho tình hình chính trị trong nước những năm đầu tiên sau thắng lợi của
Cách mạng tháng Mười trở nên khó khăn và nghiêm trọng hơn.
Trong hoàn cảnh đầy cam go như vậy, ở bước chuyển giai đoạn của cách
mạng, Lê-nin đã đề xuất những quan điểm, đặc biệt là những quan điểm kinh
tế hết sức sáng tạo, độc đáo, đúng đắn, khoa học và cách mạng. Những quan
điểm kinh tế của Người không chỉ là những giải pháp cụ thể cho một tình
hình cụ thể, mà còn chứa đựng những chân lý, những nguyên lý, nguyên tắc
của quản lý kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và của việc quản
lý nền kinh tế xã hội chủ nghĩa nói chung.
Quan điểm chỉ đạo của Lê-nin về việc xây dựng và phát triển chính sách
kinh tế trong thời kỳ quá độ được khởi đầu từ việc Người soạn thảo bản Cương
lĩnh về những biện pháp quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ trước khi nổ ra Cách
mạng tháng Mười. Những biện pháp này đã được triển khai vào cuộc sống trong
khoảng thời gian từ tháng 10-1917 đến tháng 5 - 1918. Trong các tác phẩm viết
vào thời gian này, Lê-nin đã đưa ra hàng loạt các luận điểm cốt lõi làm cơ sở lý
luận cho việc chấn hưng và phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội. Chính sách kinh tế này sau đó được tiếp tục phát triển và hoàn thiện dần
qua nhiều tác phẩm mà Người viết vào những năm 1921-1923.
Theo quan điểm của Lê-nin, chính sách kinh tế của đảng không phải là
chính sách chỉ dành riêng cho một thành phần kinh tế nào đó. Chính sách kinh

tế của đảng càng không phải chỉ là tổng số giản đơn các hoạt động kinh tế.
Với tư cách là một bộ phận cấu thành quan trọng trong đường lối chung của
đảng, chính sách kinh tế phản ánh những mối quan hệ về mặt kinh tế giữa các
giai cấp, và trong phạm vi những mối quan hệ ấy, chính sách kinh tế đóng vai

5


trò là "kế hoạch", "phương pháp" hay "chế độ hoạt động" phục vụ công cuộc
xây dựng và phát triển kinh tế đất nước.
Phân tích tính chất quá độ của nền kinh tế, Lê-nin đã chỉ rõ 5 thành phần
kinh tế tồn tại ở Nga khi đó: Kinh tế nông dân kiểu gia trưởng, nghĩa là một
phần lớn có tính chất tự nhiên; sản xuất hàng hoá nhỏ (trong đó bao gồm đại
đa số nông dân bán lúa mì); chủ nghĩa tư bản tư nhân; chủ nghĩa tư bản nhà
nước; chủ nghĩa xã hội. Trong nền kinh tế nhiều thành phần này, thành phần
những người tiểu nông sản xuất nhỏ (mà chủ yếu là nông dân) chiếm phần
đông dân cư. Với đặc điểm đó, cách mạng xã hội chủ nghĩa chỉ có thể giành
thắng lợi trong điều kiện liên minh chặt chẽ giữa giai cấp vô sản nắm chính
quyền với đa số nông dân. Vấn đề này không những được khẳng định như
một giá trị phổ biến trong chính sách kinh tế của đảng ở thời kỳ quá độ, như
một nguyên tắc bắt buộc đối với tất cả các nước tiểu nông bước vào con
đường phát triển theo hướng xã hội chủ nghĩa, mà còn là một đòi hỏi đối với
những đảng cộng sản cầm quyền phải biết phân tích kỹ lưỡng những đặc điểm
của nước mình trong khi triển khai chính sách kinh tế.
Bước ngoặt mang tính sáng tạo đầu tiên có ý nghĩa quyết định trong quan
điểm kinh tế của Lê-nin chính là quyết định thực hiện thuế lương thực thay cho
chế độ trưng thu lương thực thừa ngay từ những ngày đầu tháng 2-1921. Bước
ngoặt này đồng thời là sự mở đầu cho việc chấm dứt "Chính sách cộng sản thời
chiến"- một chính sách buộc phải thực hiện như một giải pháp tình thế trong
những năm chiến tranh- và ra đời của chính sách kinh tế mới (NEP).

Việc thực hiện thuế lương thực đã đóng vai trò quan trọng trong việc làm
cho nền kinh tế nông dân đi vào ổn định và khởi sắc. Ngoài ra, nó không
những tạo khả năng thực tế bảo đảm sự hình thành các mối liên kết kinh tế
giữa kinh tế nông dân với công nghiệp, mà còn củng cố vững chắc khối liên
minh công nông.Kinh nghiệm thực tiễn qua thời gian ngắn cho thấy, không
thể duy trì việc tự do buôn bán trong phạm vi trao đổi hàng hóa mang đặc

6


Tính của một thị trường mở với lưu thông tiền tệ, trong lúc hoạt động
thương nghiệp hợp tác còn yếu, thương nghiệp quốc doanh hầu như còn trống
vắng và thị trường đa phần nằm trong tay tư thương. Mặt khác, trên thực tế, thị
trường và những quan hệ hàng hoá - tiền tệ không chỉ đáp ứng lợi ích của người
nông dân mà còn góp phần chấn hưng nền kinh tế của nước Nga Xô-viết.
Khi thị trường và các quan hệ hàng hoá - tiền tệ đã trở thành một thực tế
trong đời sống kinh tế đất nước, Lê-nin cho rằng chỉ "rút lui" khỏi "Chính
sách cộng sản thời chiến" thôi vẫn chưa đủ, mà "cần kéo dài cuộc rút lui nữa,
rút lui xa hơn nữa". Thực chất của cuộc "rút lui xa hơn nữa" là thay việc trao
đổi kinh tế giữa công nghiệp với kinh tế nông dân như đã thực hiện trước đây
bằng việc mua bán thông thường thông qua quan hệ hàng hoá-tiền tệ, "chừng
nào chúng ta chưa đủ sức thực hiện trao đổi hàng hoá, tức là cung cấp sản
phẩm công nghiệp cho nông dân- chừng đó nông dân còn buộc phải sống
trong điều kiện có những tàn tích của lưu thông hàng hoá (do đó của lưu
thông tiền tệ) với thế phẩm của nó.Chừng nào chưa cung cấp được cho nông
dân những cái loại trừ được sự cần thiết phải có thế phẩm (tiền) thì bãi
Bỏ thế phẩm đó là không đúng về mặt kinh tế"(1). Từ đây, Lê-nin quyết
định: cho phép tư bản tư nhân sử dụng thương nghiệp và các quan hệ hàng
hoá - tiền tệ nhưng với những mức độ nhất định và trong những thời hạn nhất
định. Điều quan trọng là làm cho thương nghiệp và các quan hệ hàng hoá tiền tệ từ chỗ là công cụ của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa trở thành phương

tiện hữu hiệu trong xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện mục
tiêu này, theo Lê-nin, nhà nước chuyên chính vô sản phải giải quyết tốt hai
nhiệm vụ có liên hệ chặt chẽ với nhau: một là, điều tiết thương nghiệp và lưu
thông tiền tệ (giám sát, kiểm tra, quy định các hình thức, trình tự...); hai là,
nắm lấy thương nghiệp, thị trường và các quan hệ hàng hoá- tiền tệ vì lợi ích
của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong nhiều bài viết, bài phát biểu và cả những bức thư cuối đời, Lê-nin
luôn đánh giá thương nghiệp và những quan hệ hàng hoá - tiền tệ không phải
7


với tư cách là biện pháp tạm thời khôi phục lại những mối liên kết kinh tế
giữa thành thị và nông thôn mà với tư cách một quan điểm cơ bản trong chính
sách kinh tế của đảng trong suốt cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội lẫn
trong giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Cùng với
đánh giá đó, Lê-nin nhấn mạnh sự cần thiết phải khắc phục nhận thức sai lầm
của một số cán bộ đảng và nhà nước cho rằng: chủ nghĩa xã hội và thị trường là
hai vấn đề không thể dung hợp được, là những hiện tượng rất xa lạ với nhau và
không có liên hệ gì với nhau. Trên thực tế, chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị
trường không những có thể mà còn cần thiết phải được kết hợp lại với nhau,
bởi sự kết hợp ấy tạo khả năng xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Nếu như trong học thuyết của Mác, vấn đề chủ nghĩa tư bản nhà nước
trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội chưa được bàn
tới, thì đến Lê-nin, những luận điểm chung về chủ nghĩa tư bản nhà nước với
tư cách là một thành phần kinh tế trong điều kiện chuyên chính vô sản đã
được Người phân tích cặn kẽ. Thành phần đó, theo đánh giá của Lê-nin, là
"một bước tiến so với tình hình trong nước cộng hoà Xô-viết" khi đó. Người
đã luận chứng một cách toàn diện các khả năng sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà
nước vào mục đích thực hiện thành công bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì
có thể hạn chế và quy định giới hạn phát triển hoạt động của chủ nghĩa tư bản

nhà nước, nên nó "không đáng sợ, mà đáng mong đợi. Học tập chủ nghĩa tư
bản nhà nước"(2). Và, Lê-nin đã đề cập đến việc sử dụng các hình thức cụ thể
của thành phần kinh tế tư bản nhà nước trong thời kỳ quá độ. Nếu trong lĩnh
vực sản xuất các hình thức đơn giản nhất của nó là tô nhượng và cho thuê, thì
trong lĩnh vực phân phối, các hình thức này là hợp tác xã tiêu thụ và thu hút
các nhà tư bản với tư cách là thương nhân trả tỉ lệ tiền hoa hồng. Đáng tiếc là
sau khi Lê-nin mất, việc áp dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước trong điều kiện
nước Nga Xô-viết đã bị hạn chế. Bởi thế, trên thực tế, nó không đóng vai trò
quan trọng trong nền kinh tế Liên Xô thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy
nhiên, khả năng sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước có lợi cho công cuộc xây
8


dựng chủ nghĩa xã hội như sự chỉ dẫn của Lê-nin đã được khẳng định trong
thực tiễn ngày nay ở những nước tiếp tục khẳng định con đường phát triển
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Những phân tích trên đây chưa phản ánh được tất cả sự phong phú và
sâu sắc trong tư duy kinh tế của Lê-nin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
- một tư duy lô-gíc, biện chứng, hết sức khoa học và cách mạng. Đằng sau
những biện pháp cụ thể để phục hồi kinh tế trên tất cả mọi lĩnh vực là quan
điểm về sử dụng và phát huy mọi thành phần kinh tế vào phát triển lực lượng
sản xuất; về mở rộng và phát triển quan hệ hàng hoá - tiền tệ; về các nguyên
tắc của quản lý kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; về quan hệ
giữa kinh tế, tư tưởng và tổ chức; về vai trò của nhân tố chủ quan trong quá
trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhất là trong thời kỳ quá độ v.v...Những
quan điểm của Lê-nin vẫn giữ nguyên giá trị cả về lý luận và thực tiễn trong
công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu
sắc toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm thực hiện sự chuyển biến

từ xã hội cũ sang xã hội mới-xã hội chủ nghĩa.
Giai cấp công nhân và chính đảng của nó muốn xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chế độ ưu việt, tốt đẹp hơn chủ nghĩa tư
bản thì tất yếu phải trải qua thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Bởi vì:
Chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chế độ xã hội không thể ra đời tự
phát trong lòng chế độ tư bản chủ nghĩa hay các xã hội tiền tư bản chủ nghĩa.
Các xã hội trước chỉ chuẩn bị những điều kiện vật chất để giai cấp công nhân
thực hiện bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, còn bản thân công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội chỉ được thực hiện khi có cơ sở vật chất - kỹ thuật cũng như
với kiến trúc thượng tâng về chínhtrị, tư tưởng, văn hóa tương ứng.
Sau khi giành được chính quyền, giai cấp công nhân cũng không thể đem
áp dụng ngay tức khắc những nguyên tắc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bởi vì,
9


những nguyên tắc xây dựng và bản chất của chủ nghĩa xã hội khác với các xã
hội trước; giai cấp thống trị cũ mới bị đánh bại về chính trị nhưng chưa bị tiêu
diệt hoàn toàn; nhiều tàn dư của xã hội cũ còn in vết trong xã hội mới. Do đó
cần có thời gian để tiến hành cải tạo những tàn dư của xã hội cũ, từng bước
xây dựng các nhân tố mới. Trong bài chào mừng công nhân Hunggari" V.I.
Lênin khẳng định: mục đích đó, người ta không thể đạt ngay tức khắc được,
muốn thế, cần phải có một thời kỳ quá độ khá lâu dài từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội, vì cải tô sản xuất là việc khó khăn, vì cần có một thời gian
mới thực hiện được những thay đổi căn bản trong mọi lĩnh vực của cuộc sống,
và vì phải trải qua một cuộc đấu tranh quyết liệt, lâu dài mới có thể thắng
được sức mạnh to lớn của thói quản lý theo kiểu tiểu tư sản và tư sản".
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội có hai kiểu: quá độ trực tiếp và quá
độ gián tiếp
Quá độ trực tiếp từ các nước tư bản chủ nghĩa phát triển lên chủ nghĩa xã
hội.

Quá độ gián tiếp từ các nước tiền tư bản chủ nghĩa hay các nước tư bản
trung bình lênh chủ nghĩa xã hội.

10


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
THẮNG LỢI TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Ở NƯỚC TA.
1.Tính tất yếu khách quan của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
ViệtNam.
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mac-Lênin về thời kì quá độ
C.Mác khẳng định: “ Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng
sản chủ nghĩa là một thời kì cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội
kia. Thích ứng với thời kì Êy là một thời kì quá độ chính trị, và nhà nước
của thời kì Êy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách
mạng của giai cấp vô sản”. Tức là giữa chế độ tư bản chủ nghĩa và xã
hội chủ nghĩa cần có một cuộc quá độ lên chủ nghĩa xã hội. C.Mác và
Ph.Ăngghen dùa vào tình hình của nước Nga lúc bấy giờ cũng đã nêu
nên khả năng các nước còn đang ở trong giai đoạn phát triển tiền tư bản
chủ nghĩa có thể chuyển thẳng lên hình thái xã hội cộng sản chủ nghĩa và
khả năng phát triển rút ngắn của các nước này bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa.Tuy nhiên hai ông đã không chỉ ra đươc nội dung của thời kì quá
độ và nhiệm vụ cụ thể gì cần đạt được trong thời kì quá độ.
Theo lý luận của V.I.Lênin thì ông cho rằng mọi quốc gia phát triển hay
kém phát triển về kinh tế đều có khả năng khách quan để vượt qua thời đại tư
bản chủ nghĩa và bước vào thời đại xã hội chủ nghĩa với những điều kiện nhất
định. Và để lên được chủ nghĩa xã hội các nước cần phải trải qua thời kì quá
độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong đó thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời
kì cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để, toàn diện, từ xã hội cũ sang xã hội

mới- xã hội xã hội chủ nghĩa. Nó diễn ra từ khi cách mạng vô sản thắng lợi,
giai cấp vô sản giành được chính quyền , bắt tay vào xây dựng xã hội mới và
kết thúc khi xây dựng thành công các cơ sở của xã hội xã hội chủ nghĩa về vật
chất kĩ thuật, kinh tế, văn hoá, tư tưởng. Nói cách khác, kết thúc thời kì quá
độ khi đã xây dựng xong cả về lực lượng sản xuất lẫn quan hệ sản xuất cả cơ
11


sở kinh tế lẫn kiến trúc thượng tầng xã hội xã hội chủ nghĩa. Ông đã vạch ra
được những nội dung nhiệm vụ cụ thể trong thời kì quá độ cần đạt đượcvà
nêu được con đường đi mà các nước cần thực hiện.
1.2. Tính tất yếu khách quan của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam
Sau năm 1954, miền Bắc được hoà bình, chúng ta đã bước vào thời kì
quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội.Từ năm 1975 sau khi đất nước hoàn toàn độc
lập và cả nước thống nhất, cách mạng dân téc dân chủ đã hoàn toàn thắng lợi
trên phạm vi cả nước thì cả nước cùng tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa,
cùng quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa là một tất yếu lịch sử vì:
Toàn thế giới đã bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thực tế
đã khẳng định chủ nghĩa tư bản là chế độ xã hội lỗi thời, sớm hay muộn cũng
bị thay thế bằng hình thái kinh tế- xã hội cộng sản chủ nghĩa. Chủ nghĩa tư
bản không phải là tương lai của loài người. Đặc điểm của thờ đại ngày nay là
thời kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế
giới. Quá trình cải biến xã hội cũ xây dựng xã hội mới là một quá trình cách
mạng sôi động trả qua nhiều giai đoạn phát triển khách quan hợp với quy luật
của lịch sử. Quá trình cách mạng đó vì sự nghiệp cao cả là giải phóng con
người, vì sự phát triển tự do và toàn diện của con người, vì tiến bộ chung của
loài người. Đi theo dòng chảy của thời đại cũng tức là đi theo quy luật phát
triển tự nhiên của lịch.

Cách mạng Việt Nam phát triển theo con đường độc lập dân téc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội. Tính tất yếu lịch sử Êy xuất hiện từ những năm 20 của
thế kỉ XX. Nhờ đi con đường Êy mà nhân dân ta đã làm cách mạng tháng tám
thành công, đã tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến hoàn thành sự nghiệp
giải phóng dân téc. Ngày nay chỉ có đi lên chủ nghĩa xã hội mới giữ vững
được độc lập, tự do cho dân téc, mới thực hiện được mục tiêu làm cho mọi
người dân được Êm no, tù do, hạnh phúc.Sự lùa chọn con đường độc lập dân
12


téc và chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta, sự lùa chọn của chính lịch sử dân téc
lại vừa phù hợp với xu thế thời đại. Điều đó đã thể hiện sự quá độ lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta là một tất yếu lịch sử.
2. Những vấn đề cơ bản về thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta.
Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản, từ một xã
hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp. Đất nước
trải qua hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề. Những tàn dư
thực dân, phong kiến còn nhiều. Các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách
phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa và nền độc lập dân téc. Và theo chủ tịch Hồ
Chí Minh thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta mà: “ Nhiệm vụ quan
trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kĩ thuật của chủ
nghĩa xã hội ,…tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp và nông nghiệp
hiện đại, có văn hoá khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ
nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà
xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”. Để làm được điều này thì trong
thời kì quá độ chúng ta cần thực hiện những nhiệm vụ kinh tế sau:
2.1.Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá hiện đại hoá nền
kinh tế.
Đây được coi là nhiệm vụ trọng tâm của thời kì quá độ nhằm xây dựng

cơ sở vật chất kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội, phát triển lực lượng sản xuất.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toà diện
hoạt động kinh tế-xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang việc
sử dụng một cách phổ biến sức lao động với khoa học và công nghệ hiện đại,
tiên tiến, tạo ra năng suất lao động cao
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là nhiệm vụ có tính quy luật của
sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở những nước kinh tế lạc hậu, chủ nghĩa tư
bản chưa phát triển. Tuy nhiên, chiến lược, nội dung, hình thức, bước đi, tốc
độ , biện pháp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở mỗi nước quá độ lên chủ nghĩa
13


xã hội phải được xuất phát từ điều kiện lịch sử cụ thể của từng nước và từ bối
cảnh quốc tế trong mỗi thời kì.
Chỉ có hoàn thành nhiệm vu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mới
có thể xây dựng được cơ sở vật chất- kĩ thuật cho xã hội mới, năng cao năng
suất lao động đến mức có thể làm cho tình trạng dồi dào sản phẩm trở thành
phổ biến.
Vì con người là lực lượng sản xuất cơ bản, cho nên trong lao động con
người có khả năng sử dụng và quản lý nền sản xuất xã hội hoá cao với kĩ
thuật và công nghệ tiên tiến nhất. Bởi lẽ: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội,
trước hết cần có con người xã hội chủ nghĩa”.
2.2.Xây dùng quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Phải xây dựng từng bước những quan hệ sản xuất mới phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mới. Nhưng việc xây dựng quan
hệ sản xuất mới không thể theo ý muốn chủ quan duy ý chí mà phải tuân theo
những quy luật khách quan về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất. Xuất phát từ quan điểm cho rằng bất cứ một sự cả biến nào về
mặt quan hệ sở hữu cũng đều phải là kết quả tất yếu của việc tạo lên những
lực lượng sản xuất mới. Vì vậy việc xây dựng quan hệ sản xuất mới ở nước ta

phải được xuất phát từng bước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa .
Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở những nước như nước ta,
chế độ sở hữu tất yếu phải đa dạng, ở cơ cấu kinh tế phải có nhiều thành phần
kinh tế: kinh tế nhà nước; kinh tế hợp tác mà nòng cốt là hợp tác xã, kinh tế tư
bản nhà nước, kinh tế cá thể và tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài.Đường nối phát triển một nền kinh tế nhiều thành phần có
ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tác dụng to lớn trong việc động viên mọi nguồn
lực cả bên trong lẫn bên ngoài, lấy nội lực làm chính để xây dựng kinh tế,
phát triển lực lượng sản xuất
Vì quan hệ sở hữu là đa dạng cho nên phải có những hình thức phân phối
và nhiều hình thức tổ chức quản lý hợp lý, cũng như xác lập địa vị làm chủ
14


của người lao động trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân phải diễn ra từng
bước, dưới nhiều hình thức đi từ thấp đến cao.
2.3. Mở rộng và năng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại
Đứng trước xu thế toàn cầu hoá kinh tế vè sự tác động của cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ, nền kinh tế nước ta không thể là nền kinh tế
khép kín, mà phải là một nền kinh tế ‘mở’ tức là mở rộng quan hệ kinh tế đối
ngoại. Đó là xu thế tất yếu của thời đại, là vấn đề có tính chất quy luật trong
thời đại ngày nay. Chúng ta “mở cửa” nền kinh tế, thực hiện đa dạng, đa
phương hoá quan hệ quốc tế, nhằm thu hót các nguồn lực phát triển từ bên
ngoài và phát huy lợi thế kinh tế trong nước làm thay đổi mạnh mẽ về công
nghệ, cơ cấu ngành và sản phẩm…mở rộng phân công lao động quốc tế tăng
cường liên doanh, liên kết, hợp tác, là cơ sở để tạo điều kiện và kích thích sản
xuất trong nước phát triển, vươn lên bắt kịp trình độ thế giới. Mở rộng quan
hệ sản xuất kinh tế quốc tế phải dùa trên nguyên tắc bình đẳng đôi bên cùng
có lợi và không can thiệp vàp nội bộ của nhau.
Muốn vậy phải từng bước năng cao sức cạnh tranh quốc tê; tích cực khai

thác thị trường thế giới; tối ưu hoá cơ cấu xuât- nhập khẩu; tích cực tham gia
hợp tác kinh tế khu vực và hệ thống mậu dịch đa phương toàn cầu; xử lý đúng
đắn mối quan hệ giữa mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại với độc lập tự chủ,
tự lực cánh sinh, bảo vệ an ninh quốc gia.
3. Công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế nước ta
Sau khi giành độc lập, thống nhất đất nước. nước ta đã thực hiện công
cuộc xây đựng nước theo mô hình XHCN theo quan niện lúc bấy giê. Theo đó
chế độ sở hữu toàn dân và tập thể về tư liệu sản xuất và cơ chế kế hoạch hoá
tập chung quan liêu bao cấp đóng vai trò là những yếu tố chủ đại của mô hình
phát triển kinh tế. Trong thời kì chiến tranh ác liệt nhân dân Việt Nam phải ra
sức động viên và và tập chung sức mạnh toàn dân téc vừa để xây dựng đất
nước vừa thực hiện cuộc chiến tranh không cân sức nhằm bảo vệ độc lập dân
téc, thống nhất tổ quốc. Việc thực hiện mô hình kinh tế này đã mang lại
15


những kết quả to lớn không thể phủ nhận. Nước ta đã hoàn thành được cuộc
cách mạng dân téc- dân chủ, và tạo được một số cơ sở vật chất cần thiết ở
miền Bắc. Tuy nhiên, thưc tế truớc đổi mới, nhất là hơm 10 năm tiến hành
xây dựng chủ nghĩa trên phạm vi cả nước (1976-1985) nền kinh tế Việt Nam
vận động thiếu năng động kém hiệu quả. Mô hình kinh tế tập chung quan liêu
bao cấp bộc lé một cách toàn diện mặt tiêu cực của nó mà hậu quả là xuất
hiện cuộc khủng hoảng kinh tế- xã hội sâu sắc vào cuối những năm 70 đầu
những năm 80. Tình trạng thiếu hụt kinh niên làm gia tăng căng thẳng trong
đời sống xã hội: Trong đó sản xuất phát triển chậm, dân số thì tăng nhanh; thu
nhập quốc dân chưa đảm bảo được tiêu dùng xã hội, một phần tiêu dùng xã
hội phải dùa vào vay và viện trợ, nền kinh tế chưa tạo được tích luỹ; Các mặt
hàng thiết yếu như lương thực, vải mặc, các mặt hàng tiêu dùng đều thiếu;
Nhiều xí nghiệp sử dụng công xuất ở mức thấp; chênh lệch lớn giữa thu và
chi tài chính, gữa nhập khẩu và xuất khẩu; thị trường vật giá không ổn định,

lạm phát tăng cao, người lao động chưa được sử dụng còn đông. Đời sống
nhân dân gập nhiều khó khăn. Lòng tin của nhân dân đối vớ sự lãnh đạo của
Đảng và sự điều hành của nhà nước giảm sút. Trước tình hình đó vấn đề cấp
bách đặt ra cho Đảng cộng sản và Nhà nước Việt Nam là tìm kiếm một cách
thức phát triển mới có khả năng đáp ứng mục tiêu của sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội, trong đó quan trong nhất là phải tháo gỡ các ràng buộc về
cơ chế và thể chế để giải phóng các nguồn lực để phát triển đất nước. Dưới áp
lực thực tiễn, đã diễn ra hai cuộc thử nghiệm quan trọng: i) áp dụng chế độ
khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã nông
nghiệp (khoán 100); ii)Cải cách công tác kế hoạch và hoạch toán kinh tế ở
các xí nghệp quốc doanh nhằm phát huy quyền chủ động sản xuất- kinh
doanh và quyền tự chủ về tài chính của xí nghiệp (Quyết định 25/CP). Về
nguyên tắc cả hai cuộc thử nghiệm này đều diễn ra mét xu hướng chung: nới
lỏng các ràng buộc của cơ chể kế hoạch hoá tập chung, mở rộng hơn phạm vi
hoạt động của các quan hệ thị trường, trao nhiều quyền chủ động kinh doanh
16


hơn cho các chủ thể kinh tế và người lao động. Phong trào lan rộng ra khắp
nền kinh tế và đã nhanh chóng đưa lại những thành tựu kinh tế nổi bật, trước
hết là mặt trận nông nghiệp. Tuy nhiên, kết quả của xu hướng cải cách này
còn bị hạn chế do việc thực hiện những cải cách theo hướng thị trường mới
mang tính cục bộ và chỉ dùng lại ở cấp độ vi mô, trong khuôn khổ cố gắng
bảo tồn cơ chế kế hoạch hoá tập trung ở tầm vĩ mô. Vì vậy những cuộc thử
nghiệm này tuy đưa đến những thành tựu nổi bật trong nông nghiệp nhưng
vẫn không ngăn cản được cuộc khủng hoảng ngày càng trở lên trầm trọng.
Tình hình đó đã khiến cho đổi mới trở thành một nhu cầu hết sức bức bách, là
đòi hỏi bức thiết của cuộc sống. Nhận rõ nhu cầu bức thiết Êy, Đại hội VI của
Đảng cộng sản Việt Nam (12/1986) đã chính thức khởi xướng sự nghiệp đổi
mới. Và các đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX, X đã tiếp tục

con đường đổi mới của Đảng. Thông qua các quan điểm của các kỳ đại hội và
từ “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội”
ta có những đặc trưng cơ bản và chủ yếu của mô hình kinh tế mới
3.1 Đặc trưng cơ bản và chủ yếu của mô hình kinh tế mới
Chuyển từ nền kinh tế hiện vật, bao cấp là chủ yếu sang nền kinh tế hàng
hoá, vận hành theo cơ chế thị trường, dưới sự quản lý của nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là cách tổ chức sản xuất tối ưu để xây dựng cơ sở
vật chất- kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội mà hiệu quả kinh tế cuối cùng là năng
suất lao động cao, chất lượng tốt, tạo ra nhiều sản phẩm thặng dư
Khái niệm thời kỳ qúa độ lên chủ nghĩa xã hội, đặc điểm thời kỳ này.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu
sắc toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm thực hiện sự chuyển biến
từ xã hội cũ sang xã hội mới – xã hội chủ nghĩa.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu
sắc, triệt để, toàn diện từ xã hội cũ thành xã hội mới: chủ nghĩa xã hội. Nó
diễn ra từ ky khi giai cấp vô sản giành được chính quyền bắt tay vào xây dựng
xã hội mới và kêts thúc khi xây dựng thành công những cơ sở của chủ nghĩa
17


xã hội cả về lực lượng sản xuát, quan hệ sản xuất, cơ sở kinh tế và kiến trúc
thượng tầng.
Đặc điểm:
Trên lĩnh vực kinh tế: thực hiện việc sắp xếp, bố trí lại các lực lượng sản
xuât xã hội nhất định không thể ttheo ý muốn nóng vội, chủ quan mà phải
tuân theo tính tất yếu khách quan của các luật kinh tế, đặc biệt là quy luật sản
xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Việc sắp xếp, bố trí lại lực lượng sản xuất của một xã hội nhất định
không thể theo ý muốn nóng vội, chủ quan mà phải tuân theo tính tất yếu
khách quan của các quy luật kinh tế, đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất phù

hợp với trình độ phát triển.
Đối với những nước chưa trải qua quá trình CNH TBCN, tất yếu phải
tiến hành CNH XHCN nhằm tạo ra được cơ sở vật chất – kỹ thuật của CNXH.
Nhiệm vụ trọng tâm của những nước trong KTQĐ là phat tiến hành CNH,
HĐH nền kinh tế theo định hướng XHCN. Quá trình CNH, HĐH XHCN diễn
ra ở các nước khác nhau với những điều kiện lịch sử khác nhau có thể tiến
hành với những nội dung cụ thể và hình thức, bước đi khác nhau. Nước ta quá
độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, chưa trải qua quá trình CNH TBCN, nên
trong thời qua, Đảng ta chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng
XHCN cũn là để giải phóng sức sản xuất lớn.
Trong lĩnh vực chính trị: tiến hành cuộc đấu tranh chống lạ các thế lực
thù địch chống phá sự nghiệp xây dựng CNXH, xây dựng, củng cố nhà nước
dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng vững mạnh, đảm bảo quyền làm chủ
trong hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của nhân dân lao động, xây
dựng các tổ chức chính trị - xã hội thực sự là nơi thực hiện quyền làm chủ của
nhân dân lao lộng; xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh ngang
tầm với các nhiệm vụ của mỗi thời kỳ lịch sử.
Trong lĩnh vực tư tưởng – văn hóa: khắc phục những tệ nạn xã hội do xã
hội cũ để lại, vùng bước khắc phục sự chênh lệch phát triển giữa các vùng
18


miền, các tầng lớp dân cư trong xã hội nhằm thực hiện mục tiêu bình đẳng xã
hội; xây dựng mối quan hẹ tốt đẹp giữa người với người theo mục tiêu lý
tưởng: tự do của người này là điều kiện tiền đề cho tự do của người khác.
Tóm lại, Thời kỳ quá độ lên CNXH là một thời kỳ lịch sử tất yếu trên
con đường phát triển của Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Đó là
thời kỳ lịch sử có đặc điểm riêng với những nội dung kinh tế, chính trị, văn
hóa và xã hôi đặc thù mà giai đoạn xã hội XHCN trên con đường phát triển
của hình thái kinh tế - xã hội CSCN chỉ có thể đạt được trên cơ sở hoàn thành

các nội dung đó
3.2. Lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(CNXH) ở nước ta
Thời kỳ quá độ lên CNXH là một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin về cách mạng XHCN. Đó là sự thống nhất giữa luận điểm của Mác Lênin về thời kỳ quá độ và hai giai đoạn của chủ nghĩa cộng sản và phát triển
lý luận của Lênin về thời kỳ quá độ lên CNXH từ một nước phát triển chưa
cao. Về thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở nước ta Đảng ta đã chỉ rõ đó là tất yếu
khách quan:
Phát triển theo con đường XHCN là phù hợp với xu thế của lịch sử, mặc
dù chủ nghĩa tư bản vẫn còn ưu thế về vốn, khoa học công nghệ, song nó vẫn
không giải quyết được những mâu thuẫn cơ bản trong lòng của chủ nghĩa tư
bản. CNXH dù có những thất bại về mô hình này hay mô hình khác song đó
chỉ là thất bại một cách tạm thời, xét về bản chất, đó vẫn là chế độ xã hội tốt
đẹp hơn so với chủ nghĩa tư bản đương đại. Chỉ có CNXH mới có thể thực
hiện một cách triệt để lý tưởng cao cả của loài người như dự báo của Mác và
Ăngghen và sau này là Lênin đã khẳng định chân lý đó.
Vì vậy, sự lựa chọn con đường đi lên CNXH là phù hợp với quy luật
phát triển của xã hội loài người.
Đối với cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn kiên định lập trường quan điểm
19


xuyên suốt là: Độc lập dân tộc luôn luôn gắn liền với CNXH là tất yếu khách
quan. Với thắng lợi của cách mạng Tháng Tám; trải qua 2 cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược và thành tựu của 25 năm đổi
mới đã chứng minh chân lý đó.
Chúng ta cần phê phán quan điểm cho rằng: Việt Nam chưa đủ điều kiện
để bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH mà phải trải qua một giai đoạn dân chủ
nhân dân, chuẩn bị điều kiện tiến lên CNXH. Trong văn kiện ĐHĐBTQ lần
thứ IX, X, XI của Đảng đã phân tích rõ những điều kiện trong nước và quốc

tế và khẳng định: Việt Nam có đủ những điều kiện tiền đề để quá độ đi lên
CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa và khẳng định: những đặc điểm của
cách mạng XHCN ở Việt Nam cũng là đặc điểm của thời kỳ quá độ quy định
Việt Nam cần và có thể đi lên CNXH, quy định nội dung đấu tranh giai cấp
và đấu tranh dân tộc để giải quyết vấn đề “ai thắng ai” trong những điều kiện
cụ thể ở Việt Nam. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa các nhân tố dân tộc
và giai cấp trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam là nhiệm vụ của thời kỳ quá độ
lên CNXH ở nước ta.
3.3. Nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên CNXH
Xét trên phương diện lý luận còn có nhiều quan điểm khác nhau như:
vấn đề sở hữu, thế nào là thành phần kinh tế.
Song điều khẳng định là: thành phần kinh tế là 1 khái niệm khoa học
trong lý luận kinh tế chính trị cũng như các văn kiện của Đảng. Sự phân chia
thành phần kinh tế đều dựa trên sự khác biệt về quan hệ sản xuất, đặc biệt là
sự đa dạng về chế độ sở hữu các tư liệu sản xuất trong thời kỳ quá độ ở mọi
nước luôn tồn tại.
Việc phân chia nền kinh tế thành nhiều thành phần có thể là 3 thành
phần kinh tế cơ bản (quan điểm của Lênin) hoặc là 5 - 6 thành phần cụ thể
(cách phân chia của ĐH Đảng VII, VIII, IX, X, XI) nhưng bản chất của vấn
đề là không thay đổi.

20


Bởi trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta còn tồn tại 2 kết cấu kinh
tế - xã hội đan xen nhau, một mảng là của CNXH mới đương xây dựng nhưng
còn non yếu, một mảng kinh tế - xã hội của chủ nghĩa tư bản tuy bị đánh bại
nhưng cơ sở kinh tế của chúng vẫn còn tồn tại.
Tuy nhiên, trong một hình thái kinh tế - xã hội bao giờ cũng có 1 thành
phần kinh tế chủ yếu thống trị quyết định thuộc tính, bản chất của hình

thái kinh tế đó. Song cần phải chỉ rõ kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ
quá độ không giống như vậy, “thành phần kinh tế không giữ nguyên cái bản
chất vốn có của nó và ngay cả khi thành phần kinh tế nhà nước cũng chưa thể
là thành phần thống trị nền kinh tế trong thời kỳ quá độ”. Vì vậy, nhiệm
vụ kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đòi hỏi phải đặt ra 2 yêu
cầu: xây dựng kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo và kinh tế nhà nước
cùng với kinh tế tập thể là nền tảng của nền kinh tế quốc dân. (Như văn kiện
ĐHĐBTQ lần thứ XI đã chỉ rõ).
Để thực hiện được 2 nhiệm vụ trên, phát triển thành phần kinh tế nhà
nước cần phải tích cực xử lý những mặt yếu kém của kinh tế nhà nước mà chủ
yếu là doanh nghiệp nhà nước thông qua các giải pháp là tổ chức sắp xếp đổi
mới lại các doanh nghiệp nhà nước, cấu trúc lại cơ cấu sản xuất làm cho chế
độ công hữu mạnh lên. Cổ phần hóa, kết hợp hài hòa các lợi ích xã hội - tập
thể - công nhân tạo động lực mới nhưng tuyệt đối không đi vào con đường tư
nhân hóa.
Quán triệt nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin: Hợp tác xã là con
đường đi lên CNXH của những người nông dân, song cần chú ý rằng dưới hai
hình thức chính: cải tạo hoặc xóa bỏ, ở Việt Nam, cần lựa chọn nhiều hình
thức tổ chức kinh tế trong đó phát triển kinh tế trang trại hoặc chủ nghĩa tư
bản nông nghiệp là con đường phát triển kinh tế hàng hóa tạo ra năng suất lao
động cao trong nông nghiệp và nông thôn nhưng không thể thay thế con
đường hợp tác xã và phải tuân thủ nguyên tắc của Lênin “tự nguyện, bình
đẳng cùng có lợi và quản lý dân chủ”.
21


3.4. Kinh tế thị trường định hướng XHCN
Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta tiếp tục
khẳng định định hướng phát triển nền kinh tế ở nước ta là: “phát triển nềnkinh
tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường dưới sự quản

lý của nhà nước theo định hướng XHCN” song phải hiểu kinh tế thị trường
với các yếu tố đồng bộ của nó. Mặt khác, kinh tế thị trường thuộc về những
quan hệ xã hội của sản xuất chứ không phải thuộc về lực lượng sản xuất dù
cho kinh tế thị trường hay kinh tế hàng hóa gắn chặt với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất. Kinh tế thị trường không phải là 1 công nghệ sản xuất
mặc dù sự vận động của thị trường cũng có những công nghệ của riêng nó ở
những mác độ, trình độ khác nhau. Chỉ có quan hệ sản xuất như thế nào thì sự
trao đổi lao động xã hội mới phải thông qua quan hệ tổ chức và quản lý theo
cơ chế thị trường mà không thể trao đổi trực tiếp.
Kinh tế hàng hóa hay kinh tế thị trường không phải là 1 mô hình chung
cho mọi quốc gia mặc dù rất nhiều quốc gia trên con đường phát triển đã lựa
chọn nó. Vì thế Đại hội XI tiếp tục khẳng định nền kinh tế hàng hóa hay kinh
tế thị trường mà chúng ta xây dựng là 1 nền kinh tế thị trường trong thời kỳ
quá độ lên CNXH, thực chất từ 1 nền kinh tế nhiều thành phần và sự tác động
của những quy luật kinh tế khác nhau chứ chưa phải là 1 nền kinh tế thị
trường phát triển. Đó là 1 nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cần phải
xây dựng CNXH chứ không phải là chủ nghĩa tư bản, hòa nhập chứ không
phải hòa tan, hợp tác và phân công lao động quốc tế sâu rộng nhưng giữ vững
độc lập chủ quyền dân tộc, 1 nền kinh tế thị trường hiện đại văn minh với mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Trên đây là những nội dung cơ bản trong Văn kiện Đại hội XI của Đảng,
cần phải làm rõ và sáng tỏ để hiểu và vận dụng quan điểm đó trong giảng dạy

22


bộ môn kinh tế chính trị Mác - Lênin ở một số bài về lý luận về thời kỳ quá
độ, sở hữu và kinh tế nhiều thành phần.
C. PHẦN KẾT LUẬN
Đất nước ta đang trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế

độ tư bản chủ nghĩa.Và trong thời kì quá độ Đảng và nhà nước đã có những
sự đổi mới toàn diện đất nước và đã khẳng định “phát huy yếu tố con người
và lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt động, coi
nguồn lực con người là quý báu nhất, có vai trò quyết định đối với sự phát
triển của đất nước là yếu tố cơ bản”. Trong đó sinh viên chúng ta là lực lượng
nòng cốt cơ bản để sau này đưa đất nước lên chủ nghĩa xã hội, sẽ thúc đẩy
nhanh chóng quá trình hiện đại hoá- công nghiệp hoá nền kinh tế đất nước,
đưa đất nước tiến nhanh, tiến chắc lên chủ nghĩa xã hội; Và sinh viên là lực
lượng đi tiên phong trong quá trình xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa.
Vì vậy mỗi sinh viên cần hiểu rõ về thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam để có sự hiểu biết sâu sắc để nắm vững tư tưởng, tiếp tục xây dựng,
củng cố một bản lĩnh chính trị, một quyết tâm, một lòng kiên trì để có thể có
cách học tập hợp lý để sau này ra xây dựng đất nước đưa đất nước ta đi lên
chủ nghĩa xã hội. Do đó em viết về đề tài “Thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam” để có thể hiểu rõ về quá độ lên chủ nghĩa xã hội và bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta hiện nay từ đó có những phương hướng
học tập để đạt kết quả cao trong học tập sau này ra xây dựng đất nước góp
một phần công sức đưa đất nước lên chủ nghĩa xã hội.

23


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Một số vấn đề về thời kỳ quá độ ở Việt Nam / Nguyễn Vinh,

Nguyễn Đức Bình, Vũ Hữu Ngoạn, H. : Sự thật, 1984.
2. Tư tưởng của V. I. Lênin về thời kỳ quá độ, H. : Thông tin lý luận, 1987.
3. Về chủ nghĩa Mác - Lênin chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ

nghĩa xã hội ở Việt Nam / Hồ Chí Minh, H. : Chính trị Quốc gia, 2004.
4. Một số vấn đề về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam : Sách tham khảo / Hoàng Đạt, Lưu Bích Hồ, Nguyễn Đình
Nam... ; Vũ Đình Bách ch.b, H. : Chính trị Quốc gia, 200.
5. Giáo trình chuyên đề Chủ nghĩa xã hội khoa học / Lê Thị Kim
Phượng, Đà Nẵng : Nxb. Đà Nẵng, 2005

24


MỤC LỤC
Chương 1: QUAN ĐIỂM CỦA V.I.LÊNIN VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ THỜI KỲ
QUÁ ĐỘ ĐI LÊN..................................................................................................................2
1. Những phát triển mới của Lênin về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ. .........................2
1.1. lý luận về khả năng thắng lợi của cách mạng vô sản trước tiên ở một số nước, thậm chí
ở một nước TBCN riêng lẻ.....................................................................................................2
Trong điều kiện CNTB trước độc quyền, Mác và Ph. Angghen rút ra kết luận: cách mạng
vô sản ko thể ko xảy ra trong tất cả các nước văn minh, ít nhất cũng phải cùng xảy ra ở
Anh, Pháp, Đức. Luận cứ cho các kết luận đó của các ông là: đại công nghiệp, do đã tạo
nên thị trường thế giới nên đã nối liền các dân tộc trên trái đất lại với nhau, tất cả là các
dân tộc văn minh, khiến cho cách mạn gở mỗi dân tộc đều có quan hệ phụ thuộc vào tình
hình cách mạng xảy ra ở mỗi dân tộc khác. Sau nữa, đại công nghiệp đã san bằng sự phát
triển XH ở tất cả các nước văn minh, vì vậy, cuộc cách mạng vô sản không những có tính
chất dân tộc mà còn có tính chất quốc tế và sẽ đồng thời xảy ra ở các nước văn minh. Trên
cơ sở tổng kết thực tiễn phát triển của CNTB trong giai đoạn mới là cực kì ko đều. Quy
luật phát triển không đềuvề kinh tế và chính trị của các nước trong thời kỳ đế quốc chủ
nghĩa đã làm cho cách mạng vô sản phát triển ko đều, tạo ra những khâu yếu nhất trong sợi
dây chuyền TBCN khiến cho giai cấp vô sản ở những nước đó có thề chọc thủng mặt trận
TBCN thế giới........................................................................................................................2
Luận điểm về thời kỳ quá độ với một loạt những bước quá độ: không thể quá độ trực tiếp

lên CNXH mà phải qua con đường gián tiếp chứ ko thề “quá vội vàng, thẳng tuột, ko thể
chuẩn bị”+ những bước quá độ ấy theo Lênin là CNTB nhà nước và chủ nghĩa XH. Bước
quá độ từ CNTB nhà nước được thể hiện trong “chính sách kinh tế mới” mà việc trao đổi
hàng hóa được coi là “đòn xeo chủ yếu”. - luận điểm về quá độ tiến thẳng lên chủ nghĩa
XH bỏ qua giai đoạn phát triển của TBCN. Có 2 loại tiến thẳng lên CNXH: quá độ từ
CNTB lên CNXH: phản ánh quy luật phát triền tuần tự của XH loài người. Quá độ từ các
hình thái kinh tế - xã hội trc CNTB lên CNXH: phản ánh quy luật phát triển nhảy vọt của
XH loài người.........................................................................................................................4

25


×