Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

skkn một số biện pháp về phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 –36 tháng thông qua giờ kể chuyện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.63 MB, 31 trang )

UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BẢN MÔ TẢ SÁNG KIẾN
Một số biện pháp về phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24- 36 tháng
thông qua giờ kể chuyện..
Bộ môn (lĩnh vực): Giáo dục

Năm học: 2014- 2015
1


THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: “Một số biện pháp về phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 –36
tháng thông qua giờ kể chuyện”
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục
3. Tác giả: Phạm Thị Ninh. - Nam (nữ): Nữ
- Ngày tháng/năm sinh: 01/02/1986
- Trình độ chuyên môn: Trung cấp sư phạm mầm non
- Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên trường mầm non Hồng Phúc
- Điện thoại: 0989839390
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Trường mầm non Hồng Phúc
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu: Trường mầm non Hồng Phúc năm học
2014 -2015
6. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
- Về phía giáo viên: Phải có trình độ chuẩn trở lên, có năng lực, trình độ
chuyên môn vững vàng, yêu nghề, mến trẻ.
- Cơ sở vật chất: Trang thiết bị dạy học đầy đủ tại phòng nhóm như: ti vi, đầu
đĩa, máy tính, tranh ảnh, đồ dùng đồ chơi phục vụ tiết dạy.
7. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Tháng 9/2014 – 3/2015 tại lớp 24- 36
tháng trường mầm non Hồng Phúc.


TÁC GIẢ

XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ ÁP DỤNG
SÁNG KIẾN

2


TÓM TẮT SÁNG KIẾN
Tháng 9/2014 tôi được nhà trường phân công dạy lớp 24-36 tháng. Trong
ngày đầu tiên nhận lớp tôi cảm thấy rất vui và cũng khá lo lắng. Tôi không biết trẻ
có thích cô giáo mới không? Trẻ đã biết những gì và trẻ cần gì? Khi vừa gặp trẻ
tôi đã cố gắng trò chuyện với trẻ nhưng đa phần trẻ không trả lời các câu hỏi của
tôi. Một phần vì lạ cô, một phần vì vốn từ của trẻ còn quá ít, trẻ vẫn thường nói
trống không và nói câu chưa đầy đủ.
Như chúng ta đã biết ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp không thể thiếu của
con người. Ở trẻ nhỏ nhu cầu giao tiếp là rất lớn, trong giao tiếp trẻ sử dụng ngôn
ngữ của mình để bày tỏ ý nghĩ, tình cảm, hiểu biết của mình về các sự vật hiện
tượng xung quanh với mọi người. Qua thực tế giảng dạy tôi thấy trẻ rất thích nghe
kể chuyện và muốn bắt chước các lời nói hành động của các nhân vật trong
chuyện. Vì vậy việc tạo cho trẻ được nghe, hiểu và được nói là hết sức cần thiết,
trên cơ sở khoa học, lý luận về lĩnh vực phát triển ngôn ngữ, tôi đã tìm tòi, nghiên
cứu các tài liệu, học hỏi đồng nghiệp để đưa ra các biện pháp giúp trẻ 24 - 36
tháng phát triển ngôn ngữ thông qua giờ kể chuyện. Để sáng kiến có hiệu quả thì
bản thân tôi đã không ngừng tìm hiểu về tâm lý trẻ dưới 36 tháng, nghiên cứu kỹ
nội dung các câu chuyện để từ đó bắt chước giọng và hành động các nhân vật.
Trong những năm học trước khi tổ chức hoạt động kể chuyện, tôi chỉ chú ý
đến lời dẫn truyện chứ không nghiên cứu và bắt chước giọng của từng nhân vật.
Khi làm đồ dùng để dạy tôi chỉ làm đồ dùng của cô mà chưa làm đồ dùng cho trẻ,
việc ứng dụng công nghệ thông tin còn ít nên hiệu quả của hoạt động chưa cao.

Trẻ nhà trẻ rất hiếu động và chưa có ý thức học tập như lứa tuổi mẫu giáo, nên
việc thay đổi hình thức cũng như đội hình, phân nhóm cho trẻ là rất cần thiết và
ảnh hưởng lớn tới việc tiếp thu bài và phát triển ngôn ngữ cho trẻ.

3


Với các biện pháp trên, kết quả thu được rất đáng khích lệ: Qua các giờ học
tôi thấy các cháu rất hứng thú, rất thích nghe kể chuyện. Thông qua đó mà việc
phát triển ngôn ngữ đạt hiệu quả cao.
Sau khi nghe kể chuyện, trẻ có thể bắt chước giọng các nhân vật trong chuyện
và trả lời các câu hỏi của cô. Vốn từ của trẻ được tăng lên rất nhiều đồng thời trẻ
biết sử dụng các loại câu phong phú và đa dạng.Trẻ phát âm chính xác tên các
nhân vật trong truyện, biết nói câu có 4 -5 từ. Điều đó đã giúp trẻ phát triển ngôn
ngữ một cách tốt nhất, góp phần nâng cao chất lượng trong các giờ học và tạo tiền
đề cho việc học tập của trẻ ở các lớp học tiếp theo.
Sáng kiến của tôi có thể áp dụng ở tất cả các trường mầm non trong huyện.
Bản thân là một giáo viên trẻ mới vào ngành nên kinh nghiệm trong quá trình
giảng dạy còn hạn chế. Tôi rất mong các cấp sẽ in ấn và phát hành những tài liệu
về sáng kiến kinh nghiệm, các bài Sáng kiến đạt giải cao cấp Tỉnh và cấp Huyện
để giáo viên học hỏi, tham khảo áp dụng vào thực tế của trường lớp mình.

4


MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1.Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
Tháng 9/2014 tôi được nhà trường phân công dạy lớp 24-36 tháng. Trong
ngày đầu tiên nhận lớp tôi cảm thấy rất vui và cũng khá lo lắng. Tôi không biết trẻ
có thích cô giáo mới không? Trẻ đã biết những gì và trẻ cần gì? Khi vừa gặp trẻ

tôi đã cố gắng trò chuyện với trẻ nhưng đa phần trẻ không trả lời các câu hỏi của
tôi. Một phần vì lạ cô, một phần vì vốn từ của trẻ còn quá ít, trẻ vẫn thường nói
trống không và nói câu chưa đầy đủ. Muốn hiểu và gẫn gũi với trẻ thì cần phải có
ngôn ngữ.
Chúng ta biết rằng ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp của con người. Chính
vì vậy, việc dạy cho trẻ tập nói tiếng việt là một việc quan trọng đối với cô giáo
mầm non nói riêng và sự nghiệp giáo dục nói chung. Thực tế giảng dạy ở lứa tuổi
24- 36 tháng tôi thấy đây là giai đoạn tập nói của trẻ, ở giai đoạn này vố từ của trẻ
cũn cỡn, trẻ phát âm còn chưa chuẩn, nói ngọng, nói lắp nhiều, trẻ chưa nói được
thành câu trọn vẹn. Chính vì vậy, cần phải có sự uốn nắn kịp thời của người lớn,
nhất là cô giáo. Ngày xưa ông cha ta đã có câu: “Trẻ lên ba cả nhà tập nói”. Là cô
giáo mầm non tôi mong muốn tổ chức cho trẻ các tiết học sôi nổi, linh hoạt và
hiệu quả từ đó tôi luôn suy nghĩ, trăn trở và tìm tòi “Một số biện pháp về phát
triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng thông qua giờ kể chuyện ” nhằm cung cấp
vốn từ cho trẻ, dạy cho các cháu phát âm chuẩn, chính xác… nâng cao chất lượng
chăm sóc giáo dục trẻ đối với chương trình đổi mới hiện nay. Mặt khác: Nội dung
trong các câu chuyện đó là những bài học đầu tiên giáo dục con người về lòng
hiếu thảo, ơn nghĩa sinh thành, sự yêu thương giúp đỡ mọi người xung quanh, sự
gan dạ dũng cảm trong cuộc sống, đức tính hiền lành chăm chỉ, niềm tự hào về
truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc.

5


Thông qua các tác phẩm truyện kể giúp trẻ nhận thức được thế giới xung
quanh, giúp trẻ cảm nhận được cái hay, cái đẹp trong tiếng mẹ đẻ, những hành vi
đẹp trong cuộc sống, trẻ biết được những gì nên làm và không nên làm, qua đó rèn
luyện những phẩm chất đạo đức tốt đẹp ở trẻ, dần dần hình thành ở trẻ những khái
niệm ban đầu về đạo đức như ngoan - hư, tốt - xấu, thật thà - không thật thà, phát
triển trí nhớ, tư duy, ngôn ngữ giúp trẻ làm quen với kỹ năng nghe, nói...

Để sáng kiến đạt hiệu quả cao, tôi đã áp dụng trong một năm từ tháng 9/2014
– 3/2015.
2. Cở sở lý luận.
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một nhiệm vụ quan trọng trong chương trình
giáo dục toàn diện cho trẻ. Chương trình phát triển ngôn ngữ cho trẻ đã được nhà
giáo dục mầm non Liên Xô nổi tiếng: Eiti-Khêva xem là khâu chủ yếu nhất của
hoạt động trong trường mầm non, là tiền đề thành công của các lĩnh vực khác.
Trong quá trình phát triển nhận thức, ngôn ngữ có vai trò là một phương tiện
giúp trẻ tìm hiểu, khám phá về thế giới xung quanh. Thông qua cử chỉ và lời nói của
người lớn, trẻ làm quen với các sự vật, hiện tượng, trẻ hiểu những đặc điểm, tính
chất, công dụng của các sự vật cùng với từ tương ứng với nó. Nhờ có ngôn ngữ trẻ
nhận biết ngày càng nhiều các sự vật, hiện tượng mà trẻ được tiếp xúc trong cuộc
sống hàng ngày.
V.I.Lênin nói “Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp quan trọng nhất của con người”.
(V.I.Lênin toàn tập, tập 25, trang 258). Câu nói trên đã khẳng định rằng không có
một phương tiện giao tiếp nào có thể sánh được với ngôn ngữ.
Nhờ có ngôn ngữ mà con người có khả năng hiểu biết lẫn nhau. Cho dù ngoài
ngôn ngữ ra con người còn dùng những phương tiện giao tiếp khác nữa như: cử
chỉ, điệu bộ, tín hiệu, âm thanh, tranh ảnh nhưng ở vị trí trên hết và trước hết vẫn
phải là ngôn ngữ.
6


Ở trẻ nhỏ nhu cầu giao tiếp rất lớn. Trong giao tiếp, trẻ sử dụng ngôn ngữ của
mình để trình bày ý ngĩ, tình cảm, hiểu biết của mình với mọi người xung quanh.
Cho nên việc tạo cho trẻ được nghe, hiểu và được nói là hết sức cần thiết trong
giáo dục ngôn ngữ.
Mặt khác trẻ cũng có thể dùng ngôn ngữ để bày tỏ những nhu cầu mong
muốn của bản thân hay đọc thơ, hát các bài hát ..mà trẻ đã được học. Nếu như
ngôn ngữ của trẻ không được phát triển thì việc giao tiếp của trẻ gặp rất nhiều khó

khăn, ảnh hưởng tới quá trình hình thành nhân cách trẻ.
Ngay từ khi biết nghe và hiểu ngôn ngữ của người lớn, trẻ 24-36 tháng đã
rất thích thú với việc nghe kể chuyện. Sự cảm thụ và bộc lộ cảm xúc của trẻ khi
được nghe kể chuyện thường xuất phát từ chính nội dung câu chuyện, từ phương
pháp đọc và kể của cô giáo. Trẻ tỏ ra rất thích thú nghe, muốn bắt chước cách kể
của cô, muốn kể lại cho người khác nghe. Việc cô giáo thường xuyên kể chuyện,
trò chuyện với trẻ về nội dung và những nhân vật trong truyện sẽ giúp trẻ phát
triển ngôn ngữ, mở rộng vốn từ, hiểu các từ biểu thị về các đặc điểm, tính cách,
hành động của từng nhân vật.

3. Thực trạng của vấn đề.
Việc điều tra thực trạng giúp tôi nắm được khả năng phát âm, khả năng nói
của trẻ để từ đó có biện pháp thích hợp để phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Đầu năm
học tôi đã khảo sát khả năng phát triển ngôn ngữ của trẻ ở lớp tôi như sau:
- Vốn từ của trẻ còn ít, đôi khi trẻ chưa hiểu được yêu cầu của cô và không
biết trả lời cô khi được hỏi.
- Trẻ chưa biết nói ra nhu cầu của bản thân : (đi vệ sinh, khát nước…)
- Đến lớp chưa biết nói đủ câu để chào cô, chủ yếu là còn nói trống không “
chào cô”
7


- Trẻ phát âm còn ngọng, còn nói nhầm tên các đồ vật, hiện tượng như: “ mẹ
bế”- trẻ nói thành “mẹ ế”, hay “ăn cơm”- trẻ nói thành “ăn mơm”, “ông ngoại” –
trẻ nói thành “ông ngại”…
- Trẻ chỉ hát, đọc thơ, bắt chước giọng nhân vật dễ và ngắn gọn. Vì vậy tôi đã
khảo sát sự phát triển ngôn ngữ của trẻ tại lớp, kết quả đạt như sau:
Thời
gian


9/2014

Tổng Tỷ lệ
số trẻ

43

100%

Trẻ nói Tỷ lệ Trẻ nói Tỷ lệ
câu có
câu có
4 -5từ
3-4 từ
21/43

49% 15/43

35%

Trẻ biết nói Tỷ lệ
lên nhu cầu
của bản thân
bằng câu đầy
đủ
7/43

16%

Qua kết quả khảo sát trên tôi thấy ngôn ngữ của trẻ còn phát triển chậm.

Chính vì vậy tôi đã đề ra một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Trong quá
trình thực hiện tôi đã gặp những thuận lợi và khó khăn sau :
3.1. Thuận lợi :
- Bản thân tôi luôn được sự quan tâm, giúp đỡ của Ban lãnh đạo nhà trường và
đồng nghiệp.
- Trường đã được công nhận trường đạt chuẩn quốc gia mức độ 1, có tương
đối đầy đủ trang bị, đồ dùng đồ chơi,máy tính có kết nối internet nên việc cập
nhập thông tin nhanh, dễ dàng trong việc nghiên cứu, tìm tòi trên mạng.
- 95% trẻ ăn bán trú tại trường nên thuận lợi cho việc chăm sóc, giáo dục trẻ.
- Đa số phụ huynh nhiệt tình với lớp, quan tâm đến trẻ, thống nhất phương
pháp giáo dục trẻ.

8


- Bản thân được tham gia đầy đủ các lớp học bồi dưỡng, các chuyên đề do
phòng cũng như nhà trường tổ chức.
- Lớp có ba giáo viên trẻ, nhiệt tình năng động, yêu nghề mến trẻ.
3.2. Khó khăn
Ngoài những thuận lợi tôi đã nêu trên, trong quá trình thực hiện tôi còn gặp
không ít khó khăn sau :
- Trẻ 24 -36 tháng, vốn từ của trẻ còn ít, lời nói mới bước đầu phát triển do đó
khả năng giao tiếp bằng ngôn ngữ còn khó khăn.
- Trẻ đang sống trong môi trường gia đình, được ông bà, bố mẹ yêu thương
chăm sóc. Khi đến trường là nơi hoàn toàn mới mẻ và xa lạ với trẻ, do đó trẻ còn
lạ cô, lạ bạn, nhút nhát .
- Do phụ huynh học sinh chủ yếu làm nghề nông và công ty, công việc bận
rộn nên cha mẹ các cháu chưa giành nhiều thời gian nói chuyện với các cháu. Ông
bà, bố mẹ còn chiều chuộng trẻ nên khi trẻ chỉ cần nhìn vào đồ dùng, đồ vật nào là
được đáp ứng ngay mà không cần dùng lời để yêu cầu hoặc xin phép. Đây cũng là

một trong những nguyên nhân của việc chậm phát triển ngôn ngữ.
- Trí nhớ của trẻ còn hạn chế nên ảnh hưởng đến việc tiếp thu kiến thức của
trẻ trong các hoạt động.
- Trẻ đi học không đều, nhất là những ngày mưa gió hoặc giá rét.
4. Các biện pháp thực hiện.
4. 1. Giáo viên phải chuẩn bị kỹ các nội dung của hoạt động trước khi
dạy.
Hoạt động kể chuyện là một trong những hoạt động giúp trẻ phát triển ngôn
ngữ rất tốt nhưng hoạt động kể chuyện có thành công hay không phần lớn là do
9


giọng kể của giáo viên mà muốn có giọng kể hay thì trước hết người giáo viên
phải thuộc truyện, hiểu nội dung truyện. Chính vì vậy tôi luôn đọc kỹ truyện,
luyện giọng kể sao cho ngộ nghĩnh, đáng yêu phù hợp với từng nhân vật trong
truyện:
VD:Truyện “Thỏ con không vâng lời” giọng của Thỏ mẹ, bác Gấu thì ấm hơn,
nói chậm hơn và tình cảm.
- Giọng của Thỏ con lúc vui thì nhí nhảnh, trong trẻo. Khi làm sai thì nức nở,
buồn bã hoặc dùng tay gạt nước mắt.
- Truyện “ Đôi bạn nhỏ” giọng của Cáo thì lanh lảnh, gian ác. Giọng của Gà
con, Vịt con khi gặp nạn thì hốt hoảng, lo lắng...
- Giọng của Bà cụ trong truyện “Cây táo” thì chậm hơn khi nói ra nhiều hơi
hơn.
- Giọng Vịt con phải khàn khàn, giọng của mèo thì lanh lảnh.
4.2. Tích cực sưu tầm, làm đồ dùng đẹp và sáng tạo phù hợp với nội dung
truyện.
Trẻ nhà trẻ thích màu sắc rực rỡ, đồ vật phát ra tiếng kêu và có âm thanh vui
nhộn. Vì vậy để tạo được hứng thú cho trẻ trong hoạt động kể chuyện tôi đã không
ngừng tìm tòi, làm đồ dùng từ nguyên vật liệu sẵn có sao cho đẹp mắt, hấp dẫn trẻ

nhưng phải đảm bảo an toàn, sử dụng hợp lý. Cô sử dụng đồ dùng thành thạo, tạo
tình huống bí mật để thu hút trẻ vào hoạt động một cách thoải mái tự tin và kích
thích trẻ nói được nhiều.
Ví dụ:
Truyện cây táo: Từ vỏ chai nước ngọt, tôi đã cắt và tận dụng phần đáy của
hai cái chai ghép vào nhau thành quả táo sau đó phun sơn màu xanh, đỏ theo ý
10


thích rồi trang trí trên cây

….khi trẻ lên bắt chước hành động của nhân vật trẻ

được lên chăm sóc, được cầm, được chơi với chúng, trẻ được nói theo ý hiểu của
trẻ qua đó trẻ có thể dễ dàng tưởng tượng ra cây táo thật.

- Khi trẻ được nhìn, cầm trên tay trẻ sẽ rất thích thú, trẻ sẽ dễ dàng nói tên và
biết đặc điểm của quả táo.
Ngoài tranh truyện do nhà trường cấp phát tôi còn làm rối tay, rối dẹt để dạy
trẻ.
11


VD: Để làm mô hình ngôi nhà sao cho gần gũi với cảnh nông thôn Việt Nam
tôi dùng tre để làm thân nhà và dùng rơm để làm mái nhà đó là những nguyên liệu
dễ tìm mà lại gần gũi với trẻ.

Hay những con rối bằng vải vụn

12



Trước kia tôi cho rằng hoạt động kể chuyện thì không cần có đồ dùng như các
tiết học khác mà chỉ làm đồ dùng cho cô nên trẻ hay nhàm chán. Đối với lứa tuổi
nhà trẻ các nhân vật trong chuyện đều là các con vật gần gũi. Những con vật nhỏ
nhắn xinh xắn luôn là những người bạn đáng yêu của trẻ, hiểu được tâm lý này của
trẻ nên khi kể chuyện tôi đã làm đồ dùng cho trẻ như mũ các nhân vật Gà con, Vịt
con, thỏ con...để trẻ được cầm, đội và bắt chước những nhân vật trong truyện.

13


Việc làm đồ dùng phục vụ cho các hoạt động kể chuyện đó là yếu tố góp phần
quyết định chất lượng và khả năng sáng tạo của trẻ trong giờ học, khi trẻ đã có
hứng thú với các hoạt động trẻ sẽ mạnh dạn nói lên suy nghĩ của mình, điều đó
giúp trẻ phát triển ngôn ngữ trong các hoạt động.
4.3. Đưa ứng dụng công nghệ thông tin vào các tiết học.
- Các nhân vật trong chuyện thì luôn vận động và thay đổi vị trí nhưng nếu
ta chỉ dạy bằng tranh thì trẻ khó có thể tưởng tưởng và hiểu được những hành
động của nhân vật. Vì vậy tôi kết hợp ứng dụng công nghệ thông tin vào làm và
tìm tòi các hiệu ứng hình ảnh, slides để tạo hứng thú, kích thích trẻ tập nói để phát
triển ngôn ngữ cho trẻ.
- Thường xuyên truy cập vào các trang web như: Giáo dục mầm non.vn, giáo
án điện tử.com, you tobe.com, suối nguồn yêu thương. net ...để tìm các tư liệu,
video có nội dung phù hợp với bài dạy sau đó sử dụng máy tính, ti vi vào dạy trẻ.
Ví dụ: “Truyện về loài voi” trình chiếu trên ti vi cho sinh động để trẻ hứng
thú và bắt chước nói theo.

14



Hoạt động kể chuyện: « Quả trứng, cây táo, thỏ con không vâng lời". Tôi
đều làm thành slides hoặc video rất sinh động để trẻ hứng thú và chú ý nghe cô kể
chuyện, trẻ dễ dàng bắt chước hành động của các nhận vật thông qua hình ảnh trên
ti vi.
4.4. Lựa chọn câu hỏi đàm thoại và nội dung tích hợp.
Ở lứa tuổi này trẻ nhiều khi hay hỏi và trả lời trống không hoặc nói những câu
không có nghĩa. Vì vậy, bản thân tôi thường xuyên nhắc nhở trẻ hoặc nói mẫu cho
trẻ nghe, động viên khuyến khích trẻ nhắc lại, luôn tạo điều kiện đáp ứng mọi câu
hỏi của trẻ một cách ngắn gọn, dễ hiểu. Hệ thống câu hỏi phải phù hợp với độ
tuổi, kích thích trẻ nhận biết, phân biệt sự vật hiện tượng tình huống mà trẻ đang
trực tiếp tri giác.
VD: Truyện “quả trứng”
- Cô kể chuyện cho trẻ nghe 1-2 lần Sau đó cô đàm thoại cùng trẻ về nội dung
câu chuyện.
- Khi đàm thoại cô chú ý đặt câu hỏi phù hợp với nhận thức của trẻ để trẻ trả
lời được các câu hỏi của cô;
+ Cô vừa kể truyện gì?
+ Trong truyện có những ai?
+ Gà trống hỏi quả trứng như thế nào?
+ Có con gì đã chui ra khỏi quả trứng?
- Cô cho trẻ kể chuyện cùng cô: Cô là người dẫn chuyện, trẻ kể tiếp cùng cô.
Sau khi xác định được câu hỏi đàm thoại. Tôi suy nghĩ để tích hợp các nội dung
khác vào giờ kể chuyện sao cho hợp lý, logíc phù hợp với giờ học.
Ví dụ: Để gây hứng thú vào bài trong các câu chuyện tôi có thể tích hợp thêm:
15


+Trò chơi vận động
- Đôi bạn nhỏ trò chơi “Bịt mắt bắt gà”

- Truyện “cây táo” trò chơi “gieo hạt nảy mầm”
- Truyện “vì sao thỏ cụt đuôi” trò chơi “ ô tô và thỏ” .Trong khi trẻ chơi cô
động viên khuyến khích trẻ nói cùng cô.
+ Âm nhạc: Khi kết thúc hoạt động tôi thường cho trẻ hát, vận động theo nhạc
- Truyện “đôi bạn nhỏ” vận động bài “Đàn Vịt con”
- Truyện “thỏ con không vâng lời” vận động bài “Trời nắng trời mưa”
+Tập nói: Trong giờ kể chuyện tôi luôn luôn chú ý cho trẻ đọc và phát triển từ,
chú ý sửa sai cho trẻ khi trẻ đọc chưa đúng, tôi cho trẻ bắt chước, nhắc lại lời nói
của nhân vật hoặc từ láy nhiều lần.
VD Truyện “quả trứng”: Trẻ bắt chước từ “ò ó o o, to to, ụt à ụt ịt, trứng gà
trứng vịt, lúc lắc, vít vít)
- Cô giải thích nghĩa của từ khó kết hợp làm động tác minh hoạ giúp cho trẻ
hiểu, trẻ nói và làm theo cô.
VD : Từ « Lúc lắc » cô nói chậm kèm theo hành động “người lắc lư” minh
họa .
4.5. Thay đổi hình thức tổ chức phù hợp, sáng tạo.
Thông thường các giáo viên tổ chức các hoạt động kể chuyện trong lớp và cho
trẻ ngồi hình chữ U từ đầu đến cuối vì cho rằng trẻ nhà trẻ còn nhỏ không cần thay
đổi chỗ ngồi và địa điểm. Chính vì vậy đã khiến trẻ cảm thấy khó chịu, nhàm chán
thậm chí nằm bò ra sàn dẫn đến tình trạng trẻ không chú ý , không nhớ được tên

16


truyện và không trả lời được các câu hỏi của cô nên mở rộng vốn từ cho trẻ còn ít.
Vì vậy đòi hỏi người giáo viên phải thay đổi hình thức tổ chức linh hoạt :
VD :Với những câu chuyện mà đa số trẻ đã biết :
Câu chuyện « sẻ con » tôi cho trẻ ra vườn cổ tích và đứng xung quanh các
nhân vật để nghe cô kể chuyện để được nhìn, vuốt ve và gọi tên các nhân vật mà
mình yêu thích.


Hoặc xây dựng khung cảnh truyện ngay trong lớp học.

17


Cô giáo là người dẫn truyện còn trẻ đóng vai, bắt chước các nhân vật trong
truyện và kể cùng cô. Những đứa trẻ khi được bắt chước các nhân vật sẽ rất thích
thú và chú ý vào mọi hoạt động qua đó giúp trẻ phát triển ngôn ngữ, mở rộng vốn
từ và sự hiểu biết của mình về các hiện tượng xung quanh. Biết nói đủ câu và trả
lời cô rõ ràng mạch lạc.
4.6. Chú ý đến trẻ cá biệt và chậm phát triển
Bên cạnh việc thay đổi hình thức tổ chức thì vấn đề cô giáo phải nắm rõ đặc
điểm tâm sinh lý của lứa tuổi và quan trọng hơn là phải nắm rõ đặc điểm riêng của
từng trẻ nhằm tìm ra các biện pháp bồi dưỡng cho trẻ theo sự phân nhóm và sắp
sếp chỗ ngồi hợp lý:
+ Trẻ nhút nhát ngồi cạnh trẻ mạnh dạn, nhanh nhẹn.
+ Trẻ khá ngồi cạnh trẻ trung bình.
+ Trẻ hiếu động, cá biệt, hay nói chuyện ngồi cạnh trẻ ngoan,trẻ hay khóc
ngồi cạnh cô giáo, để dễ quan sát và tiện cho việc điều hành trẻ tốt hơn.

Việc

phân nhóm này rất có hiệu quả trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Tôi lấy ví
18


dụ thực tế đã trải qua: Theo sự sắp xếp chỗ ngồi trên, khi tôi mời một cháu khá trả
lời câu hỏi thì cháu học trung bình ngồi cạnh bên bạn có thể nghe được câu trả lời
của bạn và khi được cô mời lên trả lời lại thì cháu sẽ trả lời được, và với sự động

viên khen thưởng của cô sẽ tạo cho trẻ hứng thú học và trẻ đó sẽ dần dần tiến bộ
lên làm cho nề nếp học của trẻ ngày càng ổn định.
5. Kết quả đạt được.
Qua một năm học thực hiện một số biện pháp về phát triển ngôn ngữ cho trẻ
24 -36 tháng thông qua giờ kể chuyện đến nay, trẻ đã mở rộng thêm được nhiều
vốn từ, trẻ nghe và hiểu được nội dung câu hỏi của cô, biết trả lời các câu hỏi đơn
giản.
- Trẻ đã biết dùng câu có 4-5 từ để diễn tả hành động, nói lên nhu cầu của bản
thân với người khác: Như : “Cô ơi ! bạn An khóc, quần con bị ướt rồi , cô ơi !
con muốn uống nước...”
- Trẻ biết sắp xếp các từ thành câu hỏi, câu nói đầy đủ “Cô ơi con uống sữa”,
“ bạn Tuấn khóc nhè”, “Đây là dép của ai?, cô ơi đây là con gì?”...
- Trẻ phát âm chuẩn, chính xác tên các sự vật, hiện tượng “ con gà, trời mưa,
bông hoa cúc, con cá, cái lá, quả cam...”
- Về nhà trẻ đọc thơ, hát, kể chuyện ở lớp cho ông bà, bố mẹ nghe vì vậy các
bậc phụ huynh rất vui và yên tâm hơn khi gửi con đến lớp. Từ đó các bậc phụ
huynh càng quan tâm hơn đến việc học tập của các cháu và biết được tầm quan
trọng của bậc học mầm non.
- Các cháu có thể nói ra nhu cầu của mình nên các cô thực hiện nhiệm vụ
chăm sóc, giáo dục một cách dễ dàng hơn.
Để minh chứng cho kết quả đạt được của các cháu được rõ ràng hơn, dưới đây
là bảng so sánh đối chứng:
19


*Bảng so sánh đối chứng
Thời
gian

Tổng

số trẻ

Trẻ nói Tỷ lệ
câu có

Trẻ nói Tỷ lệ
câu có 45 từ

3-4 từ
9/2014

43

21/43

48,9%

15/43

3/2015

43

3/43

7%

10/43

Trẻ biết nói Tỷ lệ

nhu cầu của
bản thân
bằng câu
đầy đủ

34,9%
23,3%

7/43

16,2%

30/43

69,7%

Tuy kết quả đạt được chưa cao nhưng đó là niềm động viên, khích lệ tôi cố
gắng hơn nữa trong những năm học tiếp theo.
*Bài học kinh nghiệm
Với các biện pháp tôi đã thực hiện trong năm học vừa qua đã thu được kết quả
đáng mừng, từ đó bản thân tôi đã rút ra một số bài học kinh nghiệm về việc phát
triển ngôn ngữ cho trẻ đạt kết quả tốt như sau:
- Bản thân không ngừng tìm tòi, nghiên cứu và tham khảo tài liệu. Luôn học
hỏi, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.
- Bản thân giáo viên luôn là tấm gương sáng, mẫu mực trong mọi hoạt động:
Nói mạch lạc, không ngọng, không lắp.
- Luôn yêu nghề, mến trẻ, tận tâm với công việc của mình. Luôn tìm tòi
nghiên cứu các phương pháp, hình thức để dạy trẻ phù hợp với nhận thức của từng
độ tuổi để đạt kết quả cao.
- Dạy trẻ nói ở mọi lúc, mọi nơi. Cô đặc biệt quan tâm đến trẻ chậm phát

triển ngôn ngữ, trẻ cá biệt, không phân biệt đối xử giữa các trẻ.
- Giáo viên thường xuyên trao đổi với phụ huynh về những gì trẻ nói được gì
và chưa nói được gì để cùng tìm ra nguyên nhân và cách dạy trẻ tốt nhất.
6. Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng.
20


- Về phía giáo viên: Phải có trình độ chuẩn trở lên, có số năm công tác đối
với độ tuổi áp dụng sáng kiến ít nhất là 2 năm, có năng lực, trình độ chuyên môn
vững vàng, yêu nghề, mến trẻ.
- Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học đầy đủ tại phòng nhóm như: ti vi, đầu
đĩa, máy tính, tranh ảnh, đồ dùng phục vụ tiết dạy.
- Sân trường rộng, bằng phẳng, đảm bảo an toàn có vườn cổ tích và một số đồ
chơi ngoài trời: xích đu...

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1.

Kết luận:

Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua các môn học, các hoạt động
trong trường mầm non là một việc làm vô cùng quan trọng. Trong những năm qua
đội ngũ giáo viên mầm non đã từng bước khẳng định về chuyên môn nghiệp vụ
của mình, đã đầu tư vào bài dạy, các hoạt động một cách tích cực. Song đối với
việc thực hiện chương trình nhà trẻ vẫn còn nhiều lúng túng nhất là độ tuổi 24 đến
36 tháng, giáo viên chưa chú ý tới việc tạo cơ hội cho trẻ được hoạt động, giao
tiếp để phát triển ngôn ngữ. Có đầu tư vào bài dạy, nhưng phương pháp và biện
pháp để cho trẻ được tham gia vào các hoạt động ngôn ngữ là rất ít. Khi tổ chức
giờ kể chuyện cho trẻ, môn học mà cô có thể khai thác nhiều biện pháp giúp trẻ
phát triển ngôn ngữ thì giáo viên hay nói nhanh, hệ thống câu hỏi đàm thoại, giáo

21


viên đưa ra còn nhiều câu hỏi đóng, trẻ không thể tư duy và ít sử dụng hệ thống
câu đầy đủ chủ ngữ và vị ngữ, từ đó dẫn đến việc trẻ hay nói cộc lốc, thiếu lễ
phép. Trong quá trình dạy trẻ, nếu như không sửa cho trẻ kịp thời. Nghiêm túc,
thực hiện đúng chương trình quy định sẽ dẫn đến hậu quả rất lớn đối với trẻ, bởi
trẻ từ 24 – 36 tháng tuổi đang ở thời kì cần cung cấp nhiều vốn từ giúp cho ngôn
ngữ của trẻ phát triển tốt hơn.Từ thực tế trên nên tôi mạnh dạn đưa ra “Một số
biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ từ 24 đến 36 tháng tuổi thông qua giờ kể
chuyện”.
- Giáo viên phải chuẩn bị kỹ nội dung của hoạt động trước khi dạy .
- Tích cực sưu tầm, làm đồ dùng đẹp và sáng tạo phù hợp với nội dung truyện.
- Đưa ứng dụng công nghệ thông tin vào các tiết học.
- Lựa chọn câu hỏi đàm thoại, mở rộng vốn từ và nội dung tích hợp.
- Thay đổi hình thức tổ chức phù hợp, sáng tạo.
- Chú ý đến trẻ cá biệt và chậm phát triển.
Sau khi áp dụng các biện pháp trên tôi đã đạt các kết quả sau:
- Giáo viên nắm chắc nội dung truyện, bắt chước giọng và hành động của
nhân vật phù hợp nên trẻ hứng thú lắng nghe và bắt chước giọng của các nhận vật.
- Mỗi câu chuyện đều có đồ dùng phù hợp và đẹp mắt khiến trẻ không bị mất
tập trung vào các việc khác, không nói chuyện riêng hay nằm ra sàn nên trẻ hiểu
được nội dung truyện.
- Trẻ rất thích xem các nhân vật hoạt hình trên ti vi, vì vậy các câu chuyện có
slides, video đều mang lại hiệu quả cao gây ấn tượng mạnh cho trẻ giúp trẻ nhớ
truyện lâu hơn và có thể kể lại từng đoạn trong câu chuyện cho bố mẹ nghe.

22



- Những câu hỏi đàm thoại phù hợp với nhận thức của trẻ, có tính gợi mở sẽ
khuyến khích được nhiều trẻ trả lời. Khi trẻ được nghe giải thích và nhắc lại
những từ khó thì trẻ sẽ nói được đúng và chuẩn, từ đó mở rộng vốn từ.
- Sự thay đổi hình thức tổ chức, cho trẻ được kể chuyện cùng cô sẽ mang lại
cho trẻ những trải nghiệm mới lạ về thế giới truyện kể đầy màu sắc. Ngoài ra còn
giúp trẻ mạnh dạn, tự tin khi thể hiện giọng nhân vật cũng như khi giao tiếp với cô
với bạn...
2. Khuyến nghị
Đề nghị với các cấp, các ngành và Nhà nước quan tâm hơn nữa đến vật chất
và tinh thần của giáo viên mầm non, tạo điều kiện cho 100% giáo viên vào viên
chức nhà nước trong năm học 2015-2016. Để chúng tôi những người giáo viên
mầm non thực sự yên tâm công tác và cống hiến nhiều hơn nữa cho sự nghiệp giáo
dục của nước ta, xứng đáng với phương châm: “Giáo dục là quốc sách hàng
đầu”.
2.1. Đối với Phòng Giáo Dục:
Tôi mong được sự quan tâm, giúp đỡ về cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy và
học tạo điều kiện cho việc dạy và học của cô và trò được đầy đủ hơn.
-Tạo điều kiện cho giáo viên được tham quan, học hỏi các trường chuẩn của
tỉnh, thành phố.
-Nên in ấn và phát hành những tài liệu về sáng kiến kinh nghiệm, các bài
sáng kiến đạt giải cao cấp Tỉnh và cấp Huyện để giáo viên học hỏi, tham khảo áp
dụng vào thực tế của trường lớp mình.
2.2. Đối với nhà trường.
- Tổ chức nhiều hơn nữa các buổi hội giảng, chuyên đề, các tiết dạy mẫu để
giáo viên được học hỏi kinh nghiệm.
23


- Tổ chức các buổi bồi dưỡng về chống phát âm lệch chuẩn “n-l” cho giáo
viên.

Trên đây là toàn bộ những sáng kiến của tôi về việc phát triển ngôn ngữ cho
trẻ 24- 36 tháng thông qua giờ kể chuyện. Trong quá trình thực hiện không tránh
khỏi nhiều thiếu sót. Qua đây tôi rất mong được sự giúp đỡ của hội đồng khoa
học các cấp để sáng kiến của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.

PHỤ LỤC
Giáo án minh hoạ cho các biện pháp
Đề tài: Truyện “Đôi bạn nhỏ”
(Đa số trẻ đã biết )
Chủ đề: Những con vật đáng yêu
Đối tượng: Trẻ 24- 36 tháng
Số trẻ:15 – 20 trẻ.
Thời gian: 15- 17 phút
24


I.Mục đích
- Trẻ nhớ tên truyện, hiểu nội dung truyện “Đôi bạn nhỏ”
- Trẻ nhớ được các nhân vật trong truyện và bắt chước tiếng kêu của nhân
vật:
Gà con kêu “chiếp.....cứu tôi với!”, Vịt gọi bạn “vít...vít vịt đây”.
- Trẻ trả lời được một số câu hỏi: “truyện gì? Gà bị làm sao? Ai đã cứu
gà?”…
- Rèn sự chú ý,phát triển kỹ năng nghe, nói cho trẻ. Trẻ bắt chước hành
động bới đất, mò ốc và làm khuôn mặt sợ hãi giống cô.
- Rèn cho trẻ thói quen nói “cảm ơn” khi được giúp đỡ.
- Phát triển tình cảm và hình thành tình yêu của trẻ với những nhân vật tốt
bụng
- Giáo dục trẻ biết chơi đoàn kết, giúp đỡ bạn bè, vâng lời cô giáo.


II. Chuẩn bị
- Chiếu cho trẻ ngồi.
- Tranh truyện “Đôi bạn nhỏ”
- Máy tính, ti vi. Mũ gà, vịt, cáo đủ cho cô, cho trẻ.
- Nhạc và lời bài “Đàn vịt con”.

III. Tiến hành
Hoạt động của cô

Hoạt động của
trẻ

* Hoạt động 1: Gây hứng thú
25


×